Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa
- Sinh tháng 9 năm 1925 tại Sa Đéc
- Nhập ngũ ngày 4-8-1951
- Xuất thân trường sĩ quan Võ Bị Đà Lạt Khóa 5
- Cựu Tỉnh Trưởng Vĩnh Long
1. Nguyễn Ngọc Lễ, 2. Trần Thiện Khiêm, 3. Dương Văn Minh, 4.
TT Thơ, 5. Trần Văn Đôn, 6. Tôn Thất Đính, 7. Nguyễn Văn Thiện, 8.
Nguyễn Văn Vỹ, 9. Nguyễn Cao Kỳ, 10. Trần Ngọc Huyến, 11.
Nguyễn Hữu Có, 12. Nguyễn Văn Thiệu, 13. xxx, 14. Lê Nguyên Khang,
15. Nguyễn Giác Ngộ, 16. Dương Hiếu Nghĩa, 17. Huỳnh Văn Cao
Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa
(bên phải Chuẩn Tướng Phan Hòa Hiệp, Trưởng Đoàn Quân Sự Bốn Bên Việt Nam)
CUỐI ĐỜI BINH NGHIỆP
Nói tới
những ngày cuối cùng của cuộc đời binh nghiệp của mình, tôi muốn ghi lại đây
những giờ phút vui buồn trong đơn vị cuối cùng của mình, Ban Liên Hợp Quân Sự,
một đơn vị mà cho đến giờ nầy vẫn có rất ít người biết đến nó, kể cả phần lớn
anh chị em trong QLVNCH, mặc dầu nó là đứa con út của Quân đội, một đứa con
sanh sau đẻ muộn vừa thai nghén vừa ra đời thực tế chỉ trong vòng có một tuần
lễ, hay vỏn vẹn chỉ có 7 ngày! Hay còn ít hơn nữa! Và đứa con út nầy chỉ sống
ngoắt ngoải được có 2 năm 3 tháng 3 ngày, khai sanh của nó được ghi rõ là 12
giờ đêm rạng sáng ngày 28 tháng 3 năm 1973 và không có khai tử nhưng được biết
là ngày 29 tháng 4 năm1975! Trên lý thuyết thì 4 cha 3 mẹ (1) của nó đã mong
muốn phải sanh ra nó từ lâu, từ lúc có các buổi đi đêm giữa cặp tình nhân Hoa
Thạnh Đốn và Hà Nội, Lê đức Thọ trao cho Kissinger bản văn của Hiệp Định Paris
(tiếng Việt, do cộng sản Bắc Việt soạn thảo) để Kissinger cho dịch ra Anh ngữ
và chánh thức trình làng với cái tên thật hấp dẫn : Hiệp Định chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở
Việt Nam.. dù đó là nguyên văn sản
phẩm của cộng sản Bắc Việt.
Tôi được may mắn biết
được một ít về tình hình ở Hội Nghị Paris một phần nhờ giáo sư Nguyễn ngọc Huy,
thuộc phái đoàn thương thuyết Việt Nam, và một phần nhờ ông John Paul Vann, cố
vấn trưởng Vùng 4 Chiến Thuật. Giáo sư Huy thỉnh thoảng về Việt Nam đều cho
chúng tôi biết sơ qua về diễn tiến của cuộc hòa đàm, và ông Paul Vann thì cũng
thường ghé qua Vĩnh Long khi ông từ Hoa Kỳ về lại Cần Thơ qua ngã Paris.
Tôi được thuyên chuyển
từ Vĩnh Long về Sài Gòn vào tháng 7 măm 1972, và ngay sau đó tôi được lệnh vào
học ở trường Cao Đẳng Quốc Phòng, (khóa 5) dù là vào trễ gần 2 tuần. Về sau nầy
tôi mới biết lý do tại sao. Vào tháng 10 năm 1972 khóa 5 Cao Đẳng Quốc Phòng
chúng tôi được lệnh "nghiên cứu" và "sửa chữa" các điều
khoản bất lợi cho Việt Nam Cộng Hòa khi Hiệp Định Ba Lê sắp sửa được ký. Ông
Tổng trưởng Thông Tin Hoàng đức Nhã đã đến thuyết trình và trao bản nháp của
Hiệp Định cho trường và trung tướng Vĩnh Lộc đã chia lớp học chúng tôi ra thành
nhiều toán để thảo luận, nghiên cứu và sửa chữa từng điều khoản bất lợi cho
Việt Nam Cộng Hòa. Và tôi được hân hạnh là một trong mấy bạn trưởng toán đó.
Nói là "bản nháp" nhưng thật sự đây là bản văn "thực thụ"
của Hiệp Định sắp được ký kết.
Xin thú thật là công
tác thảo luận nghiên cứu được tiến hành rất là hết lòng và hết sức nghiêm túc,
và sửa chữa thì có đề nghị sửa chữa, nhưng tất cả đều là công dã tràng. Có quá
nhiều điều khoản cần phải sửa chữa vì tất cả lời văn đều rất là bất lợi cho
phía Việt Nam Cộng Hòa nhất là trong bản Hiệp Định không có một điều khoản nào
nói về sự có mặt của Quân đội chánh quy Bắc Việt ở Miền Nam Việt Nam và do đó
không có một điều khoản nào buộc họ phải rút quân ra khỏi Miền Nam Việt Nam
.Trong lúc đó Hiệp Định chỉ có buộc "lực lượng của Hoa Kỳ và của các nước
ngoài khác đồng minh của Hoa Kỳ và của Việt Nam Cộng Hòa phải rút đi mà
thôi."(điều 3a), và buộc Hoa Kỳ phải chấm đứt mọi hoạt động quân sự chống
lãnh thổ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa bằng mọi lực lượng trên bộ, trên không,
trên biển,... v.v. (điều 2), tất cả đều nhằm khóa tay Hoa Kỳ "không được
tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của Miền Nam Việt
Nam" (điều 4). Nhất là, Việt Nam Cộng Hòa së không được nhận đưa vào Miền
Nam Việt Nam quân đội, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự, kỹ thuật, vũ khí,
đạn dược và dụng cụ chiến tranh", mà không có một điều ràng buộc nào đối
với Bắc Việt (điều 7) dù ai cũng biết là Bắc Việt đã và đang nhận viện trợ
Quân sự, vũ khí đạn dược và mọi dụng cụ chiến tranh cũng như cố vấn kỹ thuật từ
Liên Xô, Trung Cộng hay từ khối cộng sản Đông Âu.
Vào khoảng cuối tháng
10/1972 thì ông Kissinger đã bay sang Sài Gòn để trình lên Tổng Thống Thiệu bản
văn chánh thức của Hiệp Định và yêu cầu Việt Nam Cộng Hòa ký vào bản văn đó.
Chẳng những Tổng Thống Thiệu không chấp nhận bản văn đó mà còn dùng lời lẽ
không được nhã nhặn lắm để biểu lộ sự tức giận của mình đối với cá nhân
Kissinger khi ông nầy đã rời khỏi Dinh Độc Lập. Những lời lẽ nầy đã lọt hết vào
tai của Kissinger có lẽ nhờ hệ thống máy móc và kỹ thuật nghe lén của người Mỹ.
Và Kissinger về luôn Hoa Kỳ mà không còn trở lại Dinh Độc Lập nữa vì ông ta
cũng dư biết rằng có tới cũng không được ai tiếp kiến.
Vào khoảng trước ngày lễ
Giáng Sinh, Tổng Thống Nixon lại cho oanh tạc Bắc Việt lần nữa để buộc Hà Nội
phải rút quân Bắc Việt ra khỏi Miền Nam Việt Nam theo đề nghị của Tổng Thống
Thiệu và để đổi lại, theo đề nghị của Tổng Thống Nixon Việt Nam Cộng Hòa phải
cho giải ngũ một số khoản 300.000 binh sĩ chánh quy. Đề nghị nầy là đề nghị duy
nhất và lần đầu tiên của Hoa Kỳ chính thức nói đến sự hiện diện của Quân đội
chánh quy Bắc Việt ở Miền Nam do Hoa Kỳ đưa ra và đang được bàn cãi "công
khai" trên bàn hội nghị Paris. Nhưng rất tiếc là Hiệp Định đã thành hình
từ lâu, nên dù có bàn cãi qua loa lấy lệ thì cũng không có một dư âm nào. Dĩ
nhiên đề nghị nầy hai phía Bắc Việt và Việt Nam Cộng Hòa đều không bên nào đi
đến thỏa thuận cả. Phía Việt Nam Cộng Hòa chúng ta chắc chắn không bao giờ thực
hiện được việc giải ngũ 300.000 binh sĩ.
Theo lời giáo sư
Nguyễn ngọc Huy (lúc bấy giờ là một thành viên của phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa
tại hội nghị Paris) thì đây vừa là một "đòn độc", vừa là một đòn
"xỏ lá" của Kissinger đối với cá nhân Tổng ThốngThiệu (sau khi không
thuyết phục được Tổng Thống Thiệu trong chuyến đi vừa qua) để ép Việt Nam Cộng
Hòa phải ký vào Hiệp Định, một bản Hiệp Định hoàn toàn do cộng sản Bắc Việt chủ
động thảo ra và phía Mỹ chỉ có dịch lại nguyên văn không thiếu một dấu phẩy sau
nhiều buổi "đi đêm bẩn thỉu" gọi là mật dàm giữa Kissinger và Lê đức
Thọ.
Cuối cùng rồi thì vào
cuối tháng chạp 1972 Việt Nam Cộng Hòa cũng phải xuôi tay chịu ký vào Hiệp
Định, sau khi Tổng Thống Nixon đã đích thân viết thư riêng cam kết một số vấn
đề với Tổng Thống Thiệu... (dĩ nhiên về sau nầy như chúng ta đã thấy, không có
một lời cam kết nào được Hoa Kỳ giữ đúng). Trung tướng chỉ huy trưởng trường
Cao Đẳng Quốc Phòng và chuẩn tướng Phan hòa Hiệp (học viên) được tháp tùng phái
đoàn của Bộ Ngoại Giao sang Paris với tư cách là quan sát viên của buổi ký
kết..
(Tôi xin mở một dấu ngoặc
ở đây để nhắc lại lời của giáo sư Nguyễn ngọc Huy đã than với chúng tôi nguyên
văn như sau:" ...ngay lúc đó (cuối năm1969) Hoa Kỳ (hay đúng
hơn là Kissinger) đã có quyết định bỏ rơi số phận của đồng minh Việt Nam Cộng
Hòa rồi, và coi như chúng ta đã mất nước kể từ khi chúng tôi bị đưa vào ngồi ở
"bàn hội nghị " ở Paris (1968)"
Tuy không nói ra nhưng
hai chữ "mất nước" đã ám ảnh tôi mãi từ năm 1970 khi được tâm sự với
Giáo sư Huy, và hai chữ đó cứ bàng bạc nhảy múa trong đầu tôi mãi suốt thời
gian phục vụ ở Ban Liên Hợp Quân sự.
Ngay sau khi Hiệp Định
được ký kết, theo điều 16 thuộc Chương VI, một số lớn học viên Khoá 5 CDQP của
chúng tôi trong đó có chuẩn tướng Phan hòa Hiệp, đại tá Nguyễn tử Đóa, đại tá
Trần Tín, đại tá Lê văn Chuân, đại tá Tô văn Kiểm, cá nhân tôi và một số đại tá
khác nữa.... được cấp tốc chọn lựa để đưa vào một đơn vị mới: "Ban Liên
Hợp Quân sự 4 Bên" với nhiệm vụ "bảo đảm sự phối hợp hành động của
các Bên trong việc thực hiện các điều khoản sau đây của Hiệp Định" (nguyên
văn)
- về việc thực hiện ngừng
bắn trên khắp Miền Nam Việt Nam (điều 2) giữa tất cả các bên ở Miền Nam Việt
Nam (điều 3a), về việc rút ra khỏi Miền Nam Việt Nam của Quân đội Hoa Kỳ và các
nước ngoài khác (điều 5) và việc hủy bỏ các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ và các
nước ngoài ở Miền Nam Việt Nam (điều 6), về việc trao trả nhân viên quân sự của
các bên bị bắt và thường dân nước ngoài của các bên bị bắt v.v.......
Ngã rẽ chánh trị trên con đường binh nghiệp
Trên đường phục vụ đất nước, tôi tự xem như mình đã
bước qua một ngã rẽ hoàn toàn xa lạ, trong một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn: tranh
đấu với bọn cộng sản mặt đối mặt trên bàn hội nghị quân sự để bênh vực quyền
lợi cho Việt Nam Cộng Hòa .
Ngày đầu tiên chân ướt
chân ráo đến văn phòng của Ban Liên Hợp Quân sự ở Tân Sơn Nhất, là một ngày
cuối năm, giáp Tết. Văn phòng là một dãy nhà ngang trống của một đơn vị nào đó
vừa mới dọn ra, không bàn không ghế, rất là luộm thuộm. Tuy nhiên anh em ai
cũng biết nhiệm vụ tương lai của mình rất là quan trọng. Chúng tôi họp nhau lại
để thử vạch ra một sơ đồ tổ chức tạm thời cho đơn vị mình để tạm phân công
trong công việc vì theo Hiệp Định (điều 16) thì "các Bên së cử ngay đại
diện để thành lập Ban Liên Hợp Quân Sự Quân sự 4 Bên ....", vì hôm nay đã
là ngày 28 tháng 1 rồi, tức là đã qua ngày ký Hiệp Định một ngày rồi. Điều nầy
chứng tỏ rằng phía Việt Nam Cộng Hòa chúng ta hoàn toàn bị động nên không có
chuẩn bị gì cả, nhất là về sự thành lập Ban Liên Hợp Quân Sự nầy. Trung Tướng
Ngô Dzu là trưởng đoàn, chuẩn tướng Phan hòa Hiệp là Phó trưởng đoàn, còn lại
tất cả anh em đại tá học viên Cao Đẳng Quốc Phòng chúng tôi đều là nhân viên.
Tuy vậy cũng có một vài chuyện vui vui buổi đầu làm cho chúng tôi quên đi phần
nào những luộm thuộm của một đơn vị mới thành lập với một trụ sở không có một
chút tiện nghi, dù tối thiểu là bàn ghế.
- Việc thứ nhất là việc tôi
tiếp xúc lần đầu tiên với một nhân vật "đầu sỏ" Bắc Việt ở phi trường
khi ông ta vừa bước xuống phi cơ từ Hà Nội vào. Số là tôi được chỉ định ra sân
bay đón phái đoàn quân sự Bắc Việt. Đây chỉ là một nhóm tiền phương, còn phái
đoàn chánh thức của Ban Liên Hợp Quân Sự Bắc Việt së đến ngày hôm sau.. Trước
khi đi, anh bạn ở phái đoàn Hoa Kỳ đã cho tôi biết là trong nhóm tiền phương
nầy có một người mang tên là Lưu văn Lợi, tuy chỉ mang cấp bậc đại tá, nhưng
ông ta không phải là quân nhân mà là một cán bộ cấp cao trong Ban Lãnh Đạo Đảng
cộng sản, là chánh trị viên của cả 2 phái đoàn Bắc Việt và CPLTCHMN. Không biết
anh có tin tức từ đâu mà anh còn cho tôi biết thêm là tên Lợi nầy cũng đã từng
mang cấp bậc đại tá, đại diện của Bắc Việt lúc hội nghị về tù binh nhóm ở Trung
Giá năm 1954 (Hiệp Định Genève). Do đó khi gặp tên Lợi nầy trrong bộ quân phục
mới toanh, rộng thùng thình không đúng kích thước, tôi bèn "chộ"
thẳng một câu khi bắt tay anh ta lúc anh ta vừa bước xuống phi cơ:
- Ủa anh Lợi, 9 năm rồi
mới gặp lại anh, sao anh vẫn còn là đại tá hoài vậy ?
- Anh gặp tôi ở đâu ? anh phản ứng nhanh nhưng cộc lốc.
- Ở Trung Giá chớ còn ở
đâu nữa .
- Ờ... anh buông nhẹ một tiếng rồi thôi, thấy mình bị lộ.
Về sau nầy anh ta quả
nhiên là một tay có thực quyền đối với hai phái đoàn cộng sản Bắc Việt và
CPLTCHMN. Khi hai phái đoàn Bắc Việt và CPLTCHMN coi như đã đến đông đủ ở trại
Davis rồi thì đúng là ngày giao thừa. Chúng tôi đưa đề nghị lên cấp trên là
chúng ta nên lấy tình đồng bào thết đãi họ một bữa cơm tất niên ở câu lạc bội
Huỳnh Hữu Bạc, ngay trong Tân Sơn Nhất. Dĩ nhiên, trong bữa cơm tất niên giao
thừa nầy cò đầy đủ các món ăn truyền thống của người Việt Nam như thịt kho dưa
giá, bánh chưng, bánh tét, đưa hành,v.v... hoàn toàn có tính cách đãi 2 phái đoàn
mà không có một ý thức hay hành động nào gọi là chánh trị. Cấp trên của chúng
tôi chấp thuận, và chúng tôi lo tổ chức bữa cơm. Nhưng bên phía Bắc Việt họ có
vẻ nghi ngờ, nhất là tướng 2 sao Lê Quang Hòa trưởng đoàn Bắc Việt, không biết
phía Việt Nam Cộng Hòa có ý đồ bất chánh gì chăng, nên phía Bắc Việt có vẻ chỉ
cho cấp nhỏ đi dự mà thôi. Tôi đích thân đến gặp Lưu Văn Lợi, nói rõ rằng phía
Việt Nam Cộng Hòa chỉ muốn đãi hai phái đoàn một bữa cơm truyền thống ngày
giao thừa mà thôi, mà tuyệt đối không có ý nào khác. Hơn nữa, nhà thầu hôm nay
cũng chưa kịp cung cấp thức ăn kịp cho phái đoàn nên trại Davis chắc cũng không
nấu nướng gì được cho cả gần 200 người ăn. Chính anh Lưu Văn Lợi nầy đã quyết
định đưa hết các tướng tá và toàn bộ hai phái đoàn đến câu lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc
dự bữa cơm giao thừa nói trên. Phần chúng tôi hoàn toàn không có ai tham dự, có
nghĩa là phái đoàn Bắc Việt hoàn toàn tự do trong việc ăn uống chuyện trò vói
nhau một cách thật là tự nhiên thoải mái. Sau đó, cũng chính anh Lưu Văn Lợi
nầy đã gặp chúng tôi để cám ơn. Điều nầy xác nhận tin tức tình báo của anh bạn
tôi trong phái đoàn Hoa Kỳ là chính xác.
(Tôi xin mở thêm một dấu
ngoặc ở đây để nói rõ là năm 2003, chính tên Lưu Văn Lợi nầy đã cùng ngồi chụp
ảnh chung với tướng Nguyễn Khánh và một số cán bộ thuộc tòa đại sứ cộng sản,
hình chụp ở Houston Texas, tất cả đều đội nón rơm vành lớn,báo chí đã có đăng.
Không biết tên cộng sản Lợi nầy qua Mỹ với ý đồ gì ? và ngồi chụp ảnh chung với
tướng Nguyễn Khánh với ý đồ gì ?)
- Việc thứ hai là chuyện
của anh chàng Võ Đông Giang.
Buổi họp khai mạc đầu
tiên tại phòng họp của Ban Liên Họp 4 Bên Trung Ương đã có một chuyện không hay
xảy ra cho anh chàng Võ Đông Giang thuộc phái đoàn của CPLTCHMN. Lúc chúng tôi
đang họp, khoản 9 giờ 30 sáng, thì anh chàng nầy xồng xộc đi vào phòng họp và
tự xưng tên và tự giới thiệu mình là đại biểu của CPLTCHMN. Phía Việt Nam Cộng
Hòa đang chủ trì phiên họp nên chúng tôi mời ông ta xuất trình cho các Bên giấy
ủy quyền của CPLTCHMN. Anh lúng túng đưa ra tờ giấy thông hành (passport) mà
anh đã sử dụng để đi từ Paris sang Việt Nam. Cả hai phái đoàn Hoa Kỳ và Việt
Nam Cộng Hòa chúng tôi đều không chấp nhận, và riêng phái đoàn Việt Nam Cộng
Hòa đã "phang" ra một câu làm anh chàng bẽ mặt phải chịu phép bước ra
ngay khỏi phòng họp mà không nói thêm một lời nào:
- Chúng tôi vẫn biết anh là
người của CPLTCHMN tử Paris mới tới. Nhưng chúng tôi cần anh chứng minh rằng
anh là người được CPLTCHMN chánh thức ủy quyền đại diện cho CPLTCHMN trong Ban
Liên Hợp Quân sự 4 Bên. Trên nguyên tắc thì giấy ủy quyền đó phải có chữ ký của
người có thẩm quyền trong Chánh Phủ của anh và có đóng con dấu của CPLTCHMN.
Nhưng có thể anh về trại làm giấy ủy quyền có chữ ký của ai cũng được, thiệt
hay giả không cần biết, và phải có con dấu, dù đó là con dấu làm bằng củ khoai
lang, miễn đó là giấy ủy quyền của CPLTCHMN là được.
Phái đoàn Bắc Việt do
tướng hai sao Lê Quang Hòa chắc cũng thấy ê mặt vì câu nói mỉa mai nầy của
chúng tôi.Về sau nầy trướng Trần văn Trà từ Lộc Ninh đến là trưởng phái đoàn
của CPLTCHMN và anh chàng Võ đông Giang không thấy có mặt trên Bàn Hội Nghị
nữa.
Trong tháng đầu chúng tôi
làm việc thật là vất vả, một mặt phải chuẩn bị bài vở hoặc dàn bài để phát biểu
hằng ngày trong các buổi họp, với đủ mọi loại đề tài, vừa tấn công vừa giữ vững
lập trường cố hữu của Việt Nam Cộng Hòa cho bất cứ chương nào, điều nào của
Hiệp Định, lại vừa phải phối hợp chặt chẽ với phái đoàn Hoa Kỳ, một mặt phải
thực hiện kịp thời và đầy đủ những văn kiện gởi cho Ủy Ban Quốc tế để liên tục
phản kháng hàng chục vi phạm ngừng bắn của cộng sản trong ngày, đêm đến có khi
còn phải ở luôn tại đơn vị để cùng nhau hội họp để tìm một mô hình tổ chức và
một bản cấp số hợp lý cho đơn vị của mình, (dù đó phải là nhiệm vụ của Phòng 1
/ TTM ), sao cho phù hợp với hai nhiệm vụ đặc biệt đã được ấn định trong điều
16 của Hiệp Định. Riêng trong giai đoạn hiện tại, nhiệm vụ chính yếu của chúng
tôi là "hội nghị" và "phản kháng", do đó hai Khối chính yếu
của Ban Liên Hợp Quân Sự của chúng tôi là Khối Nghị Hội và Khối Ngoại Vụ (phản
kháng vi phạm và giao dịch với Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến). Rồi từ bản
cấp số của Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên, chúng tôi còn phải làm ra bản cấp số của
các Ban Liên Hợp Quân Sự 2 Bên cho các Vùng Chiến Thuật và cho cả các tổ ở địa
phương theo đúng điều 17 của Hiệp Định.
Một phần nhờ sự thuyết
trình của ông Hoàng Đức Nhã khi Tổng Thống Thiệu giao cho trường Cao Đẳng Quốc
Phòng chúng tôi sửa chữa bản Hiệp Định hôm tháng 10, nên chúng tôi được biết
rõ thêm về mục đích và lý do thầm kín của cả Hoa Kỳ và Bắc Việt trong tiến
trình đi đêm giữa Kissinger và Lê Đức Thọ. Một phần nhờ tôi chia sẻ lại cho anh
em tất cả những gì riêng cá nhân tôi đã được giáo sư Nguyễn Ngọc Huy tâm tình
cho biết từ lúc hoà đàm Ba Lê mới bắt đầu hình thành (1968) cho tới ngày ký kết
Hiệp Định, đặc biệt là âm mưu và thỏa thuận của Kissinger và Lê đức Thọ trong
suốt quá trình mật đàm của hai người mà không bao giờ biết đến sự có mặt của
phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa tại bàn hội nghị. Do đó gần như anh em chúng tôi
trong phái đoàn đều nắm vững được một số yếu tố đủ để ứng phó với hai phái đoàn
cộng sản trên bàn hội nghị thuộc Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên Trung ương mà không
sợ rơi vào thế hạ phong bao giờ, mà vẫn giữ được mối giao hảo tốt không lộ vẻ
gì khác lạ đối với phái đoàn Quân sự Hoa Kỳ, dù vẫn biết Việt Nam Cộng Hòa đã
bị đồng minh của mình phản bội và bỏ rơi.
Như vậy, nhờ đã cùng
nhau thảo luận, mổ sẻ và nghiên cứu trước ở Cao Đẳng Quốc Phòng từng chương,
từng điều và từng câu một của bản văn Hiệp Định rồi, nên chúng tôi đã thấy rõ
được phần nào những mục tiêu cần phải tranh đấu cho đất nước trong giai đoạn
nầy mặc dầu đã gần như thấy một tương lai đen tối trước mặt. Một ngõ cụt với
viễn ảnh mất nước cứ lởn vởn trước mắt chúng tôi vì toàn bộ Hiệp Định chỉ có
lợi cho phía cộng sản và hoàn toàn bất lợi cho Việt Nam Cộng Hòa chúng ta.
Chuyện "ngừng
bắn" không quan trọng bằng chuyện chứng minh cho quốc tế thấy rằng Quân
đội chánh quy Bắc Việt đang có mặt tại Miền Nam Việt Nam. Nhưng cái khó là dù
có chứng minh được điều nầy thì Việt Nam Cộng Hòa chúng ta vẫn không sao đuổi
họ ra khỏi lãnh thổ Miền Nam được, vì trong bản Hiệp Định không có một điều
khoản nào, môt câu, một chữ nào nói đến quân đội chánh quy Bắc Việt. Mặc dầu
vậy, lúc nào trên bàn hội nghị chúng tôi cũng vẫn ra rả tấn công điểm nầy bất
chấp sự yên lặng tảng lờ không trả lời hay chối leo lẻo của phía Bắc Việt. Dĩ
nhiên, những lý lẽ tấn công nầy chúng tôi đều có kèm theo bằng chứng cụ thể
(lời khai và hình ảnh của tù binh trẻ Bắc Việt, về sinh quán, đơn vị, ngày xâm
nhập vào Miền Nam v.v.) và chúng tôi trao liên tục cho Ủy Ban Quốc Tế nguyên
văn để họ nắm rõ sự thật là lực lượng Việt Cộng ở Miền Nam thực tế chỉ gồm toàn
quân chánh quy Bắc Việt.
Tất cả anh em học viên Cao
Đẳng Quốc Phòng chúng tôi đã có một nhận định rất rõ ràng là phía Việt Nam Cộng
Hòa mình phải gánh chịu đủ mọi hậu quả tai hại của chánh sách và nhu cầu của
Tổng Thống Nixon khi ông ta "muốn rút chân ra khỏi Việt Nam, đưa tù binh
Mỹ về nước" qua cuộc hòa đàm Ba Lê và do đó chính ông đã khoán trắng cho
Kissinger tự do đi thẳng với Bắc Việt (Lê Đức Thọ) trong mật đàm và đi đêm với
cộng sản, để cho ông nầy bước cả qua đầu của mình lẫn hai phái đoàn Mỹ Việt ở
bàn hội nghị Ba Lê, đến độ bị Lê Đức Thọ xỏ mũi trao cho dự thảo bản văn của
Hiệp Định để cho Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ dịch ra nguyên văn không sót một chữ, một
dấu phẩy nào.
Tôi chỉ xin nhắc lại một
chuyện: "chuyện cái bàn", để mọi người thấy rõ hơn. Chỉ riêng chuyện
"hình dáng cái bàn" không thôi, Hoa Kỳ cũng đã hoàn toàn nhượng bộ
Bắc Việt mà không hiểu được ý đồ thực sự của cộng sản. Từ "cái bàn
tròn" với 3 phái đoàn Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa, và Bắc Việt, lại được Hoa
Kỳ và Bắc Việt thỏa thuận biến thành "cái bàn vuông" để có thêm một
chỗ ngồi chánh thức cho cái gọi là phái đoàn của CPLTCHMN, mà trên thật tế đây
chỉ là một bọn du kích Việt Cộng được Bắc Việt dựng lên từ phong trào Đồng Khởi
ở Bến Tre vào năm 1960, được Bắc Việt âm mưu tiêu diệt gần hết trong trận tổng
công kích Tết Mậu Thân, để Bắc Việt ung dung thay thế gần như toàn bộ bằng lực
lượng chánh quy Bắc Việt. Trong hai năm dài bàn cãi về hình dáng của "cái
bàn" ở Ba Lê, cuối cùng thì Hoa Kỳ bị Bắc Việt đánh cho một cú "nốc
ao", té gục để nhìn nhận ngay CPLTCHMN là một "thực thể" ở Miền
Nam Việt Nam trong khi theo Hiệp Định Genève 1954 thì chỉ có 2 thực thể trên
toàn cõi Việt Nam là VNDCCH (Bắc Việt) và Việt Nam Cộng Hòa (Nam Việt)! Phía
Việt Nam Cộng Hòa chúng ta chỉ còn biết xuôi tay chào thua mà thôi, vì bị Đồng
Minh của mình chơi trò dùng viện trợ để trân tráo ép buộc phải chịu lép vế ê
mặt ngồi chung bàn với bọn Việt Cộng!
Công việc được tiến
hành một cách trôi chảy trong suốt thời gian sáu mươi ngày được Hiệp Định ấn
định cho Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên nhưng trên thực tế thời gian nầy được kéo
dài đến gần cuối tháng 3 năm 1973 thì phái đoàn Bắc Việt mới rút khỏi trại
Davis, chỉ để lại một bộ phận liên lạc khoản 10 sĩ quan mà thôi. Từ đó, Hoa Kỳ
vẫn đơn phương tiếp tục các chuyến bay ra Hà Nội hàng tuần, mà họ gọi là
"chuyến bay liên lạc" không được Hiệp Định ấn định hay 4 Bên thỏa
thuận trong thời gian hiệp thương trên bàn hội nghị tại Tân Sơn Nhất. Phía Việt
Nam Cộng Hòa không biết rõ về mục đích của chuyến bay. Các sĩ quan Bắc Việt ở
trại Davis vẫn được hoán chuyển thường xuyên nhờ các chuyến bay nầy và có Trời
mới biết họ và các sĩ quan Mỹ mang đi mang về Hà Nội những gì. Trung tướng Trà
cũng xin về Hà Nội và được thiếu tướng Hoàng Anh Tuấn từ Lộc Ninh tới chánh
thức thay thế.
Tôi còn nhớ trong thời
gian nầy có hai sự kiện cần phải được nhắc lại để chúng ta thấy rõ tâm trạng
của tướng Trần Văn Trà. Ông vốn là người sanh trưởng ở Quảng Ngãi thuộc Miền
Nam Việt Nam nên tánh tình cũng bình dị và cởi mở như người Miền Nam. Phụ tá
của ông là đại tá Nguyễn Văn Sĩ người gốc ở Cần Thơ, Tư Lệnh công trường 7 tức
là sư đoàn 7 của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Anh Sĩ nầy hồi học ở trường
trung học Cần Thơ được anh em sinh viên gọi là Sĩ Kiếng, và là chỗ quen biết
với cá nhân tôi, lúc hai hội túc cầu của hai trường Pétrus Ký và Cần Thơ gặp
nhau trong các trận giao hữu hằng năm. Cho nên khi trên bàn hội nghị mà bị bế
tắc về con số tù binh phải được trao trả thì tướng Trà bảo "anh Sĩ hãy
chịu khó bàn thảo riêng với anh Nghĩa để giải quyết". Thế là hai anh
em chúng tôi kéo nhau ra câu lạc bộ Hoa Kỳ ngay bên cạnh để tôi tha hồ
"chiêu đãi anh bạn cũ'' đủ mọi loại bánh ngọt của Mỹ mà tôi biết rằng anh
rất thiếu. Ngoài ra tôi còn rỉ tai to nhỏ trao đổi với anh bạn cũ của mình
nhiều chuyện về cộng sản Bắc Việt, mà tù binh là một, như sau :
- Đối với anh hay Mặt Trận
Giải Phóng Miền Nam thì con số tù binh mà anh muốn chúng tôi thả ra bao nhiêu
cũng được hết. Nhưng anh cũng dư biết là tù binh họ muốn thả ra nầy không phải
là người Miền Nam của chúng ta mà phần đông là dân Bắc Kỳ (tôi dùng thẳng danh
từ Bắc Kỳ với anh Sĩ). Và tôi cũng biết là các anh đều bị bọn Bắc Việt kềm kẹp
trong mọi hoạt động, ở mặt trận cũng như trên bàn hội nghị nầy. Nhưng hai anh
em mình và có lẽ cả tướng Trà cũng vậy, đều hiểu và thông cảm với nhau hơn,
cho nên hai anh em mình mới có dịp ngồi uống trà với nhau thoải mái ở đây. Vậy
anh muốn con số bao nhiêu, tôi chấp thuận cho anh bấy nhiêu. Với anh là cái gì
cũng được hết .
- Cám ơn anh, anh cho tôi
chừng 70 thôi, mà nửa nầy nửa kia. Tôi nói vậy là anh hiểu rồi phải không? Tôi
cũng muốn người Nam của chúng ta ra hết càng sớm càng tốt cho gia đình họ.
-Tôi hiểu rất rõ, anh bạn.
Và cứ thế tuần nào tướng Trà
cũng tạo điều kiện cho hai chúng tôi gặp nhau ít nhất là 1 lần. Đây chỉ là con
số tù binh được 4 Bên thỏa thuận mà thôi còn vấn đề trao trả thì do anh Phan
Nhật Nam phụ trách tranh đấu thẳng với cả hai phái đoàn cộng sản tại hiện
trường, hoặc ở Lộc Ninh, hoặc ở Bến Hải là địa điểm mà chúng tôi đã ép cộng
sản phải nhận để Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến ghi nhận, vì là tù binh
chánh quy Bắc Việt, dù bên nhận là CPLTCHMN. Vấn đề nầy cũng rất là gây cấn và
không kém phần quan trọng, nên người phụ trách công tác tranh đấu chánh trị với
cộng sản ngay tại hiện trường trao trả lúc đó là thiếu tá Phan Nhật Nam. Sau
đó anh Nam đã viết luôn một cuốn sách: "Tù Binh và Hòa Bình" rất có
giá trị, được xuất bản và phổ biến rộng rãi trước 1975 (2)
Ngoài ra trước khi rời
khỏi Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên, tướng Trần Văn Trà cũng có nhờ riêng tôi mua
cho ông ta một máy thu băng cassette và tất cả những băng cassette của tất cả
những ca sĩ nam nữ của Miền Nam để ông mang về. Tôi giúp ông mua đầy đủ hết
không thiếu một bản nhạc nào kể cả những bản nhạc tiền chiến mà sau nầy cộng
sản Bắc Việt gọi là nhạc vàng Mỹ Ngụy. (tiền mua gần 500 ngàn tôi nhờ Hoa Kỳ
đài thọ).
(Nhân tiện tôi cũng
xin mở một dấu ngoặc ở đây để nói thêm về anh Sĩ nầy sau ngày 30/4/1975. Anh Sĩ
được thăng cấp thiếu tướng và cho giải ngũ sau ngày Ban Quân Quản được giải tán
tức là chỉ trước ngày cộng sản tuyên bố thống nhất cả hai miền Nam Bắc. Sau khi
ra khỏi tù năm 1987, tôi có xuống Cần Thơ và đích thân vào gặp được lại anh Sĩ
tại sân quần vợt của thành phố. Anh cho biết là từ năm 1977 anh "bị phục
viên" (giải ngũ) với cấp bậc thiếu tướng và anh về sống ở Cần Thơ như các
anh em bị phục viên khác của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, và tất cả các cán bộ
chỉ huy của sư đoàn của anh đều được cán bộ đảng viên từ Miền Bắc vào thay thế
hết. Tướng Trần Văn Trà, Đồng Văn Cống,v.v... đều lần lượt "bị phục
viên" khi họ giải tán Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam).
Nhắc lại trong thời gian
hoạt động của Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên, hầu hết các túi da beo nầy tiếng là
căn cứ của CPLTCHMN nhưng thực tế là do Quân đội chánh quy Bắc Việt chiếm giữ
và sử dụng như điểm xuất phát của các đại đơn vị của họ và mỗi ngày họ cứ bung
ra trái với điều quy định của Hiệp Định. Do đó không khi nào có tình trạng
ngưng bắn ở khắp Miền Nam Việt Nam nhất là ở vùng xôi đậu Miền Đông Nam Bộ,
giao tiếp ngay với đường mòn Hồ chí Minh là con đường xâm nhập chính mà Bắc
Việt đang sử dụng. Trong lúc đó, "không ảnh" vẫn cho thấy từng đoàn
xe dài của Bắc Việt có cả chiến xa và Pháo Binh cơ giới cứ tiếp tục rầm rộ tiến
vào hướng Lộc Ninh một cách tự do giữa ban ngày. Hoa Kỳ nhất định không can
thiệp. Mặc dầu chúng ta có yêu cầu, nhưng phái đoàn Hoa Kỳ cho biết là Chánh
Phủ Hoa Kỳ đã có quyết định không tái can thiệp vào công việc nội bộ của Miền
Nam Việt Nam như điều 4 của Hiệp Định đã có qui định. Mặc dầu cả Hoa Kỳ và Ủy
Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến đều được chúng tôi nêu rõ nhiều lần trong phản
kháng với hình ảnh cụ thể là BắcViệt đã có hành động vi phạm trắng trợn (điều
7, Chương I) nầy của Hiệp Định.
Trong khi đó Ủy Ban
Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến thì lại hoàn toàn bất lực không tiến hành được bất
cứ một cuộc điều tra vi phạm ngừng bắn nào trong nhiệm vụ chính yếu là
"điều tra về việc ngừng bắn giữa các Bên ở Miền Nam Việt Nam" đúng
theo điều 3(c), chỉ vì Lê đức Thọ đã quá khôn ngoan, khóa tay Ủy Ban bằng
nguyên tắc "nhất trí" (đồng thuận) của điều 18f trong Hiệp Định mà
Kissinger không bao giờ thấy được (mà có thấy chắc ông ta cũng làm ngơ). Hai
thành viên cộng sản của Ủy Ban là Ba Lan và Hung Gia Lợi thì luôn luôn dựa vào
nguyên tắc "nhất trí" của điều khoản nầy để cản trở hai phái đoàn Gia
Nã Đại và Nam Dương trong công tác chính của Ủy Ban là điều tra, mà nếu Gia Nã
Đại hay Nam Dương đơn phương dám liều lĩnh "mon men" bay vào khu vực
da beo của cộng sản để điều tra vi phạm ngừng bắn mà không có sự đồng thuận của
một trong hai thành viên cộng sản thôi thì cũng đủ để cho Bắc Việt cho bắn hạ
trực thăng ngay, bất kể sự có mặt của sĩ quan Bắc Việt hay của CPLTCHMN trên
trực thăng có sơn rõ ràng màu và dấu hiệu của Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình
Chiến. Điều nầy đã xảy ra trong những ngày đầu tháng 4/ 1973 trên vùng trời
Bình Chánh (Chợ Lớn) để răn đe hai thành viên Gia Nã Đại và Nam Dương. Nếu may
mắn mà thành viên quốc tế nào còn sống thì së bị cộng sản bắt nhốt và hành hạ
đối xử như tù binh thường với tội dám bay vào "vùng trời" của họ mà
không xin phép. Ngoài ra, Ủy Ban đã chẳng những không khai triển vào đóng được
ở các điểm được Hiệp Định dự trù như Lao Bảo, Vị Thanh, Đức Cơ, Xa Mát, Ben
Hét, Tri Tôn, mà còn phải nằm yên bất động khắp nơi suốt mấy tháng khiến cho
Gia Nã Đại quá ngao ngán và bất mãn đã phải rút chân ra khỏi Ủy Ban và về nước
vô điều kiện, sau lần bị bắn thứ hai ở gần vùng Khe Sanh ngày 7 tháng 5/73 khi
họ định vào tìm vị trí đóng quân cho Tổ Quốc Tế ở Lao Bảo. Sau đó vương quốc
Iran được Hoa Kỳ mời vào thay chân cho Gia Nã Đại, và trong suốt thời gian từ
1973 cho đến 30 tháng 4 /1975, coi như Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến chỉ
có mặt ở các đô thị Việt Nam để cho có mặt trong các buổi tiệc tùng, du hí mà
thôi .
Đối với Ủy Ban Quốc Tế
Kiểm Soát Đình Chiến, ngoài các tiệc tùng do Hoa Kỳ tổ chức khoản đãi Ủy Ban và
Ban Liên Hợp Quân Sự 2 Bên, Khối Ngoại Vụ chúng tôi chỉ liên lạc và trao đổi
tin tức với 2 phái đoàn Nam Dương và vương quốc Iran. Nhưng thỉnh thoảng Trung
Tá Thiện của chúng tôi cũng thường xuyên liên lạc với ông Polgar trưởng toán
CIA của tòa đại sứ Hoa Kỳ để biết được tin tức chính xác về đường lối và hành
động của Hà Nội., qua đại tá Toth của Hung Gia Lợi, người mà ông Polgar thường
hay tiếp xúc.
Riêng cá nhân tác giả bài
nầy đã được phái đoàn Nam Dương hai lần giúp đỡ trong công tác tình báo chiến
trường:
Vào cuối năm 1974, như thường
lệ hằng tháng tôi sang thăm Đại tá Abbas, phó trưởng phái đoàn Nam Dương trong
Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến ở Tân Sơn Nhất. Ông nầy vốn là sĩ quan
Phòng Nhì thuộc Bộ Tổng Tham Mưu Quân đội Nam Dương. Sau tuần rượu khai vị thân
mật, ông đưa tôi vào Phòng Tình Hình của phái đoàn, kéo tấm màn vải lên và cho
tôi xem Bản Đồ Chiến Trận của Bắc Việt gồm toàn bộ các đại đơn vị chánh quy Bắc
Việt. Ông chỉ cho tôi thấy vị trí của từng đơn vị cấp sư đoàn của Bắc Việt đang
đóng quân hay đang di chuyển về vùng Cao Nguyên Trung Phần, tức là Vùng 2 Chiến
Thuật của Miền Nam Việt Nam. Và sau đó ông ước tính là họ së tiến hành những
trận đánh lớn ở vùng nầy, có thể là vào mùa Xuân năm 1975. Tôi không cần biết
tại sao ông có được những thông tin nầy và có chính xác hay không vì trước đó
chúng tôi đã có được những "không ảnh" nhận được từ phái đoàn Hoa Kỳ
cho thấy tất cả những sự di chuyển công khai và rầm rộ bằng cơ giới của các
đoàn xe Bắc Việt đều tiến về hướng Lộc Ninh, được 4 Bên mặc nhiên coi đó là thủ
đô của CPLTCHMN. Tất cả đều phù hợp với nhận định và ước tính của đại tá Abbas.
Tôi xin phép ông bạn Abbas cho tôi sao chép lại bản đồ nầy trên giấy kiến. Xong
xuôi tôi mới từ giã ra về. Sau đó, tôi tức tốc gọi cho đại tá Võ Văn Cầm ở Phủ
Tổng Thống xin vào gặp ngay Tổng Thống Thiệu. Tôi vào Dinh Độc Lập đúng 3 giờ
chiều ngày 12 tháng chạp năm 1974 với các không ảnh và bản đồ chiến trận vừa
sao chép được ở phái đoàn Nam Dương. Tôi và đại tá Cầm trải bản
"overlay" lên bản đồ 1/100000 của Tổng Thống và tôi lập lại toàn bộ
những ước tính tình báo của đại tá Abbas thuộc phái đoàn Nam Dương. Nhưng rồi
Tổng Thống Thiệu lại bảo tôi mang sang cho tướng Đặng Văn Quang, điều mà tôi hoàn
toàn không thi hành, vì thấy Tổng Thống đặt nhẹ vấn đề. Điều nầy tôi có cho đại
tá Cầm biết.
Lần thứ hai vào khoản giữa
tháng giêng năm 1975, một lần nữa tôi lại sang gặp đại tá Abbas theo lời mời
của ông nầy qua điện thoại. Lần nầy cũng giống như lần trước, sau phần nghi lễ
xã giao ngắn gọn ở phòng khách ông ta có vẻ nóng ruột đưa ngay tôi vào phòng
tình hình để cho xem bản đồ đóng quân của các sư đoàn chánh quy Bắc Việt chung
quanh hai tỉnh Kontum và Ban Mê Thuột. Đặc biệt hôm nay đại tá Abbas lại ước
tính rất rõ ràng mục tiêu tấn công sắp tới của Bắc Việt së là huy hiếp Pleiku
bằng hai cuộc tấn công mạnh vào tỉnh Kontum hay vào tỉnh Ban Mê Thuột nhưng
Ban Mê Thuột là chắc hơn để có thể chận đường tiếp viện nếu có từ Pleiku. Tuy
không nói rõ thời gian nhưng ông cho biết chắc chắn là rất gần đây thôi. Tôi
lại sao chép tin tức một lần nữa và cũng xin gặp ngay Tổng Thống Thiệu để trình
bày. Lần nầy thì ông Thiệu bảo đại tá Cầm đích thân trao cho Đại tướng Cao văn
Viên. Không biết Tổng Thống có dặn thêm anh Cầm gì nữa không thì tôi không
biết. Nhưng, tôi tin chắc rằng Tổng Thống đã đặc biệt chú ý đến tình hình của
Vùng 2 Chiến Thuật, với sự có mặt của ít nhất là 3 sư đoàn bộ binh Bắc Việt
trong đó có sư đoàn thiện chiến 308 cùng với một sư đoàn thiết giáp và một sư đoàn
pháo binh hạng nặng và trung đoàn pháo binh phòng không. Quả nhiên mục tiêu
tấn công của Bắc Việt là Ban Mê Thuột vào đêm 10 tháng 3 năm 1975 vào khoảng 3
giờ sáng. Và coi như Ban Mê Thuột chánh thức bị cộng sản chiếm hoàn toàn ngày
hôm đó.
Và... Ban Liên Hợp Quân
Sự 2 Bên tiếp tục sống ngoắc ngoải sau ngày 10 tháng 3 năm 1975 tức là ngày Bắc
Việt tiến chiếm Ban Mê Thuột, rồi biến cố đẫm máu trên con đường liên tỉnh lộ
7B, cộng sản Bắc Việt thẳng tay giết dân lành không một tấc sắt trong tay trên
đường chạy loạn, trên con đường độc đạo đã bỏ hoang từ nhiều năm, sau khi Tổng
Thống Thiệu nhắm mắt đánh phé với Hoa Kỳ bằng cách ra lệnh rút bỏ Vùng 2 Chiến
Thuật qua một phiên họp ngắn ở Nha Trang với sự có mặt của đại tướng Cao Văn
Viên, Trần Thiện Khiêm và Tư lệnh Vùng 2 Trần Văn Phú. Tôi đã có mặt ở Nha
Trang ngay ngày hôm đó, nhưng không phải để chứng kiến phiên họp cấp cao nầy,
mà là để được nghe trung tướng Phạm Quốc Thuần ở Trung Tâm huấn luyện Đồng Đế
thuật lại đầy đủ tình hình và diễn tiến của phiên họp lịch sử ngày hôm đó..
Sau khi thua cây phé
quá nặng nầy (mất cả Vùng 2 Chiến Thuật và Quân Đoàn 2), coi như QLVNCH lần
lượt bị tan rã từ từ mà không có một trận đánh nào từ Huế, Đà Nẵng cho tới Nha
Trang... Chỉ còn có Xuân Lộc với những pha chiến đấu anh dũng duy nhất của sư
đoàn 18 bộ binh và lữ đoàm 3 thiết giáp, được tăng cường một số đơn vị Biệt
động Quân và Nhảy Dù, với sự yễm trợ tích cực của Không Quân Chiến Thuật trong
những ngày cuối tháng 4/75, nhưng rồi vì thiếu vũ khí đạn dược, dù có đầy đủ
tinh thần chiến đấu chúng ta vẫn phải chịu cúi đầu với số mạng hẩm hiu của một
Quốc Gia và một Quân Đội bị Đồng Minh Hoa Kỳ của mình bỏ rơi một cách quá bỉ ổi
và tàn nhẫn, không một luyến tiếc... chỉ vì quan điểm của cường quốc đối với
quốc gia nhược tiểu:
"Quyền Lợi mới là chánh yếu, là trường cửu, còn
Đồng Minh chỉ là Tạm Thời... giai đoạn"
Và Ban Liên Hợp Quân Sự chúng
tôi bị pháo kích suốt đêm 29 tháng 4, từ 9 giờ 30 tối đến rạng sáng ngày hôm
sau với hai dãy nhà ngang của hai Khối Nghị Hội và Ngoại Vụ bị cháy dưới sự
chứng kiến đầy bất lực của chúng tôi (cá nhân tôi và đại tá Võ Văn Ba), và với
khoảng 10 nhân viên bị thiệt mạng không cứu ra được. May mắn là chúng tôi kịp
chạy ra nằm ngay dưới đường rãnh bên đường trước trụ sở của Ban Liên Hợp Quân
Sự nên đã tránh được không bị thương và cũng không bị kẹt trong đám cháy. Do đó
như tôi đã nói ở phần đầu là Ban Liên Hợp Quân Sự được chánh thức khai tử ngày
29 tháng 4 năm 1975.
Để kết thúc bài nầy,
chúng tôi xin nói rõ là đứa con út của QLVNCH, là đơn vị Ban Liên Hợp Quân Sự
của chúng tôi đã được khai tử ngày 29 tháng 4 năm 1975, đồng thời cuộc đời binh
nghiệp của cá nhân Dương Hiếu Nghĩa coi như cũng bị chấm dứt ngay ngày quốc hận
30/4/75 cùng chung với số phận của Miền Nam Việt Nam và của tất cả anh chị em
trong QLVNCH qua sự xâm lăng tàn bạo và trắng trợn của cộng sản Bắc Việt được
chuẩn bị rất chi ly từ lâu với bản Hiệp Định Ba Lê 27 tháng giêng 1973, bằng
đường lối bá đạo, bịp bợm và tàn ác trong đó có sự tự nguyện tiếp tay đắc lực
của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ đã quyết định sai lầm là bội ước, phản bội đồng minh, dẫn
đến sự bức tử của Việt Nam Cộng Hòa và sự tan rã của
QLVNCH.
Tiểu bang Washington ngày 15 tháng 11 năm 2004
Dương Hiếu Nghĩa
Ghi Chú:
(1) .- Bốn Cha Ba Mẹ: Nguyên
thủy thì cuộc hòa đàm Ba Lê chỉ có "Ba Mẹ" là Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng
Hòa và VNDCCH (Bắc Việt). Nhưng về sau có thêm cái gọi là CPLTCHMN (Chánh Phủ
Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam) được cộng sản Bắc Việt khai sanh và đòi Hoa Kỳ phải
nhận nó như một thực thể như Việt Nam Cộng Hòa, mặc dầu nó chỉ là một sự thay
tên đổi họ của nhóm Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, nên gọi là "Bốn
Cha".
(2) "Quyển "Tù Binh
và Hòa Bình" của nhà văn Phan Nhật Nam thiếu tá thuộc Ban Tù Binh trong
Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên, đã được xuất bản tại Việt Nam trước 1975. Sau khi
ra khỏi nhà tù cộng sản vào cuối thập niên 80, anh được định cư ở Hoa Kỳ và
quyển Tù Binh Và Hòa Bình được tái bản đến 2 lần, lần thứ hai vào năm 1988 do
nhà xuất bản Đông Tiến, San jose, California. Đồng thời, tác phẩm Tù Binh và
Hòa cũng đã được dịch sang Anh ngữ với tựa đề: "Peace and Prisoners of
War", được lưu giữ trong các thư viện khắp Hoa Kỳ.
Hồi Ký Dang Dở
- Cuộc đời binh nghiệp