Tuesday, May 5, 2020

VB 20.5.2008 - Những Ngày Cuối của VNCH - Nguyên tác: The Final Collapse của Đại Tướng Cao Văn Viên

(Tiếp theo... )
...Cuộc triệt thoái chỉ đem về Đà Nẵng 1/3 tổng số quân. Nhưng 1/3 số quân này khi về đến phố thì cũng không còn hữu dụng: Vừa đến thành phố, nhiều binh sĩ tản hàng để đi tìm thân nhân của họ đang thất lạc. Trong các đơn vị di tản chỉ có sư đoàn TQLC còn giữ được vẹn toàn quân kỷ.
Cuộc chuyển những cánh quân đóng ở phiá nam bằng tàu về Cù Lao Ré không gặp trở ngại. Sư đoàn 2BB và các đơn vị địa phương tỉnh cùng với thân nhân đến Cù Lao Ré an toàn. Ở đây họ tránh được cảnh hỗn loạn ngày một gia tăng đang xảy ra ở Đà Nẵng.
Ngày 27 tháng 3 tất cả kế hoạch phòng thủ Đà Nẵng trở thành vô hiệu trước sư rối loạn và phẩn nộ của những người dân sơ tán. Trong khi đó cộng sản đang dồn hết áp lực vào vòng đai thành phố. Từ hướng bắc Đà Nẵng, hai sư đoàn 324B và 325C, kèm theo một trung đoàn xe tăng và hai trung đoàn pháo, tiến dọc theo Thung Lũng Voi để bao vây hướng tây thành phố. Từ hướng nam, sư đoàn 711 phối hợp với sư đoàn 304 và Mặt Trận 44, đánh dọc theo sông Thu Bồn, tiến chiếm Đại Lộc và Dục Đức. Đà Nẵng, đến giây phút đó, đã nằm trong tầm đại bác của quân thù.
Sáng ngày 28 tướng Trưởng họp khẩn cấp các chỉ huy trưởng tại bộ tư lệnh quân đoàn. Một số biện pháp được áp dụng để vãn hồi trật tự và tái trang bị các đơn vị di tản có mặt trong thành phố. Nhưng chúng ta không còn đủ quân tác chiến để thi hành kế hoạch trên. Một số cán bộ và quân nhân được xung vào Quân Vụ Thị Trấn Đà Nẵng để giữ trật tự. Các quân nhân thất lạc đơn vị được tập họp lại và bổ sung vào đơn vị tác chiến. Tất cả cán bộ và quân nhân có mặt ở Đà Nẵng được trưng dụng bằng cách này hay cách nọ, nhưng con số đó không đủ để bù vào những thiệt hại, mất mát xảy ra trong những lần triệt thoái.
Trưa hôm đó Phòng 2 BTTM báo cho quân đoàn I biết cộng quân có thể tấn công trong đêm. Một quân lệnh khác cũng từ BTTM ra lệnh cho sư đoàn 1 Không Quân di tản phi cơ của họ về Phù Cát hay Phan Rang. Nhận được tin, quân đoàn I ra lệnh ứng chiến ở mọi tuyến phòng thủ. Hai giờ trưa hôm đó, các xã ấp chung quanh thành phố đã nằm trong tay cộng sản. Lực lượng Nghĩa Quân và Địa Phương Quân của tỉnh Quảng Nam đã tan rã. Đọan đường giữa Hội An và Đà Nẵng hoàn toàn bị cô lập. Những trung tâm dự trữ nhiên liệu và đạn bị bỏ ngỏ vì các quân nhân đã rời đơn vị. Tại các căn cứ và bộ chỉ huy quan trọng, chỉ còn sĩ quan tham mưu mà không còn quân tác chiến phòng thủ.
Cộng quân pháo kích vào phi trường và căn cứ hải quân khi trời sụp tối. Bộ tư lệnh quân đoàn và căn cứ quân sự cũng bị pháo. Nhờ vào những toán đặc công và tiền pháo viên của cộng sản đã đột nhập vào thành phố để hướng dẫn, pháo binh địch bắn rất mãnh liệt và chính xác. Hướng súng của địch đến từ thung lũng Voi. Hai pháo đội 175 ly của ta lập tức phản pháo dưới sự hướng dẫn của phi cơ quan sát. Nhưng pháo của chúng ta không đủ hỏa lực để áp đảo địch. Địch pháo cho đến khi phòng tuyến quân ta sụp đổ.
Tướng Trưởng lập tức báo cáo cho tác giả biết tình hình đang xảy ra. Ông cũng gọi cho tổng thống Thiệu xin di tản bằng đường biển. Nhưng trong cuộc điện đàm, tổng thống Thiệu không cho tướng Trưởng lệnh rõ ràng. Tổng thống Thiệu không nói thẳng là ông muốn tướng Trưởng rút quân hay nằm lại tử thủ. Ông chỉ hỏi tướng Trưởng có thể di tản bao nhiêu quân về nơi an toàn được trong trường hợp phải di tản. Có thể ông ta lo lắng về các sự việc đã xảy ra. Cuộc tái phối trí này có thể trở thành một thảm kịch như đã diễn ra ở Cao Nguyên. Ông ta muốn tránh cho mình nỗi đau khổ khi phải ra lệnh như vậy một lần nữa.
Sau cuộc điện đàm, mọi liên lạc giữa Saigon và Quân đoàn I bị cắt đứt vì pháo kích của địch. Tướng Trưởng lập tức ra lệnh triệt thoái quân khỏi Đà Nẵng khi thấy tình hình không còn hy vọng. Tướng Trưởng họp với đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, tư lệnh hải quân Vùng I, và các chỉ huy trưởng để hẹn địa điểm rút quân. Ba địa điểm tập hợp để xuống tàu là dưới chân Đèo Hải Vân, Núi Non Nước, và cửa khẩu Hội An.
Rạng sáng ngày 29, sương mù bao phủ dọc theo bờ biển, ngoài khơi tàu hải quân có mặt ở điểm hẹn. Nhưng thủy triều thấp nên tàu không đi vào gần bờ được. Binh lính phải lội ra để lên tàu. Cuộc di tản không gặp trở ngại cho đến khi cộng quân thấy được quân ta đang rút lui và bắn vào điểm tụ quân trên bờ biển và vào tàu đang đậu ngoài khơi. Lính chết vì đạn và chìm ngoài biển rất nhiều. Đoàn tàu di tản được 6000 binh sĩ TQLC, 3000 lính sư đoàn 3, và nhiều đơn vị khác.
Vấn Đề Dân Tị Nạn
Một trong những khó khăn quân đoàn I không giải quyết được là nạn dân tị nạn chiến tranh. Ở Vùng I dân chạy nạn khỏi vùng giao tranh không phải là một vấn đề mới. Mỗi lần giao tranh lớn là có dân tị nạn và dân chúng Vùng I đã kinh nghiệm chuyện đó nhiều lần trong cuộc chiến Việt Nam. Trận Mậu Thân năm 1968; trận tổng tấn công của cộng sản năm 1972; và những lần giao tranh khác. Người dân Vùng I không bao giờ quên những ác mộng hãi hùng đó. Thân phận của người dân miền Trung như bị đày phải sống trong lo sợ và phải chạy trốn cuộc chiến thường xuyên trong cuộc sống. Trước khi cộng quân mở cuộc tấn công thật sự, người dân đã đoán được cường độ mãnh liệt của trận chiến sắp đến, và họ đã chuẩn bị để gồng gánh di tản.
Từ sau hiệp định ngưng bắn năm 1973, dân chúng ở Vùng I và những tỉnh ở phía bắc Vùng II sống liên tục trong sự lo âu. Họ lo sợ vùng đất họ đang ở sẽ bị cắt cho cộng sản. Nếu không liên hiệp với cộng sản như tổng thống Thiệu đã khẳng định, thì nhường một phần đất có thể là một giải pháp cho cuộc chiến. Tin đồn về chia đất được loan truyền và phóng đại. Ban đầu là tin đồn chia đất theo đường dọc, rồi theo đường ngang ở vĩ tuyến 16. Sau khi Phước Long mất, sau đó là Ban Mê Thuột, và khi thấy chính phủ VNCH không còn hy vọng nào lấy lại những phần đất đã mất, mọi người tin chắc không sớm thì muộn VNCH sẽ nhượng đất cho cộng sản. Rồi Pleiku và Kontum di tản với không một lời giải thích từ chính phủ ngay cả cho dân chúng ở vùng đó biết. Cuộc di tản từ vùng cao nguyên vẫn đang xảy ra khi cộng sản tràn qua sông Thạch Hãn chiếm Quảng Trị vào ngày 19 tháng 3. Một lần nữa chính phủ vẫn không tuyên bố hay đề cập gì đến chuyện này. Không còn nghi ngờ gì nữa người dân suy luận đây là sự dàn xếp của chính phủ; lời đồn rất có thể đúng; chia cắt đất có thể là một thực tế.
Thêm vào những sự kiện trên, sư đoàn Nhảy Dù được điều động khỏi Vùng I. Đối với người dân Vùng I, sư đoàn Nhảy Dù là đơn vị duy nhất đem lại lòng tin của người dân. Người dân sẽ được bảo vệ khi họ có mặt ở đó; họ là niềm tin của người dân vào chính phủ. Khi người dân tự hỏi, chính phủ có ý định gì khi di chuyển sư đoàn Dù đi khỏi Vùng I" Câu trả lời họ có thể tìm được là chính phủ không còn ý định giữ phần đất này nữa. Không còn sư đoàn Dù thì làm sao giữ được lãnh thổ này. Không có lính Dù thì cuộc tái chiếm Quảng Trị năm 1972 khó thành, và không có họ thì cộng sản đã tấn công Đà Nẵng sau khi chiếm Thường Đức vào năm 1974.(4)
Người dân chuẩn bị đi không ngần ngại. Ban đầu chỉ một thiểu số nhỏ gồm những người có tiền mua được vé máy bay. Lần lần số người bỏ đi đông hơn. Khi tin Pleiku và Kontum mất được loan truyền đến tai dân Vùng I, mọi người lủ lượt ra đi. Hàng chục ngàn quân nhân, công chức, dân, tìm cách về Đà Nẵng, rồi từ đó về Saigon nếu có phương tiện. Với tin đồn chính phủ sẽ chia Vùng I cho CS như đã làm ở Pleiku và Kontum, luồng sóng di tản dâng cao hơn. Khi thủ tướng Khiêm và các viên chức chính phủ bay ra Đà Nẵng duyệt xét tình hình để giải quyết, thì Đà Nẵng đã có hơn nửa triệu dân tị nạn.
Tướng Trưởng nhiều lần nhắc nhở và khẩn cầu thủ tướng Khiêm giải quyết vấn đề dân tị nạn lập tức. Vấn đề dân tản cư từ những vùng giao tranh đã trở thành một vấn nạn quốc gia, và Vùng I không đủ phương tiện hay nhân lực để giải quyết. Sự có mặt của thủ tướng Khiêm ở Đà Nẵng là một chuyện cần thiết.
Trước khi chủ tọa cuộc họp giải quyết vấn đề tị nạn, thủ tướng Khiêm có nói chuyện riêng với tướng Trưởng về tình hình quân sự và kế hoạch triệt thoái. Tướng Trưởng nhấn mạnh về sự giao động của người dân. Thủ tướng Khiêm giật mình khi nghe những gì tướng Trưởng trình bày. Ông không ngờ tình hình thay đổi nhanh như vậy. Thủ tướng Khiêm nói với tướng Trưởng nên trình bày kế hoạch triệt thoái của ông cho tổng thống Thiệu phê chuẩn trước khi thực hiện.
Buổi họp có đủ mặt hội đồng nhân sĩ, tỉnh, thị trưởng, cũng như các cấp chỉ huy liên quan đến vấn đề tị nạn. Lần lượt, tỉnh trưởng Quảng Trị và thị trưởng Đà Nẵng trình bày khó khăn đang đối diện, và đưa ra những đề nghị giải quyết. Vài giải pháp được ra đưa ra như: (1) Trừng trị thẳng tay những công chức bỏ nhiệm sở khi chưa được lệnh. (2) Chính phủ phải tuyên bố trước công chúng về tình hình thực sự đang xảy ra và phủ nhận những tin đồn thất thiệt. (3) Cho phép di tản thường dân, thân nhân binh sĩ, công chức, để những quân cán đang đảm trách nhiệm vụ phòng thủ bớt lo lắng quan tâm.
Ngồi chung với thủ tướng Khiêm là các thứ bộ trưởng của nội các. Họ là đại diện của thẩm quyền trung ương. Họ quan tâm tới vấn đề của người tị nạn, nhưng họ không giúp đỡ gì được. Họ chỉ có thể cho phép cấp chỉ huy địa phương nhiều thẩm quyền hơn để giải quyết tại chỗ những khó khăn đang xảy ra. Để kết luận, thủ tướng Khiêm quyết định thành lập một Ủy Ban Liên Bộ phụ trách về vấn đề tị nạn, do một phó thủ tướng cầm đầu. Ủy Ban này sẽ lấy đi gánh nặng cho Vùng I, để họ có thể chú tâm về vấn đề quân sự. Đồng thời thủ tướng Khiêm hứa sẽ trưng dụng thêm nhiều tàu của tư nhân để gia tăng các chuyến di tản. Buổi họp chấm dứt trong một bầu không khí hoang mang. Thủ tướng Khiêm và nội các trở lại Saigon ngay sau buổi họp.
Một tuần sau, những hứa hẹn của thủ tướng Khiêm được thể hiện qua một đại tá và một đại úy đến từ Bộ Xã Hội, với ngân phiếu yểm trợ tài chánh cho Đà Nẵng. Bây giờ dân tị nạn nguyên Vùng I tập trung tại ba cứ điểm Chu Lai, Đà Nẵng và Huế. So với sự giúp đỡ từ chánh quyền trung ương, phong trào cứu trợ tổ chức tại địa phương mang lại nhiều hiệu quả hơn. Tại thị xã Đà Nẵng một số hội đoàn từ thiện, nhân sĩ và phú gia đóng góp nhiều vào những hoạt động gây quỹ cứu trợ dân tị nạn. Tuy nhiên những giúp đỡ địa phương này chỉ có giới hạn, vấn đề tị nạn ở Vùng I đã vượt ra ngoài khả năng của một nhóm người hay đoàn thể tư nhân.
Dân và gia đình binh sĩ ở Huế bắt đầu rời thành phố vào ngày 17 tháng 3. Quốc lộ 1 về Đà Nẵng tràn ngập người và xe. Một số dân tị nạn tìm cách đi bằng đường biển. Họ đổ về bến tàu Tân Mỹ, nơi các tàu hải quân đang bốc dỡ quân nhu quân dụng tiếp tế cho chiến trường Quảng Trị-Huế. Trên đường về họ phải di tản chiến cụ về Đà Nẵng. Hoạt động của bến tàu bị gián đoạn hai ngày vì sự cản trở của số người tị nạn. Một vài giang đỉnh đang chờ cập bến để bốc hàng lên, bị dân, lính tràn xuống ép phải chở họ rời bến. Giới chức phụ trách bến tàu phải bỏ ra một ngày để thuyết phục dân tị nạn rời Tân Mỹ và đi về bãi biển Thái Dương Thượng, hy vọng tìm được tàu để ra đi.
Ngày 21 tháng 3 hai sư đoàn cộng sản cắt đứt quốc lộ 1 con đường duy nhất dẫn về Đà Nẵng. Đoàn người tị nạn rời đưòng lộ, theo hướng Phá Cầu Hai để đi về miệt biển.
Tất cả tàu bè miền duyên hải hoặc bị cướp, hoặc được mướn để xử dụng vào việc chạy nạn. Nhưng thuyền bè không đủ cho số người tị nạn quá đông. Vì tàu hải quân đang được trưng dụng vào công tác tiếp viện cho chiến trường Qui Nhơn Ban Mê Thuột, BTTM thương lượng mướn thương thuyền Trường Thanh, có trọng tải 2000 tấn, để chở người tị nạn. Đây là thương thuyền duy nhất quân đội có thể tìm mướn được. Ngày 23, mặc dù sóng to, tàu Trường Thanh cập bến, và trong hai ngày tiếp nhận hơn 5000 người, trong đó có nhiều thân nhân, gia đình, của sư đoàn 1 BB. Chuyến tàu chở dân tị nạn rời Huế về Đà Nẵng vào ngày 25. Đà Nẵng lúc đó tương đối an ninh, nhưng thành phố đã chật ních dân tị nạn.
Huế bị bỏ ngỏ vào đêm 25 tháng 3. Dân quân rút theo bờ biển về Đà Nẵng. Tam Kỳ mất ngày 24, Chu Lai di tản ngày 26. Dân ở hai tỉnh Quảng Ngãi và Quảng Tín chạy về Đà Nẵng.
Ngày 26 tướng Trưởng gởi thiếu tướng Huỳnh Văn Lạc, tư lệnh phó lãnh thổ Vùng I, về Saigon trình cho tổng thống Thiệu, thủ tướng Khiêm, và tác giả về những khó khăn Vùng I đang đối diện. Tướng Lạc xin chánh phủ giải quyết ngay vấn đề tị nạn, đưa bớt dân ra khỏi Đà Nẵng vì thành phố sắp rơi vào tình trạng hỗn loạn không kềm chế được. Nếu tình trạng dân tị nạn không giải quyết được thì Đà Nẵng sẽ tự sụp đổ, không cần cộng sản tấn công.
Đà Nẵng đã trở thành một thành phố vô trật tự và rối loạn. Kẻ đến thì tìm nơi nương tựa; người đang ở đó thì tìm cách trốn đi. Lưu thông trong thành phố bị ứ đọng đến độ không thể di tản 340 thương binh từ bệnh viện ra phi trường. Trung tướng Lê Nguyên Khang, tổng tham mưu phó BTTM, tường trình về tình hình Đà Nẵng sau một chuyến công vụ ở đó: "Đà Nẵng có hơn một triệu rưỡi dân tị nạn. Họ chiếm các công thự, cao ốc của chính phủ để làm nơi nương thân; họ ngủ ở ngoài đường, ở bến tàu hay bất cứ chổ nào có thể tạm trú qua ngày. Trong thành phố những cảnh nhiễu nhương, cướp bóc, giết người xảy ra giữa ban ngày. Người di tản trên đường nhiều đến độ xe tăng muốn di chuyển thì chỉ còn cách cán vào đám đông để đi."
Ngày 27 tháng 3 có chuyến phi cơ dân sự đầu tiên mướn của Hoa Kỳ đáp xuống Đà Nẵng. Chính phủ định dùng phi cơ Mỹ để di tản khoảng 14 ngàn dân từ Đà Nẵng về Cam Ranh. Nhưng tin có máy bay Mỹ di tản chẳng mấy chốc lan truyền ra. Dân di tản trong đó có thành phần đào ngũ phá rào phi trường và tràn vào phi đạo tìm cách leo lên phi cơ. Lực lượng an ninh phi trường phải bỏ ra nửa ngày để giải tán đám đông ở phi đạo. Nhưng hỗn loạn lại tái diễn mỗi khi có chuyến bay đáp xuống. Sau cùng các chuyến bay dân sự bị đình chỉ vì sự mất trật tự đã trở thành nguy hiểm cho sự an toàn của phi cơ. Sau cùng, giới chức hữu trách thay các phi cơ dân sự bằng bốn phi cơ quân sự C-130. Nhưng trước những hỗn loạn liên tục, bốn chiếc này cũng chỉ cất cánh được một lần vào ngày 29 tháng 3.
Tình trạng ở các bến tàu cũng không kém hỗn loạn. Một số thuyền chuyên chở Hoa Kỳ được dùng di chyển dân tị nạn. Vì tình trạng an ninh của bến tàu, họ được lệnh thả neo ngoài khơi cảng Đà Nẵng. Từ đó dân dùng thuyền, bè, đi từ bờ biển ra tàu. Lối di chuyển này chậm nhưng có kết quả tốt. Mỗi tàu sau khi nhận được chừng 10 ngàn người thì kéo neo chở dân về Canh Ranh. Tuy nhiên sau khi Nha Trang thất thủ ngày 1 tháng 4, tàu được lệnh đi thẳng về Vũng Tàu và Phú Quốc. Trên đoạn đường dài di tản bằng tàu, nhiều cảnh đau thương xảy ra: một số quân nhân vô kỷ luật, và cộng sản trà trộn vào số dân tị nạn, hà hiếp và cướp giựt những người tị nạn. Rất nhiều người xỉu và kiệt lực trên quảng đường biển đó. Khi đến cập bến Phú Quốc, do sự chỉ điểm của những nạn nhân trên tàu, chính quyền an ninh địa phương bắt và xử bắn tại ngay bờ biển những tên cộng sản trá hình và một số quân nhân vô kỷ luật đã hà hiếp và cướp bóc người dân trên tàu.
Cộng sản pháo kích và tấn công Đà Nẵng mạnh vào đêm 28, và dân chúng tiếp tục tìm đường lánh nạn bằng thuyền bè, dưới những trận pháo kích của cộng sản. Nhiều người chết chìm khi lội từ bờ ra tàu đang có mặt ngoài khơi. Những kẻ may mắn thì được tàu cứu vớt; kẻ xấu số thì chìm xuống lòng biển. Trưa ngày 29, nhờ vào sự liều lĩnh và may mắn, một phi cơ dân sự Hoa Kỳ đột ngột đáp xuống phi trường Đà Nẵng, rước đi được hơn 300 dân trước sự ngỡ ngàng của cộng quân đang có mặt tại phi trường. Đà Nẵng bây giờ đã nằm trong tay cộng sản. Mọi kế hoạch di tản dân tị nạn đã chấm dứt sau ngày hôm đó. Tuy nhiên người dân vẫn tiếp tục tìm mọi cách chạy trốn cộng sản vào những ngày sau.
Trước khi Đà Nẵng rơi vào tay cộng sản, vấn đề di tản một triệu dân do chính quyền và cơ quan địa phương giải quyết. Khi thuận tiện, chính quyền dùng tàu hải quân phụ vào việc chuyên chở dân tị nạn khi có thể. Trong buổi họp ngày 19 tháng 3, BTTM thông báo cho Ủy Ban Trung Ương Cứu Trợ và Định Cư, là với những biến chuyển quân sự đang xảy ra, quân đội không còn khả năng giúp tàu hải quân để di tản người tị nạn. BTTM đề nghị với phó thủ tướng Phan Quang Đán nên, (1) lập tức trưng dụng 13 thương thuyền dân sự trong nước; (2) kêu gọi các quốc gia đồng minh, nhất là Hoa Kỳ, giúp di chuyển dân tị nạn ra khỏi vùng nguy hại; và, (3) lập ra ủy ban chính phủ để trưng dụng điều khiển các hoạt động nói trên nếu thành hình.
Đề nghị của BTTM được phó thủ tướng Đán chấp thuận, ông ra lệnh Bộ Công Chánh trưng dụng tất cả thuyền hàng hải đang có mặt trong nước; và các thương thuyền đang hoạt động ngoài hải phận thì được gọi về dựa vào hoàn cảnh đòi hỏi của chính phủ. Nhưng cho rằng lệnh trưng dụng trên quá quan trọng và ngoài thẩm quyền của mình, ông bộ trưởng bộ Công Chánh đã đệ trình cho bác sĩ Đán ký dù ông có toàn quyền quyết định. Trong thời gian đó phó thủ tướng Đán đang đi công vụ ở Vùng II, tìm một địa điểm để thiết lập trại tỵ nạn. Một tuần trôi qua trước khi lệnh trương dụng được thực thi. BTTM, trong lúc đó, với tình hình khẩn trương, xin sự ưng thuận của chủ tàu Trường Thành dùng để di tản thân nhân, gia đình sư đoàn 1 BB vào ngày 23 tháng 3. Đây là chiếc tàu duy nhất trong nước dùng vào nhiệm vụ di tản người từ Vùng I.
Cũng trong thời gian này các quốc gia đồng minh hưởng ứng lời kêu gọi giúp đỡ của VNCH. Hoa Kỳ đồng ý cung cấp phi cơ dân sự và thương thuyền chuyên chở. Úc Đại Lợi hứa cung cấp một phi đoàn vận tải cơ C-130. Đài Loan và Thái Lan ưng thuận cung cấp tàu đổ bộ, vận tải. Tuy nhiên, những phương tiện vận tải hứa hẹn cần một tuần đến mười ngày mới có mặt ở Việt Nam. Nếu những phương tiện này được cung ứng trước ngày 18 tháng 3, và nếu chúng ta có được sáu chiếc vận tải hạm BTTM yêu cầu được cung cấp từ sáu tháng trước, thì cuộc di tản đã được thực hiện một cách trật tự và hữu hiệu hơn. Nhưng như chuyện đã xảy ra, với con số dân tị nạn quá đông và tinh thần mọi người hoang mang, cuộc di tản không thực hiện được như ý muốn.  (Còn tiếp...)
Chú thích:
4. Phải nói thêm, ngoài sư đoàn Nhảy Dù, các đơn vị thiện chiến khác của QLVNCH còn có sư đoàn TQLC (Hai đơn vị này là đơn vị tổng trừ bị đồn trú tại Saigon và các vùng phụ cận. Hai đơn vị được tăng phái đi hành quân khắp chiến trường Việt Nam tùy theo tình hình quân sự đòi hỏi.), các liên đoàn BĐQ, Biệt Kích Nhảy Dù, Lực Lượng Đặc Biệt, và một số đơn vị Bộ Binh khác. Năm 1972 sư đoàn Nhảy Dù và TQLC được xử dụng hành quân trong tỉnh Quảng Trị. Với sự yểm trợ dồi dào và hữu hiệu của pháo binh và hải pháo của các hạm đội Hoa Kỳ ngoài khơi, sư đoàn TQLC đã thành công tái chiếm cổ thành (chú thích của tác giả). 

Nguyễn Kỳ Phong

No comments: