Đêm đêm mẹ đốt cây hương ngát / Mẹ khấn đôi lời con có nghe / Vì nước bỏ mình là bất tử / Xưa nay chinh chiến mấy ai về.
Saturday, April 13, 2019
Thursday, April 11, 2019
CÁI CHẾT CỦA MỘT NGƯỜI VIỆT TÊN NAM.
Đọc bài này mà chảy nước mắt.
Tôi được dịp đi miền Tây trong phái đoàn của ông Thứ Trưởng Nội Vụ Lê
Công Chất, được gặp tướng Nguyễn Khoa Nam trong dịp đó. Dưới 10 người
ngồi chung một cái bàn gỗ nơi một quận nhỏ vùng quê tỉnh Phong Dinh với
bữa ăn trưa có thịt rùa.
Hình ảnh tướng Nam với bộ quân phục và nón sắt vẫn còn rõ trong ký ức, dù là tướng, với khuôn mặt cương nghị, nhưng ăn nói nhỏ nhẹ, đáng yêu mến và ngưỡng phục. Buồn ! Cảm ơn những người đã luân phiên post lại bài viết này.
Tường Giang
***
*** ***
Tôi bắt đầu tháng 4 năm nay, khuya 31/3 - 1/4, bằng giấc ngủ chập chờn. Suốt đêm là như thế ! Lãng vãng trong đầu là khuôn mặt một người đàn ông với hai hàng nước mắt !
Người đàn ông đó là thiếu tướng Nguyễn khoa Nam!
Những ngày này, 44 năm xưa, trong khi phân nửa lãnh thổ "di tản", chiến trường vùng 3 đang sôi động thì "Quân đoàn – Quân khu 4 chưa mất một tấc đất, quân số và vũ khí vẫn còn nguyên vẹn. Chúng ta cứ bình tĩnh chiến đấu, không phải chạy đi đâu cả", đó là những tuyên bố, nhắc nhở của tướng Nam trong các buổi họp tham mưu.
Hai tháng cuối cùng của VNCH, biết bao nhiêu là hình ảnh tang thương, uất hận đã làm ứa máu trái tim, đứt đoạn lòng người, qua những bài viết, lời kể của các chứng nhân: những người lính, người dân có cơ may rời nước đến được bến “tự do”, những người trở về từ trại tập trung, trở về từ cõi chết ... vv Tôi đã thấy, như trước mắt, diễn tiến các cuộc tự sát tập thể của lính mũ xanh, mũ đỏ hay những giây phút cuối cùng của quân nhân các cấp, các binh chủng trên đường lui quân, trong ngày mất nước...
Đó là những hình ảnh làm nước sôi, đá mềm, ngạ quỷ còn phải nhắm mắt, Chúa Phật còn phải thở dài.
Nhưng không biết sao, cái hình ảnh luôn đi về trong tôi, từ gần 20 năm nay, lại là những giọt nước mắt âm thầm của tướng Nguyễn Khoa Nam, trong chiều 30/4 và sáng 1/5, vài mươi phút, trước khi tự sát !
Trung úy Lê Ngọc Danh, tùy viên tướng Nam, thuật lại trong quyển “Nguyễn Khoa Nam" (Hội phát huy văn hóa Việt Nam, 2001).
Chiều 30/4/1975 ( bắt đầu từ 18h30 )
“….. Tư Lệnh đi từ đầu phòng đến cuối phòng hỏi thăm từng bệnh nhân, rồi Tư Lệnh đi qua dãy kế bên và tiếp tục hơn một giờ thăm viếng thương, bệnh binh buồn tẻ và nặng nề. Gần giường một thương binh, anh cụt hai chân, vải băng trắng xóa, máu còn rịn ra lốm đốm đỏ cuối phần chân đã mất. Tư Lệnh đứng sát bên và hỏi:
– Vết thương của em đã lành chưa?
– Thưa Thiếu Tướng, vết thương mới mấy ngày còn ra máu, chưa lành.
Với nét mặt buồn buồn, Tư Lệnh nhíu mày lại làm cặp mắt kiếng đen lay động. Tư Lệnh chưa kịp nói thêm thì anh thương binh này bất chợt chụp tay Tư Lệnh mếu máo:
– Thiếu Tướng đừng bỏ tụi em nhé Thiếu Tướng.
– Qua không bỏ các em đâu. Qua ở lại với các em.
Qua ánh đèn của bệnh viện, tôi thấy Tư Lệnh đưa ta nâng sửa cặp kính đen và hai giọt nước mắt từ từ chảy lăn dài trên khuôn mặt đau thương của ông. Tư Lệnh cố nén xúc động, nhưng người đã khóc, khóc không thành tiếng và những giọt nước mắt tự nhiên tuôn trào. Tư Lệnh vịn vai người thương binh nói trong nghẹn ngào:
– Em cố gắng điều trị… có qua ở đây ….”
Sáng 1/5/1975 ( khoảng 30 phút trước khi tướng Nam tự sát )
“ … Tư Lệnh chầm chậm bước theo nấc thang lên tầng trên, tôi và anh Việt nối bước theo sau. Tư Lệnh ra sân thượng, đứng sát bên lan can, mắt nhìn ra Đại Lộ Hòa Bình trước cửa cửa dinh, tôi đứng bên phải Tư Lệnh, anh Việt ( *) đứng bên trái. Trên lộ, chỉ có vài chiếc xe qua lại, người thưa thớt, khung cảnh vắng vẻ như chiều 30 Tết. Bất chợt, Thiếu Tướng bật khóc. Tư Lệnh cố nén không khóc thành tiếng, nhưng những giọt nước mắt tuôn trào chảy dài trên khuôn mặt đau buồn vì nước mất nhà tan. Tôi cũng khóc theo, anh Việt cũng vậy. Ba người đứng trên sân thượng trước mặt tiền dinh, mặc cho nước mắt tự do tuôn chảy...".
(*) Trung úy Việt : sĩ quan liên lạc
Tối 30/4 , sau lệnh đầu hàng, trong khi nhiều “đại bàng" tìm cách thoát thân, thì tướng Nam là vị chỉ huy quân sự có cấp bậc cao nhất, có lực lượng hùng hậu nhất, (hơn cả quyền Tổng tham mưu trưởng QLVNCH: Chuẩn tướng nằm vùng Nguyễn Hữu (vô ?) Hạnh), lại bỏ ngày giờ đi thăm hết các thương binh, thể hiện tình “huynh đệ chi binh", như môt câu trong bài hát của ns Anh Bằng: “… Sống chết có nhau là / huynh đệ chi binh " !
Nói với người thương binh cụt hai chân: “Qua không bỏ các em đâu. Qua ở lại với các em". Ông Nam nói và ông Nam làm: ông đã ở lại, vĩnh viễn ở lại, “Người ở lại Tây Đô" không chỉ ở lại với Cần Thơ, với “các em" thương binh trong quân y viện Phan thanh Giản, mà còn ở lại trong lòng người dân Việt Nam Cộng Hòa. Mà không chỉ với người Cộng Hòa, theo như lời kể (2014) của "cựu" tù nhân CS, luật sư Lê Công Định.
“Vào ngày 1/5/1980, sau bữa ăn trưa, ba tôi ngồi uống trà và trò chuyện với các anh em chúng tôi về những ngày tháng Tư của 5 năm về trước. Ba tôi, người thuộc bên thắng cuộc phía miền Nam, đã tham gia chiến tranh vì mơ ước hòa bình và, cũng như nhiều người đương thời, ông đã vỡ mộng vài năm sau khi cuộc chiến kết thúc. Ông kể với lòng kính phục về Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh Quân đoàn 4 của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), vị danh tướng đã tuẫn tiết sau khi Sài Gòn thất thủ".
Ông Định viết thêm:
"Trở lại câu chuyện ban đầu, hình ảnh về tướng Nguyễn Khoa Nam do ba tôi kể lại đã khiến tôi lao vào tìm hiểu nhiều hơn về các vị danh tướng VNCH khác, mà thật lòng tôi rất kính trọng, giống ba tôi. Đọc quyển sách “Chân dung các tướng ngụy Sài Gòn” được bên thắng cuộc in và tái bản nhiều lần sau 1975 nhằm mục đích bôi nhọ quân đội và tướng lĩnh của bên thua cuộc, tôi không khỏi bật cười với ý nghĩ rằng chân dung tồi tệ mà tác giả muốn phác họa cho các tướng VNCH thật ra thích hợp và xứng đáng dành cho những sĩ quan Quân Đội Nhân Dân VN thời bình ngày nay hơn. ( https://www.facebook.com/LSLeCongDi…/posts/1412420875698359… ) !
Ở đây, trong một vài buổi dạ tiệc, dạ vũ, với phần đầu chương trình “cùng (?) hát, cùng… chịu trận (!!!)", thỉnh thoảng tôi lại nghe (!) câu hát “nước mắt đàn ông không rơi từng giọt / nước mắt đàn ông chôn sâu trong lòng...", một câu tuy “cải lương" nhưng nghĩ lại cũng không sai .
Đàn ông rất ít ai khóc (trừ… ca sĩ Anh Khoa), nói gì đến “lính Dù lên điểm" Nguyễn khoa Nam, vào sinh ra tử hằng ngày, lon lá đều lên ở chiến trường (ngoài 5 năm “chịu trận" với chức vụ Đại Đội Trưởng Kỹ Thuật Nhảy Dù). 1961 – 1972 từ Đại úy trưởng ban 3 / TĐoàn 3 Dù lên đến Thiếu tướng Tư lệnh sư đoàn 7. Chưa nói Tướng Nam, qua ký ức những người tiếp cận, là một người ăn nói điềm đạm, ít khi biểu lộ tình cảm. Thế mà cuối cùng ông lại khóc trước mặt thuộc cấp ! Khóc những hai lần !
Hình dung buổi chiều ghê rợn ấy, buổi chiều 30/4, không ai biết chuyện gì sẽ xảy ra, khi đã có lệnh trên buông súng, khi đang ào ào kẻ chạy, người đi. Nhưng xe Tư Lệnh vẫn cắm cờ, hiên ngang, phom phom vào quân y viện. Hình dung buổi sáng 1/5, từ lầu cao tư dinh, 3 thầy trò im lặng đứng bên nhau nhìn ra Hòa Bình, cái đại lộ thường nhật ngựa xe như nước, bây giờ chỉ hớt hãi dăm bóng người qua. Rồi một người bật khóc, hai người khác khóc theo !
Đó là những người đàn ông, những người trai thời loạn, đã quen tiếng đạn bom, đã kề với cái chết. Thế mà bây giờ lại khóc. Sử sách chỉ ghi điều chánh yếu, không ghi chi tiết nhưng ai dám quả quyết rằng, trước khi tự sát, Hoàng Diệu không khóc, Võ Tánh không khóc, Phan thanh Giản không khóc…. Vv ? Khóc không vì sợ, không vì yếu lòng, “xưa nay chinh chiến mấy ai về". Nước mắt này là nước mắt uất hận, tức tối, đau thương… Như muốn cắn lưỡi phun máu hỏi trời “Tại sao lại là như thế ?!"
Cũng những ngày này, 47 năm trước, 12/4/1972: Trung tá Nguyễn Đình Bảo, tiểu đoàn trưởng 11 Dù, đã ở lại “Charlie", sau 5 ngày quần thảo với 1 đối phương đông gấp 6 lần (2 trung đoàn bộ binh + 1 trung đoàn pháo) !
Ông Bảo là đàn em ông Nam. Cả hai ông đều ăn gạo sấy, uống bi-đông Nhảy-Dù từ lúc là sĩ quan mới ra trường lên đến cấp chỉ huy. Khi ông đại tá Nam nắm Lữ Đoàn 3 thì ông thiếu tá Bảo là một tiểu đoàn phó. Bây giờ “người ở lại Charlie", “kẻ ngã xuống Cần Thơ".
Charlie hay Cần Thơ đều bắt đầu bằng “C", khác chăng một bên đồi cao, một bên thành phố !
Khóc anh Bảo, nhạc sĩ Trần thiện Thanh viết: “Nhớ anh trời làm cơn bão". Cơn bão âm ỉ từ 72 biến thành hồng thủy, địa chấn 75: nước mất, nhà tan, với biết bao nhiêu là xác người Nam Việt: xác lính can trường, xác dân vô tộ . Trong số những cái chết can trường, có cái chết tự sát của một người Việt tên Nam.
Tôi đã trãi qua (hầu như) trắng đêm 1/4/2019 ! Lãng vãng trong đầu là khuôn mặt cương ngh , oai nghiêm của một người đàn ông. Với hai hàng nước mắt !
Người đàn ông đó là Thiếu tướng tư lệnh vùng 4 Nguyễn khoa Nam ! Hai hàng nước mắt đó là những giọt lệ cuối đời ông. Một cuối đời đúng nghĩa. Bởi, chỉ vài mươi phút sau, ông đã kê súng bắn vào màng tang tự sát.
“Tư Lệnh thà chết chứ không bàn giao !"
Huỳnh Kim Thu
Hình ảnh tướng Nam với bộ quân phục và nón sắt vẫn còn rõ trong ký ức, dù là tướng, với khuôn mặt cương nghị, nhưng ăn nói nhỏ nhẹ, đáng yêu mến và ngưỡng phục. Buồn ! Cảm ơn những người đã luân phiên post lại bài viết này.
Tường Giang
***
*** ***
Tôi bắt đầu tháng 4 năm nay, khuya 31/3 - 1/4, bằng giấc ngủ chập chờn. Suốt đêm là như thế ! Lãng vãng trong đầu là khuôn mặt một người đàn ông với hai hàng nước mắt !
Người đàn ông đó là thiếu tướng Nguyễn khoa Nam!
Những ngày này, 44 năm xưa, trong khi phân nửa lãnh thổ "di tản", chiến trường vùng 3 đang sôi động thì "Quân đoàn – Quân khu 4 chưa mất một tấc đất, quân số và vũ khí vẫn còn nguyên vẹn. Chúng ta cứ bình tĩnh chiến đấu, không phải chạy đi đâu cả", đó là những tuyên bố, nhắc nhở của tướng Nam trong các buổi họp tham mưu.
Hai tháng cuối cùng của VNCH, biết bao nhiêu là hình ảnh tang thương, uất hận đã làm ứa máu trái tim, đứt đoạn lòng người, qua những bài viết, lời kể của các chứng nhân: những người lính, người dân có cơ may rời nước đến được bến “tự do”, những người trở về từ trại tập trung, trở về từ cõi chết ... vv Tôi đã thấy, như trước mắt, diễn tiến các cuộc tự sát tập thể của lính mũ xanh, mũ đỏ hay những giây phút cuối cùng của quân nhân các cấp, các binh chủng trên đường lui quân, trong ngày mất nước...
Đó là những hình ảnh làm nước sôi, đá mềm, ngạ quỷ còn phải nhắm mắt, Chúa Phật còn phải thở dài.
Nhưng không biết sao, cái hình ảnh luôn đi về trong tôi, từ gần 20 năm nay, lại là những giọt nước mắt âm thầm của tướng Nguyễn Khoa Nam, trong chiều 30/4 và sáng 1/5, vài mươi phút, trước khi tự sát !
Trung úy Lê Ngọc Danh, tùy viên tướng Nam, thuật lại trong quyển “Nguyễn Khoa Nam" (Hội phát huy văn hóa Việt Nam, 2001).
Chiều 30/4/1975 ( bắt đầu từ 18h30 )
“….. Tư Lệnh đi từ đầu phòng đến cuối phòng hỏi thăm từng bệnh nhân, rồi Tư Lệnh đi qua dãy kế bên và tiếp tục hơn một giờ thăm viếng thương, bệnh binh buồn tẻ và nặng nề. Gần giường một thương binh, anh cụt hai chân, vải băng trắng xóa, máu còn rịn ra lốm đốm đỏ cuối phần chân đã mất. Tư Lệnh đứng sát bên và hỏi:
– Vết thương của em đã lành chưa?
– Thưa Thiếu Tướng, vết thương mới mấy ngày còn ra máu, chưa lành.
Với nét mặt buồn buồn, Tư Lệnh nhíu mày lại làm cặp mắt kiếng đen lay động. Tư Lệnh chưa kịp nói thêm thì anh thương binh này bất chợt chụp tay Tư Lệnh mếu máo:
– Thiếu Tướng đừng bỏ tụi em nhé Thiếu Tướng.
– Qua không bỏ các em đâu. Qua ở lại với các em.
Qua ánh đèn của bệnh viện, tôi thấy Tư Lệnh đưa ta nâng sửa cặp kính đen và hai giọt nước mắt từ từ chảy lăn dài trên khuôn mặt đau thương của ông. Tư Lệnh cố nén xúc động, nhưng người đã khóc, khóc không thành tiếng và những giọt nước mắt tự nhiên tuôn trào. Tư Lệnh vịn vai người thương binh nói trong nghẹn ngào:
– Em cố gắng điều trị… có qua ở đây ….”
Sáng 1/5/1975 ( khoảng 30 phút trước khi tướng Nam tự sát )
“ … Tư Lệnh chầm chậm bước theo nấc thang lên tầng trên, tôi và anh Việt nối bước theo sau. Tư Lệnh ra sân thượng, đứng sát bên lan can, mắt nhìn ra Đại Lộ Hòa Bình trước cửa cửa dinh, tôi đứng bên phải Tư Lệnh, anh Việt ( *) đứng bên trái. Trên lộ, chỉ có vài chiếc xe qua lại, người thưa thớt, khung cảnh vắng vẻ như chiều 30 Tết. Bất chợt, Thiếu Tướng bật khóc. Tư Lệnh cố nén không khóc thành tiếng, nhưng những giọt nước mắt tuôn trào chảy dài trên khuôn mặt đau buồn vì nước mất nhà tan. Tôi cũng khóc theo, anh Việt cũng vậy. Ba người đứng trên sân thượng trước mặt tiền dinh, mặc cho nước mắt tự do tuôn chảy...".
(*) Trung úy Việt : sĩ quan liên lạc
Tối 30/4 , sau lệnh đầu hàng, trong khi nhiều “đại bàng" tìm cách thoát thân, thì tướng Nam là vị chỉ huy quân sự có cấp bậc cao nhất, có lực lượng hùng hậu nhất, (hơn cả quyền Tổng tham mưu trưởng QLVNCH: Chuẩn tướng nằm vùng Nguyễn Hữu (vô ?) Hạnh), lại bỏ ngày giờ đi thăm hết các thương binh, thể hiện tình “huynh đệ chi binh", như môt câu trong bài hát của ns Anh Bằng: “… Sống chết có nhau là / huynh đệ chi binh " !
Nói với người thương binh cụt hai chân: “Qua không bỏ các em đâu. Qua ở lại với các em". Ông Nam nói và ông Nam làm: ông đã ở lại, vĩnh viễn ở lại, “Người ở lại Tây Đô" không chỉ ở lại với Cần Thơ, với “các em" thương binh trong quân y viện Phan thanh Giản, mà còn ở lại trong lòng người dân Việt Nam Cộng Hòa. Mà không chỉ với người Cộng Hòa, theo như lời kể (2014) của "cựu" tù nhân CS, luật sư Lê Công Định.
“Vào ngày 1/5/1980, sau bữa ăn trưa, ba tôi ngồi uống trà và trò chuyện với các anh em chúng tôi về những ngày tháng Tư của 5 năm về trước. Ba tôi, người thuộc bên thắng cuộc phía miền Nam, đã tham gia chiến tranh vì mơ ước hòa bình và, cũng như nhiều người đương thời, ông đã vỡ mộng vài năm sau khi cuộc chiến kết thúc. Ông kể với lòng kính phục về Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh Quân đoàn 4 của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), vị danh tướng đã tuẫn tiết sau khi Sài Gòn thất thủ".
Ông Định viết thêm:
"Trở lại câu chuyện ban đầu, hình ảnh về tướng Nguyễn Khoa Nam do ba tôi kể lại đã khiến tôi lao vào tìm hiểu nhiều hơn về các vị danh tướng VNCH khác, mà thật lòng tôi rất kính trọng, giống ba tôi. Đọc quyển sách “Chân dung các tướng ngụy Sài Gòn” được bên thắng cuộc in và tái bản nhiều lần sau 1975 nhằm mục đích bôi nhọ quân đội và tướng lĩnh của bên thua cuộc, tôi không khỏi bật cười với ý nghĩ rằng chân dung tồi tệ mà tác giả muốn phác họa cho các tướng VNCH thật ra thích hợp và xứng đáng dành cho những sĩ quan Quân Đội Nhân Dân VN thời bình ngày nay hơn. ( https://www.facebook.com/LSLeCongDi…/posts/1412420875698359… ) !
Ở đây, trong một vài buổi dạ tiệc, dạ vũ, với phần đầu chương trình “cùng (?) hát, cùng… chịu trận (!!!)", thỉnh thoảng tôi lại nghe (!) câu hát “nước mắt đàn ông không rơi từng giọt / nước mắt đàn ông chôn sâu trong lòng...", một câu tuy “cải lương" nhưng nghĩ lại cũng không sai .
Đàn ông rất ít ai khóc (trừ… ca sĩ Anh Khoa), nói gì đến “lính Dù lên điểm" Nguyễn khoa Nam, vào sinh ra tử hằng ngày, lon lá đều lên ở chiến trường (ngoài 5 năm “chịu trận" với chức vụ Đại Đội Trưởng Kỹ Thuật Nhảy Dù). 1961 – 1972 từ Đại úy trưởng ban 3 / TĐoàn 3 Dù lên đến Thiếu tướng Tư lệnh sư đoàn 7. Chưa nói Tướng Nam, qua ký ức những người tiếp cận, là một người ăn nói điềm đạm, ít khi biểu lộ tình cảm. Thế mà cuối cùng ông lại khóc trước mặt thuộc cấp ! Khóc những hai lần !
Hình dung buổi chiều ghê rợn ấy, buổi chiều 30/4, không ai biết chuyện gì sẽ xảy ra, khi đã có lệnh trên buông súng, khi đang ào ào kẻ chạy, người đi. Nhưng xe Tư Lệnh vẫn cắm cờ, hiên ngang, phom phom vào quân y viện. Hình dung buổi sáng 1/5, từ lầu cao tư dinh, 3 thầy trò im lặng đứng bên nhau nhìn ra Hòa Bình, cái đại lộ thường nhật ngựa xe như nước, bây giờ chỉ hớt hãi dăm bóng người qua. Rồi một người bật khóc, hai người khác khóc theo !
Đó là những người đàn ông, những người trai thời loạn, đã quen tiếng đạn bom, đã kề với cái chết. Thế mà bây giờ lại khóc. Sử sách chỉ ghi điều chánh yếu, không ghi chi tiết nhưng ai dám quả quyết rằng, trước khi tự sát, Hoàng Diệu không khóc, Võ Tánh không khóc, Phan thanh Giản không khóc…. Vv ? Khóc không vì sợ, không vì yếu lòng, “xưa nay chinh chiến mấy ai về". Nước mắt này là nước mắt uất hận, tức tối, đau thương… Như muốn cắn lưỡi phun máu hỏi trời “Tại sao lại là như thế ?!"
Cũng những ngày này, 47 năm trước, 12/4/1972: Trung tá Nguyễn Đình Bảo, tiểu đoàn trưởng 11 Dù, đã ở lại “Charlie", sau 5 ngày quần thảo với 1 đối phương đông gấp 6 lần (2 trung đoàn bộ binh + 1 trung đoàn pháo) !
Ông Bảo là đàn em ông Nam. Cả hai ông đều ăn gạo sấy, uống bi-đông Nhảy-Dù từ lúc là sĩ quan mới ra trường lên đến cấp chỉ huy. Khi ông đại tá Nam nắm Lữ Đoàn 3 thì ông thiếu tá Bảo là một tiểu đoàn phó. Bây giờ “người ở lại Charlie", “kẻ ngã xuống Cần Thơ".
Charlie hay Cần Thơ đều bắt đầu bằng “C", khác chăng một bên đồi cao, một bên thành phố !
Khóc anh Bảo, nhạc sĩ Trần thiện Thanh viết: “Nhớ anh trời làm cơn bão". Cơn bão âm ỉ từ 72 biến thành hồng thủy, địa chấn 75: nước mất, nhà tan, với biết bao nhiêu là xác người Nam Việt: xác lính can trường, xác dân vô tộ . Trong số những cái chết can trường, có cái chết tự sát của một người Việt tên Nam.
Tôi đã trãi qua (hầu như) trắng đêm 1/4/2019 ! Lãng vãng trong đầu là khuôn mặt cương ngh , oai nghiêm của một người đàn ông. Với hai hàng nước mắt !
Người đàn ông đó là Thiếu tướng tư lệnh vùng 4 Nguyễn khoa Nam ! Hai hàng nước mắt đó là những giọt lệ cuối đời ông. Một cuối đời đúng nghĩa. Bởi, chỉ vài mươi phút sau, ông đã kê súng bắn vào màng tang tự sát.
“Tư Lệnh thà chết chứ không bàn giao !"
Huỳnh Kim Thu
Wednesday, April 10, 2019
Tháng Tư - Thương về những người lính năm xưa,
Tháng
Tư - Thương về những người lính năm xưa, dòng trôi tủi hận, mỗi năm cứ
vào độ Tháng Tư, tháng của tang thương và uất hận, tháng của khổ đau,
của nước mắt dạt dào, tháng của chia lìa, ly tán, hư hao, bẻ súng gãy
gánh trong niềm đau bức tử.
Hôm nay, tháng Tư lại đến sau 44 năm dài hơn nửa đời người, quê hương vẫn nhọc nhằn trong đọa đày, lừa bịp, hung tàn, mụ mị... vẫn còn hiện hữu và ngày càng rõ nét, trước thảm cảnh này, lời thơ là những điệu ru bằng nước mắt cho quê hương, cho chính bản thân mình và cho cả các anh, những gương hùng bất tử Ngụy Văn Thà, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Phạm Văn Phú, Hồ Ngọc Cẩn... và nhiều hơn nữa, nhiều lắm.
Các anh là những đứa con yêu của tổ quốc, của tự do và nhân bản cho dẫu hôm nay các anh còn sống trong sự tàn tạ như một phế nhân hay đã chết trong niềm đau tức tưởi căm hờn thì các anh vẫn luôn là những chàng trai kiêu hùng của nước Việt.
Những đứa em thuộc thế hệ đi sau, nguyện noi bước đàn anh để tiếp tục trên con đường chiến đấu cho một Việt Nam độc lập dân chủ tự do nhân bản và hưng thịnh hầu an ủi cho vong hồn các anh nơi chín suối cũng như ân cần chia sẻ cho những người lính bất hạnh còn lại trong hoang phế nhọc nhằn, sau đây là những vần thơ chân thành của một đứa em, mong tặng các anh thay những lời ru cho những chiến sĩ vị quốc vong thân nhân mùa Tháng Tư Ðen đau thương oan nghiệt.
Nguyện cầu hương hồn hiển linh của các anh phò hộ cho những lớp đàn em, chân cứng đá mềm trên con đường đấu tranh.
- Tiễn anh người lính năm xưa
Anh nằm đó
Trong căn gác nhỏ
Chết cô đơn, nơi xó góc nhà
Hồn ra đi hơn một tuần qua
Xác cô lạnh, người ta nào biết!
Anh nằm đó
Người trai gốc Việt
Lìa thế gian, tha thiết gì không?
Chẳng có ai chia sẻ nỗi lòng
Trong phút cuối thong dong miên viễn.
Phút anh đi
Ai người đưa tiễn?
Ai vẫy tay biền biệt ngàn thu?
Nhớ ngày xưa chiến trận diệt thù
Cờ phủ ấm, lời ru đồng đội.
Ghé thăm anh, nén nhang tạ lỗi
Quá khứ ơi, dậy nỗi ngậm ngùi
Chiến trường xưa cho dẫu ngược xuôi
Trận xung kích buồn vui bầu bạn
Chốn lưu vong...
Buồn theo năm tháng
Nỗi nhớ nhung, khuất dạng quê hương
Ðời nơi đây, xa vắng người thương
Bởi bận bịu... con đường sự nghiệp.
Chiến chinh tàn, nhưng anh vẫn tiếp
Cuộc đấu tranh, chấp nhận nghiệp nghèo
Mong vần thơ nhiệt huyết anh gieo
Cho thế hệ tiếp theo lĩnh hội...
Giờ tiễn anh, tôi nguyền tiếp nối
Sẽ thay anh tạ tội nước non
Anh yên tâm, mai quê mẹ khải hoàn
Ta không thẹn là con đất Việt.
(Bài thơ gởi anh thay nén hương thương tiếc.)
- Thương dòng kỷ niệm
Bóng trăng chênh chếch xuyên màn lá
Dưới mộ huyệt sâu đất bạc màu
Tôi ghé thăm anh ôn kỷ niệm
Ðôi dòng tâm sự suốt canh thâu.
Lúc tiễn nhau đi tôi trẻ lắm
Ngả bóng thời gian tuổi cũng già
Xưa dắt nhau tìm chim sáo nhỏ
Lính trận về thăm những món quà
Bóng xế dần trôi theo kỷ niệm
Nghiêng ngả quê hương rũ bóng dừa
Cạn ly tôi uống dòng nước mắt
Thuyền vẫn bạt ngàn bão đong đưa.
Anh yên nghỉ nhé lòng đất mẹ
Phò hộ cho tôi cuộc hành trình
Góp sức chí hùng trai thời loạn
Không thẹn với anh chữ nhục vinh
Dưới gốc cội già bên nấm mộ
Ru hời kỷ niệm gởi mây xanh
Dáng ai ẩn hiện hồn dũng sĩ
Ngàn thu yên ngủ giấc mộng lành.
––
Miền đất bạc
Mùa thu cũ nhớ ngày xa lặng lẽ
Tôi viết bài thơ lời tưởng niệm tặng anh
Ngày ra đi không tiếng trống, không nhạc quân hành
Thảm cỏ úa, vài chiếc lá xanh làm phúng điếu.
Anh ra đi... không mang theo giấc mơ huyền diệu
Vỏn vẹn chỉ chiếc áo tù và manh chiếu phủ thân
Hai chiến hữu đồng tù, còng lưng thương tiếc ân cần
Cũng kiệt sức trơ dần theo đói khát.
Mé rừng hoang, nơi anh nằm, miền đất bạc
Sỏi đá khô cằn, tan tác thê lương
Bạn tù khiêng anh, quỵ ngã bên đường.
Anh không nặng nhưng hai thân gầy xương khiêng sao nổi!
Sức kiệt đất cằn bốn tay gầy xới vội
Huyệt không sâu
U uẩn một lối về
Ngày anh đi, không con cháu, không hôn thê
Âm thầm cô lẻ nẻo đường quê từ biệt.
Nước mắt hai bạn tù đã đuối mòn cạn kiệt
Gió vi vu thương tiếc thoảng mênh mang
Anh ra đi hồn lẻ nhập suối ngàn
Ðâu còn nữa... thênh thang đường Tổ Quốc.
Chiều Sơn La, dòng đời trôi tất bật
Khối nhân gian vẫn vờ vật với đời
Giã biệt anh
Người chiến hữu ơi
Theo sau linh cữu chỉ đất trời gió lộng...
Chuyến viễn du ngàn thu nhưng trong tôi anh vẫn sống.
- Quê hương và kỷ niệm
Tôi với anh chung thôn xóm nhỏ
Nơi quê hương có tên gọi Việt Nam
Anh lớn trước, chống quân thù giặc đỏ
Tôi sinh sau, còn đũng ghế trường làng.
Ðêm đêm về bom vẳng âm vang
Miền xa thẳm, anh dặm ngàn chiến tuyến
Hòa tiếng bom... tôi gởi lời cầu nguyện
Chiến trường xa mong trận chiến an lành
Núi thẳm rừng sâu thương quá lớp đàn anh
Hỏa châu chiếu, mắt long lanh lính trận.
Miền Nam của chúng ta, đầy yêu thương, không thù hận
Giặc Bắc tràn về, giặc xâm lấn quê hương
Giặc đến đây, nhuộm máu khắp nẻo đường
Gieo rắc thù hận đau thương tang tóc!
Trai thời loạn... giã biệt áo thư sinh, rời trường học
Những em thơ chiều khóc nhớ anh mình
Sáu tuổi đầu đời, đã sớm nhận hung tin
Người anh ấy đã hy sinh trong chiến trận
Sáu tuổi đời, đã khắc ghi niềm căm hận
Tuổi thơ ơi, sao sớm đón nhận đau thương!
Thế là từ đây...
Ðường làng bước đến trường
Vốn hoang vắng, lại càng thêm trống vắng
Chiều tan học, nhìn ra mộ anh, tôi lẳng lặng
Nước mắt rơi trong tiềm thức ngậm ngùi
Chiến tranh bạo tàn đã cướp lấy anh tôi
Còn đâu nữa những ngày vui chim sáo nhỏ.
Tháng Tư đến đất trời lộng gió
Mùa tang thương cây cỏ cũng tàn theo...
Mẹ anh, mẹ tôi, tất cả đều nghèo
Thương bác quá, ngày dài trông theo bóng nhạn
Sức già mỏi mòn úa theo ngày tháng
Lá vàng đi tìm dạng bóng lá xanh.
Tháng Tư ơi, tôi đã thấu ngọn ngành
Người ở lại tuổi xanh nhưng đầu trắng bạc
Ôi quê hương!
Ðau dân tôi... một đàn cừu ngơ ngác...
- Quên lãng
Dạo Tháng Hai
Em vừa tròn mười chín
Anh chiến trường trót phận kẻ thương binh
Những lá thư xanh ấp ủ trang tình
Còn bỡ ngỡ đời sinh viên đại học.
Tháng Tư đến
Dòng đời theo cơn lốc
Bão giao mùa, tang tóc gợi thương đau
Tuổi trẻ niềm tin... tha thiết dạt dào
Bỗng nhập cuộc chung niềm đau đất nước!
Tôi trở lại cao nguyên miền sơn cước
Ðường mù sương, đẫm ướt nửa tấm thân
Kẻ một chân lê nẻo bước phong trần
Cánh tay phải cũng trọn dâng cho Tổ quốc.
Từ dạo ấy, nỗi niềm tôi chất ngất
Tây Nguyên buồn lất phất giọt thu rơi
Kiếp lang thang, lạnh buốt giữa đất trời
Thầm giã biệt tình ơi, em nào biết.
Mai có về, xin em đừng luyến tiếc
Kẻ phế tàn, đời ngã nghiệt thương đau
Hạnh phúc nào?
Hay tủi thẹn bên nhau?
Tiễn quá khứ
Nhói đau lời vĩnh biệt.
Cũng từ dạo ấy
Tôi làm người thua thiệt
Dĩ vãng buồn... là chiếc võng đong đưa
Chiều tàn hoang, dấu binh lửa tàn chưa?
Ðời hiện nét những lọc lừa căm hận.
Nay còn gì đâu để tôi dấn thân vào thế trận!
Một mối hận thù
Một mối thương đau.
Bao oan khiên, những con tim nguyên vẹn thét gào
Nhân thế đã ném tôi vào quên lãng!
Phận tật nguyền đâu được làm người di tản
Trôi lững lờ, dạ hôm đói sáng lo
Ðêm lạnh về
Một tay ấp ủ một chân co
Còn đâu nữa, những hẹn hò cuộc sống?
Chiều tha hương lần về đôi mắt ngóng
Người yêu xưa, biệt dạng bóng phương nao?
Tím thẫm hoàng hôn, ngã dáng vẫy tay chào
Cô đơn nạn gỗ
Niềm đau...
Thôi từ giã.
Mây ngàn thu
Giọt rơi buồn phiến đá
Gió thu ơi, nghiêng ngả bóng quê hương
Người thương binh lê cuộc sống tha phương
Nửa tấm thân biền biệt chốn sa trường
Nửa còn lại
Bụi vương mờ lối mộng.
- Chiếc áo vàng
Chiếc áo vàng hôm xưa em mặc
Ba đóa hồng hương thắm huyền nhung
Màu áo quê hương, màu nhân bản kiêu hung
Ngời chí khí dũng trung đoàn vệ quốc.
Mùa bảy lăm hóa đời tất bật
Bão giao mùa
Em khoác áo màu đen
Thờ thẫn trong đêm.
Thành phố không đèn
Cây cột điện cũng chưa quen mùi cách mạng!
Dòng cam go... dần trôi theo năm tháng
Khúc tương phùng hút dạng nẻo người đi
Em liễu tơ ngất lịm buổi phân kỳ
Nợ chưa dứt
Lần đi
Lần vĩnh biệt.
Cứ mỗi dạo Tháng Tư về là lòng em thương tiếc
Con gái của chúng mình, giờ cũng biết được chuyện xa xưa
Nó lớn lên, tuy không bom đạn cày xéo đường phố hàng dừa
Nhưng tội nó
Kiếp đong đưa
Vòng khổ lụy.
Tuổi thơ ngây nhưng bản án vô hình đã trùm nó vào vòng lao lý
Là đứa con của tên “ngụy” ác ôn
Nó lớn lên trong tủi hận tâm hồn
Ðường tiến bước, vùi chôn theo lý lịch.
Nơi trại tù
Cha nó vẫn bị xem là địch
Ðảng trả thù... trong chiến dịch phục thù xưa
Chiều Việt Bắc lã chã thấm giọt mưa
Ðủ thắm lạnh cho thân gầy vừa gục xuống.
Nó và em
Hai mảnh đời nơi nương ruộng
Cơn đói về cuồn cuộn rét buốt thân
Nước độc rừng ma
Tuổi mười sáu yếu dần
Nó lên phố bán thân làm đĩ!
Trong thầm kín, nó không bao giờ quên mình là con thằng ngụy!
Ðời giang hồ
Nó bị si-đa
Những lúc hận đời là những khi nó thương nhớ về cha
Càng cương quyết hiến thây ma này cho cán bộ.
Tuổi mười bẩy, hoa phượng đường nở rộ
Quan chức giàu, không ngố cũng phải ham
Nó khắc tên những thằng tham quan sau những chuyến “đi làm”
Vào cây xương rồng đỏ... hồng cam vết máu.
Hôm tiễn con đi
Trong quan tài buồn, em mặc cho nó chiếc vàng màu áo
Của người chiến binh dũng cảm hôm nào
Mong về gặp anh
Vầng sáng một vì sao
Và từ đó... những lần mộng chiêm bao em cười nụ.
Nghiêng ngả quê hương... mưa sa cờ rũ.
Em mơ về... ngày cũ thuở thương yêu
Tháng Tám mùa thu đời ngã muôn chiều...
Em nuối tiếc
Thương yêu mùa nhân bản
Quê hương tuyệt vọng... kể từ ngày có đảng.
30-4-1975
30-4-2019
Hôm nay, tháng Tư lại đến sau 44 năm dài hơn nửa đời người, quê hương vẫn nhọc nhằn trong đọa đày, lừa bịp, hung tàn, mụ mị... vẫn còn hiện hữu và ngày càng rõ nét, trước thảm cảnh này, lời thơ là những điệu ru bằng nước mắt cho quê hương, cho chính bản thân mình và cho cả các anh, những gương hùng bất tử Ngụy Văn Thà, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Phạm Văn Phú, Hồ Ngọc Cẩn... và nhiều hơn nữa, nhiều lắm.
Các anh là những đứa con yêu của tổ quốc, của tự do và nhân bản cho dẫu hôm nay các anh còn sống trong sự tàn tạ như một phế nhân hay đã chết trong niềm đau tức tưởi căm hờn thì các anh vẫn luôn là những chàng trai kiêu hùng của nước Việt.
Những đứa em thuộc thế hệ đi sau, nguyện noi bước đàn anh để tiếp tục trên con đường chiến đấu cho một Việt Nam độc lập dân chủ tự do nhân bản và hưng thịnh hầu an ủi cho vong hồn các anh nơi chín suối cũng như ân cần chia sẻ cho những người lính bất hạnh còn lại trong hoang phế nhọc nhằn, sau đây là những vần thơ chân thành của một đứa em, mong tặng các anh thay những lời ru cho những chiến sĩ vị quốc vong thân nhân mùa Tháng Tư Ðen đau thương oan nghiệt.
Nguyện cầu hương hồn hiển linh của các anh phò hộ cho những lớp đàn em, chân cứng đá mềm trên con đường đấu tranh.
- Tiễn anh người lính năm xưa
Anh nằm đó
Trong căn gác nhỏ
Chết cô đơn, nơi xó góc nhà
Hồn ra đi hơn một tuần qua
Xác cô lạnh, người ta nào biết!
Anh nằm đó
Người trai gốc Việt
Lìa thế gian, tha thiết gì không?
Chẳng có ai chia sẻ nỗi lòng
Trong phút cuối thong dong miên viễn.
Phút anh đi
Ai người đưa tiễn?
Ai vẫy tay biền biệt ngàn thu?
Nhớ ngày xưa chiến trận diệt thù
Cờ phủ ấm, lời ru đồng đội.
Ghé thăm anh, nén nhang tạ lỗi
Quá khứ ơi, dậy nỗi ngậm ngùi
Chiến trường xưa cho dẫu ngược xuôi
Trận xung kích buồn vui bầu bạn
Chốn lưu vong...
Buồn theo năm tháng
Nỗi nhớ nhung, khuất dạng quê hương
Ðời nơi đây, xa vắng người thương
Bởi bận bịu... con đường sự nghiệp.
Chiến chinh tàn, nhưng anh vẫn tiếp
Cuộc đấu tranh, chấp nhận nghiệp nghèo
Mong vần thơ nhiệt huyết anh gieo
Cho thế hệ tiếp theo lĩnh hội...
Giờ tiễn anh, tôi nguyền tiếp nối
Sẽ thay anh tạ tội nước non
Anh yên tâm, mai quê mẹ khải hoàn
Ta không thẹn là con đất Việt.
(Bài thơ gởi anh thay nén hương thương tiếc.)
- Thương dòng kỷ niệm
Bóng trăng chênh chếch xuyên màn lá
Dưới mộ huyệt sâu đất bạc màu
Tôi ghé thăm anh ôn kỷ niệm
Ðôi dòng tâm sự suốt canh thâu.
Lúc tiễn nhau đi tôi trẻ lắm
Ngả bóng thời gian tuổi cũng già
Xưa dắt nhau tìm chim sáo nhỏ
Lính trận về thăm những món quà
Bóng xế dần trôi theo kỷ niệm
Nghiêng ngả quê hương rũ bóng dừa
Cạn ly tôi uống dòng nước mắt
Thuyền vẫn bạt ngàn bão đong đưa.
Anh yên nghỉ nhé lòng đất mẹ
Phò hộ cho tôi cuộc hành trình
Góp sức chí hùng trai thời loạn
Không thẹn với anh chữ nhục vinh
Dưới gốc cội già bên nấm mộ
Ru hời kỷ niệm gởi mây xanh
Dáng ai ẩn hiện hồn dũng sĩ
Ngàn thu yên ngủ giấc mộng lành.
––
Miền đất bạc
Mùa thu cũ nhớ ngày xa lặng lẽ
Tôi viết bài thơ lời tưởng niệm tặng anh
Ngày ra đi không tiếng trống, không nhạc quân hành
Thảm cỏ úa, vài chiếc lá xanh làm phúng điếu.
Anh ra đi... không mang theo giấc mơ huyền diệu
Vỏn vẹn chỉ chiếc áo tù và manh chiếu phủ thân
Hai chiến hữu đồng tù, còng lưng thương tiếc ân cần
Cũng kiệt sức trơ dần theo đói khát.
Mé rừng hoang, nơi anh nằm, miền đất bạc
Sỏi đá khô cằn, tan tác thê lương
Bạn tù khiêng anh, quỵ ngã bên đường.
Anh không nặng nhưng hai thân gầy xương khiêng sao nổi!
Sức kiệt đất cằn bốn tay gầy xới vội
Huyệt không sâu
U uẩn một lối về
Ngày anh đi, không con cháu, không hôn thê
Âm thầm cô lẻ nẻo đường quê từ biệt.
Nước mắt hai bạn tù đã đuối mòn cạn kiệt
Gió vi vu thương tiếc thoảng mênh mang
Anh ra đi hồn lẻ nhập suối ngàn
Ðâu còn nữa... thênh thang đường Tổ Quốc.
Chiều Sơn La, dòng đời trôi tất bật
Khối nhân gian vẫn vờ vật với đời
Giã biệt anh
Người chiến hữu ơi
Theo sau linh cữu chỉ đất trời gió lộng...
Chuyến viễn du ngàn thu nhưng trong tôi anh vẫn sống.
- Quê hương và kỷ niệm
Tôi với anh chung thôn xóm nhỏ
Nơi quê hương có tên gọi Việt Nam
Anh lớn trước, chống quân thù giặc đỏ
Tôi sinh sau, còn đũng ghế trường làng.
Ðêm đêm về bom vẳng âm vang
Miền xa thẳm, anh dặm ngàn chiến tuyến
Hòa tiếng bom... tôi gởi lời cầu nguyện
Chiến trường xa mong trận chiến an lành
Núi thẳm rừng sâu thương quá lớp đàn anh
Hỏa châu chiếu, mắt long lanh lính trận.
Miền Nam của chúng ta, đầy yêu thương, không thù hận
Giặc Bắc tràn về, giặc xâm lấn quê hương
Giặc đến đây, nhuộm máu khắp nẻo đường
Gieo rắc thù hận đau thương tang tóc!
Trai thời loạn... giã biệt áo thư sinh, rời trường học
Những em thơ chiều khóc nhớ anh mình
Sáu tuổi đầu đời, đã sớm nhận hung tin
Người anh ấy đã hy sinh trong chiến trận
Sáu tuổi đời, đã khắc ghi niềm căm hận
Tuổi thơ ơi, sao sớm đón nhận đau thương!
Thế là từ đây...
Ðường làng bước đến trường
Vốn hoang vắng, lại càng thêm trống vắng
Chiều tan học, nhìn ra mộ anh, tôi lẳng lặng
Nước mắt rơi trong tiềm thức ngậm ngùi
Chiến tranh bạo tàn đã cướp lấy anh tôi
Còn đâu nữa những ngày vui chim sáo nhỏ.
Tháng Tư đến đất trời lộng gió
Mùa tang thương cây cỏ cũng tàn theo...
Mẹ anh, mẹ tôi, tất cả đều nghèo
Thương bác quá, ngày dài trông theo bóng nhạn
Sức già mỏi mòn úa theo ngày tháng
Lá vàng đi tìm dạng bóng lá xanh.
Tháng Tư ơi, tôi đã thấu ngọn ngành
Người ở lại tuổi xanh nhưng đầu trắng bạc
Ôi quê hương!
Ðau dân tôi... một đàn cừu ngơ ngác...
- Quên lãng
Dạo Tháng Hai
Em vừa tròn mười chín
Anh chiến trường trót phận kẻ thương binh
Những lá thư xanh ấp ủ trang tình
Còn bỡ ngỡ đời sinh viên đại học.
Tháng Tư đến
Dòng đời theo cơn lốc
Bão giao mùa, tang tóc gợi thương đau
Tuổi trẻ niềm tin... tha thiết dạt dào
Bỗng nhập cuộc chung niềm đau đất nước!
Tôi trở lại cao nguyên miền sơn cước
Ðường mù sương, đẫm ướt nửa tấm thân
Kẻ một chân lê nẻo bước phong trần
Cánh tay phải cũng trọn dâng cho Tổ quốc.
Từ dạo ấy, nỗi niềm tôi chất ngất
Tây Nguyên buồn lất phất giọt thu rơi
Kiếp lang thang, lạnh buốt giữa đất trời
Thầm giã biệt tình ơi, em nào biết.
Mai có về, xin em đừng luyến tiếc
Kẻ phế tàn, đời ngã nghiệt thương đau
Hạnh phúc nào?
Hay tủi thẹn bên nhau?
Tiễn quá khứ
Nhói đau lời vĩnh biệt.
Cũng từ dạo ấy
Tôi làm người thua thiệt
Dĩ vãng buồn... là chiếc võng đong đưa
Chiều tàn hoang, dấu binh lửa tàn chưa?
Ðời hiện nét những lọc lừa căm hận.
Nay còn gì đâu để tôi dấn thân vào thế trận!
Một mối hận thù
Một mối thương đau.
Bao oan khiên, những con tim nguyên vẹn thét gào
Nhân thế đã ném tôi vào quên lãng!
Phận tật nguyền đâu được làm người di tản
Trôi lững lờ, dạ hôm đói sáng lo
Ðêm lạnh về
Một tay ấp ủ một chân co
Còn đâu nữa, những hẹn hò cuộc sống?
Chiều tha hương lần về đôi mắt ngóng
Người yêu xưa, biệt dạng bóng phương nao?
Tím thẫm hoàng hôn, ngã dáng vẫy tay chào
Cô đơn nạn gỗ
Niềm đau...
Thôi từ giã.
Mây ngàn thu
Giọt rơi buồn phiến đá
Gió thu ơi, nghiêng ngả bóng quê hương
Người thương binh lê cuộc sống tha phương
Nửa tấm thân biền biệt chốn sa trường
Nửa còn lại
Bụi vương mờ lối mộng.
- Chiếc áo vàng
Chiếc áo vàng hôm xưa em mặc
Ba đóa hồng hương thắm huyền nhung
Màu áo quê hương, màu nhân bản kiêu hung
Ngời chí khí dũng trung đoàn vệ quốc.
Mùa bảy lăm hóa đời tất bật
Bão giao mùa
Em khoác áo màu đen
Thờ thẫn trong đêm.
Thành phố không đèn
Cây cột điện cũng chưa quen mùi cách mạng!
Dòng cam go... dần trôi theo năm tháng
Khúc tương phùng hút dạng nẻo người đi
Em liễu tơ ngất lịm buổi phân kỳ
Nợ chưa dứt
Lần đi
Lần vĩnh biệt.
Cứ mỗi dạo Tháng Tư về là lòng em thương tiếc
Con gái của chúng mình, giờ cũng biết được chuyện xa xưa
Nó lớn lên, tuy không bom đạn cày xéo đường phố hàng dừa
Nhưng tội nó
Kiếp đong đưa
Vòng khổ lụy.
Tuổi thơ ngây nhưng bản án vô hình đã trùm nó vào vòng lao lý
Là đứa con của tên “ngụy” ác ôn
Nó lớn lên trong tủi hận tâm hồn
Ðường tiến bước, vùi chôn theo lý lịch.
Nơi trại tù
Cha nó vẫn bị xem là địch
Ðảng trả thù... trong chiến dịch phục thù xưa
Chiều Việt Bắc lã chã thấm giọt mưa
Ðủ thắm lạnh cho thân gầy vừa gục xuống.
Nó và em
Hai mảnh đời nơi nương ruộng
Cơn đói về cuồn cuộn rét buốt thân
Nước độc rừng ma
Tuổi mười sáu yếu dần
Nó lên phố bán thân làm đĩ!
Trong thầm kín, nó không bao giờ quên mình là con thằng ngụy!
Ðời giang hồ
Nó bị si-đa
Những lúc hận đời là những khi nó thương nhớ về cha
Càng cương quyết hiến thây ma này cho cán bộ.
Tuổi mười bẩy, hoa phượng đường nở rộ
Quan chức giàu, không ngố cũng phải ham
Nó khắc tên những thằng tham quan sau những chuyến “đi làm”
Vào cây xương rồng đỏ... hồng cam vết máu.
Hôm tiễn con đi
Trong quan tài buồn, em mặc cho nó chiếc vàng màu áo
Của người chiến binh dũng cảm hôm nào
Mong về gặp anh
Vầng sáng một vì sao
Và từ đó... những lần mộng chiêm bao em cười nụ.
Nghiêng ngả quê hương... mưa sa cờ rũ.
Em mơ về... ngày cũ thuở thương yêu
Tháng Tám mùa thu đời ngã muôn chiều...
Em nuối tiếc
Thương yêu mùa nhân bản
Quê hương tuyệt vọng... kể từ ngày có đảng.
30-4-1975
30-4-2019
Monday, April 8, 2019
8 tháng 4 năm 1975 . Tên Phi Công Hèn Phản Bội & Trận đánh cuối cùng .
Hãy đọc bài báo Pháp Luật của Việt Cộng nói về cuộc sống hiện nay lam lũ, nghèo đói, khổ sở của tên Phi Công A.37 Trần Văn On đã phản bội Tổ Quốc, phản bội QLVNCH để theo Cộng Sản VN cùng với Nguyễn Thành Trung dẫn máy bay về không kích bắn phá phi trường TSN đã được nhà nước CSVN ưu đãi như thế đấy. ĐÁNG ĐỜI tên Phản Bội !
Ông nông dân từng ném bom Tân Sơn Nhất
Giác ngộ cách mạng vỏn vẹn hai tuần, anh Trần Văn On là một trong năm phi công đảm nhận trận oanh tạc vào sân bay Tân Sơn Nhất cách đây 36 năm. Sau ngày giải phóng đất nước anh trở thành một nông dân thực thụ.
Một ngày cuối tháng 4-2011, chúng tôi về xã Vĩnh Hựu, huyện Gò Công Tây, Tiền Giang, tìm gặp anh Trần Văn On, người cầm lái một trong năm chiếc máy bay A-37 ném bom sân bay Tân Sơn Nhất ngày 28-4-1975.
Được chọn vào Phi đội Quyết Thắng
Cuối tháng 3-1975, ta giải phóng Đà Nẵng, ngày 16-4-1975 thì giải phóng Phan Rang. Trong những máy bay thu được ở Đà Nẵng và Phan Rang có sáu chiếc phản lực ném bom A-37 với đầy đủ đạn dược.
Với quyết tâm sớm chấm dứt chiến tranh, ngày 19-4-1975, Bộ Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh chỉ đạo Quân chủng Phòng không-Không quân tham gia chiến dịch, mở thêm mặt trận trên không. Bộ Tư lệnh Phòng không-Không quân quyết định sử dụng phương án dùng số máy bay thu được của Mỹ đánh bom vào Sài Gòn để gây bất ngờ.
Tuy nhiên, nhóm phi công lúc bấy giờ chỉ có Nguyễn Thành Trung từng lái máy bay Mỹ. Các phi công từ miền Bắc chỉ quen lái máy bay MiG của Liên Xô.
Trong nhóm hàng binh tại Đà Nẵng, Trung úy Trần Văn On tỏ thái độ giác ngộ cách mạng. Đó là một phi công A-37 được đào tạo bài bản ở Mỹ. Ngay trong đêm 19-4, Trần Văn On và một số thợ lái vừa ra trình diện bắt tay ngay vào việc sửa chữa chiếc máy bay A-37 mà ta thu được ở Đà Nẵng. Đến chiều ngày 20-4, chiếc A-37 đã nổ máy và có thể cất cánh. Ngày 21-4, Quân chủng Phòng không-Không quân quyết định chọn Trần Văn On cùng Nguyễn Thành Trung huấn luyện một số phi công vừa từ Hà Nội vào lái A-37.
Bước đầu các phi công lúng túng với kiểu máy bay hoàn toàn khác lạ. Trước đây, họ chủ yếu sử dụng máy bay tiêm kích chiến đấu trên không để đánh chặn. Lần này nhiệm vụ của họ là phải sử dụng thành thạo những “con chim sắt” A-37 mà trước đó còn là đối thủ của MiG trên bầu trời để làm nhiệm vụ oanh tạc mục tiêu. Những nút điều khiển bằng tiếng Anh trên chiếc A-37 được thay bằng tiếng Việt cắt dán lên. Chỉ sau hai ngày huấn luyện, các phi công lần lượt bay thử thành công.
Trận ném bom chiến lược
Trưa 27-4-1975, các phi công chuyển vào sân bay Phù Cát - Bình Định với nhiệm vụ hoàn toàn bí mật. Tại đây, phi đội chiến đấu được thành lập lấy tên “Phi đội Quyết Thắng”, gồm các phi công Nguyễn Thành Trung, Từ Để, Mai Xuân Vượng, Hán Văn Quảng và Trần Văn On. Phi đội nhận năm máy bay A-37, mỗi chiếc được lắp bốn quả bom 500 kg, hai quả bom phá 250 kg và bốn thùng dầu phụ chuẩn bị cho chuyến bay xa. Đúng 9 giờ 30 ngày 28-4-1975, cả phi đội rời sân bay Phù Cát hạ cánh xuống sân bay Thành Sơn (Phan Rang) sau 1 giờ bay để rút ngắn khoảng cách với Sài Gòn.
“Đến sân bay Thành Sơn chúng tôi mới nhận nhiệm vụ, mục tiêu tấn công là khu vực để máy bay chiến đấu, đường băng, kho bom đạn của không quân ngụy tại sân bay Tân Sơn Nhất. Phải ném bom chính xác vào mục tiêu, đảm bảo tuyệt đối an toàn cho nhân dân và hai đoàn đại biểu của ta trong ủy ban quân sự bốn bên đang ở trại David tại sân bay Tân Sơn Nhất. Nguyễn Thành Trung thay mặt phi đội hứa với Quân chủng sẽ thực hiện nghiêm mệnh lệnh, bảo đảm bí mật, bất ngờ, công kích mãnh liệt, chính xác, trở về an toàn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Đảng và nhân dân giao phó” - anh On hồi tưởng.
Cả phi đội thảo luận tác chiến, phân công vị trí bay trong đội hình, tổ chức hiệp đồng, dự kiến tình huống, cách xử trí. Đường bay được chọn là từ Thành Sơn hướng ra Vũng Tàu rồi vòng về Sài Gòn. “Trong quá trình bay, tất cả chúng tôi không được dùng bộ đàm buồng lái được trang bị sẵn trên máy bay mà phải dùng vô tuyến đối không vừa trang bị thêm để đảm bảo tuyệt đối bí mật” - anh On kể lại.
Đúng 16 giờ 30 ngày 28-4-1975, Phi đội Quyết Thắng xuất kích. Để tránh tiêu hao nhiên liệu, tốc độ bay khoảng 230 knot/giờ (tương đương 370 km/giờ, 1 knot = 1,6 km - PV). Đối với loại máy bay cường kích đây là tầm bay thấp để tránh rađa địch.
Chập choạng tối, cả phi đội đã đến Tân Sơn Nhất mà địch không hề hay biết. Từng dãy máy bay quân sự, dân sự, ôtô, nhà kho hiện rõ phía dưới. Nguyễn Thành Trung phát lệnh tấn công, cả phi đội lần lượt bổ nhào xuống nhằm vào khu đỗ máy bay quân sự, đường băng, kho xăng cắt bom. Hoàn thành nhiệm vụ, cả năm chiếc máy bay trở về sân bay Thành Sơn an toàn.
Phi công làm ruộng
Sau giải phóng, Trần Văn On tiếp tục tham gia chiến đấu trong chiến tranh biên giới Tây Nam. “Tôi có ba lần oanh tạc đảo Vai, mở đường cho bộ binh của ta chiếm lại đảo” - anh On kể. Sau chiến tranh biên giới, anh xin ra quân, lặng lẽ về xã Vĩnh Hựu, huyện Gò Công Tây, Tiền Giang, trở thành một nông dân thực thụ, tỉ mẩn cần cù chăm sóc vợ con.
Cuộc sống khó khăn, vợ anh nghỉ nghề giáo viên, ở nhà cùng anh cày cấy bốn công ruộng để nuôi sáu mặt con. Những ngày nông nhàn, anh On làm thuê đủ nghề để kiếm tiền. Hôm chúng tôi đến, vợ chồng anh On đang tất bật với đàn heo nái. Anh On cho biết mảnh ruộng nhỏ xíu anh đã chia một phần cho người con trai ra riêng. Lâu nay, anh phải chăn nuôi thêm mới đủ sức lo cho các con ăn học. Ngay trận dịch cúm gia cầm đầu tiên, cả nhà anh lao đao vì toàn bộ đàn gà bị tiêu hủy. Sau bận đó, vợ chồng anh chuyển sang nuôi heo. Giá cả thị trường lên xuống thất thường nhưng người chiến binh năm nào vẫn kiên trì bám trụ.
Dẫn chúng tôi đi thăm căn nhà cấp bốn nhỏ xíu, anh On khoe, đây là thành quả lao động suốt mấy chục năm qua của vợ chồng anh, còn “tài sản” lớn nhất bây giờ là các con. Sáu người con đều rất ngoan hiền, hiếu thảo và thương yêu nhau.
Mân mê chiếc A-37 mô hình bằng nhôm nhỏ xíu mà đồng đội tặng làm kỷ niệm, anh On kể về quãng đường “đăng lính” của anh ngày xưa. Học xong tú tài, lệnh tổng động viên năm 1968 buộc anh dẹp bỏ giấc mơ kỹ sư cơ khí chế tạo để cầm súng ra trận. “Những tháng ngày quân ngũ, rồi 18 tháng đào tạo lái máy bay ở Mỹ, quay về Việt Nam trong màu áo quân lực Việt Nam Cộng hòa, tôi quá sức chán chường khi phải tham gia cuộc chiến và chỉ mong nó kết thúc!” - anh On tâm sự. Chúng tôi hỏi khi cầm lái chiếc A-37 tham gia ném bom sân bay Tân Sơn Nhất trong lúc Sài Gòn chưa được giải phóng, ở vị trí bay cuối, anh có thể rời bỏ đội hình, anh có ý nghĩ quay về với chế độ cũ không. Anh trả lời rất nhanh “Không! Khi quyết định ra trình diện quân cách mạng và đề đạt nguyện vọng xin được tham gia chiến đấu là mong sớm chấm dứt cuộc chiến phi nghĩa!”.
Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Nhất mà anh nhận vào đúng ngày 30-4-1975 được treo trang trọng giữa nhà, ghi: “Đồng chí Trần Văn On đã có thành tích xuất sắc trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu chống Mỹ cứu nước”. Đây là chứng vật chứng minh anh là người lính quân giải phóng. Nhưng sau hơn 36 năm với chiến tích oai hùng, từng tham gia trận ném bom lịch sử vào sân bay Tân Sơn Nhất và nhiều trận ném bom khác trên chiến trường biên giới Tây Nam, Trần Văn On vẫn chưa được công nhận là cựu chiến binh.Và xin mời đọc lại "Trận Đánh Cuối Cùng" của dvah để biết rõ hơn về khả năng của bọn "giặc lái" Việt Cộng:
TRẬN ĐÁNH CUỐI CÙNG
Đào Vũ Anh Hùng
Ngày 13-6-96, hãng thông tấn Reuter đánh đi một bản tin về Nguyễn Thành Trung, phi công A-37 của Không Lực VNCH đã lấy máy bay xạ kích dinh Độc Lập và hướng dẫn hai chiếc A-37 khác đánh phá phi trường Tân Sơn Nhất chiều ngày 24-4-75, ngày hấp hối của miền Nam Việt Nam.
Bản tin cho biết, Nguyễn Thành Trung, phi công chiến đấu của KLVNCH được huấn luyện tại Hoa Kỳ từ năm 69 tới 72, là hoa tiêu trưởng phi cơ của Hàng Không Việt Cộng, năm 1995, đã lái chiếc Boeing 767 chở tên chủ tịch nhà nước Lê Đức Anh qua New York dự ngày kỷ niệm thứ 50 của Liên Hiệp Quốc. Trả lời cuộc phỏng vấn của thông tín viên Reuter tại Tân Sơn Nhất, Nguyễn Thành Trung kiêu hãnh nói, “Năm ngoái tôi bay trở lại Hoa Kỳ, đến Nữu Ước bằng chiếc phi cơ này, đáp tại phi trường Kennedy với máy bay riêng của chúng tôi, mang huy hiệu và sơn cờ riêng của chúng tôi, đến thẳng đất Mỹ!” (Last year, I flew back to America , to New York , in this aircraft, with our logo, with our flag, to the American land, he says proudly - Reuter).
Nguyễn Thành Trung, tên Việt Cộng nằm vùng được địch gài trong hàng ngũ chúng ta. Trung đã góp phần gây hoang mang, làm sụp đổ tinh thần chiến đấu của quân dân miền Nam, gián tiếp đầy đọa, giết hại anh em đồng đội trong các trại tù cải tạo để đổi lấy vinh thân, được Việt cộng tưởng thưởng công lao phản nghịch đó bằng địa vị hôm nay.
Cuộc oanh kích dinh Độc Lập và sau đó, phi trường Tân Sơn Nhất chiều 28-4-75 của năm chiếc phi cơ A-37, đã được Việt cộng tuyên dương như một chiến tích anh hùng. Hàng năm, đến ngày 30-4, báo chí của chúng đều nhắc đến cái gọi là ”thành tích lịch sử” của Phi Đội Quyết Thắng do Nguyễn Thành Trung dẫn đầu với một phi công A-37 khác của Không Lực VNCH là Trần Văn On, cùng bọn giặc lái Việt cộng Từ Đễ, Mai Vượng, Nguyễn Văn Lục, Hán Văn Quảng. On và Xanh là hai phi công VNCH, tù binh bị Việt cộng bắt ở Đà Nẵng, ép buộc phải thi hành công tác huấn luyện cấp tốc cho giặc lái MIG Việt cộng, để theo Nguyễn Thành Trung bay vào đánh Saigon.
Bài tường thuật đăng trên tờ Lao Động của Việt cộng xuất bản ngày 2-5-96 cho biết Phi Đội Quyết Thắng do Nguyễn Thành Trung bay ở vị trí số một, vừa là chỉ huy “Biên đội” (Phi đội), vừa là người dẫn đường. Bay số hai là Từ Đễ (con trai giáo sư Từ Giấy, Đại học Tổng Hợp Hà Nội), hiện đeo quân hàm Đại tá ở Bộ Tham Mưu Không Quân Cộng sản. Bay số ba là Nguyễn Văn Lục, Phó chỉ huy Biên đội. Số bốn là Hán Văn Quảng, hiện là Đại tá Sư trưởng Sư đoàn Không Quân của chúng. Máy bay số năm có hai người: Mai Vượng, quê ở Diễn Châu, Nghệ An (đã chết năm 1976) và Trung úy phi công “Ngụy” Trần Văn On.
Bọn giặc lái Việt cộng (Lục, Đễ, Quảng, Vượng) từ trước đến nay chỉ quen với máy bay MIG-17 của Nga, chưa từng biết tới A-37 của Mỹ bao giờ. Giặc lái Việt cộng vào Đà Nẵng từ ngày 22-4-75 để học lái A-37 cấp tốc trong vòng năm ngày. Nguyễn Văn Lục cho biết y chỉ bay tập được ba chuyến trong năm ngày đó. Lục nói, “Các bộ phận điều khiển của máy bay A-37 toàn là tiếng Anh, anh em chúng tôi nhờ người dịch ra tiếng Việt, rồi cắt giấy dán đè lên tiếng Anh để biết mà xử dụng…”
Tư Lệnh Không Quân Việt cộng thời đó là Lê Văn Tri, Thiếu tướng, đã trực tiếp giao nhiệm vụ cho bọn Lục. Y khoe, “Sau chiến thắng trở về, đồng chí Đinh Đức Thiện gặp chúng tôi, nói rất vui, “Chúng mày rất giỏi. Lính tao chuyển loại xe ô-tô cũng phải mất năm ngày, huống gì là máy bay của chúng mày... Giỏi, giỏi lắm!”…”
Cái “giỏi lắm” của bọn giặc lái Việt cộng Từ Đễ, Nguyễn Văn Lục, Hán Văn Quảng là cái giỏi… “nói phét”! Việt cộng tổ sư nói phét không biết ngượng là gì trong bất cứ ngành nghề, giai cấp nào của chúng. Tên tướng Không quân Việt cộng xuất thân từ giới lơ xe đò Đinh Đức Thiện khen ngợi bọn Lục “giỏi lắm” chỉ là thói quen “mèo khen mèo dài đuôi” của bọn “đỉnh cao trí tuệ” mà anh em tù cải tạo ai cũng biết. Việt cộng làm gì cũng tự cho là giỏi. Không thấy ai khen, chúng tự vỗ tay khen chính mình, khen líu lo nồng nhiệt không biết ngượng thì cái chuyện anh Thiện khen em Lục chẳng có gì là lạ!
Để biết rõ cái “giỏi lắm” của những chiến sĩ “người lái anh hùng” nhãn hiệu Vi-Xi thế nào, mời bạn đọc hãy cùng chúng tôi đọc truyện ngắn “Trận Đánh Cuối Cùng” của văn sĩ Hữu Mai viết ca tụng “anh hùng” Nguyễn Thành Trung và các đồng chí giặc lái Vi-Xi của y một cách trơ trẽn vô duyên trong tuyển tập “Văn 1957-1982” do Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số kỷ niệm lần thứ 25, xuất bản năm 82, để thấy trình độ nói phét của Vi-Xi nó “siêu” đến chừng nào mà cười đau khóc hận cho vận số hẩm hiu đất nước…
* *
Hữu Mai mở đầu “Trận Đánh Cuối Cùng” bằng câu “Một ngày thật dài…”. Y cho biết buổi sáng hôm đó còn ở Gia Lâm, có lệnh đi công tác ngay bằng chiếc IL-18. Đi người không và một giờ sau đáp phi trường Đà Nẵng. Hữu Mai viết theo thể văn tự thuật, dùng chữ “chúng tôi” nên người ta có thể hiểu y chính là một trong những tên giặc lái Vi-Xi được cử vào Nam làm cái “Mission Impossible” này và viết bài tường thuật. IL-18 là phi cơ vận tải như C-47 của Không Quân miền Nam . Y nói “lần này chúng tôi đi công tác người không” - chắc là cho nhẹ, để chuyến về còn chở theo chiến lợi phẩm “hia” được của miền Nam “phồn vinh giả tạo”. Có lẽ bọn y không mang theo cả vỏ cau khô đánh răng, khăn mặt hay cơm nắm muối vừng làm chi cho nặng. Hữu Mai chắc ăn, không cần bắt chước đàn anh Khổng Văn Tuyết ngày xưa… tay đôi không chiến với máy bay “Con Ma” (Phantom) hay “Thần Sấm” (Thunderbolt) của đế quốc Mỹ xâm lược. Anh hùng Khổng Văn Tuyết bay phi cơ MIG đem theo cơm nắm muối vừng, một ấm nước vối và cả cái điếu cầy lên trời, tắt máy phây phả nằm gác chân chữ ngũ mai phục trong mây, đợi từ sáng tới chiều cho khỏi tốn xăng, khi thấy phi cơ Mỹ tới là mở máy nhào xuống bắn hạ cái một…!
Bọn giặc lái Vi-Xi hạ cánh xuống phi trường Đà Nẵng sau một giờ bay. Sân bay Đà Nẵng “rộng và dài hun hút” được Hữu Mai mô tả là “siêu cấp”, hơn gấp bội phi trường Gia Lâm của miền Bắc anh hùng. Cái phi trường Gia Lâm của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc, theo lời cậu Trác “Thuốc Lào” phi công C-130 kẹt lại, đã từng bay chở cán bộ, bộ đội Vi-Xi từ Bắc vào Nam công tác và chở đồ thổ phỉ gồm cả kẽm gai, tôn gỗ và… ghế đá công viên từ Nam ra Bắc; sau còn được trưng dụng dạy bay và dạy Địa huấn cho bọn giặc lái Việt cộng trước khi “thầy” bị cho đi tù cải tạo. Hồi vượt biển qua Mỹ, cậu Trác đã kể lại với kẻ hèn này rằng:
- Phi trường Gia Lâm vắng như nghĩa địa bỏ hoang, cỏ tranh mọc cỡ đầu người… Tớ đáp xuống, thấy bộ đội lũ lượt từng đoàn vác liềm vào cắt cỏ tranh rồi gồng gánh đi ra… Sau đó lại một bầy dân chúng kéo vào mót những đám tranh còn sót lại! Phi trường này cũng như phi trường Bạch Mai không có đài Kiểm soát Không Lưu. Mỗi lần có máy bay ngoại quốc đến, chúng nó mướn một thằng Air Traffic Control người Nhật nói tiếng Anh vào hướng dẫn cho phi cơ đáp hoặc cất cánh xong rồi về.
Nên chi nhìn thấy phi trường “siêu cấp” Đà Nẵng, bọn pilot Việt cộng cứ nghệt mặt ra. Hữu Mai cho biết, “Ngay sau khi đáp xuống Đà Nẵng, có đồng chí Tham Mưu trưởng đứng đợi bên chiếc A-37 sơn màu vằn vện, hình thù dữ dội, giống như một con thú rừng chưa thuần hóa”. Đàn anh ra lệnh cho các đàn em tập buồng máy ngay, “chỉ có từ ba đến năm ngày chuẩn bị”.
Màn tập tành “ba đến năm ngày” này quả là chuyện phong thần. Nhưng ai không làm được chứ Vi-Xi cái gì mà làm không được? Không làm được bằng chân tay, trí óc, các con làm bằng… mồm! Hữu Mai viết, “Nếu trước đây có ai nói như vậy thì đó là nói đùa. Trong chiến tranh, những lần chuyển loại máy bay gấp gáp nhất cũng phải mất ba tháng. Không thể đùa với máy bay. Ở trên không, không có điều kiện để rút kinh nghiệm cho những sai lầm…”
Nói vậy cho nổi bật cái khả năng thần thánh của con người cộng sản ”siêu cấp” và để bọn Ngụy nghe mà sợ chơi. Câu nói trên là áp dụng cho việc chuyển loại phi cơ cộng sản thôi đấy, mà cũng cần tới ba tháng là tối thiểu. Vậy mà các “đỉnh cao trí tuệ” chỉ cần từ ba tới năm ngày, nghe phát rét. Huống hồ bọn giặc lái Vi-Xi tiếng Anh tiếng U không biết một mẩu, ngoài ba tiếng “oẳn tù tì”…! Hữu Mai viết, “Mỗi feet bằng bao nhiêu đơn vị đo lường của ta nhỉ? Làm thế nào hiểu được hết những tiếng Anh trong buồng lái để khỏi phải nhớ các công-tắc, các đồng hồ bằng vị trí của chúng?...”
Cái này phải hỏi cậu Trác Thuốc Lào, tự nhà văn KQ Trác Vũ. Cậu Trác Thuốc Lào một lần chịu không nổi những quả… ngu của lũ giặc lái con cháu lão Hồ, đã buột miệng chửi thề, xém bị mất cái chỗ đội mũ vì lỡ “hỗn”, lỡ coi thường các đấng đỉnh cao trí tuệ. Cậu Trác kể:
- Phi công Việt cộng, chúng nó từng qua Nga học bay MIG. Nhiều đứa ở Nga đến 6, 7 năm mà khi về nước vưỡn đếch biết nói tiếng Nga La Tư mới tếu! Bọn chúng nó đi học, có thông dịch viên đi kèm theo để theo dõi, kiểm soát… Trong lớp thầy dạy gì, kệ bố thầy, chúng không cần nghe vì khi về phòng có thằng thông dịch lại… Tớ bỏ công dịch tất cả sách kỹ thuật tiếng Anh ra tiếng Việt, dạy chúng nó hoàn toàn bằng tiếng Việt. Thế mà mình đọc, chúng không hiểu. Đánh vần đi đánh vần lại từng chữ như dạy trẻ con i-tờ-rít, chúng nó vẫn không biết viết ra làm sao. Tớ lập đi lập lại, bọn chúng vẫn ngớ ra như chúa tàu nghe kèn, mặt đần độn trông phát giận… Một lần, nhịn không được, tớ buột miệng chửi thề, “ĐM, sao các anh ăn gì mà ngu quá vậy?” Mình quen mồm như trước đây đùa rỡn với bạn bè… Chúng nó sừng sộ hỏi tội làm tớ xanh mặt.
Kẻ hèn này hồi đó nghe cứ tưởng cậu Trác bôi bác Vi-Xi, không tin nổi, nghĩ rằng cậu phịa ra để tếu chơi. Lạ gì cái giống Không Quân, bạn bè gặp nhau, đúng tần số là tha hồ đấu hót vung vít, hư thực khó lường… nên bèn hỏi đểu một câu:
- Thế hả? Thì ra chúng nó là bọn ngu cả lũ. Nhưng “ngu” mà chúng nó bay MIG, dám chơi “dog fight” tay đôi với pilot Mỹ? Cậu Trác nói vậy thì chúng tôi biết vậy...
“Dog fight” có nghĩa là “không chiến”, là vác máy bay uýnh lộn trên mây, giữa từng trời. Cậu Trác Thuốc Lào được coi là một pilot vận tải hiền nhất nước Không quân, thật thà như đếm. Nghe kẻ hèn này nói câu móc lò, cậu chỉ cười cười, phô hai hàm răng đầy nhựa thuốc lào, kể tiếp:
- Đằng ấy tưởng chúng nó bay MIG thật đấy hả? Mình lầm hết. Mấy cậu Mẽo đồng minh mặc cảm, sợ quốc tế chê cười nên nhiệt liệt thổi phồng pilot Vi-Xi là ghê gớm để tăng giá trị của mình và để khỏi mang tiếng người nhớn bắt nạt ranh con. Chúng nó có đi Nga thật, học tới sáu, bẩy năm lận. Nhưng chúng chỉ lo buôn lậu “quần bò” đem về nước bán kiếm lời, bay với bổng mẹ gì. Toàn là bọn con ông cháu cha hay thành phần chăn trâu gánh nước có thành tích đấu tranh giai cấp tích cực, đấu cha, tố mẹ, dò la hàng xóm, được phong làm “anh hùng”, cho đi học lái nhưng chữ nghĩa đâu mà học?… Các cuộc không chiến với phi cơ Mỹ đều do pilot Bắc Hàn hay Trung cộng lái. Pilot Vi-Xi được cho đi theo, nhiều đứa thú thật với tớ chỉ là… “thợ vịn”! Ngoài Bắc chúng gọi bằng danh từ rất kêu, là “tháp tùng tử”!
“Người lái” kiêm nhà văn Hữu Mai, hôm đầu tiên khi từ Bắc vô Nam tay không (cầm bó rau), mô tả rằng bọn y đêm đó lo cóc ngủ nghê gì được. Phần vì cấp trên giao phó cho nhiệm vụ học bay A-37 chỉ trong vài ngày – với sức các cậu – “sỏi đá làm thành cơm” tương đối dễ ợt, chứ bay bổng loạng quạng là tan nát đời huê ngay. Cậu tả oán, lý do mất ngủ thứ hai là do… không khí. Mùi máy lạnh và vì cái nệm mút dầy êm quá, các cậu ngủ không quen… “Không khí hơi ngột ngạt. Chắc là còn phải một thời gian mới quen được với cái mùi nhân tạo của máy điều hòa nhiệt độ. Một mùi hăng hắc, nồng nồng. Mùi gì vậy?... Ngoài kia, ở thành phố đang tỏa một vùng ánh sáng xanh trong lên bầu trời đêm, chắc còn nhiều thứ chúng tôi còn phải lạ lắm!”
Đúng dzậy! Các con sẽ còn thấy nhiều thứ “lọa” hơn nữa ở miền Nam . Cái mùi đó là mùi “hăm-bơ-gơ” của đế quốc, khi đã quen rồi, các con sẽ ghiền và khi ghiền tới độ nặng là các con sẽ chết không kịp ngáp đấy. Mất ngủ, suy nghĩ đến gần phát hoảng, Hữu Mai dẹp tự ái “đỉnh cao trí tuệ”, ao ước, “Giá có mấy anh nhân viên lái cũ của Ngụy ở gần đây để yêu cầu họ ghi lại cho những hàng chữ Anh ở trong buồng lái thì hay quá. Mỗi tối trước khi ngủ say sẽ in luôn nó vào trí nhớ…”
Mẹ kiếp, khi tỉnh học còn cóc vô, học theo lối “ngủ say” thì học với hành thế chó nào được? Mà chỉ có từ ba tới năm ngày để bay cho được chiếc A-37. Ngụy chúng nó trước khi học lái, phải tới Lackland trụ trì ít nhất vài tháng học Anh ngữ. Hữu Mai sau đó kể rằng y và đồng bọn được hai “nhân viên lái” mới được lựa chọn từ trại tập trung về kèm cho các cậu học Anh văn và học bay. “Cả hai đều gầy nhom. Người cao để râu tên là Xanh, người Quảng Bình, theo gia đình di cư vào Nam năm 1954. Người thấp nhỏ là On, quê ở Gò Công. Cả hai người đều ngạc nhiên khi thấy chúng tôi không hỏi đến vấn đề cơ bản, không hỏi về cách xử trí trong trường hợp máy móc hỏng hóc, mà hỏi ngay vào công-tắc điều khiển những đồng hồ bay…”
Cái này phải xét lại ạ. “Những vấn đề cơ bản” nghĩa là cần điều khiển phi cơ, là những nút bấm, nút bật để mở máy, để chỉnh động cơ, để điều khiển bánh đáp, góc dựng cánh lái đuôi, vv… các con không cần hỏi tới thì bay cái củ gì? Các con muốn chứng tỏ ta đã ránh nghề, đâu cần biết tới vài ba cái lẻ tẻ, hay hỏi những cái “cơ bản” sợ quê xệ với bọn giặc lái Ngụy? Bọn giặc lái Ngụy, phi công phản lực A-37 bị các con khi dễ, chê là “gầy nhom”, đâu phải vì miền Nam đói khổ, thiếu dinh dưỡng? Mà vì họ mới được móc từ trong “tù cộng sản” ra đấy!
Cậu Trác Thuốc Lào kể chuyện hồi đó trong chuyến bay chở đồ thổ phỉ ra Bắc, có một thằng đại tá Không quân Việt cộng đi theo, đòi lên phòng lái ngồi ghế copil thay thằng công an “bảo vệ” như thường lệ. Trên đường bay, trời êm ả, cậu Trác lên cơn ghiền, móc cái điếu cầy ra, rít một bi thuốc lào. Đang phê phê khoái tỉ thì anh đại tá Không quân Nhân dân tò mò hỏi chàng giặc lái miền Nam :
- Cái đồng hồ này là đồng hồ gì, có mỗi một cánh tay?
- Dạ, nó là cái đồng hồ “ây-đi-ép” (ADF), dùng để bay phi cụ khi trời xấu không thấy đường, từ điểm này tới vị trí khác. Có nó mới lấy đúng hướng được, không sợ phi cơ mất hướng, bay lạc…
ADF là “Automatic Directional Finding”. Tên Đại tá Vi-Xi nhìn cậu Trác Thuốc Lào với vẻ nghi hoặc kỳ cục:
- Anh nói thật chứ? Đề nghị anh giải thích thêm cho tôi được đả thông. Tôi không hiểu sao lại có thứ đồng hồ gì lạ như vậy?
Cậu Trác nhà ta cũng nhìn tên Đại tá bằng vẻ nghi hoặc kỳ cục không kém:
- Phi cơ có ba cái đồng hồ phi cụ căn bản là đồng hồ chỉ cao độ, vận tốc và đồng hồ chỉ hướng, hay la bàn. ADF là đồng hồ tìm hướng khác, dùng tần số đài phát tuyến cố định dưới đất.
Khi thấy thằmg cha Đại tá hỏi, tớ tưởng nó muốn thử, muốn khảo sát trình độ và khả năng của mình, nên tớ ậm ừ không nói. Nhưng sau thấy nó có vẻ không biết thật ông ạ. Nó đưa tay sờ sờ cái đồng hồ, trầm ngâm nghĩ ngợi rồi hỏi nữa, “Anh nói bị mất hướng, dùng đồng hồ này lấy lại được đúng hướng à?”. Nó bảo tớ biểu diễn thử, lúc bấy giờ tớ mới tin là nó không biết thật! Tớ cho phi cơ vòng trái vòng phải, nhào lên chúi xuống, quẹo tới quẹo lui, tăng giảm cao độ lung tung xong mới đem về bình phi, lấy cao độ cũ và chỉnh mũi phi cơ bay theo đúng hướng cũ của đồng hồ ADF. Thằng Đại tá ngồi bên bị vertigo, mặt cứ thộn ra. Mãi nó mới hoàn hồn, tấm tắc:
- Hiện đại thật…! Đúng là Mỹ có khác!
Pilot C-130 Trác Thuốc Lào sau đó mới cảm thấy tự nhiên, thấy hân hoan vì mình “nhớn” hơn anh Đại tá Vi-Xi nhiều – ở tài bay và kiến thức phi hành. Trác Thuốc Lào từ hôm đó mới biết rõ:
- Mất miền Nam đau quá. Chúng nó ngu hơn chó chứ tài giỏi gì. Chúng chỉ giỏi lừa bịp và nói phét! Trình độ một thằng Đại tá, khả năng và kiến thức không bằng một Thiếu úy của mình. Tớ có hỏi nó, ở ngoài Bắc phi cơ của các ông không có đồng hồ giống như ADF của chúng tôi, làm sao mà bay từ tỉnh này tới tỉnh kia khi thời tiết xấu hay bay đêm được?
Xin bà con Không Quân lắng nghe câu trả lời của cậu Đại tá Không quân Hà Nội rất đáng đồng tiền bát gạo như thế này:
- Ngoài Bắc chúng tôi dứt khoát không bay đêm. Chúng tôi có khẩu hiệu “Tự Đi, Tự Đến, Tự Về”. Nghĩa là khi nhìn thấy rõ đường đất làng mạc bên dưới thì người lái cứ việc tự mình bay theo con đường lúc đi và khi về cũng bay theo đường cũ mà về, vừa an toàn mà vừa không cần có người dưới đất điều hành chỉ đạo đường bay như các anh!
- Hèn chi, cậu Trác nói, có lần tớ để cho một thằng giặc lái Vi-Xi lái từ Hà nội đi Tuyên Quang. Nó bay như thằng say rượu, bay rất thấp dưới mây và cứ lò dò bay theo đường lộ. Buổi chiều, theo lời dặn, bốn giờ rưỡi phải trở về Hà nội, tớ ra mở máy… Đang loay hoay check máy thì ba thằng Vi-Xi xách súng AK chĩa vào tớ quát tớ tắt máy đi xuống…
Lúc đó trời mưa lâm râm. Thằng cán bộ xếp xòng xừng sộ hỏi Trác:
- Đi đâu? Ai cho anh mở máy?
Trác phân bua:
- Cán bộ bảo bốn rưỡi về mà?
- Không về. Trời mưa. Ở lại đây tối nay.
- Nhưng mưa nhỏ… Mưa phùn bay đâu có sao?
Y trợn mắt nhìn Trác:
- Anh không biết bay trong mưa nguy hiểm sao? Tôi nói ở lại hôm nay!
Khả năng của cậu Đại tá Không quân ngành bay Việt cộng là như thế. Hữu Mai cấp bậc gì, y không giới thiệu, nhưng khả năng chắc cũng chẳng khá hơn đàn anh Đại tá với tiết lộ về khẩu hiệu “tự đi, tự đến, tự về” làm té ngửa bà con Không Quân Ngụy, thoạt nghe tưởng phi cơ được trang bị hệ thống ô-tô-pai-lốt “hiện đại”, tự nổ máy, tự cất cánh, tự bình phi, tự tìm lấy đường về căn cứ, tự hạ cánh, tự lồm cồm bò đi đổ xăng, và tự di chuyển vào bãi đậu…!
Đêm đầu tiên không ngủ. Đêm sau bớt lo vì đã có hai anh giặc lái Ngụy tên Xanh và On đến giúp nhưng cũng khó ngủ vì cái mùi “hăm-bơ-gơ” của đế quốc nó ám ảnh quá trời trời. Hữu Mai thuật lại rằng, Xanh và On đã rụt rè hỏi chúng tôi, “Chúng em muốn đề nghị các anh cho đi theo trong trận đánh được không? Chúng em sẽ không phụ lòng tin cậy của các anh…” Mẹ kiếp, toàn dân Không Quân chúng ta có ai tin được không, cái giọng “điếu đóm” sặc mùi Vi-Xi nghe hèn không tả được. Pilot Không Lực Việt Nam Cộng Hòa làm gì có thói quen xưng hô “anh, em” với cấp trên và cấp trên “mày, tao” với cấp dưới như anh tướng lơ xe Đinh Đức Thiện của quân đội Vi-Xi? Nhờ các cậu một tí. Viết gì thì viết nhưng cũng phải gần với sự thật người ta mới tin. Đem bôi bác địch kiểu đó chỉ làm cho địch nó cười!
Sau đó Hữu Mai tường thuật đến kế hoạch dùng phi cơ A-37 của VNCH để tấn công bất ngờ phi trường Tân Sơn Nhất nhằm gây chấn động tâm lý và hoang mang quần chúng, đẩy nhanh đà di tản của Mỹ. Y nói đến những mối lo, cốt tăng phần nghiêm trọng cho phi vụ “Biên đội không có máy bay tiêm kích đi kèm để bảo vệ. Nếu kẻ địch phát hiện máy bay lạ từ phía Bắc bay xuống, chắc chắn chúng sẽ dùng bọn F-5 để ngăn chặn…” Và “Làm thế nào để lọt qua mạng lưới ra-đa tối tân của địch trên suốt chặng đường dài từ nơi máy bay cất cánh đến Tân Sơn Nhất? Lần này lại không có đài dẫn đường, chúng tôi đều chưa thuộc địa hình, làm sao bay đến đúng mục tiêu?”
Hữu Mai còn nói đến nguy hiểm thời tiết, mưa bất ngờ và kể ra nào hệ thống cao xạ phòng không của cả hai phía nhắm bắn vì không biết phi cơ phe nào. Y kể ra một lô những trở ngại nhưng sau đó kết luận, “Mọi trở ngại đều được lần lượt giải quyết (?)”.
Vai trò của Nguyễn Thành Trung bấy giờ mới được nói đến, “Đồng chí Nguyễn Thành Trung bảo đảm sẽ đưa toàn Biên đội đến mục tiêu. Anh là người của ta hoạt động trong hàng ngũ Không Quân Ngụy, mới từ bên kia chiến tuyến trở về sau khi đã trút hai trái bom xuống dinh Độc Lập. Ta sẽ cố tránh các trận địa cao xạ cả của ta và của địch được chừng nào hay chừng ấy… Chúng tôi sẽ cố giáng cho kẻ địch một đòn thật bất ngờ…”
Nguyễn Thành Trung dẫn đầu Biên đội tới mục tiêu, với On được tham gia trận đánh. Trung là kẻ đã tích cực đóng góp ý kiến vào kế hoạch đánh Tân Sơn Nhất bởi tên phi công phản quốc này nằm vùng, nắm rất rõ tình hình và địa hình cùng các yếu tố quan trọng khác. Chúng dùng phi cơ A-37 phát xuất từ phi trường “siêu cấp” Phan Rang, sân bay Thành Sơn. Theo kế hoạch, Trung sẽ xuống đầu tiên “cắt” bốn lần bốn trái bom thành một vệt dài làm chuẩn cho những máy bay sau oanh kích.
Dù có khả năng siêu việt “tự đi, tự đến, tự về” nhưng bọn giặc lái Vi-Xi cũng thập phần vất vả từ Phan Rang bay vào vì… trời mưa! Để chứng tỏ trời mưa nguy hiểm đến độ phi công Ngụy cũng teo bu-di cho đỡ mất mặt bầu cua, Hữu Mai viết, “Sau này, đồng chí Nguyễn Thành Trung nói lại với chúng tôi, trên đường bay có lúc anh nẩy sinh ra ý nghĩ đưa Biên đội quay trở về vì thấy thời tiết quá xấu.” Y mô tả cảnh rùng rợn, khi chiếc A-37 dẫn đầu của Nguyễn Thành Trung chui vào mây, các anh con giặc lái Vi-Xi tí nữa thì… xón đái, thần kinh căng thẳng, bởi như anh Đại tá Vi-Xi đã nói, “Ngoài Bắc trời mưa, chúng tôi không bay!”
Cũng may cơn mưa nhẹ hều và cục mưa bé tí xíu nên chưa đầy ba mươi giây đồng hồ bọn không tặc Vi-Xi đã bay ra vùng trời sáng rỡ… “Chúng tôi đã ra khỏi mây. Không phải mất nhiều công tìm kiếm, lại nhìn thấy máy bay của Biên đội trưởng…”
Hú vía. Vừa thoát nạn là các con lại yên tâm nói phét ngay. Hữu Mai, có lẽ là tên giặc lái Mai Vượng viết thế này, “Chúng tôi nhìn xuống mặt đất. Phía trước không xa, hai dãy nhà thấp cao lố nhố nằm dọc theo một trục đường. Đúng là một thị trấn. Bà Rịa đây rồi! Người bỗng cảm thấy nhẹ nhõm hẳn. Đồng bào đi lại rất đông trên mặt đường. Đột nhiên những đám người đông đặc ấy vỡ ra, tóe sang hai bên đường và bỗng chốc quang hẳn đi. Chúng tôi hiểu ngay… Đồng bào tưởng nhầm chúng tôi là những máy bay từ Saigon đến oanh tạc. Lòng chúng tôi se lại với ý nghĩ có hàng ngàn cặp mắt đang ném về phía mình những cái nhìn căm ghét và sợ hãi…”
Nhờ cậu tí. Saigon ở hướng Nam của Bà Rịa, phi cơ các cậu bay từ hướng Bắc xuống, đồng bào “tưởng nhầm” thế quái nào được? Đoàn người suôi Nam để chạy các cậu đấy, sợ các cậu đấy, căm ghét các cậu đấy. Không Quân miền Nam, trong chiến tranh, đôi khi xảy ra chuyện “ném chuột vỡ đồ”, đồng bào có thể lâm vào cảnh tên bay đạn lạc nhưng con số thật ít nhưng không ai thù ghét Không Quân bằng thù ghét cái bọn đi đến đâu là đem tang tóc điêu linh đến đó như lũ cha con đồng chí của các cậu. Vụ chôn sống mười ngàn người hồi Tết Mậu Thân 68 ở Huế mới khiến đồng bào dẫm đạp lên nhau mà chạy, gây nên thảm trạng “Đại Lộ Kinh Hoàng” hồi mùa hè đỏ lửa 72 và cảnh di tản “Con Đường Máu” từ Pleiku về Tuy Hòa tháng 3, năm 1975…
Hữu Mai lòng thòng kể chi tiết “Trận Đánh Cuối Cùng” vào Tân Sơn Nhất với đầy đủ tính chất ly kỳ gay cấn và đầy phét lác kiểu Vẹm ăn không nói có cực kỳ trơ trẽn và nham nhở, ba xạo không thể tả. Chẳng hạn bay hành quân đột kích Tân Sơn Nhất “hoàn tòan bí mật và bất ngờ” nhưng lại dùng tần số hành quân của Không Quân VNCH để nói chuyện với nhau và nghe được “một giọng thất thanh, một giọng nói bằng tiếng Bắc”:
- Số Bốn đi đâu thế kia? Sao lại thế kia? Nhảy dù đi chứ?
Trái tim chúng tôi thắt lại. Có lẽ nào chưa kịp làm nhiệm vụ mà một người trong chúng tôi đã phải nhảy dù? Nhưng nhìn nhau, vẫn thấy đủ năm chiếc A-37 trên một đường bay ổn định.
Cái giọng Bắc ban nãy thét to:
- Cháy rồi…! Số Bốn nhảy dù đi!
Nhìn lại hai tên địch (?), chúng tôi chợt hiểu ra. Một chiếc AD-6 đang bùng cháy. Chắc nó trúng đạn của bộ đội ta tại nơi nó tới oanh kích, cố lê về đến đây, nhưng nó vẫn không thoát. Tên lái chiếc AD-6 này không nhảy dù. Chiếc máy bay lao xuống đất…
Bố khỉ. Cứ như trong xi-nê-ma! Phải có những chi tiết gay cấn ấy mới nổi bật chiến công vĩ đại của bọn Hữu Mai. Rồi cảnh đánh phá Tân Sơn Nhất cũng được mô tả y hệt cảnh những người hùng trong phim “Bla Bla Black Ship” vừa bay bỏ bom, bắn cà nông, vừa cười vui vẻ ra cái điều ngon lành dũng cảm. Nguyễn Thành Trung đánh trước, bom không ra, làm vòng tiếp. Đại đội phó Từ Đễ theo sau Trung, nhắm hangar A-37 nhưng bom rơi mẹ nó sát chiếc C-130 vừa hạ cánh ở tuốt luốt bên này bãi đậu Whiskey Five (W-5). Rồi Đại đội trưởng Lục thả bốn trái nhưng lóng ngóng chỉ rơi có hai. Sau đó là Vượng và On, nhắm vào hangar A-37 nhưng đều trật lất!
Hữu Mai viết, “Những việc trên đã diễn ra hết sức nhanh chóng.” Chúng ta hãy đọc tiếp những đoạn văn dưới đây để xét giá trị toàn bộ bài viết “Trận Đánh Cuối Cùng”…
Đến lúc đó mới nghe thấy tên trực ở sân bay bắt đầu kêu lên:
- Tân Sơn Nhất bị pháo kích…!
Một tên khác, nghe giọng nói có vẻ là một tên chỉ huy, lập lại:
- Tân Sơn Nhất bị pháo kích! Rồi hắn hỏi tiếp – A-37 của Phi Đoàn nào, xin cho biết tên?
Giữa lúc đó, Biên đội trưởng đã lao xuống sân bay lần thứ hai. Nhưng rồi thấy anh kéo lên, tiếp tục lượn vòng. Những trái bom vẫn chưa chịu ra.
Thiếu Tá Phi Công L19 Lý Bửng - 30.4.1975 USS MIDWAY
Những chuyện chưa biết về thiếu tá "Lý Bửng" trên chiếc Phi Cơ thuộc
Không Quân Việt Nam Cộng Hoà trong ngày 30 tháng 4 năm 1975, vào ngày 30
tháng 4 năm 1975, trong số những trực thăng đang bay thoát khỏi
Sài-Gòn, có một một chiếc phi cơ thám thính Cessna O-1 (L-19) Bird Dog
nhỏ xuất hiện, người lái phi cơ này là một thiếu tá phi công thuộc Không
Quân VNCH.
Thiếu tá Lý Bửng, đã lái chiếc phi cơ một động cơ này từ đảo Côn Sơn ra biển để tìm đường thoát, cùng bay với người phi công này là người vợ và 5 đứa con, một bé còn nhỏ còn được bồng trong tay người mẹ, phi cơ Bird Dog bay quanh hàng không mẫu hạm USS Midway và người thiếu ta này đã liệng xuống một tờ giấy với vài hàng chữ tiếng Anh xin các thủy thủ trên tàu di chuyển những máy bay sang một bên để người phi công này có thể đáp xuống sân bay.
Anh không thể đáp xuống biển để chờ thuyền từ tàu ra cứu vì có con còn nhỏ dại, vị thuyền trưởng của chiếc hàng không mẫu hạm USS Midway, Captain L. C.Chambers, xem xét tình hình và ra lệnh các thủy thủ di chuyển các phi cơ đang đậu trên sân bay của tàu qua một bên, để phi cơ của Thiếu tá Lý Bửng có thể đáp xuống, trên tàu lúc đó có rât nhiều phi cơ trực thăng UH-1 của KQ VNCH đã đáp xuống trước đó, một chiếc trực thăng phải bị đẩy xuống biển vì không đủ chổ cho chiếc phi cơ Bird Dog đáp, sau khi sân bay đã chuẩn bị xong, các thủy thủ tháo dây cáp dùng bắt phi cơ phản lực và nhờ một người Việt Nam biết tiếng Anh trên tàu thông dịch để chỉ dẫn phi công Lý Bửng đáp xuống.
Tàu USS Midway cũng quay ngược về chiều gió để giúp phi cơ của Thiếu Tá Lý Bửng đáp an toàn hơn.
Chiếc phi cơ Bird Dog đáp xuống nhẹ nhàng và dừng lại trên tàu chỉ trong một khoảng cách ngắn, đối với những người thủy thủ trên tàu, đây là một vụ hạ cánh đáng ghi nhớ nhất của Operation Frequent Wind, việc hạ cánh này đã xảy ra một cách êm đẹp, mặc dầu lúc đó sân bay của tàu vừa bị mưa ướt và phi cơ không có trang bị ống móc để giật dây cáp bắt phi cơ như những chiếc phi cơ phản lực to lớn hơn, sau khi đáp xuống, các thủy thủ trên tàu đã vỗ tay chúc mừng Thiếu tá Lý Bửng khi ông rời khỏi phi cơ, thủy thủ đoàn của tàu USS Midway đã cảm động trước sự dũng cảm liều lĩnh của người phi công để cứu gia đình, họ đã gây quỹ để giúp gia đình Thiếu tá Lý Bửng bắt đầu cuộc đời mới tại Mỹ.
- Dưới đây là một bài viết về cuộc hạ cánh của chiếc Bird Dog O-1 xuống tàu sân bay Midway, đăng trong tập san Vietnam Magazine số 12/09, một tập san của Hội cựu quân nhân Hoa Kỳ:
XIN HÃY CỨU TÔI!
Cuộc hạ cánh thần kỳ của một chiếc Cessna hai chỗ ngồi – chở một gia đình gồm bảy người - trên boong tàu sân bay USS Midway
By Robert H. Sproule, Tạp chí Việt Nam, số 12/09
Khi chiếc máy bay nhỏ xà xuống thấp, một vật nhỏ rơi thẳng xuống sàn tàu như một quả bom. Nhưng đó không phải là chất nổ cường độ cao mà là một bản đồ phi hành với một ghi chú nguệch ngoạc trên đó viêt: "Xin các ông di chuyển các máy bay trực thăng về phía bên kia, để tôi có thể hạ cánh trên đường băng của tàu, tôi có thể bay thêm một giờ nữa. Chúng ta có đủ thời gian để di chuyển. Xin hãy cứu tôi. Thiêu tá Bửng, vợ và 5 đứa con.
Đây là một trong những sự kiện đầy kịch tính cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt Nam khi một phi công Không quân Việt Nam với cả gia đình mình, trên một chuyến bay đi không trở lại trên đại dương, đã khẩn khoản xin hạ cánh khẩn cấp xuống tàu sân bay Midway. Thiếu tá Lý Bửng đã cố liều mạng tìm tự do bằng một chiếc máy bay quan sát một động cơ Cessna O-1 Bird Dog bị đánh cắp. Chiếc máy bay chỉ vừa đủ chỗ cho hai người đã được nhét vào tới bảy người.
Vào cuối tháng Tư 1975, quân Bắc VN đã tiến đến vùng ngoại ô Sài Gòn. Với mỗi giờ qua đi, viễn cảnh càng lúc càng đen tối hơn đối với những thường dân và binh sĩ Nam VN trước đây từng trung thành với Hoa Kỳ. Hàng nghìn người giờ đây cố gắng vùng vẫy để thoát đi trước khi quân Bắc Việt tràn ngập thủ đô. Là một phần trong Chiến dịch Gió lốc (Operation Frequent Wind), hàng không mẫu hạm Midway và khoảng 50 tàu hải quân khác của Mỹ đã tuần tra ngoài khơi duyên hải Nam Việt Nam với lịnh cứu được càng nhiều người càng tốt.
Khi đó tôi là sĩ quan phụ trách việc tiếp nhiên liệu cho máy bay trên tàu Midway, một trung úy 26 tuổi cấp dưới của vị Tư lệnh phi hành trên tàu, Chi huy trưởng Vern Jumper. Thông thường, bộ phận của tôi tiếp nhiên liệu cho hơn 70 máy bay phản lực tiêm kích và tấn công thuộc không đoàn trên tàu Midway. Tuy nhiên, nhiều máy bay của chúng tôi đã được dời đi để lấy chỗ cho 10 máy bay trực thăng CH-53D Sea Stallion của Không quân. Còn được gọi là những Gã khổng lồ Super Jolly Green, đây là những chiếc máy bay thật to lớn, dài gần 30 mét, và có khả năng chở tới 55 người. Các phi hành đoàn Sea Stallions (Ngựa Biển giống) được lệnh bay vào Sài Gòn, đưa lên máy bay tối đa số người di tản họ có thể chở được, và mang họ trở lại hàng không mẫu hạm Midway. Công việc của chúng tôi là tiếp nhiên liệu đầy đủ cho những chiếc trực thăng Sea Stallion này.
Trong khi những trực thăng Sea Stallions của chúng tôi bay đi bay về như con thoi trong chiến dịch di tản, tàu Midway đã trở thành một nam châm thu hút các máy bay trực thăng UH-1 Huey của Nam VN đang thoát khỏi VN bay kín cả đường chân trời, xếp hàng như những máy bay của các hãng hàng không vào giai đoạn tiếp cận cuối cùng chờ đáp xuống phi trường QT Los Angeles, hy vọng tìm được một chỗ trống trên sàn bay đông nghẹt của tàu sân bay. Với hàng chục máy bay trực thăng không được mời đang đổ xô bay tới, sàn tàu chẳng mấy lúc đã đầy kín máy bay. Đổ ra từ nhiều chiếc trực thăng Hueys là những người lính Nam Việt Nam với đầy đủ vũ khí, họ nhanh chóng bị giải giáp bởi đơn vị TQLC trên tàu Midway. Ban đầu, những binh sĩ TQLC còn cẩn thận cất những vũ khí của họ đi, nhưng khi các máy bay trực thăng tiếp tục hạ cánh với một nhịp độ chóng mặt, những người lính thủy quân lục chiến đã chỉ đơn giản quăng vũ khí bị tịch thu xuống biển..
Trong vài ngày vừa qua chỉ toàn là những máy bay trực thăng bay đầy bầu trời, do đó chiếc máy bay Cessna bé nhỏ có cánh cố định nhìn lạc lõng một cách kỳ lạ khi nó bắt đầu bay mấy đường lượn thấp bên trên tàu. Tôi đang kiểm tra hai chục trạm tiếp nhiên liệu nằm ở cầu hành lang gần đó khi lá thư của Thiếu tá Lý Bửng rớt xuống sàn tàu cách tôi khoảng 30m. Tôi chạy phóng đến để nhặt nó, nhưng một thuỷ thủ của tàu Midway đã nhanh chân hơn tôi nhặt được nó. Tò mò quá muốn biết trong lá thư đó là gì, tôi bước đến trung tâm đầu não điều khiển các hoạt động của sàn đáp – tức đài kiểm soát sàn bay của tầu sân bay - một căn phòng nhỏ bên cạnh sàn đáp ở dưới cùng của khu vực tháp đảo của con tàu. Tôi thường dành rất nhiều thời gian ở đó trong các hoạt động tiếp nhiên liệu bình thường cho các phi cơ.
Bên trong căn phòng nhỏ, viên sĩ quan phụ trách sắp xếp các máy bay ngồi nói chuyện trên điện thoại với một vẻ lo lắng trên khuôn mặt. Qua những lời đáp xen kẽ “yes sirs” của người này trong lúc nói chuyện trên điện thoại, tôi có thể biết được là anh ta có lẽ đang nói chuyện với vị Tư lệnh không đoàn. Viên sĩ quan phụ trách sắp xếp phi cơ dành hầu hết thời gian của mình ngồi trong một chiếc ghế da lớn bên cạnh một cửa sổ nhìn ra ngoài boong tàu. Anh ta có cái nhiệm vụ chẳng đáng thém muốn là hoạch định sự di chuyển của mỗi chiếc máy bay trên sàn bay của tàu. Nhưng bây giờ, thay vì di chuyển những chiếc máy bay phản lực của hàng không mẫu hạm, ông lại phải giành giật để tìm chỗ cho tất cả các máy bay trực thăng Việt Nam đang lấp kín dần sàn đáp. Cuối cùng, viên sĩ quan gác điện thoại. "Có chuyện gì vậy?" Tôi hỏi.
"Một người nào đó trên tàu biết tiếng Việt sẽ liên lạc qua radio với viên phi công và nói anh ta hạ cánh xuống biển, rồi chúng ta sẽ vớt họ lên,” viên sĩ quan sắp xếp phi cơ cho tôi biết. Không ai biết rằng chiếc máy bay bé tí của viên Thiếu tá thì không có radio – một thực tế mà có lẽ hóa ra là may mắn cho bảy ngưởi ở trong chiếc Bird Dog. Bởi vì nếu như chúng ta bằng cách nào đó đã thuyết phục được viên thiếu tá phi công để cố tình hạ cánh xuống đại dương thì nhiều người trên chiếc máy bay có thể đã nhiều khả năng bị chết đuối trong chiếc máy bay bị chìm của họ.
Tư liệu:
1.https://tacairnet.com/…/a-south-vietnamese-air-force-offic…/ 2.www.navyhistory.org/2014/04/the-opportunity-to-make-histo...
Sài Gòn Xưa
Thiếu tá Lý Bửng, đã lái chiếc phi cơ một động cơ này từ đảo Côn Sơn ra biển để tìm đường thoát, cùng bay với người phi công này là người vợ và 5 đứa con, một bé còn nhỏ còn được bồng trong tay người mẹ, phi cơ Bird Dog bay quanh hàng không mẫu hạm USS Midway và người thiếu ta này đã liệng xuống một tờ giấy với vài hàng chữ tiếng Anh xin các thủy thủ trên tàu di chuyển những máy bay sang một bên để người phi công này có thể đáp xuống sân bay.
Anh không thể đáp xuống biển để chờ thuyền từ tàu ra cứu vì có con còn nhỏ dại, vị thuyền trưởng của chiếc hàng không mẫu hạm USS Midway, Captain L. C.Chambers, xem xét tình hình và ra lệnh các thủy thủ di chuyển các phi cơ đang đậu trên sân bay của tàu qua một bên, để phi cơ của Thiếu tá Lý Bửng có thể đáp xuống, trên tàu lúc đó có rât nhiều phi cơ trực thăng UH-1 của KQ VNCH đã đáp xuống trước đó, một chiếc trực thăng phải bị đẩy xuống biển vì không đủ chổ cho chiếc phi cơ Bird Dog đáp, sau khi sân bay đã chuẩn bị xong, các thủy thủ tháo dây cáp dùng bắt phi cơ phản lực và nhờ một người Việt Nam biết tiếng Anh trên tàu thông dịch để chỉ dẫn phi công Lý Bửng đáp xuống.
Tàu USS Midway cũng quay ngược về chiều gió để giúp phi cơ của Thiếu Tá Lý Bửng đáp an toàn hơn.
Chiếc phi cơ Bird Dog đáp xuống nhẹ nhàng và dừng lại trên tàu chỉ trong một khoảng cách ngắn, đối với những người thủy thủ trên tàu, đây là một vụ hạ cánh đáng ghi nhớ nhất của Operation Frequent Wind, việc hạ cánh này đã xảy ra một cách êm đẹp, mặc dầu lúc đó sân bay của tàu vừa bị mưa ướt và phi cơ không có trang bị ống móc để giật dây cáp bắt phi cơ như những chiếc phi cơ phản lực to lớn hơn, sau khi đáp xuống, các thủy thủ trên tàu đã vỗ tay chúc mừng Thiếu tá Lý Bửng khi ông rời khỏi phi cơ, thủy thủ đoàn của tàu USS Midway đã cảm động trước sự dũng cảm liều lĩnh của người phi công để cứu gia đình, họ đã gây quỹ để giúp gia đình Thiếu tá Lý Bửng bắt đầu cuộc đời mới tại Mỹ.
- Dưới đây là một bài viết về cuộc hạ cánh của chiếc Bird Dog O-1 xuống tàu sân bay Midway, đăng trong tập san Vietnam Magazine số 12/09, một tập san của Hội cựu quân nhân Hoa Kỳ:
XIN HÃY CỨU TÔI!
Cuộc hạ cánh thần kỳ của một chiếc Cessna hai chỗ ngồi – chở một gia đình gồm bảy người - trên boong tàu sân bay USS Midway
By Robert H. Sproule, Tạp chí Việt Nam, số 12/09
Khi chiếc máy bay nhỏ xà xuống thấp, một vật nhỏ rơi thẳng xuống sàn tàu như một quả bom. Nhưng đó không phải là chất nổ cường độ cao mà là một bản đồ phi hành với một ghi chú nguệch ngoạc trên đó viêt: "Xin các ông di chuyển các máy bay trực thăng về phía bên kia, để tôi có thể hạ cánh trên đường băng của tàu, tôi có thể bay thêm một giờ nữa. Chúng ta có đủ thời gian để di chuyển. Xin hãy cứu tôi. Thiêu tá Bửng, vợ và 5 đứa con.
Đây là một trong những sự kiện đầy kịch tính cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt Nam khi một phi công Không quân Việt Nam với cả gia đình mình, trên một chuyến bay đi không trở lại trên đại dương, đã khẩn khoản xin hạ cánh khẩn cấp xuống tàu sân bay Midway. Thiếu tá Lý Bửng đã cố liều mạng tìm tự do bằng một chiếc máy bay quan sát một động cơ Cessna O-1 Bird Dog bị đánh cắp. Chiếc máy bay chỉ vừa đủ chỗ cho hai người đã được nhét vào tới bảy người.
Vào cuối tháng Tư 1975, quân Bắc VN đã tiến đến vùng ngoại ô Sài Gòn. Với mỗi giờ qua đi, viễn cảnh càng lúc càng đen tối hơn đối với những thường dân và binh sĩ Nam VN trước đây từng trung thành với Hoa Kỳ. Hàng nghìn người giờ đây cố gắng vùng vẫy để thoát đi trước khi quân Bắc Việt tràn ngập thủ đô. Là một phần trong Chiến dịch Gió lốc (Operation Frequent Wind), hàng không mẫu hạm Midway và khoảng 50 tàu hải quân khác của Mỹ đã tuần tra ngoài khơi duyên hải Nam Việt Nam với lịnh cứu được càng nhiều người càng tốt.
Khi đó tôi là sĩ quan phụ trách việc tiếp nhiên liệu cho máy bay trên tàu Midway, một trung úy 26 tuổi cấp dưới của vị Tư lệnh phi hành trên tàu, Chi huy trưởng Vern Jumper. Thông thường, bộ phận của tôi tiếp nhiên liệu cho hơn 70 máy bay phản lực tiêm kích và tấn công thuộc không đoàn trên tàu Midway. Tuy nhiên, nhiều máy bay của chúng tôi đã được dời đi để lấy chỗ cho 10 máy bay trực thăng CH-53D Sea Stallion của Không quân. Còn được gọi là những Gã khổng lồ Super Jolly Green, đây là những chiếc máy bay thật to lớn, dài gần 30 mét, và có khả năng chở tới 55 người. Các phi hành đoàn Sea Stallions (Ngựa Biển giống) được lệnh bay vào Sài Gòn, đưa lên máy bay tối đa số người di tản họ có thể chở được, và mang họ trở lại hàng không mẫu hạm Midway. Công việc của chúng tôi là tiếp nhiên liệu đầy đủ cho những chiếc trực thăng Sea Stallion này.
Trong khi những trực thăng Sea Stallions của chúng tôi bay đi bay về như con thoi trong chiến dịch di tản, tàu Midway đã trở thành một nam châm thu hút các máy bay trực thăng UH-1 Huey của Nam VN đang thoát khỏi VN bay kín cả đường chân trời, xếp hàng như những máy bay của các hãng hàng không vào giai đoạn tiếp cận cuối cùng chờ đáp xuống phi trường QT Los Angeles, hy vọng tìm được một chỗ trống trên sàn bay đông nghẹt của tàu sân bay. Với hàng chục máy bay trực thăng không được mời đang đổ xô bay tới, sàn tàu chẳng mấy lúc đã đầy kín máy bay. Đổ ra từ nhiều chiếc trực thăng Hueys là những người lính Nam Việt Nam với đầy đủ vũ khí, họ nhanh chóng bị giải giáp bởi đơn vị TQLC trên tàu Midway. Ban đầu, những binh sĩ TQLC còn cẩn thận cất những vũ khí của họ đi, nhưng khi các máy bay trực thăng tiếp tục hạ cánh với một nhịp độ chóng mặt, những người lính thủy quân lục chiến đã chỉ đơn giản quăng vũ khí bị tịch thu xuống biển..
Trong vài ngày vừa qua chỉ toàn là những máy bay trực thăng bay đầy bầu trời, do đó chiếc máy bay Cessna bé nhỏ có cánh cố định nhìn lạc lõng một cách kỳ lạ khi nó bắt đầu bay mấy đường lượn thấp bên trên tàu. Tôi đang kiểm tra hai chục trạm tiếp nhiên liệu nằm ở cầu hành lang gần đó khi lá thư của Thiếu tá Lý Bửng rớt xuống sàn tàu cách tôi khoảng 30m. Tôi chạy phóng đến để nhặt nó, nhưng một thuỷ thủ của tàu Midway đã nhanh chân hơn tôi nhặt được nó. Tò mò quá muốn biết trong lá thư đó là gì, tôi bước đến trung tâm đầu não điều khiển các hoạt động của sàn đáp – tức đài kiểm soát sàn bay của tầu sân bay - một căn phòng nhỏ bên cạnh sàn đáp ở dưới cùng của khu vực tháp đảo của con tàu. Tôi thường dành rất nhiều thời gian ở đó trong các hoạt động tiếp nhiên liệu bình thường cho các phi cơ.
Bên trong căn phòng nhỏ, viên sĩ quan phụ trách sắp xếp các máy bay ngồi nói chuyện trên điện thoại với một vẻ lo lắng trên khuôn mặt. Qua những lời đáp xen kẽ “yes sirs” của người này trong lúc nói chuyện trên điện thoại, tôi có thể biết được là anh ta có lẽ đang nói chuyện với vị Tư lệnh không đoàn. Viên sĩ quan phụ trách sắp xếp phi cơ dành hầu hết thời gian của mình ngồi trong một chiếc ghế da lớn bên cạnh một cửa sổ nhìn ra ngoài boong tàu. Anh ta có cái nhiệm vụ chẳng đáng thém muốn là hoạch định sự di chuyển của mỗi chiếc máy bay trên sàn bay của tàu. Nhưng bây giờ, thay vì di chuyển những chiếc máy bay phản lực của hàng không mẫu hạm, ông lại phải giành giật để tìm chỗ cho tất cả các máy bay trực thăng Việt Nam đang lấp kín dần sàn đáp. Cuối cùng, viên sĩ quan gác điện thoại. "Có chuyện gì vậy?" Tôi hỏi.
"Một người nào đó trên tàu biết tiếng Việt sẽ liên lạc qua radio với viên phi công và nói anh ta hạ cánh xuống biển, rồi chúng ta sẽ vớt họ lên,” viên sĩ quan sắp xếp phi cơ cho tôi biết. Không ai biết rằng chiếc máy bay bé tí của viên Thiếu tá thì không có radio – một thực tế mà có lẽ hóa ra là may mắn cho bảy ngưởi ở trong chiếc Bird Dog. Bởi vì nếu như chúng ta bằng cách nào đó đã thuyết phục được viên thiếu tá phi công để cố tình hạ cánh xuống đại dương thì nhiều người trên chiếc máy bay có thể đã nhiều khả năng bị chết đuối trong chiếc máy bay bị chìm của họ.
Tư liệu:
1.https://tacairnet.com/…/a-south-vietnamese-air-force-offic…/ 2.www.navyhistory.org/2014/04/the-opportunity-to-make-histo...
Sài Gòn Xưa
Tổng Y Viện Cộng-Hòa sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Chuyện kể một Thương binh Việt-Nam Cộng-Hoà bị đuổi khỏi Quân Y Viện Cộng Hoà sau ngày cộng sản cướp Miền-Nam.
- SÀI-GÒN NGÀY 2 THÁNG 5, 1975.
Hôm ấy, chỉ một ngày sau cái ngày tang thương của đất nước — Ngày 30 Tháng Tư Ðen — quang cảnh trong Tổng Y Viện Cộng Hoà xáo động thê thảm, những bọn người hung bạo với súng AK kéo vào Quân Y Viện lùng sục, đuổi xua các thương binh đang nằm điều trị.
Nhiều tràng đạn AK vang lên, bọn xâm lược nổ súng bắn đe dọa.
Nhiều tên la hét:
– Ðịch mẹ chúng mày có cút ra ngay không ..? Chúng ông bắn chết cả lũ bây giờ.
Nhiều thương binh Việt-Nam Cộng-Hòa vừa mới giải phẫu hôm qua hay vài ngày trước đó còn đang mê man trong phòng hồi sinh đã bị lật nhào xuống sàn bởi bọn cộng sản này:
– Ðịch mẹ, thằng này mày ngoan cố hả? Ði ra ngay! Cút!
Toàn là giọng Bắc Kỳ, giọng miền Bắc Cộng sản, nghe khô khốc như những tràng AK được chúng bắn để thị uy, tiếng rên la vì đau đớn, tiếng ơi ới gọi nhau tìm sự giúp đỡ của những người đồng cảnh ngộ vang lên khắp nơi, từng toán thương binh kẻ lê, người lết kéo nhau đi ra trong nỗi hoang mang lo sợ tột cùng, có người không chịu nổi đau đã chết ngay khi vừa bò ra tới gần cổng bệnh viện.
Máu mủ bông băng loang lổ đầy trên mặt đường.
Vào nằm trong Quân Y Viện Cộng Hoà đã mấy tháng nay, vết thương nơi chân phải bị cưa còn mưng mủ và rỉ máu, Dương vội quơ lấy chiếc nạng rồi cùng nhiều anh em dìu nhau lết ra phía cổng, phía sau là bọn bộ đội bắc kỳ điên loạn như loài thú say mồi lớn tiếng la hét.
- Một Thương Phế Binh Quốc Gia Việt-Nam Cộng-Hòa.
Những mũi súng lạnh đến rợn người được dí vào lưng những người bất hạnh, cũng như những viên đạn sẵn sàng ghim vào lưng ai đó nếu có hành động phản kháng. Khi ngang qua một khu điều trị, thấy một cái chân giả của ai, có vết thương hơi giống Dương, có lẽ vì quá sợ hãi chân giả bị rớt ra mà không dám dừng lại để gắn vào. Dương quơ vội cái chân giả gắn vào chân mình rồi tiếp tục lê lết cà nhắc bước đi, ra đến cổng chính của Tổng Y Viện Cộng Hoà, một hình ảnh thật thương tâm đập vào mắt Dương, hàng ngàn anh em thương binh nằm la liệt trên lề đường hoang mang không biết phải làm gì, đi đâu, về đâu trong tình trạng khốn khổ như thế này.
Nhưng một hình ảnh thật vô cùng cảm động là cảnh những người dân chung quanh Tổng Y Viện đến dìu cõng những anh em không đi nổi, săn sóc băng bó lại vết thương cho những anh em đang chảy máu, uỷ lạo tinh thần an hem qua những ly nước điếu thuốc, dốc những đồng tiền cuối cùng để anh em có chút tiền đón xe về quê.
Bọn Việt Cộng sẽ phải trả lời trước lịch sử về hành động dã man khi chúng đuổi anh em thương binh Việt-Nam Cộng-Hòa ra khỏi các quân y viện sau ngày Miền-Nam bị cưỡng chiếm.
Một cô gái dúi vội vào tay Dương một ít tiền,
– Anh cho em gởi ít tiền. Chúc anh về bình yên.
Chưa kịp có lời cám ơn thì cô đã chạy đi. Dương đứng tần ngần ngó theo miệng lẩm bẩm lời cám ơn mà nước mắt trào ra. Ðang đứng thẫn thờ thì một thanh niên tắp xe Honda vào hỏi,
– Anh về đâu? Em chở anh về.
Thôi thì “thắng về nội, thối về ngoại”, ý nghĩ nơi đầu tiên mà chàng phải trở về đó là Chơn Thành nơi có người vợ chỉ vừa mới cưới được hơn một tháng thì chàng bị thương,
– Tôi về Chơn Thành – Bình Long, anh cho tôi ra ngã tư Bình Phước.
Leo lên xe nhờ có chiếc chân giả lượm được nên Dương ngồi cũng thăng bằng. Gia tài của chàng bây giờ chỉ còn có cặp nạng và thêm cái chân giả hơi ngắn không đúng kích cỡ, cộng với số tiền cô gái dúi cho cuộn tròn trong túi áo. Ðến ngã tư Bình Phước chàng móc tiền ra đưa người thanh niên chạy Honda nhưng anh ta từ chối,
– Em tiếc không chở anh về Chơn Thành được vì quá xa.
Thôi em phải trở về Y Viện để chở các anh khác.
Nói xong anh ta quay ngoắt chiếc xe tống mạnh ga ngược về hướng Sài Gòn. Thì ra cuộn tiền là năm tờ giấy hai trăm, một ngàn đồng số tiền gần tương đương 1/10 tiền lương hạ sĩ của chàng. Ðối với cô gái thì đây là số tiền khá lớn. Vậy mà cô ta dúi vào tay mình một cách thản nhiên. Có thể cô còn cho tiền vài anh thương binh khác.
Ðường xá thật vắng, thỉnh thoảng mới có một chiếc xe gắn máy đèo hai ba người hay chở đầy đồ đạc chạy về hướng Bình Dương. Có lẽ mấy ngày trước họ chạy giặc về Sà Gòn nay thấy cùng đường rồi nên lại quay về. Ðến gần tối mới có một chiếc xe đò chở chật cứng người. Anh giơ tay ngoắc, người lơ xe vỗ vào thùng xe ra dấu để tài xế ngừng xe lại, kéo Dương lên đứng phía đàng sau rồi la lên cho tài xế chạy. Cú kéo quá mạnh làm Dương lạng quạng chút xíu nữa làm rớt cặp nạng. Một vài người ngồi sau thấy Dương thương tật tỏ ý muốn nhường ghế nhưng cũng không có chỗ để đứng dậy nên đành chịu.
Khi xe chạy qua Búng (Lái Thiêu), phố xá lạnh lùng buồn thảm lần lượt hiện ra trước mắt Dương. Vào đến Bình Dương thì trời đã tối hẳn, xe vào trong bến xe vắng lặng thả khách. Dương bước xuống xe ngơ ngác. Một vài người xe ôm chạy tới mời chào nhưng khi nghe anh muốn đi Chơn Thành họ đều từ chối vì đoạn đường trên 40 cây số chưa được khai thông. Một anh xe ôm hẹn Dương sáng sớm mai sẽ trở lại để chở anh đi. Chỉ còn lại một mình trên bến xe, Dương lủi vào một góc tối tìm chỗ ngả lưng qua đêm. Anh mong được chợp mắt vài giờ sau cả một ngày vừa đau vừa mỏi mệt, nhưng đôi mắt cứ mở thao láo nhìn vào khoảng trống đêm đen. Trong đêm đen dĩ vãng hiện về trước mắt Dương.
Ngày ấy, đang từ một thanh niên chuyên nghề bốc vác gạo ở dưới Miền Tây, nhân một chuyến theo xe chở gạo lên Sài Gòn khi xe chạy ngang một trạm tuyển mộ nhập ngũ nằm trên đường Hùng Vương, anh chợt nảy sinh ý định đăng lính. Anh kêu người tài xế ngừng xe và nhờ người bạn cùng bốc vác về nhắn với gia đình là anh tình nguyện vào lính và sẽ tin cho gia đình biết sau. Khi đó anh gần tròn 18 tuổi.
Tại trạm tuyển mộ, khi anh được hỏi muốn đăng lính nào, không chần chừ anh nói xin đăng lính Biệt Ðộng Quân. Anh chọn lính này vì thực ra những năm 70-71, ngoài Ðịa Phương Quân và Bộ Binh anh chỉ thấy có lính Biệt Ðộng Quân ở Miền Tây. Thế là ngay buổi chiều anh được chở về trại Ðào Bá Phước nằm trên đường Tô Hiến Thành, rồi vài ngày sau một chiếc C123 chở gần 150 tân binh bay ra Nha Trang và được xe GMC đưa về Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Ðộng Quân Dục Mỹ. Anh được cho biết người ta gọi đây là Trung Tâm Tàn Phá Sắc Ðẹp với tượng người lính BÐQ Sát bằng đồng đen cầm súng có gắn lưỡi lê trong tư thế cận chiến với quân thù. Sau ba tháng huấn luyện nếu người tân binh không đen như bức tượng đồng thì sẽ không ra trường. Lời nói không sai, sau ba tháng dầm mưa dãi nắng cộng thêm với thuốc TAB anh nào anh nấy mặt mày chân tay đen đủi bóng lưỡng vạm vỡ khác xa lúc vừa mới vào quân trường.
Anh được đưa về Sài Gòn và phân bổ về Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân. Hai chiếc xe GMC chở gần 70 anh em tân binh về Trại Phan Hạnh, hậu cứ của LÐ3 BÐQ nằm tại Thanh Hóa, Hố Nai. Tại đây, anh được bổ sung về Tiểu Ðoàn 52 BÐQ và nhận tờ giấy phép 7 ngày thăm gia đình.
Hết phép, anh cùng hơn hai mươi anh em được chở lên đơn vị đang hành quân tại Suối Ðá Tây Ninh. Sau đó, cùng vài anh em nữa anh được bổ sung cho ÐÐ4. Vài ngày sau tiểu đoàn nhảy vào Bình Long, anh tham dự trận đánh đầu tiên và cũng là trận đánh lớn nhất trong đời quân ngũ của anh. Hai người bạn cùng khóa la Báu bị thương, Sắc hy sinh vào những ngày giữa tháng Tư. Sau gần ba tháng tử thủ và phản công, đại đội anh đã góp phần đập tan âm mưu bao vây đánh chiếm An Lộc, Bình Long.
Sau đó tiểu đoàn lại được bốc về giải tỏa Phước Tuy, Dầu Giây Hưng Lộc, Trảng Bom. Rồi trong trận giải toả Búng đụng với thằng D429 đặc công, bạn Long cùng khóa hy sinh, như vậy là 4 tân binh cùng khóa về ÐÐ4/52 chỉ còn lại mình anh.
Ngày theo tiểu đoàn xuống Chơn Thành vào đầu năm 1974, anh gặp một người con gái tuy nhan sắc không sắc xảo mặn mà nhưng cũng dễ coi, chân quê thuỳ mỵ. Sau vài tháng đi lại làm quen rồi yêu nhau, giữa năm hai người làm đám cưới. Trong bữa tiệc mừng đông đủ họ hai bên, đàng trai gồm toàn những anh em binh sĩ cùng đơn vị.
Hương lửa đang nồng thì tháng 10 trong một trận đánh tại phía nam ấp Xóm Ruộng anh bị trúng đạn pháo cụt mất chân phải. Vì giao thông đường bộ không có nên vợ anh chỉ hai lần được theo trực thăng về căn cứ Long Bình, Biên Hoà để lên Tổng Y Viện Cộng Hòa thăm anh.
Rồi đầu tháng 4/75, anh đang nằm tại TYV Cộng Hòa thì Chơn Thành đánh lớn. Ðơn vị di tản không biết ai còn ai mất? Người vợ yêu thương của anh không biết bây giờ nàng và gia đình ra sao? Nghĩ đến đây tự dưng anh chắp tay lên ngực thầm thì van xin “ Lạy trời cho vợ con được bình an” mà nước mắt tuôn trào…
Sáng sớm hôm sau, y hẹn người lái xe ôm đến từ mờ sáng. Anh ta đảo quanh một vòng và thấy Dương đang gắn chiếc chân giả vào. Anh ta chạy xe lại và đưa cho Dương trái bắp luộc.
– Anh ăn đỡ rồi lên xe, phải anh là lính mình bị thương không?
Dương chỉ gật đầu vì miệng đang nhai bắp, cả ngày hôm qua cũng đã có cái gì vào bụng đâu nên ăn ngấu nghiến. Thấy vậy anh chàng ta nói luôn,
– Em chỉ xin anh cho em một trăm tiền xăng thôi, hai ngày trước khi “mấy ổng” vào thì anh em ở Bệnh Viện 3 Dã Chiến bị đuổi ra thật tội nghiệp. Lúc đó Sài Gòn chưa bị chiếm nên họ đâu có cho ai đi ra khỏi tỉnh, vì thế anh em phải lủi vào nhà dân xin ở nhờ. Nhưng lúc đó dân mình cũng sợ quá chỉ cho ăn và biếu chút tiền chứ có ai dám chứa ở trong nhà. Họ mà bắt được thì toi mạng, nhất là cái đám du kích ở miệt vườn bây giờ nó thò mặt ra cùng với đám cao bồi du đãng đeo băng đỏ thấy mà phát ớn. Thôi anh lên xe mình đi chừng giờ sau là đến à.
Xe chạy qua khỏi Lai Khê thì đường bắt đầu xấu loang lổ vì bom đạn, đó đây những lỗ mìn chống chiến xa của quân ta gài ngăn cản chiến xa của chúng tiến xuống đã được gỡ đi. Qua Rạch Bắp đến Bầu Bàng, xe chạy lạng qua lạng lại tránh những hố bom đạn, vì thế anh phải ôm chặt lưng anh “tài” cho khỏi té. Ngang qua chỗ anh bị thương, anh chỉ vào phía bên trái đường và nói,
– Chỗ này và ở sâu trong kia một chút là nơi tôi đã để lại khúc cẳng này. Qua cái cầu cạn này là vào Xóm Ruộng, lên tới ngã ba Chơn Thành anh quẹo phải chạy về hướng Ðồng Xoài, đến Nha Bích là nhà vợ tôi. Lạy Trời cho vợ tôi được bình yên!
Nghe anh cầu xin anh chạy xe ôm lấy làm ngạc nhiên hỏi,
– Thế anh không có tin gì của vợ anh sao?
– Tôi bị thương, lần cuối vợ tôi lên Quân Y Viện thăm tôi hôm tháng hai, rồi chiến sự nổ ra tại Chơn Thành, tôi đâu có được tin tức gì.
– Tôi tin là chị được bình yên, vì tôi là người Công Giáo, tôi tin lời anh cầu xin được nhận.
Theo lời hướng dẫn của anh, xóm Nha Bích với gần ba chục nóc gia nay chỉ còn hơn mười cái. Kia rồi ngôi nhà của cha mẹ vợ anh vẫn còn đó, Ngôi nhà tranh vách đất nơi che nắng che mưa của ông bà cùng bốn người con trong đó vợ anh là lớn nhất vẫn còn kia. Khi xe vừa ngừng anh muốn tung cặp nạng rồi chạy túa vào, nhưng anh không chạy nổi vì cái chân giả không ăn khớp chân thấp chân cao làm anh đau buốt. Nghe tiếng xe ngừng trước cửa, vợ anh chạy ra nhận ra anh. Chị la lớn lên
“Má ơi! Anh hai, chồng con, về rồi.”
Chị ôm chầm lấy anh khóc thổn thức vì sung sướng, không nói được nên lời.
Vợ chồng ôm nhau mừng mừng tủi tủi. Anh chạy xe ôm thấy cặp vợ chồng đoàn tụ cũng sung sướng lây, anh chỉ nói một câu,
“Thấy chưa! Tôi nói đúng y chang mà! Anh co hạnh phúc nhe! Thôi tôi dìa.”
Nói đoạn anh rồ máy xe rồi phóng nhanh ra đường.
Dương chưa kịp buông vợ ra thì anh xe ôm đã mất hút, nghĩ mình hơi tệ, gặp lại vợ mừng quá quên cả trả tiền xe. Anh đâu biết rằng nhìn anh hạnh phúc nên người chạy xe ôm cũng muốn tặng anh một món quà cho ngày đoàn tụ.
Vài ngày sau, hai vợ chồng thu xếp mang nhau về quê nội. Nhưng rồi vì bên nội không có lấy một sào đất, mấy anh chị em trong nhà chỉ chuyên cày thuê cuốc mướn nên vài tháng sau vợ chồng lại trở về Chơn Thành. Mấy năm đầu anh cũng vào tận mãi bờ Sông Bé khai phá lấy hơn mẫu đất trồng trọt khoai mì đậu phụng đắp đỗi qua ngày. Sau này, người ta bắt đầu khai thác lại cao su nên hai vợ chồng xin làm phu cạo mủ cho đồn điền Minh Thạnh cho đến hôm nay.
Hai năm trước đây một người bạn thương binh cho một cái địa chỉ của một tổ chức nhỏ yểm trợ thương phế binh, Dương gởi thư sang xin giúp đỡ. Không ngờ người phụ trách tổ chức này lại là người đại đội trưởng cũ của anh. Ôn gọi điện thoại về hỏi thăm và vận động anh em đơn vị cũ, cũng như bạn bè của ông giúp cho Dương được vài trăm đô. Tuy số tiền chẳng lớn lắm nhưng tình cảm của ông cũng như tình cảm của những cấp chỉ huy cũ làm cho anh cảm động. Ông nào cũng đã bước vào cái tuổi xế chiều nhưng vẫn còn nghĩ đến những thằng em bất hạnh sống ở quê nhà, hỏi làm sao không trân quý cho được. Mấy lần ông gọi điện thoại về thăm, lần nào anh cũng cầu mong ông có sức khoẻ để thầy trò còn có dịp gặp lại nhau.
Tháng 12 năm ngoái, anh được ông đại đội trưởng cũ báo cho biết số anh em LÐ3 BÐQ tử trận tại An Lộc sẽ được an táng lại. Dương lo thu xếp để có được vài ngày lên Bình Long cùng vài người có lòng nhân hậu làm cái công việc này. Anh nâng niu từng lóng xương của anh em, chùi rửa sạch sẽ rồi bọc lại bỏ vào quách mang đi chôn lại. Vừa làm vừa nghĩ đến thằng Sắc cùng một khóa Dục Mỹ. Mấy ngày trước anh có hỏi ông đại đội trưởng cũ là sao không có thằng Sắc ở đây. Ông cho biết nó được chuyển lên bệnh viện tiểu khu chắc là được chôn tập thể ở khu đằng sau bệnh viện rồi. Tội nghiệp ba nó là ông Sáu đã gần sáu mươi làm tuỳ phái ở Ty Xã Hội Biên Hoà, còn mẹ nó thì lại mù loà. Xương coat mấy anh em thuộc đại đội 4 được chính tay anh chùi rửa, trong đó có trung sĩ An là tiểu đội trưởng của anh.
Ít tháng sau, mấy anh em lại cùng rủ nhau đi đào bới gom góp được 44 hài cốt của anh em thuộc Sư Ðoàn 18, và 6 anh em TÐ31 BÐQ. Chân thấp chân cao với đôi nạng gỗ, anh đã cùng anh em lên đỉnh Ðồi Gió, vào khu Quản Lợi, hay lang thang trong những cánh rừng cao su đào bới tìm hài cốt anh em đã được chôn vùi vội vàng trong những ngày sôi động của Mùa Hè Ðỏ Lửa 72. Ðôi khi anh nghĩ anh em tử trận nhiều quá mà chỉ có mấy người thì làm sao mà làm hết nổi, nhưng không làm thì ai làm cho bây giờ, thôi thì làm được tới đâu hay đến đó.
Có một lần ông đại đội trưởng cũ điện thoại về cám ơn anh về việc làm này, anh nói với ông một câu từ tận đáy lòng anh,
– Tui nghĩ tui còn may mắn hơn nhiều anh em khác, nhất là những anh em đã tử trận, nên nghỉ vài ngày cạo mủ để cùng mấy anh em đi đào bới cũng vui lắm, ông thầy ơi. Sang năm, nếu rảnh bọn này lại làm nữa.
“Anh em tử trận nhiều quá mà chỉ có mấy người thì làm sao mà làm hết nổi, nhưng không làm thì ai làm cho bây giờ ?…” cũng như câu nói của Dương, “Tui còn may mắn hơn nhiều anh em khác.” làm tôi suy nghĩ nhiều. Một người thương phế binh sống lam lũ nghèo khổ, mà còn có tấm lòng với anh em đồng đội xưa kia. Còn tôi, một người may mắn hơn anh mọi mặt, vậy mà không có được cái suy nghĩ như anh. Mỗi lần nói chuyện khi anh gọi tôi là “ông thầy” khiến tôi xấu hổ. Tôi muốn nói với anh, “Trước kia, tao là ông thầy, còn bây giờ mày là thầy tao.” nhưng ngượng ngùng không nói được.
Nhân đây, tôi muốn gởi đến quý độc giả tình cảm của những người lính thủy chung nhân hậu, cho dù trong cảnh nghiệt ngã. Như: Trương văn Hùng bị cụt hai chân, khi được tin bạn hy sinh, đã từ Huế lết vào Bình Ðịnh tìm cho bằng được thân nhân gia đình bạn báo tin.
Trước đây tôi ở Ðại Ðội 3, TÐ52 BÐQ. Tình cờ đọc được tin của anh, tôi mới biết được Tr/U Nguyễn ngọc Tỉnh, đại đội trưởng cũ của tôi và bạn cùng đơn vị, tên Trần Hoài, đã hy sinh tại An Lộc, Bình Long. Tôi quá xúc động vì gần 50 năm tôi mới biết được số phận của người chỉ huy, và thằng bạn thân thương…hay của hai người bạn cùng đơn vị gặp lại nhau sau 40 năm, đặc biệt là của cháu Phúc, lên nhận hài cốt của cha rồi tình nguyện ở lại tham gia nhóm thiện nguyện trên. Anh còn giúp cho hai bạn đồng đội gặp lại nhau.
Tố chất nào đã tạo nên những người lính tuyệt vời như vậy? Phải chăng xuất phát từ lòng của người dân Miền Nam cộng với tinh thần “Biệt Ðộng Quân một ngày là Biệt Ðộng Quân trọn đời.” Tôi tin chắc là như vậy.
- Tái bút: Ðính kèm bài thơ xé ruột nát gan của Nguyễn Thanh Khiết người đã góp phần trong việc cải táng 61 Tử sĩ Biệt Ðộng Quân
- Một chân về chôn bạn
Tao một cẳng ôm mầy chôn lần nữa
giữa đất thù nơi mầy chết banh thây
An Lộc còn đây mà tao mất mầy
mất bè bạn cùng một thời xương máu
tây bắc Bình Long tụi mình hứng pháo
52 dàn ngang mình chận phía Ðồng Long
cây cỏ tan hoang máu chảy ngập đồng
vừa đánh giặc vừa chuyền bi-đông rượu
mầy chết – chết khi trời vừa hửng sáng
gom xác mầy chỉ một nắm trong tay
mầy chết – không có lấy tấm thẻ bài
tao đứt ruột gói mầy bằng áo trận
rồi tao đi những Bình Ba Bình Giã
Long Khánh, Bình Tuy, từ xa tới gần
trở lại Chơn Thành tao bỏ một chân
và tàn lụn sau cái ngày tan trận
ba mươi chín năm, tao – thằng mạt vận
về đây chôn mầy – chôn mấy miếng xương
mầy nằm đó – chẳng ai ngó, ai thương
tội tình chi mà phải nhiều lần chết
tao cắn răng đưa mầy về với đất
chính chỗ mầy gác súng bỏ cuộc chơi
rót cho mầy rượu đế – một chung vơi
và nhắc mầy nhớ – tao còn ở lại
- Sau ngày 30 tháng 4 đen tối đấy ngoài các anh em thương binh Việt-Nam Cộng-Hòa bị đuổi thì còn có cả Y Tá và Bác Sĩ, các bé thiếu nhi đang sống tại bệnh viện có cha mẹ của tất cả các em này đều đã chết trong chiến tranh, có những em bé vẫn còn rất nhỏ bị bọn cộng sản vào đây ăn cướp và đuổi đi vì lý do "Cha Mẹ bọn bây làm cho bọn "Ngụy" ..thật khốn nạn cho bọn này vừa ăn cướp vừa la làng.
Cảm ơn chị Vũ Thị Trúc Mai.
Viết thay Hạ sĩ Dương ÐÐ4, TÐ52 BÐQ