Sunday, August 21, 2016

Trận Long Tân 1966 và nhạy cảm chính trị 2016

Hà Tường Cát/Người Việt
VIỆT NAM (NV) – Chính quyền Việt Nam trước đây đồng ý việc tổ chức kỷ niệm 50 năm trận chiến giữa quân đội Australia với Việt Cộng ở đồn điền cao su Long Tân tỉnh Phước Tuy, nhưng đến giờ chót thay đổi quyết định và chỉ cho phép hành lễ trong một quy mô nhỏ.
Sự kiện này trở thành vấn đề được thương lượng ráo riết và gây nhiều tranh luận trong mấy ngày qua khi có khoảng 2,000 dân Australia bao gồm cựu chiến binh và gia đình họ đã đến Vũng Tàu chuẩn bị dự lễ.
Trận Long Tân xảy ra trong ba ngày tháng 8 năm 1966, là trận gây thương vong nặng nề nhất cho đơn vị quân đội Australia trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam.
Australia bắt đầu tham gia vào chiến tranh Việt Nam từ 1962 với 30 cố vấn quân sự; vào thời gian cao điểm của chiến tranh quân số lên tới 7,672 và tính tới khi triệt thoái hoàn toàn năm 1973, khoảng 60,000 quân nhân Australia đã phục vụ tại Việt Nam.
Đơn vị chiến đấu đầu tiên đến Việt Nam vào tháng 6 năm 1965 là Tiểu Đoàn 1 Trung Đoàn 1 Bộ Binh, địa bàn hoạt động tại tỉnh Biên Hòa phối hợp với Lữ Đoàn 173 Không Vận Mỹ và một pháo đội New Zealand. Do có những bất đồng ý kiến về quan điểm chiến thuật, quân đội Australia sau đó đi đến quyết định đảm nhận một khu vực trách nhiệm riêng.
Tháng 4 năm 1966, lực lượng đặc nhiệm số 1 của Australia được đưa đến tỉnh Phước Tuy và đặt căn cứ tại Núi Đất, cách Bà Rịa khoảng 5 dặm về hướng Đông-Bắc. Để thành lập căn cứ này, Chuẩn Tướng O.D. Jackson, với sự đồng ý của tỉnh trưởng Phước Tuy, cho di chuyển khoảng 4,000 dân chúng hai xã Long Tân và Long Phước đi nơi khác. Hai xã này từ trước vẫn được coi là mật khu Việt Cộng, hoàn toàn bị phá hủy vào tháng 7 năm 1966. Căn cứ Núi Đất vào lúc cao điểm có khoảng 5,000 quân Australia, tuy nhiên hầu hết được điều phối đi các chiến dịch hành quân ngoài căn cứ.
Bộ Tư Lệnh Cộng Sản ngay lập tức quyết định đánh bại đơn vị quân Australia vừa đến nhằm gây được một tác động chính trị đáng kể. Kế hoạch của họ là tìm cách dụ quân Australia ra ngoài căn cứ rồi tiêu diệt bằng một lực lượng áp đảo. Trận Long Tân xảy ra trong tình huống ấy và có lẽ được tính toán vào cùng thời điểm với dịp kỷ niệm Cách Mạng Mùa Thu, 19 tháng 8 của Cộng Sản. Có thể chính sự trùng hợp ấy bây giờ là một yếu tố tế nhị khiến nhà cầm quyền Việt Nam cuối cùng từ chối không để Australia tổ chức kỷ niệm “50 năm chiến thắng Long Tân” quá trang trọng.
Đêm 16 và17 tháng 8 năm 1966, căn cứ Núi Đất bị pháo kích dữ dội làm 24 binh sĩ Australia bị thương. Ngày 18, Đại Đội D Tiểu Đoàn 6 được lệnh mở cuộc hành quân tuần tiễu khu vực đồn điền cao su Long Tân, khoảng 3 dặm phía Đông căn cứ. Trung đội 11 chạm địch lúc 3.15 giờ chiều nhưng quân Việt Cộng rút lui. Tới 4.08 giờ, giữa lúc trời đổ mưa lớn, Đại Đội D đụng một đơn vị lớn là Trung Đoàn 275 Việt Cộng đã bí mật di chuyển vào khu vực trong đêm trước. Địch quân tìm cách bao vây để tấn công dữ dội bằng hòa lực súng cối, đại liên, B-40 và AK-47.
Quân Australia gọi trọng pháo và phi pháo yểm trợ. Nhưng vì thời tiết xấu, máy bay không phân biệt được rõ mục tiêu, chỉ có trọng pháo từ Núi Đất bắn yểm trợ, đồng thời Đại Đội A Tiểu Đoàn 6 cùng với một trung đội thiết quân vận của Thiết Đoàn 1 được phái đến tăng viện. Trận đánh chấm dứt vào lúc 6 giờ 55 trước khi lực lượng tiếp viện đến nơi. Quân Việt Cộng tuy nhiên hãy còn ở trong đồn điền cao su Long Tân suốt đêm để thu nhặt đồng đội chết và bị thương. Quân Australia cũng rút về căn cứ và trực thăng tải thương được gọi đến chở các thương binh về quân y viện Vũng Tàu hay Biên Hòa.
Sau này người ta mới biết rằng khoảng 1,000-2,500 Việt Cộng thành phần quân chính quy chứ không phải du kích, đã không tiêu diệt được Đại Đội D tiểu đoàn 1 chỉ có 108 người vì sự chiến đấu quyết liệt của các binh sĩ Australia cùng kết quả tác xạ hữu hiệu của pháo binh Australia và New Zealand từ Núi Đất.
Tổn thất về phía Australia là 18 tử trận, trong số có trung úy chỉ huy trưởng Trung Đội 11/1, 24 bị thương. Phía Việt Cộng, 245 chết nhưng theo xác nhận chính thức của Việt Nam chỉ có 150. Đây là tổn thất nặng nhất của Australia trong một trận đánh ở Việt Nam. Quân đội Australia coi là chiến thắng khi đơn vị Đại Đội D Tiểu Đoàn 1 mới đến Việt Nam chưa đầy 3 tháng đã không bị tiêu diệt trong trận chiến chống một lực lượng đông gấp 10 lần. Và căn cứ Núi Đất tiếp tục là nơi an toàn trong suốt những năm chiến tranh Việt Nam.
Có nhiều tranh luận về việc nhà cầm quyền Việt Nam đã cho phép rồi lại đổi ý và giới hạn tầm mức của lễ kỷ niệm 50 năm trận Long Tân. Từ nhiều năm trước, cựu quân nhân Australia và gia đình vẫn đến thăm lại chiến trường Long Tân không có vấn đề gì khó khăn. Nhưng trong những dịp kỷ niệm 18 tháng 8 bình thường chỉ có khoảng 30-40 người tham dự.
Tờ Thanh Niên ở Việt Nam ngày 18 tháng 8, 2006 cho biết “có trên 300 du khách Úc gồm các cựu chiến binh và gia đình đã tham dự lễ kỷ niệm 40 năm trận đánh Long Tân tại Khu Thánh giá Long Tân, huyện Long Đất, Bà Rịa-Vũng Tàu.” Theo tờ báo: “Dự buổi lễ còn có ngài Bill Tweddell – đại sứ Úc tại Việt Nam, tổng lãnh sự Úc tại TP.HCM Mal Skelly, Tổng Lãnh Sự New Zealand Peter và đại diện Bộ Cựu Chiến Binh Úc. Trước đó, đoàn đã đến viếng nghĩa trang liệt sĩ Gò Cát của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, thăm địa đạo Long Phước, khu Núi Đất, đồi Gia Quy, căn cứ Minh Đạm, Xuyên Mộc. Được biết, tour du lịch kết hợp thăm chiến trường xưa của cựu binh Hoàng gia Úc do 3 công ty OSC Vietnam Tours, Vung Tau Tourist Corporation và South East Asia Tours đứng ra tổ chức.” Cây thánh giá do các quân nhân Australia dựng lên những năm sau ở đồn điền cao su Long Tân, bây giờ trở thành di tích lịch sử được Bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam công nhận từ tháng 11, 1988.
Năm nay, kỷ niệm 50 năm, có lẽ Việt Nam không đồng ý để Australia tổ chức lớn như một kỷ niệm chiến thắng. BBC dẫn lời nhà sử học chiến tranh, Mat McLachian, cho rằng có thể tính chất ồn ào của sự kiện dẫn đến việc nó bị hủy bỏ. Ông nói với đài truyền hình ABC (Australia): “Tôi nghĩ vấn đề năm nay là chúng ta đã phạm chút sai lầm, chúng ta cố làm to quá và cuối cùng phía Việt Nam phải quyết định chừng đó là đủ rồi.”
Tối 17 tháng 8, Thủ Tướng Malcolm Turnbull điện đàm với Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc và Việt Nam quyết định cho phép các nhóm tối đa 100 người đến thăm và đặt vòng hoa tại địa điểm. Trước đó cảnh sát đã ngăn chặn lối vào Long Tân mà không cho biết lý do. Australia cho biết sự kiện này được thương lượng từ 18 tháng giữa hai nước và Việt Nam đồng ý phối hợp tổ chức, rồi thay đổi quyết định chỉ ba ngày trước. Bộ Ngoại Giao Australia nói họ đã gửi thư khiếu nại cho chính phủ Việt Nam vì “thất vọng sâu sắc trước quyết định, và cách tiến hành quyết định, quá gần dịp kỷ niệm.”
BBC cho biết một nhà bảo tàng của tư nhân tại Vũng Tàu có một gian dành riêng trưng bày các đồ vật quân sự, chủ ý dành cho cựu chiến binh và du khách Australia tới thành phố biển này nhân dịp kỷ niệm 50 năm trận Long Tân. Nhiều người tỏ ý tiếc về việc các giới chức Việt Nam không cho tổ chức lễ kỷ niệm như đã định. Nhưng tối 18 tháng 8, khoảng 800 người đã dự buổi gala dinner do đại sứ quán Australia tại Việt Nam tổ chức ở khách sạn Pullman, Vũng Tàu.
Tờ Sydney Morning Herald hôm Thứ Năm dẫn lời của cựu Thiếu Tá Harry Smith, đại đội trưởng Đại Đội D Tiểu Đoàn 6 bộ binh Australia, nói rằng: “Phải nên tôn trọng sự nhạy cảm của chính quyền và cựu chiến binh Việt Nam trong sự kiện này.” Cựu Chiến Binh Harry Smith nói ông thất vọng vì không tổ chức được lễ kỷ niệm 50 năm ở Long Tân, nhưng thông cảm với tính cách tế nhị do vụ này bị các nhà tổ chức và hãng du lịch làm rùm beng quá mức. (HC)

Friday, August 19, 2016

A SENSE OF DUTY: MỘT HỒI KÝ, HAI CUỘC ĐỜI

https://images-na.ssl-images-amazon.com/images/I/513MulPJdrL._SX332_BO1,204,203,200_.jpg

Cuốn sách mở đầu bằng: “Tôi mở mắt chào đời ở Việt Nam tại một bệnh viện Pháp cổ xưa sáu tháng trước khi tổng thống Hoa Kỳ  Lyndon B. Johnson  ra lệnh cho hàng ngàn Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đổ bộ lên đất nước chúng tôi..”. Đó là một thiên hồi ký của một cậu bé hồi nhỏ sống ở phi trường Tân Sơn Nhất với ước mơ thành một hoa tiêu vùng vẫy trời cao. Và cũng là những hồi tưởng từ hai đời người, một cha một con, cùng theo nghiệp bay bổng nhưng phục vụ đất nước khác nhau và trong những hoàn cảnh cá nhân khác nhau.Người cha luôn luôn là hình bóng đi bên cạnh đời người con với nét hào hùng của một người chiến đấu vì tự do và hiểu được ý nghĩa của tự do. Khi chiến đấu cho  đất nước,  trung  tá Phạm văn Hòa  bay chiến đấu cơ A1 sau  là  hoa tiêu vận tải  C130,  đã mang cả một thời tuổi trẻ của mình trong ước vọng thực hiện được lý tưởng của mình.  Cũng như khi chiến đấu cho đất nước Hoa Kỳ, đại úy Phạm Xuân Quang, một hoa tiêu trực thăng của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, cũng hiểu được giá trị của tự do và  nghĩ rằng đã được hưởng ân huệ của đất nước định cư thì cũng phải có nhiệm vụ  phải bảo vệ  đất nước ấy.

https://images-na.ssl-images-amazon.com/images/I/51NAoU3arSL._SX319_BO1,204,203,200_.jpg
Cầm tập hồi ký “ A Sense of Duty: My Father, My American Journey” của Quang X. Pham, tự nhiên tôi lại nhớ đến câu hát  “Hòn VọngPhu”. Ở đây, người cha, một phi công của Không Quân Việt nam, bay khu trục rồi chỉ huy một phi đoàn vận tải. Người con, tốt nghiệp đại học rồi gia nhập Thủy Quân lục Chiến Hoa Kỳ thành một phi công trực thăng. Chuyện ấy cũng có thể bình thường. Nhưng người con viết hồi ký về cuộc đời của cha mình và cũng là dịp để nhìn lại một cuộc chiến đã chấm dứt từ ba mươi năm nay, chuyện ấy mới là đáng nói. Qua bóng dáng của người cha, một thời lửa khói được kể lại. Và, tiếp nối, là người con của thế hệ tiếp theo. Không gian bao la nhưng vẫn nằm trong bàn tay người phi công.  Tác phẩm, là hồi ký của một người con nhưng đa phần là hình bóng của người cha và những người đồng đội cũ. Cuộc chiến dù đã ba mươi năm qua, nhưng vẫn còn dư  âm, tưởng như mới ngày nào…
Cuốn sách mới xuất bản mà đã được sự chú ý rất nhiều. Nhật báo Los Angeles Times và Orange  County  Register  đều có bài điểm sách.  Tuần báo Publishers Weekly và tạp chí Orange Coast Magazine cũng giới thiệu đầy cảm tình và trang trọng.  Nhiều tác giả nổi tiếng có nhiều hiểu biết về Việt Nam  như Richard Pyle, như Larry Engelmann, như Robert Olen Butler, như  James R. Reckner,… cũng có những nhận xét xác đáng về tầm vóc cũng như giá trị của tác phẩm. Và,  với người Việt Nam,  những chính khách như  Bùi Diễm, Đỗ Ngọc Yến , Hoàng Đức Nhã,… cũng đã cho nhiều  ý kiến  đồng tình chia sẻ…
Với  riêng cá nhân tôi,  tôi đọc “ A Sense OF Duty” không phải vì những bài giới thiệu hoặc điểm sách như thế.  Bản tâm tôi đã rất  thích đọc những cuốn sách viết về chiến tranh Việt Nam. Trong tủ sách của tôi cũng có hàng  trăm cuốn Anh ngữ, Pháp ngữ và Việt ngữ về đề tài này.  Và, càng đọc nhiều tôi lại có  một điều làm tôi ấm ức và cảm thấy bất công. Hầu như những cuốn ngoại ngữ đều chung một luận điệu. Chiến tranh giữa Hoa Kỳ và Cộng sản Bắc Việt, người lính Nam  Việt Nam chỉ là vai trò phụ thuộc. Hiếm có cuốn sách nào có cái nhìn chính xác hơn. Khi học   môn sử ở chương trình  cử nhân, tôi đã nhiều lần nói lên cái tâm trạng và suy nghĩ của mình  trong lớp học, của một người lính đã tham dự cuộc chiến. Thú thực  tôi  có cảm giác  là người  cô đơn, một mình phải thuyết phục đám đông đã sẵn ấn tượng từ sách vở. Mà tôi biết, trong dư luận Hoa Kỳ, những người phản chiến  nắm phần chủ động. Ngay, một người như John Steinbeck, là một nhà văn nổi tiếng đoạt giải Nobel văn chương năm 1962, tác giả của “  The Grapes of Wrath” hay “Of  Mice  and Men” nổi tiếng nhân bản, mà khi viết những bài ủng hộ chiến tranh Việt Nam  như  hàng ngày viết “Letters from Việt nam” cho nhật báo “News Day” hay tranh luận với nhà thơ Liên Xô Evgueni Evtusensko, cũng bị chê là hiếu chiến.
Thành ra, đọc một cuốn sách có nhiều điểm đồng tình với mình, cũng là một điều thích thú. Dù không thích chiến tranh nhưng chúng tôi vẫn vì bổn phận và chiến đấu hết mình vì bổn phận ấy. Tôi sẽ mang cuốn sách cho những người  bạn bản xứ và khoe như tôi đã làm với cuốn sách mới tinh còn  thơm mùi mực của nhà văn Ngô Thế Vinh. Có cuốn sách của người Việt Nam viết về chiến tranh Việt Nam tại sao không phổ biến? Để nói thêm một tiếng nói cho những người đáng được nhắc đến.
Ngoài lý do kể trên, còn một lý do khác, kể ra thì cũng hơi  riêng tư. Tôi đọc cuốn sách này vì người viết là một Không Quân viết về một người cha  Không Quân, niên trưởng của chúng tôi.Và ở đó, tôi tìm được không khí của những phi trường  mà tôi  quen thuộc. Đời sống ấy, dù đã ba mươi năm qua, nhưng còn phảng phất đâu đây. Mỗi lần nhắc lại là  bồi hồi trong tâm.  Bạn bè chúng tôi, bao nhiêu người gục ngã. Những chiếc trực thăng nổ tung trên trời, những chiếc khu trục cháy đỏ vỡ toang tầng không, những cái chết hào hùng.  Lạ kỳ, khi tôi đọc những trang sách viết về  một niên trưởng phi công kỳ cựu, tôi nghe bên tai mình  văng vẳng những nốt nhạc của  bài Không Quân Hành Khúc.  Bài hát ấy,  bạn bè chùng tôi thường hợp ca mỗi khi họp mặt như tiếng hát gọi đàn “ Giờ đoàn người từng vượt bao biên giới đã chiến đấu. Đã chiếm chiến công ngang trời.Giờ đoàn người còn vượt qua biên giới, quyết chiến đấu. Đi không ai tìm  xác rơi.Lúc đất nước muốn, bao người con thân yêu ra đi. Tiếc tấm thân làm gì…”…
Phạm Xuân Quang đã viết “ A Sense of Duty” như một tác phẩm đầu tay của một người tị nạn  đã trở thành một Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, từ những tác động ký ức liên quan đến số phận,  niềm hy vọng cũng như những hậu quả phát khởi từ biến cố trong cuộc chiến Việt Nam.  Là một người trẻ Việt  thuộc thế hệ thứ hai trưởng thành ở Hoa Kỳ,  anh  biểu lộ tấm lòng tri ân với đất nước đả bảo bọc anh và đã  tự mình tình nguyện gia nhập quân đội và trở thành một phi công trực thăng nối nghiệp người cha là một phi công khu trục của Không Quân Việt Nam. Cuộc trùng phùng giữa hai cha con sau một thời gian dài chia cách cũng là một yếu tố để anh có quyết định trên.

https://i2.wp.com/d26yigxxs6gued.cloudfront.net/img/art_herovet/LtHoaPham1959.jpg
Năm 1964, người cha , phi công  Phạm Văn Hòa của phi đoàn khu trục 514 bị  phòng không Việt Cộng bắn  trong khi đang yểm trợ tiếp cận  cho bộ binh dưới đất. Được trực thăng Hoa Kỳ cứu cấp sau khi bị đáp ép buộc, ông trở về nhà  đúng vào ngày sinh của đứa con trai ông, tên Quang. Sau đó ông lại tiếp tục những phi vụ oanh kích, thi hành bổn phận của một quân nhân trong thời binh lửa. Thâm tâm ông không muốn làm hành động của một anh hùng, nhưng ông hiểu  nhiệm vụ của mình để hoàn tất những công việc ấy.
Trước khi Saigòn bị quân cộng sản xâm chiếm,  trung tá Hòa chắc chắn rằng vợ con mình đã được di tản. Ông gửi vợ và mấy đứa con lên một chiếc C130 di tản đến Hoa Kỳ. Riêng ông ta không được may mắn. Ông bị ở lại và  bị tù ngục hơn mười năm. Những trại khổ hình mà ông đã trải qua như Long Giao, Suối Máu, Sơn La, Hoàng Liên Sơn, Hà Sơn Bình, Hà Nam Ninh, toàn những nơi nổi tiếng là rừng thiêng nước độc. Sau khi gần được  phóng thích, Cộng Sản chuyển ông về trại Z0D ở Rừng Lá.Năm 1987, ông được thả về và năm năm sau ông được sang Hoa Kỳ gặp gỡ lại vợ con sau một thời gian sống nghẹt thở vì sự canh chừng của hệ thống công an khắc nghiệt và đa nghi.
Quang Phạm đến Hoa Kỳ lúc chỉ mới mười tuổi và biết vỏn vẹn vài ba chữ Anh Ngữ. Anh  bắt đầu vào trường học. Mẹ anh cũng rất cố gắng hội nhập vào xã hội mới và sau đó đã hành nghề kế toán để nuôi cả gia đình. Quang sống trong một gia đình  vắng mặt người cha và người mẹ đóng vai trò chủ gia đình. Tất cả đều chung một cố gắng sống sao cho có ý nghĩa trong cuộc đời mới. Bà mẹ muốn Quang học những nghành như y khoa hay dược khoa rất bất ngờ khi nghe Quang nói muốn gia nhập Thủy Quân Lục Chiến sau khi tốt nghiệp cử nhân. Bà không thể nào vui với một ý định như thế. Rồi, rốt cuộc Quang cũng thành một phi công như ước muốn của anh thời niên thiếu.

https://i2.wp.com/www.vietamreview.net/images/Webb_Quang.jpg
Năm 1992, gia đình Quang  đoàn tụ ở  về thành phố Oxnard, California. Quang tốt nghiệp cử nhân và sau đó tình nguyện vào Thủy Quân Lục Chiến thành một phi công đầu tiên của thế hệ  Việt Nam thứ hai. Khi Quang vừa tốt nghiệp sĩ quan thì người cha được rời khỏi trại tù Việt Cộng  và trở về sống vất vưởng ở Sài Gòn chờ ngày sang Hoa Kỳ định cư.  Trong khi đó thì Quang thi hành những phi vụ  trong cuộc chiến Bão Sa Mạc tấn công quân Iraq của Saddam Hussein. Hai năm sau,  người cha được định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO  và đoàn tụ với cả gia đình. Nhưng hai ngày sau Quang phải lên đường  trên chiến hạm USS Tarawa từ San Diego  trên hải trình ở Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, vùng Vịnh Trung Đông, biển Somalia. Sau đó Quang lên bờ làm sĩ quan tùy viên cho Tư lệnh Không Đoàn  Ba TQLC. Lúc này , cha con mới có dịp nói chuyện với nhau cũng như gặp gỡ lại những người là chiến hữu  KQ VNCH cũ cùng với nghiệp bay bổng.
Trung tá Phạm Văn Hòa   đã có dịp kể lại tất cả những chi tiết của cuộc đời nhiều thăng trầm của mình với con và tìm ở đó như một chiến hữu có cùng những giấc mộng thời thơ ấu dù lớn lên và trưởng thành từ thời gian không gian khác nhau.
Khi gặp gỡ lại thân phụ mình, Quang vì những ấn tượng sâu sắc về cuộc đời người cha nên có ý định viết một cuốn sách  kể lại những ngày tháng trải qua. Anh ghi chép lại tất cả chi tiết để thành một hồi ký. Năm 2000, ông cựu trung tá Không Quân Việt Nam Phạm Văn Hòa bị xuất huyết não và từ trần. Như thế chỉ còn một mình Quang thực hành chương trình đã định từ trước.
Hành trình của ngươì cha dường như được nối tiếp từ người con.  Phi công Phạm Văn Hòa, tức Hòa Điên, một biệt danh mà bạn bè ông thường gọi, chiến đấu để bảo vệ cho tự do của đất nước ông. Là phi công khu trục và vận tải, ông có cái hãnh diện của một chiến sĩ làm nhiệm vụ.Con ông, Phạm Xuân Quang, tình nguyện vào lính để trở thành một phi công trực thăng cũng với ý nguyện phục vụ đất nước đã bảo bọc anh và gia đình và cũng để thỏa mãn cái  mộng ước đã có khi còn nhỏ ở phi trường Tân Sơn Nhứt.
“A Sense of Duty: My Father, My American Journey” là một chuyện kể cảm động của những người đến Hoa  Kỳ định cư từ những xứ sở xa lạ và đã thành công khi nhập được vào dòng chính.  Một độc giả Hoa Kỳ đã viết rằng đã cảm được nỗi đau , nỗi buồn của người kể chuyện  khi đọc  cuốn hồi ký này. Hoa Kỳ là một xứ sở có rất nhiều những câu chuyện như thế, của những người làm lại cuộc đời từ bàn tay trắng.
Hồi ký này là câu chuyện của gia đình Quang với những người làm trọn nhiệm vụ của mình. Người cha, làm tròn bổn phận với đất nước mình. Người mẹ, làm tròn nhiệm vụ  hiền mẫu  của mình. Người con, làm tròn nhiệm vụ với đất nước đã nuôi dưỡng bảo bọc  mình. Tất cả, là những nỗ lực  của những người hiểu được cái giá của tự do.
Bút pháp của Quang là một cách viết tự nhiên có pha lẫn chút trào lộng cay đắng nhưng tràn đầy sức sống của một người hiểu được mình phải bắt đầu từ đâu và đi trên những con đường nào. Trong nhiều chương sách , ít nhất là  hơn một nửa trong tổng số 24 chương, tác giả đã  nhắc lại thời nhỏ của mình trong khu cư xá trong phi trường Tân Sơn Nhất, nhìn những  máy bay cất cánh để mơ mộng nối gót hành trình của cha. Cũng như, khi sang định cư ở mỹ, phải phấn đấu thế nào, và hội nhập vào dòng chính ra sao cũng như phải chịu những sự kỳ thị bất công dành cho một cậu bé Mỹ gốc Việt. Quang có nhiều kinh nghiệm từ những va chạm ấy và rút ra một kết luận muốn thành  công trong xã hội  Mỹ phải làm việc gấp hai và suy nghĩ gấp bốn một đứa bé da trắng bản xứ.
Hình như, Quang cũng có những ngoái nhìn về  phía cuộc chiến đã qua. Hành trình của anh, khởi đầu một cách gián tiếp từ thân phụ, qua chiến tranh Việt Nam đến chiến tranh vùng Vịnh, từ một cậu bé con của  nguồn gốc  quê hương đến một người lính bảo vệ đất nước  mà mình trưởng thành.  Anh không có mục đích nhìn lại quá khứ mà  chỉ  muốn nhìn lại những gì mà chúng ta nhớ lại từ  quá khứ  ấy. Có nhiều câu hỏi được đặt ra với Quang, từ lúc thơ ấu đến lúc trưởng thành.

Những câu hỏi bao quanh cuộc chiến đã tàn lụi  và những hệ quả của nó cho toàn dân Việt Nam  nói chung và gia đình Quang nói riêng. Những suy nghĩ  về tự do và cái giá phải trả của nó. Chính vì suy nghĩ trên nên Quang đã nhập cuộc, như phản ứng của một người trẻ hiểu biết được trách nhiệm của mình.
Cho nên, có một độc giả đã viết “ Trước đây, không bao giờ tôi hỏi cha tôi về những chuyện đã xẩy ra từ hồi chiến tranh Việt  Nam. Bây giờ, đọc xong cuốn sách này, tôi sẽ hỏi,…”
Phải rồi, chiến tranh Việt Nam có những bí ẩn kể như phi lý. Hàng triệu người lính của cả hai bên Nam Bắc và  58 ngàn chiến sĩ Hoa Kỳ bị tử trận.  Không chỉ thế,  còn hàng triệu nạn nhânchiến cuộc với những biến cố kinh hoàng. Chiến tranh chấm dứt, hơn hai trăm ngàn sĩ quan viên chức Nam Việt Nam vào tù Cộng sản. Hàng triệu người vùi thân biển cả. Tất cả, là trả giá cho tự do. Cái giá khá mắc cho một dân tộc vốn thông minh cần cù…
In một cuốn sách như  tác phẩm này  có nhiều trạng huống tế nhị mà tác giả phải vượt qua.  Rất nhiều nhà xuất bản đòi hỏi phải theo những ý hướng đã định và đề tài chiến tranh Việt Nam không phải là đề tài có nhiều hấp dẫn.  Khi nhà xuất bản Random House  đồng ý  xuất bản thì lại gặp nhiều vấn đề như  hình bìa có bản đồ Việt nam với tên thành phố được Cộng sản cải danh lại mà không phải là Sài Gòn. Nhưng rốt cuộc, nhà xuất bản phải nhượng bộ và hình bìa là ảnh hai cha con với bản đồ Việt nam làm nền phía sau với tên của thành phố Sài Gòn. Cũng như trong giai đoạn “edit” có rất nhiều đoạn bị cắt bỏ bởi chủ quan của nhà xuất bản. Dẫu sao, đó cũng là chuyện thông thường khi xuất bản một tác phẩm ở Hoa Kỳ.
Tác giả đã mang sự thành thực cũng như  tôn trọng sự thực để làm thành sự quyến rũ cho tác phẩm. Ông không cao giọng rao giảng cũng như muốn  làm người phê phán. Ông  chỉ mang cuộc đời của mình và của cha mình để tôn vinh tự do và biết phải chiến đấu để có  sự cao quý ấy.

 Lễ Động Đất Kiosk Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ
Phạm Xuân Quang, Phạm Hòa, Chánh Án Nguyễn Trọng Nho, Nam Lộc, Thị Trưởng Frank Fry, Hồ NM Đức, Giỏi Nguyễn, Nghị Viên Kermit Mash, Thị Trưởng Garden Grove Goldwater, Lâm Nguyễn
 
Tác giả “ A Sense of Duty”, Phạm Xuân Quang, đã phục vụ như một phi công của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, đã tham gia chiến dịch vùng Vịnh và Somalia. Anh cũng là người điều hành công ty QTC Medical Services và CEO của Lathian Systems, công ty mà anh là người sáng lập. Anh cũng là một khuôn mặt quen thuộc của giới truyền thông Hoa Kỳ, đã góp mặt trên nhiều shows   vô tuyến truyền hình và truyền thanh. Viết “ A Sense of Duty “, anh muốn làm tròn bổn phận của một người   với cha anh mình, đất nước mình. Chúng ta hãnh diện có những khuôn mẫu  Việt Nam thành công như thế:  trung hậu trong gia đình, dũng cảm trong chiến trường và nhạy bén hiệu quả trên thương trường…
Nguyễn Mạnh Trinh

Friday, August 12, 2016

Một H.O. Không Giống Ai ?

Đáng lý tôi phải viết ra chuyện nầy để chư liệt vị thưởng lãm từ lâu; nhưng cứ lần khân mãi cho đến bây giờ mới “khai bút”! Mà bây giờ có nghĩa là đã qua những 25 năm sau khi chương trình H.O bắt đầu.
Hồi đó, trước năm 1990, chẳng có ai trong những người tù từ các trại tập trung của Cộng Sản được “tha” về với gia đình mà tưởng tượng được sẽ có một ngày bản thân họ cùng vợ con được thong dong leo lên phi cơ; thực hiện một cuộc “đổi đời” từ địa ngục trần gian tới thiên đường!
Thế nhưng chuyện khó tin đó đã trở thành sự thật. Chương trình định cư những người tù, trở về từ các trại tập trung của Cộng Sản sau ngày mất nước 30-4-75 đã không còn là hoang đường, là ảo tưởng nữa. Chúng tôi, hàng mấy chục ngàn cựu tù, đủ mọi thành phần quân, cán, chính và dân sự trong guồng máy Việt Nam Cộng Hòa; đã được cứu vớt.
Ở đây, chúng ta chỉ gói gọn về lãnh vực nhân đạo và tiếng của con tim, để nói lên lòng cảm ơn nhân dân, quốc hội, chính phủ Hoa Kỳ, đã tạo cơ hội cho hàng trăm ngàn những con người chúng tôi được “đổi đời”, làm lại từ đầu trên quê hương tự do dân chủ và tôn trọng quyền con người! Nếu không có chương trình H.O, chúng tôi và gia đình vợ con sẽ sống ra sao trong một đất nước, dưới gót dép râu ngu dốt và nón tai bèo chất chứa hận thù để, đến 40 năm sau kết thúc cuộc chiến, Việt Nam càng ngày càng trở về với thời mông muội của văn mình nhân loại!
Bốn mươi năm sau cái ngày đen tối 30 tháng tư, 25 năm sau ngày chúng tôi được đổi dời; có rất nhiều chuyện để kể về những H.O. Hàng trăm, thậm chí hàng ngàn câu chuyện nói về sự thành công của những H.O và con cái họ trên quê hương thứ hai như thế nào… Nhưng câu chuyện kể của tôi sau đây thì rất dặc biệt, rất riêng biệt, rất khác biệt với những chuyện bình thường, về một HO hoàn toàn không giống ai trong số những HO mà tôi được quen biết!

Đại đa số những cựu tù theo diện H.O, qua Hoa Kỳ với hai bàn tay trắng, tháp tùng là vợ con nheo nhóc. Khi đến nơi, trừ một số ít tiếp tục theo học ở các Đại Học Cộng Đồng, sau đó làm những việc chuyên môn… còn đại thể, vừa học Anh Văn trong các trường ESL ban đêm miễn phí, ban ngày tìm việc làm bất cứ loại gì để “bắc cầu” cho các con được đi học; lo cho từng đứa, nguyện cầu cho chúng vào đại học, tốt nghiệp ra trường… Nhìn chung, chúng tôi đều thực tế, tất cả vì tương lai các con, dồn hết sức, dầu tư mọi thứ cho chúng được thành công!
Trường hợp “cá biệt” sau đây, tôi nghĩ, có thể là rất đặc biệt trong hàng ngũ những cựu tù H.O.! Tôi vẫn thường kêu tù hữu này là thằng, tiếng thằng, tiếng mày tao thân thương suốt thời gian chúng tôi cùng quằn quại trong thê lương, khốn cùng của tầng cuối địa ngục từ trại Long Giao (Long Khánh), ra đến Hoàng Liên Sơn, xuống Hồng Ka (Yên Bái), về Tân Lập (Vĩnh Phú)…Trong hơn một trăm hai mươi con giáp, nó hoàn toàn không giống con nào. Anh em trong tù, đa số bị cú lừa đau đớn của cọng sản, tự ý nộp mình “trình diện đi cải tạo” trong khi nó bị bắn nát đầu gối, bị bắt với vũ khí trên tay, bị tra tấn, bị cùm xiềng rồi mới bị đưa vô tù với hai cánh tay còn bị trói lặt sau lưng! Người cựu tù nầy, lúc mất nước, chỉ là một Trung Úy xuất thân Khóa 2 Đại Học Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt, chưa có vợ. Khi nghe Dương Văn Minh kêu gọi đầu hàng, nó trốn vào rừng chiến đấu trong hàng ngũ “Phục Quốc”. Tháng 10/1975 bị bắt, bị hành hạ tàn phế một bên chân nên nó chỉ còn một cẳng rưỡi thôi. Khi ở trại K2 Tân Lập, tỉnh Vĩnh Phú, tuy đôi chân khập khiểng nó vẫn hàng ngày ”được phân công” gánh hai thúng đi dọn hết “phân bắc” trong tất cả các nhà xí trong trại ra ruộng rau xanh…! Anh em tù thường gọi là “Thăng cứt”, nó dính chết cái tên từ đó! Sau hơn tám năm nó được ra trại về xum họp gia đình.
Thế mà, sau khi qua Hoa Kỳ theo diện H.O như bao nhiêu anh em tù khác, nó lại càng không giống ai khi có một “chổ đứng” riêng biệt không ai ngờ. Lúc tôi gặp lại nó, với quân phục rằn ri, mang lon Trung Tá trong Oregon State Defense Force, thuộc Oregon Military Department, thì tưởng rằng mình đang nằm mơ, tưởng nó mua đồ lính cũ về mặc lấy le chơi! Không thể nào ngờ một tù chính trị được định cư theo diện “con bà phước” H.O mà, sau 25 năm lại là một sĩ quan trong đội quân phòng vệ tiểu bang Oregon.

Tôi tham dự trại Hướng Đạo Trưởng Niên mang tên “Bách Hợp 2015” tại Oregon từ ngày 28-29-30 tháng 8 năm 2015. Xét trong số bạn bè định cư ở tiểu bang nầy, quanh quẩn chỉ một mình “Thăng C.” nằm trong danh sách nhờ vả! Qua điện thoại, nó rất hoan hỷ chấp nhận đón ở phi trường và cho tôi tá túc mấy ngày chưa nhập trại…! Yên chí lớn, vợ tôi cũng an lòng vì có bạn tin cẩn để giao “hàng quý hiếm”!
Cả vợ chồng Thăng có mặt ở phi trường Portland rất sớm đón tôi về nhà cách xa 45 phút đường xa lộ. Hai ông bà rất niềm nỡ và hiếu khách, làm tôi cũng bớt phần lo. Ở khách sạn làm sao bằng tá túc nhà bạn bè để ôn lại những vui buồn của đầy ắp kỷ niệm tù! Sau khi vào nhà, tôi sững sờ với những hình ảnh treo đầy phòng làm việc của Thăng. Nếu không có dịp đến nhà chàng, tôi nghĩ, chẳng bao giờ nhìn được những tấm hình, bằng cấp, huy chương… của người bạn tù H.O thuở trước, hiện tại là một sĩ quan trong quân đội tiểu bang Oregon! Quả thật tôi bị lóa mắt vì không ngờ bạn mình lại thăng tiến trong lãnh vực độc đáo này! Quan sát quanh phòng, nào lễ phục, quân phục làm việc, quân phục tác chiến, các loại mủ mảo, túi ngủ dã chiến… các loại súng cá nhân từ dài đến ngắn. Đặc biệt lần đầu tiên tôi thấy cây súng hình dáng như colt 45, nhưng nhỏ xíu nằm gọn trong lòng bàn tay, rất đẹp!
Vợ chồng Thăng nhìn tôi cười, tôi thật sự ngạc nhiên và khâm phục người bạn tù ngày nào, bây giờ đường đường là một sĩ quan cấp tá trong quân đội Hoa Kỳ. Sau cơm tối, tôi bèn mon men cố ý “phỏng vấn” nhưng nó cố tình đánh trống lảng, vin đủ mọi lý do từ chối vì “chuyện của tui thật sự không giống ai. Rất tầm thường. Một cái job thông ngôn thông dịch bình thường như mọi người. Còn thua cái job Disney land nữa kìa (cười). Anh em mình, nếu không mất nước, nếu chưa bị leo lên bàn thờ ngồi ngắm gà mái khỏa thân, thì tối thiểu cũng Đại Tá hay Tướng rồi, chứ nhằm nhò gỉ một cái mai bạc này” nó nói.
Nhưng tao chỉ tò mò muốn biết lúc nào và nguyên do nào mầy vào quân đội Tiểu Bang Oregon. Ở Cali, anh em Tân Lập nghe nói mầy vào lính, cấp bậc trung tá, nhiều đứa thối miệng đồng hóa mầy với quý vị “nhà đòn”. Bây giờ, trước mặt tao là những bằng chứng rất thật; nào hình ảnh, bằng cấp, huy chương, lệnh thăng cấp có chữ ký của Thống Đốc…Và một lô súng ống, đạn dược, quân trang, quân dụng được trử trong nhà mầy! Thú thật, tao không thể tưởng tượng trong anh em mình lại có một H.O mà không giống “H.O.” nào hết trơn dzậy ?!?

Sau ba ngày trại “Bách Hợp 2015” trong rừng, tôi được Thăng lên tận trại đón về. Bà xã nó đi thăm con gái vừa sanh cháu ngoại. Sau khi ra tù, chàng lấy vợ trẻ hơn những 10 tuổi. Lúc lên máy bay theo diện HO13, bầu đoàn thê tử của nó là một vợ và hai con nhỏ xíu! Hai cháu gái giờ dây là hai Dược Sĩ đang phục vụ trong hai bệnh viện ngay tai Oregon,
Thăng chỡ thẳng tôi đến trang trại của vợ chồng sở hữu đã 15 năm trước. Theo lời nó kể, lúc đầu mới qua Mỹ, vợ chồng chàng ở Cali, nhưng có bà con ở Washington State và Oregon, nên dọn đến Olympia, sau đó trụ lại Oregon vì hai vợ chồng cùng đi làm cho hãng điện tử Merix. Một năm sau, khi thời cơ đến, nó sang lại và làm chủ một “garage” chuyên sửa hộp số xe với một manager cùng 5 thợ người Mỹ. Từ cơ ngơi này, tiến đến mua hai trang trại, tổng cộng hơn 30 mẫu tây. Quả thật, “giấc mơ Hoa Kỳ” và vận may đã mỉm cười với gia đình nó khiến cho mọi việc đều xuôi tay chèo mát mái một cách nhẹ nhàng!
Cuối năm 2000, Quân đội Oregon tuyễn dụng một số Thông Dịch Viên các thứ tiếng. Thăng nạp đơn ứng thí, được trúng tuyển. Lúc tuyễn dụng, người ta xem résumé, chấp nhận cho chàng cấp bực Trung Úy, nó không chịu, vì nếu tính từ 1975 thì giờ đây (2000) nó tối thiểu phải là cấp Tá trong QLVNCH. Vì thế, sau đó người ta thuận cho nó mang lon Đại Úy.. Vì cùng lúc đang cưu mang cơ xưởng sữa xe và trang trại… nên chàng xin làm việc theo Hợp Đồng. Thế là từ đó nó ung dung làm việc và tuần tự trèo từ Đại Úy lên đến cấp bực Trung Tá trong 12 năm!
Trang trại của vợ chồng giờ đây cho người Mỹ mướn trồng cỏ trong kỷ nghệ chăn nuôi bò sửa. Có mấy mẫu trồng táo, mận giống từ Đà Lạt. Tuy vợ chồng đã về hưu thong dong nhân thế, mua nhà trong thành phố, nhưng tới mùa thì phải tốn cả tháng thu hoạch, sấy, đóng gói và phân phối… Nhưng cái “job” quân đội thì chàng vẫn tiếp tục không kể tuổi tác !!!
Tù chính trị Việt Nam sau 1975, được định cư Hoa Kỳ theo diện H.O. hàng trăm ngàn. Nhưng, theo tôi chủ quan, Nguyễn Thế Thăng là một H.O. độc đáo, có một không hai, vẫn còn theo “binh nghiệp” ngay trên quê hương thứ hai nầy. Hậu duệ thế hệ thứ hai, thứ ba… vào quân đội Hoa Kỳ, mang lon cấp Tá, cấp Tướng là chuyện bình thường. Nhưng nó, chính nó, một người tù H.O mới là chuyện đáng nói! Tôi rất vinh dự có nó là một tù hữu của tôi.

Thursday, August 11, 2016

Hải quân Mỹ đối phó tàu săn ngầm của Trung Cộng như thế nào?

Tàu ngầm Mỹ là mối đe doạ cho hải quân Trung Cộng - Ảnh: Hải quân Mỹ

(Tin Nóng) Trung Cộng trong 5 năm qua đã ồ ạt phát triển các tàu hộ vệ săn ngầm nhằm chống tàu ngầm Mỹ ở Biển Đông, buộc Hải quân Mỹ phải tránh xa vùng biển này. Tuy nhiên Hải quân Mỹ đã phát triển các vũ khí lợi hại đối phó chiến lược săn ngầm của Trung Cộng.

Hải quân Mỹ đối phó tàu săn ngầm của Trung Quốc như thế nào? - ảnh 1
Tàu hộ vệ săn ngầm lớp Type 056 Trung Cộng đang triển khai ồ ạt nhằm đối phó tàu ngầm Mỹ - Ảnh: Sina
Tạp chí tài chính The Motley Fool (Mỹ) ngày 22.8 cho biết chưa đầy 5 năm qua, Trung Cộng đã đóng và đưa vào hoạt động gần 20 tàu hộ vệ săn ngầm lớp Type 056. Tạp chí The National Interest mô tả lớp tàu này là “nhỏ, rẻ, đa năng, trang bị vũ khí hùng hậu”, phục vụ chiến lược quân sự của Trung Cộng ở các vùng biển tranh chấp và nhất là nhằm xua đuổi tàu ngầm Mỹ ra khỏi khu vực Biển Đông.
Tàu hộ vệ săn ngầm lớp Type 056 có khoang đậu trực thăng, mang được 1 trực thăng săn ngầm Z-18F. Tàu có các thiết bị định vị thuỷ âm (sonar) hiện đại để dò tìm tàu ngầm dưới lòng biển, mang theo nhiều ngư lôi và Hỏa Tiển chống tàu ngầm.
Ngoài ra Trung Cộng còn phát triển lớp tàu khu trục Type 055 mới hơn, to lớn hơn, cũng có chức năng săn ngầm và mang được 2 trực thăng.
Vì sao Trung Cộng ồ ạt phát triển lực lượng tàu săn ngầm? The Motley Fool cho hay mọi chuyện bắt đầu từ tháng 3.1996, khi Trung Cộng tập trận đổ bộ quy mô lớn ở eo biển Đài Loan, và Mỹ dằn mặt bằng cách đưa một đội tàu sân bay vào eo biển này.
Vụ việc này khiến Trung Cộng tức tối và tìm cách nâng cao năng lực hải quân để buộc Hải quân Mỹ phải tránh xa các vùng biển và khu vực mà Trung  Cộng cho là của mình.
Từ đó đến nay Trung Cộng đã phát triển các vũ khí chống tàu sân bay như Hỏa Tiển đạn đạo DF-21D được quảng cáo là “sát thủ tàu sân bay”. Đối phó với máy bay tàng hình của Mỹ có thể nằm ngoài tầm khống chế của Hỏa Tiển DF-21D và có khả năng thâm nhập nội địa Trung Cộng nhờ được tiếp dầu trên không, Trung Cộng phát triển các loại radar có thể phát hiện máy bay tàng hình ở khoảng cách gần 600 km.
Và nhằm chống lại các tàu ngầm Mỹ, Trung Cộng phát triển lớp tàu hộ vệ săn ngầm Type 056 và tàu khu trục Type 055.
Vậy Hải quân Mỹ có phương cách gì để đối phó chiến thuật săn ngầm của Trung Cộng? Theo The Motley Fool, Hải quân Mỹ có 2 phương thức đối phó lớp tàu Type 055 và Type 056.
Hải quân Mỹ đối phó tàu săn ngầm của Trung Quốc như thế nào? - ảnh 2
Hỏa Tiển LRASM gắn dưới cánh Máy Bay Phản Lực F/A-18 chuẩn bị thử nghiệm - Ảnh: Hải quân Mỹ
Hải quân Mỹ đối phó tàu săn ngầm của Trung Quốc như thế nào? - ảnh 3
Đồ hoạ Hỏa Tiển LRASM tiêu diệt tàu chiến địch – 
Nguồn: Lockheed Martin
Đầu tiên, Hải quân Mỹ phát triển các dòng Hỏa Tiển diệt hạm tầm xa để tiêu diệt các tàu săn ngầm Trung Cộng. Ngày 12.8 qua, tập đoàn Lockheed Martin tuyên bố chuẩn bị thử nghiệm loại tên lửa diệt hạm tầm xa (LRASM) trang bị cho tiêm kích tàu sân bay F/A-18E Super Hornet. Việc thử nghiệm sẽ diễn ra cuối tháng 8, và sau đó sẽ sản xuất hàng loạt cung cấp cho Hải quân Mỹ.
LRASM là loại Hỏa Tiển hành trình diệt hạm được thử nghiệm lần đầu năm 2009, có tầm bắn xa hơn 300 km, gấp 3 lần loại tên lửa diệt hạm Harpoon đang dùng trên các tàu chiến Mỹ hiện nay. LRASM được dẫn đường bằng hệ thống định vị GPS, đầu dò tầm nhiệt, mang đầu đạn nặng gần 500 kg, trị giá 2 triệu USD/tên lửa.
Hải quân Mỹ còn xem xét dùng Hỏa Tiển hành trình Tomahawk loại cải tiến dùng để diệt hạm (loại Tomahawk Block IV) và đã thử nghiệm tốt hồi đầu năm 2015. Hải quân Mỹ có hàng ngàn quả Hỏa Tiển này, lâu nay chỉ dùng tấn công đất liền, nay sẽ dùng để tấn công tàu chiến đối phương từ khoảng cách rất xa, không dưới 1.000 dặm (1.600 km). Hỏa Tiển Tomahawk có thể phóng đi từ tàu chiến, tàu ngầm và máy bay. Tomahawk tuy không có khả năng tàng hình tốt như LRASM nhưng rẻ hơn (1 triệu USD/quả) và bay xa hơn.
Một loại Hỏa Tiển khác cũng được xem xét đến là Hỏa Tiển đánh chặn SM-6 dùng chống máy bay và Hỏa Tiển đạn đạo của đối phương. Loại Hỏa Tiển này đã thử nghiệm thành công nhiều năm nay, có thể cải tiến hệ thống hướng dẫn để vừa đánh chặn Hỏa Tiển cũng như dùng hạ tàu chiến địch. Mỗi quả SM-6 trị giá 4 triệu USD.
Như vậy chí ít Hải quân Mỹ có trong tay 3 loại Hỏa Tiển đáng sợ đối với các tàu chiến Trung Cộng, thay thế Hỏa Tiển diệt hạm Harpoon cũ kỹ, tầm bắn ngắn.
Hải quân Mỹ đối phó tàu săn ngầm của Trung Quốc như thế nào? - ảnh 4
Trong tương lai, tàu ngầm không người lái sẽ hỗ trợ đắc lực cho các tàu ngầm Mỹ - Ảnh: Hải quân Mỹ

Thứ hai, Hải quân Mỹ sẽ sử dụng các tàu ngầm không người lái để giảm thiểu rủi ro khi đối mặt các tàu chống ngầm Trung Cộng. Đó là chương trình tàu ngầm robot (LDUUV) dùng trong chiến đấu. Một tàu ngầm hạt nhân có thể mang theo nhiều tàu ngầm robot chiến đấu, điều khiển chúng từ xa để diệt tàu địch và rủi ro vì thế cũng không đáng kể.
Hãng Boeing đã giới thiệu với Hải quân Mỹ loại tàu ngầm robot Echo Ranger có lượng choán nước 5 tấn. Hiện Hải quân Mỹ đã lên danh sách các nhà thầu sản xuất các tàu ngầm không người lái này.
Theo The Motley Fool, mặc dù Hải quân Mỹ vẫn còn trong giai đoạn đầu của việc phát triển một lực lượng tàu ngầm không người lái, tuy nhiên những năm tới khả năng này sẽ phát triển mạnh mẽ hơn và thu hút các nhà thầu quốc phòng hơn.
Anh Sơn

Wednesday, August 10, 2016

Ai đã bắn nát chân tướng Nguyễn Ngọc Loan ???

Sát thủ thi hành bản án tử hình tướng Loan là một hạ sĩ quan TQLC Hoa kỳ làm việc cho CIA Sài Gòn.

Ngẫm hay muôn sự tại Trời
Nguyễn Du

Cho đến nay các sử gia đều tin rằng tấm hình nổi tiếng một thời của Eddie Adams đã kết liễu cuộc đời binh nghiệp của tướng Nguyễn Ngọc Loan. Không sai, nhưng chỉ đúng một nửa. Chính nhiếp ảnh gia đoạt giải Pulitzer của AP này đã viết trong tuần báo TIME (1): “Ông tướng giết thằng Việt Cộng; tôi giết ông tướng bằng máy chụp hình của tôi”. Đó là tấm hình chụp tướng Loan thản nhiên hành quyết một tù binh cộng sản bị còng tay sau lưng, mặt mếu máo. Một hành vi sát nhân ghê tởm gây chấn động toàn thế giới. Mặc dù sau đó Adams đã thú nhận: “Người ta tin vào hình ảnh, nhưng hình ảnh cũng nói dối, cho dù không có sửa đổi gì. Chúng chỉ là những nửa sự thật”. Dẫu vậy nhưng nó cũng đã đánh dấu khúc ngoặt quan trọng của cuộc chiến: Dư luận phản chiến nở rộ tại Hoa kỳ đã khiến Tổng thống Johnson mất niềm tin vào một chiến thắng quân sự tại miền Nam Việt Nam. Và cuộc thương thảo với Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Việt Nam (MTGPMN) đã diễn ra sau đó dưới triều đại Nixon như giải pháp duy nhất đem lại hòa bình.
Đằng sau tất cả những sự kiện lịch sử ấy là chuyển động âm thầm nhưng có ảnh hưởng quyết định của tình báo chiến lược. Cơ quan CIA (Tình Báo Trung Ương) Hoa kỳ và đối tác VNCH ở cấp cao đã phải đối mặt với những tình huống gây ra mâu thuẫn trầm trọng giữa một bên là MACV (Bộ Tư Lệnh Quân Sự Mỹ), CIA, Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ và bên kia là Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH và Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia khi ấy do Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan nắm giữ. Bối cảnh chung là cuộc tấn công bất ngờ của Việt Cộng – khi ấy vẫn được báo chí Mỹ coi là MTGPMN, tách biệt với Cộng Sản Bắc Việt (CSBV), một huyền tích chỉ được giải ảo sau 1975 – trong dịp hưu chiến Tết Mậu Thân (tháng 1, 1968).

Nguyễn Ngọc Loan: Ông là Ai?
Tướng Nguyễn Ngọc Loan, hỗn danh Sáu Lèo, sinh năm 1930 tại Huế. Chị cả của ông, bà Bích Hồng, là phu nhân Đại tá Bác sĩ Văn Văn Của, nguyên Đô trưởng thành phố Sài Gòn (1965-68) (2). Ông học trường Trung học Albert Sarraut và đậu Tú tài Toán toàn phần rồi bị động viên Khóa 1 Sĩ quan Trừ bị (Nam Định). Thiếu úy Loan theo học Trường Sĩ quan Không quân Pháp Salon de Provence năm 1953 rồi thực tập hoa tiêu khu trục phản lực tại căn cứ Meknes, Maroc, trở thành phi công khu trục phản lực đầu tiên của Không lực VNCH. Về nước, ông được bổ nhiệm Phi đoàn trưởng Phi đoàn 2 Quan sát. Được thuộc cấp nể trọng nhưng ông không được các sĩ quan Cố vấn Hoa kỳ ưa thích vì ông hay đả kích lề lối làm việc máy móc của họ.
Năm 1964, ông Loan thăng cấp Đại tá và được bổ nhiệm “Tư lệnh Phó Không Quân VNCH” dưới quyền Tư lệnh, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ. Năm 1965, vinh thăng Chuẩn tướng, ông tham dự chiến dịch không kích Bắc Việt trong khu vực Đồng hới – Vĩ tuyến 17 (Bến Hải).
Những năm kế tiếp, tướng Loan được đề cử đảm nhiệm 3 chức vụ an ninh, tình báo quan yếu của VNCH:
– Đặc ủy trưởng, Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo
– Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, và
– Cục trưởng Cục An Ninh Quân Đội
Lòng tận tụy với trách nhiệm nặng nề và tính “bất cần đời” của tướng Loan, coi cái chết “như pha” tạo cho ông một cá tính gồ ghề, bề ngoài tưởng như ngổ ngáo, hãnh tiến, nhưng thật ra ông là con người đầy cảm tính và “cận nhân tình”, được cấp dưới nể trọng và bạn hữu chí tình thương mến. Thỉnh thoảng gặp ông tại Phủ Thủ Tướng (Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương – UBHPTƯ), ông cười nói xuề xòa, moa moa, toa toa, miệng không ngớt chửi thề: đ.. cụ, đ.. cụ.
Tuy nhiên, Định Mệnh dường như đã an bài cho ông một số phận khắc nghiệt. Chỉ nội trong ngày 31 tháng 1 năm 1968, sự nghiệp của ông được kể như chấm dứt vì một quyết định làm cho người Mỹ coi ông là kẻ phản bội. Mặt khác, có thật là bức hình của Eddie Adams chụp cảnh ông xử bắn tên đặc công Lém ở đường Ấn Quang ngày 4 tháng 2, 1968 mới là nguyên nhân chính? Sự thực không phải như vậy.

Hoa kỳ đi đêm với MTGPMN
Kề từ tháng 2 năm 1967, Tòa Đại sứ Hoa kỳ ở Sài Gòn đã có những tiếp xúc sơ bộ với một số cán bộ cấp thấp thuộc MTGPMN. Sau đó,với sự trợ giúp của Tình báo Hải ngoại Pháp (SDECE, Service de Documentation et de Contre-Espionage), cộng đồng tình báo Mỹ ở Việt Nam đã bắt tay được với những nhân vật trọng yếu của Cục R (Trung Ương Cục miền Nam) và MTGPMN như: Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình, Dương Quỳnh Hoa, Trần Văn Trà, Đồng Văn Cống, Trần Bửu Kiếm và Trần Bạch Đằng, Cục trưởng Cục R (3).
Sau việc hộ tống êm thắm vợ con Trần Bửu Kiếm và Trần Bạch Đằng ra vùng “giải phóng” an toàn, Sứ quán Hoa kỳ móc nối với Nguyễn Thị Bình (qua trung gian LS Đinh Trịnh Chính, Bộ trưởng Chiêu Hồi, Dân Vận VNCH) toan tính thành lập chính phủ “liên hiệp hòa giải dân tộc” với 2 thành phần: MTGPMN và chính quyền VNCH.
Tất cả những tiếp xúc “đi đêm” nói trên đều không lọt qua con mắt của tướng Loan, Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia. Tướng Loan ra lệnh cho S-6 (Cảnh Sát Đặc Biệt) tống giam một số nhân vật MTGPMN khi ấy đang được Sứ quán Hoa kỳ bảo vệ tại các “nhà an toàn” (safe house) ở ven đô Sài Gòn và Tây Ninh. Sứ quán Hoa kỳ gây áp lực với tướng Nguyễn Cao Kỳ, chủ tịch UBHPTƯ, phải thả lập tức các sứ giả MTGPMN và yêu cầu các cơ quan an ninh VNCH không được phép xâm nhập các nhà an toàn và những khu vực dành riêng cho nhân viên ngoại giao Hoa kỳ trên khắp lãnh thổ VNCH.
Mặt khác, Tổng thống Lyndon B. Johnson được Đại sứ Mỹ Ellsworth Bunker bảo đảm rằng Sài Gòn là thủ đô an toàn và Tòa Đại sứ Hoa kỳ ở Saigon là khu vực an ninh 100% không bao giờ bị tấn công vì đây sẽ là địa điểm mật đàm đã được thỏa thuận giữa Hoa kỳ và MTGPMN.
Tòa Đại sứ Hoa kỳ rơi vào tay Đặc Công CSVN
Trong trận mở màn Chiến dịch Tổng Tấn Công – Tổng Khởi Nghĩa của CSVN, một biến cố ít ai biết đến, kể cả báo chí Mỹ, là Tòa ĐS Hoa kỳ đường Thống Nhất đã rơi vào tay Đặc công CS ngay những phút đầu. Đó là hậu quả của việc tướng Loan đã cho rút 2 trung đội Cảnh Sát Dã Chiến bảo vệ bên ngoài TĐS Mỹ về tăng cường cho Dinh Độc Lập.
Diễn tiến: Tổ C-10 gồm 18 tên đặc công CS thuộc Tiểu đoàn Đặc công 276 của Đặc Khu Ủy Sài gòn – Chợ Lớn đã xuất phát lúc 1 giờ đêm 31 tháng 1, 1968 từ tiệm Phở Bình đường Yên Đổ, góc Hai Bà Trưng, trên 1 xe van mầu trắng. Hai giờ sáng, xe dừng trước cửa sau Tòa ĐS đường Mạc Đĩnh Chi lúc đó chỉ có một tiểu đội Quân Cảnh Mỹ giữ an ninh phía trong. Bọn đặc công CS chia làm 6 mũi khai hỏa tấn công. Chúng dùng bộc pha, B-40 và AK-47 báng xếp triệt hạ vọng gác của Cảnh sát QG đặt giữa Lãnh sự và tòa nhà chính. Nhưng vọng gác này đã bỏ trống từ chiều hôm trước cùng lúc với hai trung đội Cảnh Sát Dã Chiến, theo lệnh của tướng Loan.
Hai tên đặc công tấn công vào cửa chính Tòa ĐS, tức thì bị QC Mỹ hạ sát. Sau đó QC Mỹ rút vào trong và dùng radio cầu cứu. Hai tên đặc công khác dùng bộc pha phá thủng một lỗ lớn tường rào góc đường Thống Nhất – Mạc Đĩnh Chi, giúp cho toàn bọn C-10 tràn vào vườn hoa rồi tiến chiếm Lầu 1 và Lầu 2 trong khi QC Mỹ rút lên Lầu 3 cố thủ. Lầu 2 Đại Sứ quán Mỹ là Tổng Hành Dinh Tình Báo Chiến Lược của Hoa kỳ ở Đông Nam Á. Toàn bộ tài liệu mật mã “Tuyệt Mật” của CS Bắc Việt mà Mỹ thủ đắc được từ 1961, gồm hồ sơ chính sách, cương lĩnh, nghị quyết tấn công quân sự miền Nam, cùng các tài liệu khác liên quan đến cuộc chiến, đều được lưu trữ trong các tủ và két sắt Diebolt nặng trên 1 tấn (4). Bốn tên đặc công CS cố thủ Lầu 2 ra sức cậy phá, tháo gỡ 6 ổ khóa của 12 két sắt nhưng vô hiệu.
Mười hai giờ khuya (12 giờ trưa Washington, D.C.), tại trụ sở CIA, Giám Đốc Richard Helms đang khoản đãi ông William Colby, tân Giám đốc CORDS (5) Việt Nam. Giữa tiệc, một thiếu tá tùy viên hối hả xin gặp để trình một công điện Hỏa Tốc từ MACV: “Trụ sở CIA và Sứ quán Hoa kỳ Saigon đã lọt vào tay đặc công MTGPMN từ 1 giờ sáng 31 tháng 1, 1968”. Cùng lúc, Tòa Bạch Ốc cũng nhận được công điện hỏa tốc: “Saigon đang bị 5 tiểu đoàn địa phương MTGPMN tấn công ồ ạt. Tòa ĐS ở trung tâm thủ đô thất thủ. Bộ Tư Lệnh MACV và Bộ TTM/QLVNCH tràn ngập khói súng, chống trả yếu ớt vì bị bất ngờ”.
Giám đốc CIA Richard Helms đọc công điện 3 lần vẫn cả quyết với quan khách: “Đây là những ‘điều giả tưởng’ không thể nào có thể xẩy ra được với Hoa kỳ”.
Sáu giờ sáng, một đại đội xung kích thuộc Sư đoàn Không kỵ 101 được trực thăng vận đổ xuống từ nóc Tòa ĐS, đột nhập Lầu 3 rồi Lầu 2, cận chiến với 12 đặc công CS, tiêu diệt toàn bọn và giải tỏa Tòa ĐS — biểu tượng của sức mạnh Hoa kỳ tại Đông Nam Á.

Lãnh đạo VNCH, đệ I và II Cộng Hòa, biết gì?
Đầu tháng 2, 1975, tôi đến Washington D.C. nhận nhiệm vụ Tùy Viên Lục Quân tại Tòa Đại sứ VNCH, ưu tiên tìm hiểu và báo cáo về quân viện Mỹ cho VNCH lúc đó đang lửng lơ. Một chị bạn nhà tôi, tên Dung, Đệ Nhị Tham Vụ, mời tôi đi ăn lunch. Tò mò, tôi hỏi chị: “Tòa Đại Sứ mình vận động Quốc Hội Hoa Kỳ ra sao?” Chị đáp: “Tôi vẫn bỏ tiền túi mời mấy ông dân biểu đi ăn lunch”. Vậy thôi?
Tôi nghĩ, từ Ngô Đình Diệm cho đến Nguyễn Văn Thiệu, các nhà lãnh đạo VNCH có thể ví như những người đi buôn không vốn, không hiểu rành rọt về tổ chức và vận hành của chính quyền Hoa Kỳ, cho nên không biết đến hiệu quả của “lobby” và không giám hay không biết “chi” cho nỗ lực này vì không vốn (?). Khoảng cuối thập niên 70 bỗng sì căng đan “Koreagate”, bùng nổ. Điệp viên KCIA (Tình Báo Trung Ương Đại Hàn) Tongsun Park đã tung hàng trăm ngàn đô mua chuộc ảnh hưởng của một số nhà lập pháp Hoa kỳ để chống lại nguy cơ Nixon đòi rút quân khỏi Nam Hàn như đã làm ở Nam Việt Nam khiến VNCH rơi vào tay CSBV. Ở đời ai dại, ai khôn? Thành thử, chúng ta luôn luôn cầm dao đằng lưỡi để cho đối phương tuốt dao máu chẩy thành vòi! Lý do: không nắm được những nguyên lý căn bản về Tình Báo Chiến Lược để sử dụng nó hữu hiệu trong chiến tranh.
Có ai ý thức được rằng Hoa kỳ ào ạt đổ quân vào Việt Nam, thật ra, không phải là để bảo vệ nền độc lập và chủ quyền của VNCH.
Có ai ý thức được rằng, với Hoa kỳ, không có quốc gia nào là bạn lâu dài và cũng chẳng có nước nào là kẻ thù vĩnh viễn, mà chỉ có quyền lợi của Hoa kỳ là vĩnh cửu?
Có ai biết rằng: Trong thời gian CSVN làm xiếc đi giây giữa Liên Xô và Trung Cộng, Trung Cộng coi VNCH là bạn và là đối trọng răn đe CS Bắc Việt? Với Trung Cộng, Liên Xô và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt) là hai kẻ thù không đội trời chung? Mặc dầu Mao vẫn chi viện cho Hồ để đoạt hai chiến thắng vang dội: Chiến dịch Biên giới 1950 và Điện Biên Phủ, 1954. Nhưng cũng vì vậy mà Trung Cộng phải dè chừng. Cuộc chiến biên giới 1979 đã chứng minh cho điều này khi Đặng Tiểu Bình muốn “dậy” cho Việt Nam một bài học.

Tướng Nguyễn Ngọc Loan
CIA ra lệnh thủ tiêu Nguyễn Ngọc Loan
Tháng 4 , 1968, Cố vấn trưởng Cảnh sát Quốc gia VNCH, J. Accompura (nguyên đại tá Lục quân Hoa kỳ) được mời đến gặp vị tân Trưởng Trạm CIA (Station Chief) tại VNCH, ông George Weisz đến thay thế ông Jorgensen. Không úp mở, ông Weisz cho Accompura hay: “Chính phủ Hoa kỳ quyết định thủ tiêu Tổng Giám Đốc Cảnh Sát QGVN, Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan”.
Mặc dầu làm cố vấn cho tướng Loan chưa được 2 năm, Accompura lại rất thân tình và cảm mến ông. Accompura dấu kín chuyện CIA sẽ thủ tiêu ông, nhưng yêu cầu tướng Loan không được rời khỏi Dinh Độc Lập và không được tham gia bất cứ trận đánh nào có mục đích tiễu trừ các lực lượng MTGPMN tại trung tâm và ven đô Sài Gòn. Tướng Loan hứa xuông với Accompura cho qua chuyện, nhưng ông không ngồi yên.
Ở đâu có tiếng súng AK-47 là ông nhào tới. Chỉ cần một tấm áo giáp, một khẩu M-16, với 12 băng đạn 5.56 ly vòng quanh bụng, đầu không nón sắt, chân dép cao su, không lon không lá, tướng Sáu Lèo lâm trận… không coi mũi tên hòn đạn của kẻ thù có kí lô nào. Một Don Quixote hay Triệu Tử Long? Có lẽ cả hai gom một. Nhiều người coi ông như “người hùng đơn độc”, một phán xét có phần cảm tính. Tôi quan niệm đơn giản: Ông là người chỉ huy biết lãnh đạo. Lãnh đạo bằng cách làm gương, nghĩa là sát cánh cùng quân sĩ, đồng lao cộng khổ, ngay nơi trận tiền. A true leader. Phải nói như thế. Như người Mỹ thường nói.
Đầu tháng 5, 1968, hay tin VC tràn về khu Tân Cảng, tướng Loan điều động 2 đại đội CS Dã Chiến truy kích Tiểu đoàn Thủ-Biên (6) MTGPMN đang đốt nhà dân để “chém vè” vì bị trực thăng võ trang UH-1B của Sư đoàn 25 BB Mỹ tấn kích từ phía bắc cầu Sài Gòn. Hay tin tướng Loan dẫn CSDC ra Tân Cảng, Accompura vội nhẩy xe Jeep Cảnh sát chặn đoàn xe của ông Sáu Lèo ở ngã tư Dakao – Phan Thanh Giản và yêu cầu ông cùng về Tổng Nha tham dự buổi họp Chương Trình Phượng Hoàng do W. Colby chủ tọa. Tướng Sáu Lèo từ chối.

Ai bắn nát chân tướng Loan?
Tin tức loan tải: 11 giờ 45 ngày 7 tháng 5, 1968, một tên VC núp dưới chân cầu Sài Gòn bắn sẻ viên đạn “dum dum” (7) phá vỡ nát bắp chân trái tướng Nguyễn Ngọc Loan.
Các bác sĩ giải phẫu tại Tổng Y Viện Cộng Hòa, sau khi khám vết thương, nêu thắc mắc và khẳng định:
– Đầu đạn phá nát bắp chân trái tướng Loan không phải là “dum dum”. Nếu phải thì nó phải để lại những mảnh li ti và dấu vết thuốc nổ khi đầu đạn nổ lần thứ 2.
– Súng xung kích AK-47 của CS Bắc Việt sử dụng ở miển Nam không trang bị loại đạn “dum dum”.
– Súng bắn sẻ CKC của Tiệp Khắc cũng không trang bị đầu đạn “dum dum”.
– Đầu đạn AK-47 và CKC không phải là đạn xuyên phá. Loại đạn này chỉ tạo 1 lỗ nhỏ đường kính không quá 1 cm ở mặt trước vết thương, và mặt sau ít khi có lỗ rộng quá 5 cm.
Có lẽ chỉ có cố vấn Accompura biết rõ viên đạn làm tan nát cuộc đời binh nghiệp của tướng Loan là loại đạn gì. Và sát thủ là ai?
2005: Sau rốt, màn bí mật cũng được vén lên, bởi không ai khác là chính Accompura.
Sát thủ thi hành bản án tử hình tướng Loan là một hạ sĩ quan TQLC Hoa kỳ có vợ Việt Nam, làm việc cho CIA Sài Gòn. Khẩu súng bắn lén tướng Loan là M-16 gắn viễn vọng kính. Viên đạn M-16 cỡ 5.56 mm thuộc loại Flechette (8). Chi tiết được biết thêm:
Sát thủ đứng trên sàn trực thăng võ trang UH-1B, qua viễn vọng kính đã lẩy cò khi chiếu môn thập tự [+] nhắm trúng đầu tướng Loan. May thay,“Thiên bất dung gian”, người không thể giết người, chỉ có Trời mới giết được người. Lúc sát thủ lẩy cò cũng vừa là lúc trực thăng gặp “air turbulence” hụt hẫng đưa viên đạn trúng bắp chân trái Sáu Lèo đang gác trên thành cầu thay vì trúng đầu ông. Viên đạn Flechette 5.56mm đã phá nát bấy toàn thể bắp chân trái tướng Loan, cắt đứt gân lòng thòng và động mạch tiếp tế máu cho bàn chân.
Bác sĩ Trưởng Khoa Giải Phẫu Tổng Y Viện Cộng Hòa đề nghị cắt bàn chân bởi vì động mạch đã bị phá nát, nếu không, một thời gian ngắn bàn chân sẽ bị hư thối.
Tướng Loan yêu cầu, bằng mọi cách, giữ lại bàn chân trái cho ông.
Ảnh hưởng tiêu cực của tấm hình hay do lệnh CIA?
Bác sĩ cố vấn trưởng Tổng Y Viện đề nghị đưa tướng Loan đến điều trị tại Bệnh viện Quân Y Mỹ tại Long Bình. Giám đốc Bệnh viện từ chối vì không có khả năng nối động mạch vi ti ở bắp chân.
Tướng Kỳ yêu cầu MACV can thiệp với Hạm Đội 7 có tầu bệnh viện đón nhận tướng Loan để chữa trị. Tầu Bệnh Viện Đệ Thất Hạm Đội từ chối.
Chính phủ VNCH yêu cầu Tòa Đại sứ Hoa kỳ giúp đỡ đưa tướng Loan đến Bệnh viện Jama trên đất Nhật. Tòa Đai sứ Hoa kỳ khước từ.
Không thể trông cậy vào Đồng minh Hoa Kỳ giúp đỡ, tướng Kỳ cuối cùng nhờ đến Tòa Đại sứ Úc chấp thuận cho tướng Loan được điều trị tại Canberra. Chính quyền Canberra khước từ lời yêu cầu của VNCH, viện cớ dư luận dân chúng Úc không đồng tình chứa chấp một kẻ giết tù binh chiến tranh không vũ khí trong tay (9).
Tướng Loan giải ngũ, trở lại đời sống dân sự. Tướng Kỳ mất một người vừa là bạn thân, vừa là quân sư lỗi lạc trong cuộc đời tham chính của mình.
Hoa kỳ không giết chết được Loan nhưng vẫn căm tức “Sáu Lèo” một lúc phá hỏng hai giải pháp chính trị và quân sự của Mỹ tại Việt Nam. Họ quả quyết: “Nếu Loan không rút 2 trung đội Cảnh sát Dã chiến bảo vệ Sứ quán ở đường Thống Nhất thì không tài nào tổ đặc công C-10 của MTGPMN có thể xâm nhập thành lũy tối cao và kiên cố nhất của Mỹ, làm ô danh siêu cường số 1 thế giới”.
Rất có lý, nhưng Hoa kỳ vẫn khờ khạo khi tin rằng “nắm được Nguyễn Thị Bình, Trần Bạch Đằng và Trần Văn Trà là chế ngự được thế thượng phong quân sự của đối phương”. Sự thực phũ phàng là [như ngày nay ai cũng biết] Cuộc Tổng Công Kích – Tổng Nổi Dậy Tết Mậu Thân 1968 của CSVN là thuộc quyền quyết định và được điều khiển bởi Lê Đức Thọ, Bí Thư Trung Ương Cục miền Nam và Võ Văn Kiệt, Bí thư Đặc ủy Khu ủy Sài Gòn – Chợ Lớn.
Lý do tướng Loan rút 2 trung đội CSDC bảo vệ Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ trên đường Thống Nhất rất đơn giản và ngay thẳng. Đã là nơi sẽ diễn ra thương thảo giữa MTGPMN và Hoa Kỳ, thì VNCH cần gì phải canh gác? Đó là trách nhiệm của Mỹ.

Dự tính bắt cóc 6,000 người Mỹ làm con tin
Trong cuốn “Khi Đồng Minh Tháo Chạy”, TS Nguyễn Tiến Hưng có đề cập đến một tình huống mà ông gọi là “cực kỳ ê chề” (10) khi Tòa Đại sứ Mỹ phải đối diện, nếu và khi QLVNCH hay Cảnh sát “nổi khùng” mà cưỡng chế cuộc di tản 6 ngàn người Mỹ và một số người Việt thân quen hay làm việc cho Mỹ khi thấy những người này cứ kìn kìn ra đi, bỏ mặc họ cho số phận. Nên nhớ là khi ấy, trong nội vi Sài Gòn, lực lượng Cảnh Sát Dã Chiến hầu như nguyên vẹn cũng như một số đơn vị Nhẩy Dù và TQLC. Nếu có ai xúi dục và thuyết phục được họ đó là biện pháp duy nhất có thể làm để Mỹ phải đem quân tham chiến trở lại thì họ có khả năng quay súng bắn lại người Mỹ. Do đó, Hoa kỳ cũng có kế hoạch phòng hờ (11) đối phó với tình huống này, và Đại sứ Graham Martin cứ phải hành xử “bình chân như vại” cho tới phút chót mới chịu ra đi sáng ngày 30 tháng 4.
Điều này lý giải tại sao Mỹ phải cho ưu tiên di tản những phi công khu trục sang Utapao, Thái Lan, bởi vì QLVNCH chỉ cần vài chiếc F-5 là có thể bắn hạ những trực thăng di tản rơi rụng như sung. Trong tình huống này, TS Hưng lập luận, VNCH sẽ tức khắc trở thành thù địch, và sẽ không thể có Eden Center, Little Saigon hay Cabramatta vì không có người Việt nào được di tản thì làm gì có cộng đồng Người Việt Hải Ngoại như ngày nay?
Ý tưởng “bắt con tin” này có thể đã nhen nhúm trong đầu óc tướng Loan và có thể ông đã bàn bạc với bạn bè hay người thân. Từ ý tưởng sang ý định và đem ra thực hiện thì một người có uy tín và thành tích như ông có thể dễ dàng thuyết phục bạn bè tướng lãnh và thuộc cấp trong Không Quân và Cảnh Sát Quốc Gia. Nhưng ông đã không làm mặc dù Mỹ đã thù hận ông vì làm như thế sẽ có hại cho cả hai bên Việt, Mỹ và CSVN sẽ là kẻ thủ lợi. Ý tưởng này đã được một chuẩn úy KQVN kể lại cho Tòa Đại sứ Mỹ.
Từ cuối 1972, tướng Loan đã được một người bạn chính trị gia làm việc ở Tòa Bạch Ốc gửi thư riêng thông báo đầy đủ về kế hoạch rút quân của Hoa kỳ theo đúng những điều khoản của Hiệp Định Paris ký kết giữa Lê Đức Thọ và H. Kissinger ngày 27 tháng 1, 1973. Cuối thư, người bạn khuyên ông liên lạc với TVQL Anh tại Sài Gòn để thu xếp việc di tản cho chính bản thân ông và gia đình một khi Sài Gòn lọt vào tay các toán tiền tiêu của 6 sư đoàn CSBV. Ông biết là Hoa Kỳ sẽ chẳng bao giờ đem quân trở lại tham chiến tại miền Nam. Trừ phi…
Rốt cuộc, trưa ngày 29 tháng 4, 75, tướng Loan và gia đình đã phải chật vật lắm mới leo lên được một vận tải cơ C-130 và tới Utapao lúc 16:00 giờ chiều.
Trời kia đã bắt làm người có thân – Nguyễn Du
Để kết thúc câu chuyện, tôi xin nhường lời cho Eddie Adams:
“Ông Loan chạy thoát Việt Nam trong thời gian Sài Gòn xụp đổ và đến Mỹ. Sau cùng ông định cư ở vùng Burke, tiểu bang Virginia. Ông gắng mở một tiệm ăn ở miền Bắc Virginia nhưng khi có người biết ông là chủ thì tiệm ăn đóng cửa. Có những người phản đối đi vòng quanh khu đó hò hét để xả hơi nỗi bất bình của họ một cách thời thượng, an toàn.
“Ông ta rất đau yếu vì bị ung thư một thời gian. Và tôi nói chuyện với ông trên điện thoại tôi muốn làm một cái gì đó. Tôi giải thích mọi điều và kể lại chuyện tấm hình đã hủy hoại đời ông như thế nào thì ông ta chỉ muốn quên chuyện đó. Ông nói thôi bỏ đi. Còn tôi thì không muốn ông bỏ đi như vậy.”
“Thiếu tướng Loan từ gĩa cõi đời cách đây một năm và một tháng (12). Ông để lại vợ và năm đứa con. Phần lớn những bản tóm lược tiểu sử người quá cố cũng giống như tấm ảnh đã hủy hoại đời ông, chỉ có một chiều và cố chấp”.

Adams gửi hoa phúng điếu với một tấm thiệp trên viết dòng chữ, “Cho tôi xin lỗi. Lệ đang ứa trong mắt tôi.”

Chu Việt