Saturday, April 5, 2014

Tháng Ba gãy súng. Tháng Tư tan hàng

 

Huy Phương – Tháng Ba đã qua, Tháng Tư đã đến, liệu chúng ta có còn nhớ gì không? Những hàng dương tên bờ biển Thuận An và Tư Hiền đã xanh mướt qua mấy mùa mưa gió, rừng núi cao nguyên trên đường lộ 7B đã đâm lộc nẩy chồi bao bận.
Cuộc chiến cũng như người chết đã bị quên lãng. Những ai đã trải qua thời gian tù đày khắc nghiệt còn nhớ gì những ngày lội suối băng rừng, thân còm, bụng lép. Những ai đã đến được bến bờ qua những ngày lênh đênh trên biển cả, còn nhớ gì những nỗi hãi hùng, đau đớn tủi nhục mà tiếng kêu gào oan khiên không đến được trời xanh.
“Tháng Ba Gãy Súng” làm cho chúng ta có một chút gì nhớ đến Cao Xuân Huy, người lính Thủy Quân Lục Chiến đã vứt súng trên biển Thuận An, trong đoàn quân lui binh hỗn loạn, không được yểm trợ phi pháo, trước mặt là biển cả muôn trùng, sau lưng là giặc đuổi cận kề, mà không hề có tàu thuyền nào vào ghé bến. Những người lính dũng cảm mới hôm qua đây, phút chốc đã trở thành những mục tiêu cho những du kích bắn sẻ và những tên tiền sát viên địch điều chỉnh pháo binh, điều mà một người lính TQLC khác là Tô Văn Cấp đã đau đớn đặt tên cho chốn lui quân, nơi tuyệt lộ này là “pháp trường cát”, nơi chiến trường phơi thây bao chiến sĩ của chúng ta.
Tháng Ba gãy súng làm cho chúng ta nhớ lại đoạn đường xương máu kinh hoàng từ Phú Bổn về duyên hải trong những ngày bỏ cao nguyên, làm tan rã một quân đoàn. Một cuộc rút quân không kế hoạch, không có cấp chỉ huy, không có quân bạn yểm trợ, đem con bỏ chợ, hỗn loạn và chết chóc khốn cùng. Người lính lâu nay ở với xóm làng, rừng núi, khuya sớm đùm bọc nhau, ngày nay một người lính lên xe ra đi, năm người dân bồng bế dắt díu nhau chạy theo. Nỗi đau của người lính hôm nay là không bảo vệ được người dân, vì vận nước, ngay người lính có súng mà phải vứt súng, có đất mà phải bỏ đất.
Tháng Tư tan hàng, người lính bị trói tay, người lính bị phản bội, người lính ở lại sau cùng để cho những chuyến tàu chở người ra đi, để cho những chuyến phi cơ rời phi đạo đi về một chân trời hy vọng tự do, bỏ lại quê hương tù đày. Bao nhiêu thảm cảnh đã xảy ra cho miền Nam sau ngày “tan hàng” hay “mất nước”, danh từ sử dụng tùy theo sự suy nghĩ, nỗi mất mát và tâm trạng của mỗi người.
Cướp của tức khắc đi theo với hành động cướp quyền. Lấy danh nghĩa cải tạo xã hội, chiến dịch đánh tư sản mại bản thực chất là một vụ cướp bóc quy mô, đánh vào những gia đình giàu có mang tiếng tư bản, nhưng chính là do công lao mồ hôi, nước mắt, cần cù mà miền Nam có được. Chiến lợi phẩm này được chở về hang ổ miền Bắc, làm giàu cho những kẻ cầm quyền.
Ðánh tư sản, dồn dân đi kinh tế mới, lấy nhà, cướp đất, đổi tiền, tập trung những người có liên hệ với chính phủ miền Nam vào trại “cải tạo”, đốt sách, bỏ tù văn nghệ sĩ, đuổi 850,000 Hoa kiều về nước hay ra biển để gần lại với Liên Xô, xếp hạng dân theo lý lịch chính trị, kiểm soát đời sống và tư tưởng của quần chúng theo chế độ công an trị, với mô hình “công an khu vực”, “công an khu phố” là những gì chế độ Cộng Sản Việt Nam đem lại cho dân chúng miền Nam. Cả nước là phiên bản của miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa, vùng mệnh danh “giải phóng” là một nhà tù lớn, buổi sáng có tiếng loa phóng thanh thức giấc mọi người đầu xóm, tai mắt công an khắp nơi, dân chúng phải tham gia lao động xã hội chủ nghĩa, thắt chặt bao tử, nắm sinh tử của mỗi gia đình bằng chế độ tem phiếu.
“Chính đảng Cộng Sản đã tước đoạt của nhân dân các quyền tự do mà nhân dân đã từng trả giá quá đắt. Dân chủ tự do bị chà đạp, vũ khí tự vệ bị tước đoạt thì nhân dân giống như những người bị xiềng xích, bị bịt tai, bịt mắt, khép miệng và tất nhiên ngót 80 triệu đồng bào không thể không biến thành tù binh của đảng Cộng Sản Việt Nam” (bản điều trần của Nguyễn Hộ).
Nhân dân miền Nam, kể cả những nhân vật có ảo tưởng với Cộng Sản đã hoàn toàn thất vọng với chính sách chủ trương của nhà nước mới, thể hiện một chế độ độc tài toàn trị, băng đảng. Chế độ này đã đuổi hằng triệu người ra biển, suốt từ những ngày đầu tháng 5 năm 1975 cho đến thời gian các trại tiếp nhận ở Ðông Nam Á đóng cửa, kể cả tổ chức “bán chính thức” đưa người ra khơi để kinh tài. Không một gia đình miền Nam nào không có thân nhân, bà con ruột thịt bỏ xác trên biển Ðông, mà oan khiên dậy đất trời. Khi người dân chán chế độ không còn có thể ra đi bằng con đường “bất hợp pháp” thì người ta bỏ nước ra đi bằng những con đường hợp pháp được nhà nước chấp thuận và khuyến khích như phụ nữ thì đi lấy chồng Ðài Loan, Ðại Hàn, Trung Cộng; đi ở đợ ở Ả Rập, Thổ Nhĩ Kỳ; đàn ông thì đi làm thuê ở Trung Ðông, Nam Dương, Singapore… Chúng ta giải thích thế nào về một mảnh đất quê hương không giữ được chân người.
Tháng Tư miền Nam tan hàng phải chăng để cho Cộng Sản thống nhất đất nước và làm một cuộc cách mạng? Cách mạng là một cuộc đập phá cái cũ để xây dựng cái mới, hoàn hảo, tốt đẹp hơn, cách mạng không phải là để phá cái tốt đi và làm cho xã hội tồi tệ hơn. Ðạo đức suy đồi, nhân tâm ly tán, nhân phẩm phụ nữ trong xã hội Việt Nam ngày nay xuống thấp chưa từng thấy. Chế độ công an trị, dùng công an như là một dụng cụ bạo lực để trấn áp nhân dân. Sự tàn ác của lực lượng này được thể hiện qua những chuyện xẩy ra hằng ngày ngay giữa thời đại văn minh tiến bộ này. Chỉ vì những lỗi nhỏ, không đáng nhận một món tiền phạt đáng giá một bữa cơm, công an côn đồ có thể đánh bể đầu, gãy cổ, giết chết người vi phạm, tàn nhẫn đạp vào mặt dân, tệ hại hơn hành động của thời Pháp thuộc, qua hình ảnh những người lính đánh thuê Phi Châu “rạch mặt” hay lính “partisan” ngày trước.
Nhiều người đã nhìn bức tranh xã hội Việt Nam dưới thời Cộng Sản ngày nay qua cái nhìn “tốt đẹp”, trong đó ai cũng thỏa mãn theo cách riêng của mình, giàu sang thì hưởng thụ theo cách giàu sang, nghèo hèn thì cũng ăn nhậu, tiêu xài theo cách riêng của mình. Sư, Cố thỏa mãn trong khuôn viên chùa hay nhà thờ của mình, tôn giáo thời nay quả là thuốc phiện không sai. Thanh niên, sinh viên lo chạy theo cái ăn cái mặc, vật chất xói mòn lý tưởng . Nỗi sợ hãi bao nhiêu năm qua đã nhiễm vào máu huyết, xin đừng đụng đến tôi, tôi cũng không muốn đụng đến ai. Ðừng nghe, đừng nói, đừng nhìn để sống còn, muốn sống phải biết sợ.
Tôi thật không đủ lạc quan để hy vọng, khi mà trước bất công, đàn áp, con người ta chỉ biết cúi đầu… cầu nguyện, không dám hợp đồng mà chỉ lâm râm cầu nguyện vừa đủ cho mình nghe.
Ðó là những gì tôi nghĩ về những di lụy của một Tháng Ba gãy súng, tiếp theo một Tháng Tư tan hàng và về đất nước hôm nay.
Huy Phương

No comments: