Trong
số những chiến hạm của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, Trợ chiến hạm có lẽ
là loại chiến hạm có mặt từ ngày thành lập HQVNCH và tiếp tục hoạt động
cho đến
ngày VNCH không còn là một quốc gia.. Trợ chiến hạm là tên Việt cho các
tàu đổ bộ loại LSSL (Landing Ship Support Large) của HQ Hoa Kỳ...
Trong
thời kỳ Thế chiến thứ 2, HQ Hoa Kỳ đã sử dụng nhiều loại chiến hạm đổ
bộ gọi chung là Landing Ship như LST (Landing Ship Tank), LCT (Landing
Craft Tank),
LSD (Landing Ship Dock).. sau đó phát triển thêm những loại LCI (L)
=Landing Craft Infantry (Large)..Những LCI này được gắn nhiều loại súng
khác nhau từ phóng rocket, súng cối, đại liên, đại bác..Và sau cùng được
bổ sung và phát triển hơn nữa thành một loại
chiến hạm có cấu trúc lớn hơn, trang bị hỏa lực mạnh hơn để trở
thành..đúng nghĩa là một chiến hạm LCS (L) với tên phụ là Mighty Midget
Khi
Thế chiến 2 chấm dứt 123 chiếc LCS(L) ở trong tình trạng còn hoạt động
được , sau đó do nhu cầu của cuộc Chiến tranh 'lạnh' giữa 2 khối Tự do
và Cộng sản..,
các LCS(L) được đưa ra tái sử dụng dưới ký danh mới LSSL và Hoa Kỳ đã
viện trợ những chiến hạm này cho các quốc gia đồng minh như Pháp, Ý,
Nhật, Đài Loan.. qua các Chương trình quân viện như Mutual Defence
Assistance, SecurityAssistance..
Trợ chiến hạm trong Hải Quân Pháp tại Việt Nam
Trong
chiến tranh VN, Pháp đã nhận được quân viện từ Hoa Kỳ và Hải Quân Pháp
cũng nhận một số chiên hạm để sử dụng tại chiến trường Đông dương.
Ngày
25 tháng7 năm 1950, 6 chiếc LSSL được bàn giao cho Pháp tại Puget Sound
: đó là những chiếc LSSLs 2, 4, 9, 10, 28 và 80. Sau chuyến hải hành
vượt Thái bình
dương, các chiến hạm này cặp bến SàiGòn vào ngày 17 tháng 9. Lúc đầu HQ
Pháp đánh số các chiến hạm này từ 1 đến 6, nhưng sau đó (cuối 1951) đổi
thành các số 9021 đến 9026 và đến 1953 dùng tên các võ khi thời Trung
cổ để đặt cho các chiến hạm này.(Trươc đó
HQ Pháp đã có 3 chiếc LSSL, với 6 chiếc mới nhận HQ Pháp có được 9 LSSL
để sử dụng trên chiến trường Đông dương)
Các
chiến hạm của HQ Pháp mang những tên : Arbalete (9021), Arquebuse
(9022), Hallebarde (9023), Javeline (9024), Pertuisane (9025), Rapière
(9026) và vào 1953
thêm 3 chiếc được Hoa Kỳ chuyển cho Pháp là những chiếc Etendard,
Oriflamme và Framée
Các
LSSL được dùng để yểm trợ cho các Dinassault (Hải đoàn xung phong)
trong các trận đánh chống lại Lực lượng Việt Minh tại những vùng sông
rạch Bắc VN như
các khu vực Sông Đáy, Sông Hồng. đồg thời hoạt động tuần phòng ven biển
từ Trung ra Bắc và trên sông Cửu Long tại miền Nam..
Trong thời gian từ 1952-1954, các chiến hạm này đã yểm trợ nhiều cuộc hành quân của Lực lượng Liên Hiệp Pháp
Sau
khi Hiệp định Geneve được ký kết, phân chia VN thành 2 miền, Chiến hạm
Pertuisane đã được dùng để chuyên chở người di cư từ Bắc vào Nam..
Trợ chiến hạm của Hải Quân VNCH :
- Các Trợ chiến hạm do Pháp chuyển giao :
Và khi vai trò của Pháp chấm dứt, họ đã chuyển một số chiến hạm trong đó có các LSSL cho Việt Nam.
Chiếc
Arbalète là Trợ chiến hạm đầu tiên được chuyển giao cho HQVN vào ngày
12 tháng 10 năm 1954 tại Sài Gòn. HQVN đổi tên chiến hạm này thành Nỏ
thần HQ 225.
Với giai đoạn đầu của tổ chức HQVN chưa đủ nhân lực và còn thiếu kinh
nghiệm để điều hành nên tuy được chinh thức xem là một chiến hạm của VN
nhưng vẫn do Sỉ quan và thủy thủ đoàn (25 người) Pháp kiểm soát và điều
hành, thêm vào đó là 30 nhân viên HQVN ..xem
như 'học nghề'. Đến khoảng cuối năm 1955 Chiến hạm trở thành 'không thể
hải hành' nên được..giải ngũ, chuyển cho Đài loan để phế thải, lấy
những cơ phận còn dùng được..
Chiếc Arquebuse được chuyển giao vào 1955 và trở thành Linh Kiếm HQ 226.
Chiếc
thứ ba được Pháp chuyển lại là chiếc Framée , chuyển vào tháng 3 năm
1956, và thay thế cho chiếc Arbalete phế thải, HQVN vẫn dùng tên Nỏ Thần
HQ 225 đặt
cho chiếc này.
Trong
giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh chống Cộng, các chiến hạm này theo
Đ/Tá Đỗ Cẩm ghi lại : 'LSSL là những chiến hạm thật sự..chiến đấu đầu
tiên mả HQVN
tiếp nhận và là niềm hãnh diện cho HQVN. Hỏa lực của chiến hạm thật ghê
gơm nhất là khi yểm trợ tiếp cận mục tiêu. Chiến hạm gây kinh hoàng cho
VC trong những năm 50-60, và giúp rất nhiều cho các cuộc hành quân tại
các vùng sông ngòi khi khả năng của KQVN
và Pháo binh còn giới hạn..'
Các Trợ chiến hạm do Mỹ chuyển giao :
Ngoài
3 Trợ chiến hạm kể trên, Hoa Kỳ cũng chuyển giao cho HQVNCH 4 chiếc nữa
để tổng số Trợ chiến hạm lên đến 7 chiếc. Từ 1957, HQVNCH đã dùng tên
các chiến
sĩ HQ hy sinh để đặt cho các Trợ chiến hạm :
HQ 225 Nguyễn văn Trụ
HQ 226 Lê trọng Đàm
HQ 227 Lê văn Bình
HQ 228 Đoàn ngoc Tảng
HQ 229 Lưu Phú Thọ
HQ 230 Nguyễn ngọc Long
HQ 231 Nguyễn đức Bổng
Đặc tính chung của các Trợ chiến hạm :
Trọng tải trung bình 250 tân, tối đa 384 tấn
Kích thước : dài 158 ft, rộng 23.7 ft
Vận chuyển : 2 máy diesel, mỗi máy 1600 mã lực
Vận tốc trung bình 14 hải lý/giờ, tối đa 16.5 hải lý/giờ
Hỏa lực : 1 đại bác 76.2 mm, 4 khẩu 40 mm, 4 khẩu 20 mm và nhiều đại liên.
Thủy thủ đoàn : 60-70 người
Vai trò và Nhiệm vụ cũa Trợ chiến hạm :
Trong
những năm 1950, các Trợ chiến hạm thuộc HQ Pháp hoạt động trên chiến
trường Đông dương thường được giao những nhiệm vụ như tuần phòng ven
biển, và do hỏa
lực trang bị trên tàu khá mạnh nên được dùng vào việc yễm trợ cho các
cuộc hành quân thủy bộ. Những dinassaut của Pháp gồm một số chiến đỉnh
nhỏ như LCT, LCM và LCVP gắn thêm nhiều đại liên, súng cối để tăng hỏa
lực..Khi hành quân thường có thêm một LSIL để
dùng làm nơi đặt Bộ Chỉ huy, và khi có mặt của Trợ chiến hạm thì chiếc
này sẽ giữ nhiệm vụ đó. Đài chỉ huy của Trợ chiến hạm khá cao, giúp tăng
được tầm quan sát nhưng lại trở thành mục tiêu bị địch quân nhắm
bắn..Các nhân viên quan sát trên pháo tháp dễ bị
'băn sẻ' Các Trợ chiến hạm rất hữu hiệu trong công tác bảo vệ các đoàn
tàu thuyền cần di chuyển trên những dòng sông bị CQ phục kích.. Lực
lượng Việt Minh trong thời gian này chưa có nhựng vũ khí nặng để gây tổn
hại cho các đoàn công-voa trên sông..Nguy hiểm
nhất chỉ là mìn..thả trôi hoặc đặt vào tàu để phá hoại..Một số cuộc
đụng độ giữa Lực lượng VM và Pháp trên những vùng sông ngòi dều đưa đến
những tổn thất nặng cho VM như các trận phục kinh trên Sông Đáy
(11-1952), trận giải vây Mao Khê (23-3-1951), chiến
dịch Phủ Lý-Ninh Bình (29-5-1951) giữa các SĐ 308 và 304 VM và Dinassaut 3 của Pháp...
Trong
những năm 1953-54, các Trợ chiến hạm Pháp đã đụng độ rất nhiều trận với
VM..tại những khu vực Phát Diệm, Bùi chu, Thanh Hóa, Hưng Yên và những
tiền đồn
dọc Sông Hồng..
Sau
Hiệp định Geneve, HQ VN tiếp nhận 2 Trợ chiến hạm từ người Pháp và tiếp
tục sử dụng các tàu này..theo kiễu HQ Pháp, nghĩa là tuần ven biển,
sông rạch và
yễm trợ hành quân thủy bộ..
Từ
5-19 tháng 6, 1955, các giang đoàn xung phong 22, 23 và 25 được sử dụng
trong các cuộc hành quân dẹp các lực lượng quân đội Giáo phái Hòa Hảo
trong khu vực
Cần Thơ, Long Xuyên. Bộ Chỉ huy chiến dịch được đặt trên Chiến hạm Nỏ
Thần..
Về nhiệm vụ tuần duyên, từ tháng 12-55, Nỏ Thần được giao nhiệm vụ tuần tra ven biển từ Vũng Tàu đến Mũi Bãi Bùng..
Vai
trò yểm trợ hỏa lực và tiếp vận cho các tiền đồn xa xôi nơi vùng sông
rạch giảm dần khi Không Quân VNCH lớn mạnh, các phi vụ Skyraider và trực
thăng võ trang
được sử dụng nhiều hơn..
Trong
những tháng đầu năm 1970, các Trợ chiến hạm trỡ thành lực lượng chính
bảo vệ các đoàn tàu tiếp tế cho Kampuchea trên thủy lộ
Pnnompenh-NeakLuong. Chuyến
tiếp vận sau cùng được thực hiện vào ngày 30 tháng Giêng 1975
'Dự án Hải sử' (Vũ hữu San) đã viết về Sự hữu hiệu của Trợ chiến hạm và Giang pháo hạm như sau :
'
Trong vòng 25 năm chiến tranh, loại Trợ chiến hạm LSSL là loại chiến
hạm có hỏa lực mạnh nhất trong sông ngòi VN, kế đó là các Giang phao
hạm. Khi hành quân
phối hợp với lực lượng bạn, hai loại tàu này thường được dùng như soái
hạm lưu động cho CHT hành quân. Với hỏa lực hùng hậu, chiến hạm yểm trợ
hải pháo rất đắc lực khi tiến quân..
Tuy
vậy đôi khi tại vùng đồng bằng sông Cữu Long, các tàu này đã được sử
dụng vào các công tác tuần tiễu sông ngòi.Lâu lâu cấp chỉ huy còn dùng
hai loại tàu
này thường trực để yểm trợ cho lực lượng diện địa ven sông. Trong công
tác này chiến hạm thường đơn độc nên dễ dàng bị địch phục kích khi giang
hành và cả khi neo lại nghỉ ngơi..'
Hạm
đội HQVNCH được tổ chức thành 3 Hải đội (Tuần duyên, Chuyển vận và Tuần
dương). Giang pháo hạm thuộc Hải đội 1, tuần duyên (gồm cả các PGM=Tuần
duyên hạm
và LSIL=Giang pháo hạm)
Victor
Croizant (Đại tá TQLC Hoa Kỳ) trong 'The Brown Water Navy' đã viết một
bài'tiêu biểu' về hoạt động của Giang đoản Xung phong 23 trong trận Hàm
Luông 4
tháng 10 1965 như sau : 'Chiến hạm HQ 226 được giao nhiệm vụ tuần giang
trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long trong các tháng 9 và 10, 1965.
Các báo cáo từ Cố vấn Mỹ ghi nhận chiến hạm đã yểm trợ cho 3 công tác
trục vớt các tiểu đỉnh bị chìm, yểm trợ hải pháo
cho 9 cuộc hành quân, cho 2 chuyến tiếp liệu và tuần tra đơn độc 9
chuyến.Hoạt động đặc biệt hữu hiệu nhất của HQ 226 là yẩm trợ cuộc hành
quân của Giang đoàn 23 trong cuộc đổ quân cho TĐ 41 BĐQ tại Hàm Luông,
Kiến Hòa ngày 4 và 5 tháng 10. Trong trận này
21 chiến sĩ BĐQ và HQ hy sinh cùng 57 bị thương.. Cuộc hành quân bắt
đầu từ 7 giờ sáng, xuất phát tại Bến Tre. BĐQ dùng tàu xuôi dòng để đổ
bộ vào khu vực tìm và diệt một lực lượng VC đã bao vây tấn công một tiền
đồn và xã ấp đêm hôm trước. Thời tiết không
cho phép dùng trực thăng để đổ quân như dự trù.Lực lượng giang đoàn
tiên công lúc 11 giờ sáng, hộ tống bởi một phi cơ quan sát của LQ HK.
Phi cơ không ghi nhận được hoạt động của CQ. Lúc 12 giờ , HQ 226 dẫn đầu
khởi pháo vào một mục tiêu nghi ngờ, lập tức
VC nổ súng dự dội vào đoàn tàu từ bờ bên phải và vào HQ 226 từ bờ
trái.Hai LCM chở quân trúng đạn, một ở tình trạng gần chìm phải kéo : cả
2 ủi bãi vào bờ trái, BĐQ đổ bộ và tạo một vòng đai phòng thủ, các tiểu
đỉnh tạm rút chỉ HQ 226 trụ lại để yẩm trợ cho
toán BĐQ và phi cơ được gọi đến để oanh kích..Các LCM trở lại đổ thêm
quân tiếp viện. HQ 226 ở lại chiến trường suốt đêm..Sáng 5/10, lực lượng
VNCH thanh toán chiến trường..'
Lược sử và hoạt động của các Trợ chiến hạm
HQ 225 Nguyễn văn Trụ
Chiến hạm được khởi đóng ngày 27 tháng Giêng 1945 tại Cơ xưởng Commercial Iron Works, Portland (Oregon)
Hạ thủy ngày 7 tháng 2, 1945
Nhập HQHK ngày 5 tháng 3, 1945 và nhận ký hiệu USS LCS(L)(3)-105 sử dụng cho Lực lượng trừ bị.
Danh hiệu đổi thành Landing Ship Support Large USS LSSL-105 vào ngày 28 tháng 2, 1949.
Chuyển cho Lực lượng Tuần duyên Ryukyu ngày 12-03-195Chuyển cho HQ Pháp ngày 28 tháng 12, 1953 , được đặt tên là RFS Framée.
Chuyển cho HQ VNCH năm 1957, cũng đặt tên là Nỏ Thần (HQ 225) , sau đó năm 1970 đổi tên thành Nguyễn văn Trụ.
(HQ
Trung úy Nguyễn văn Trụ, Khóa 2 HQ/VN hy sinh trong một trận đánh thuộc
Chiến dịch Nguyễn Huệ tãi Long xuyên vào tháng 12/1955)
Bị đặc công CS đánh chìm ngày 30 tháng 7 năm 1970
Vài hoạt động của HQ 225 :
(Danh
số HQ 225 đã được dùng cho 2 LSSL,chiếc thứ nhất tiền thân là
Arbalète..Hoạt động của Nỏ thần (LSSL-2) được tóm lược trong phần trên)
Từ
1956-57, HQ 225 thứ nhì thay cho chiếc thứ nhất phế thài, vẫn được đặt
tên là Nỏ thần, nhận những nhiệm vụ như tuần tra trên sông Cửu Long và
dọc duyên hải
Nam VN từ Vũng Tàu đến Hà Tiên, bảo vệ các thuyền đánh cá VN trong khu
vực Vịnh Thái lan chống các vi phạm của Cambodia.
16
tháng 2-1969 HQ 225 dùng hải pháo giúp đẩy lui cuộc tấn công của VC tại
Vĩnh Long và 28 tháng 11 cũng đảy lui cuộc phục kích của VC tại Tam
Giang, Đầm dơi.
Từ 1970, HQ 225 được đặt dưới sự chỉ huy của Hải đội tại Căn cứ Năm Căn..
Rạng
sáng ngày 30 tháng 7 năm 1970, HQ 225 thả neo, cột giây tại Căn cứ Năm
Căn, nơi cửa sông Bồ Đề, và bị đặt mìn phá hoại, phát nổ lúc 2 giờ sáng.
Tàu chìm
nhanh xuống đáy nươc..Hạm trưỡng Nguyễn Ngọc Quyền kể lại : ' Tôi cho
lệnh đào thoát, bỏ tàu khi nước ngập 1/3 tàu trong vài phút; một số thủy
thủ không thoát kịp vì lo thu nhặt vật dụng cá nhân' Công cuộc tiếp cứu
tuy diễn ra nhanh chóng, tuy nhiên 17 nhân
viên thũy thủ đoàn bị mất tích và được xem là hy sinh theo tàu..Do nươc
chảy xiết và khu vực kém an toàn nên việc trục vớt chiến hạm không được
thực hiện..Điều tra sau đó tìm thấy những sợi dây nylông dài cột theo
dây neo và tàu bị chìm do đặc công 'thủy'
VC gài mìn..
Tác
giả Nguyễn Mạnh Hùng trong 'Năm Căn, vùng xôi đậu' đã kể lại vụ chìm
tàu như sau : 'Đêm thứ hai của một chuyến nghỉ bến sau đó, giữa lúc Hải
và Trung sĩ
Hoan đang đội mưa đi từ Câu lạc bộ về phòng, thì bỗng giật mình vì hai
tiếng nổ liên tiếp kinh hồn xen lẫn với những tiếng sấm chớp ầm ầm của
cơn mưa miền nhiệt đới, cả hai chạy vội ra cầu tầu. .Cảnh náo loạn hãi
hùng đang diễn ra trước măt mọi người : chiếc
LSSL, nằm giữa giòng sông, nghiêng hẵn phía tả hạm; trên boong chinh
nhân viên nhôn nháo..cố kiếm cách nhảy xuống..Chiếc PCF trực ứng chiến
rà đến. Hải và Hoan cũng vội vã nhảy xuông PCF của mình, gỡ dây, nổ máy
phóng ra chiến hạm, chỉ đủ thì giờ cùng chiếc
PCF trực, đón được một số nhân viên và vị hạm trưởng..vẫn còn ngơ ngác
chưa hoàn hồn vì chấn động của tiếng nổ..'
HQ 226 Lê trọng Đàm
Khởi đóng ngày 5 tháng 7, 1944 tại George Lawley&Sons Corp. Neponset, MA.
Hạ thủy : 15 tháng 7, 1944
Nhập HQHK ngày 11 tháng 8 1944 , nhận ký hiệu USS LCS(L)(3)-4
Hoạt động trong khu vực Thái bình dương trong Thế chiến 2
Đình động sau thế chiến, lưu giữ tại LL Trừ bị (Columbia Reserve Group, Astoria OR
Nhận ký hiệu mới USS LSSL-4 ngày 28 tháng 2, 1949.
Chuyển cho HQ Pháp ngày 15-8-1950 đổi thành RFS LSSL-2 và sau đó thành RFS Arquebuse (L-9022)
Chuyển cho HQVN năm 1955, đổi tên là RVNS Linh Kiếm (HQ-226) và sau đó đổi thành Lê trọng Đàm
Bị đánh chìm ngày 3 tháng 10, 1970
Vài hoạt động :
HQ
226 Linh Kiếm được giao nhiệm vụ thuộc Hải lực HQVN. Một trong những
nhiệm vụ của Lực lượng này là tuần phòng trên sông và yểm trợ cho các
Giang đoàn xung
phong trong các cuộc hành quân..
Vai
trò yểm trợ của Trợ chiến hạm được chứng minh cụ thể trong trận Hàm
Luông (4-5 tháng 10, 1965) : Trong trận này Giang đoàn Xung phong 23
được giao nhiệm
vụ đổ bộ TĐ 41 BĐQ gần khu vực Bến Tre nơi Sông Hàm Luông (Kiến Hòa) để
tìm và diệt một TĐ Công quân hoạt động tại đây. Chiến hạm Linh Kiếm đã
được sử dụng làm hỏa lực yểm trợ, giúp đẩy lui lực lượng Cộng quân đang
phục kích đoàn tàu từ cả hai ven bờ..
HQ 226 cũng nhận nhiệm vụ tuần tra trên sông Sài gòn bảo vệ tàu thuyền di chuyển qua khu vực Rừng sát..
Trong
năm 1968, HQ 226 Linh Kiếm luôn luôn 'bận rộn' .Hạm trưởng Lê văn Rạng
điều khiển chiến hạm tham dự nhiều cuộc hành quân trong khu vực sông Cửu
Long, kể
cả yểm trợ bảo vệ các tỉnh, thị xã trong Tết Mậu Thân. Từ 3 đến 5 tháng
2, HQ 226 ngăn chặn các cuộc tấn công của VC vào Vĩnh Long từ ngã sông
Cổ Chiên. Riêng trong thời gian từ cuối tháng Giêng đến đầu tháng 3/68
Chiến hạm đã yểm trợ hỏa lực trong 36 vụ đụng
độ với CQ.. do những chiến công này Đ/úy Rạng đã được ân thưỡng huy
chương Bronze Star with Combat V của TT HK.
Ngày
6 tháng 5, 1968, HQ 226 bị VC phục kích trên sông Cổ Chiên từ cả 2 bên
bờ..Chiến hạm phản kích diệt nhiều VC để chỉ bị tổn thất nhẹ với 5 chiến
sĩ bị thương.
Ngày
3 tháng 10 năm 1970, HQ 226 trong khi đang thả neo trên sông Cổ chiên,
đã bị đặc công thủy VC bơi lặn, thả trôi xuôi giòng từ Cồn Giai, đặt mìn
vào giây
neo. Vụ nổ gây một lổ hỏng lơn nơi mủi tàu, gây tử thương cho 2 thủy
thủ và làm tảu chìm sâu dưới 8m..Chiến hạm bị hủy bỏ và không được trục
vớt..
HQ 227 Lê văn Bình
Khởi đóng ngày 10 tháng 8, 1944 tại George Lawley & Sons Corp, Neponset, MA
Hạ thủy : 19 tháng 8, 1944
Nhập
HQ HK ngày 10 -9- 1944, ký hiệu USS LCS(L)(3)-10 sau đó đưa vào đình
động trong Lực lượng HQ Trừ bị thuộc Hạm đội Thái bình dương. Ký hiệu
được đổi thành
USS LSSL-10 ngày 28 tháng 2, 1949.
Đưa ra tái hoạt động và chuyển (cho mượn) cho HQ Pháp ngày 15 tháng 8 năm 1950, đặt tên là RFS Javeline (L-9024)
Pháp trả lại HK vào năm 1955
HK chuyển cho Nhật ngày 7 tháng 5, 1956, đặt tên là JSDFS Hinageshi.
Nhật trả lại HK và HK chuyển cho HQVN ngày 15 tháng 9,1956 và trở thành HQ-227 Lê văn Bình.
HQ
Trung úy Lê văn Bình, Khóa 10 HQ/Nha trang thuộc GĐ 28 XP, tử trận tại
Cà Mau năm 1965 khi chiếc LCM 6 chỡ Pháo binh đi hành quân bị trúng mìn.
Bị chìm ngày 2 tháng 10, 1966
Vài hoạt động :
Vào
lúc 2 giờ 31 sáng ngày 2 tháng 10, 1966 : HQ 227 thả neo ở khoảng 800 m
trên sông, phia Tây Căn cứ Giang đoàn27 ở Mỹ Tho. Chiến hạm đã bị đặc
công VC (giả
dạng binh sĩ Điạ phương quân đi trên tàu) đặt mìn phá hoại. 2 quả mìn
phát nổ gây tàu chìm, nhưng vì mực nước không sâu nên phần boong còn
trên mặt nước. Nhân viên cơ khí đã dùng bơm để tháo nước, vá tạm lỗ
thủng để đưa tàu lên mặt nước. HQ Trung tá Trần văn
Triết, Tư lệnh GĐ 27 đã trực tiếp chỉ huy cuộc trục vớt, sau đó HQ 227
được LCM 8 kéo về Sai Gon để sửa chữa, nhưng vì tổn thất quá nặng nên
đành bị phế thải..
HQ 228 Đoàn Ngọc Tảng
Khởi đóng 7-7-1944 tại George Lawley & Sons corp
Hạ thủy : 17-8-1944
Gia nhập HQ HK 6 tháng 9, 1944. Ký hiệu USS LCS(L)(3)-9
Tham dự các cuộc hành quân trong vùng biển Thái bình Dương, sau đó được đình động và tồn trữ trong LL Trừ bị.
Ký hiệu đổi thành USS LSSL-9 ngày 28-9-1944
Chuyẻn cho HQ Pháp ngày 15-8-1950, thành RFS Hallebarde (L-9023)
Trả lại HK năm 1955
HK chuyển cho Nhật (7-5-56) đổi tên thành JFDSF Asagao
Nhật trả lại HK để HK chuyển cho HQVN (15-9-56) để trở thành HQ 228 Đoàn ngọc Tảng
Di tản đến Philippines (4-1975), HQ Phi đổi tên thành RPS La-Union (LF-50), dùng lấy cơ phận và phế thải vào năm 1980.
Vài hoạt động :
-
4 tháng 6-1967 , HQ 228 giúp đẩy lui cuộc tấn công của một đại đội VC
vào đồn Đức Mỷ, khoảng 26 km phia Nam Vĩnh Long, và ngày 17 tháng 6 , HQ
228 cùng 2 PBR
giúp giữ vững tiền đồn Lo Xe bị 2 ĐĐ VC bao vây..
- 25 tháng 2-1970
HQ 229 Lưu Phú Thọ
Khởi đóng ngày 6 tháng Giêng,1945 tại Commercial Iron Works, Portland Oregon
Hạ thủy 27-1-45
Nhập HQ HK 13-2-45, ký hiệu USS LCS(L)(3)-101
Đình động và tồn trữ trong LL Trừ bị Astoria OR
Đổi ký hiệu (28-2-49) : USS LSSL-101
Chuyển cho HQ Nhật (30-4-53) thành JDS Tsutsuji
Nhật trả lại HK để chuyển cho HQ VN (28-4-56) trở thành HQ 229 Lưu Phú Thọ (Khóa 10 HQ/NT)
Di tản sang Philippines (4-75), phế thải để lấy cơ phận rời.
Vài hoạt động :
HQ
229 ngoài những nhiệm vụ yểm trợ hành quân, lịch sử chiến hạm còn có
thêm một 'sự kiện' đặc biệt : Tháng 12, 1966 Hạm trưởng HQ 229..nhận
được yêu cầu của
một Quận trưỏng (bãn thân của Hạm trưởng) chở tiếp liệu đến cho một
tiền đồn trong vùng xa xôi nơi VC bao vây cắt cả đường bộ lẫn đường
sông. Đây không phải là nhiệm vụ của chiến hạm..Trong chuyến tiếp tế này
tàu còn chở thêm 1 bò đực và 4 bò cái để binh sĩ
tiền đồn nuôi thêm, làm thực phẩm dự trữ. Chuyến đi gặp trở ngại do
sóng gió nên 2 con bò sút giây, chạy loạn trong tầu và bị..gẫy chân ;
tuy cả 5 con đều đến được tiền đồn nhưng tin bị lộ nên Hạm trưỡng bị
truy tố ra Tòa QS về tội danh 'chở súc vật trái phép'.
Hạm trưỡng sau đó được miễn tố nhưng vẫn bị..phạt..
HQ 230 Nguyễn ngọc Long
Khởi đóng 18-12-44 tại Commercial Iron Works
Hạ thủy 6-1- 45
Nhập HQ HK 24-1-45 ký hiệu USS LCS(L)(3)-96
Hoạt động tại vùng Thài bình dương
Đình đông và đổi ký hiệu (28-2-49) thành USS LSSL-96
Chuyển cho Nhật (30-6-53) thành JDS Shobu
Trả lại HK để chuyển cho VN ngày 28-4-65 trở thành HQ 230 Nguyễn ngọc Long
Di tản đến Philippines (4-75) HQ Phi đổi thành RPS Sulu (LF-49)
HQ 231 Nguyễn đức Bổng
Khởi đóng 5-12-44 tại George Lawley & Sons Corp.
Hạ thủy 13-12-44
Nhập HQ HK 31-12-44 ký hiệu USS LCS(L)(3)-129
Hoạt động trong khu vực Viễn Đông Thái bình dương cho đến đầu năm 1946 để đình động và xếp vào LL Trừ bị
Đổi ký hiệu thành USS LSSL-129 (28-2-49)
Chuyển cho Nhật (30-6-53) thành JDS Botan
Trả lại HK 28-4-65 và HK chuyển cho HQVN ngày 19-6-66 để trở thành HQ 231 Nguyễn đức Bổng
(HQ Trung úy Nguyễn Đức Bổng , Khóa 10 HQ/NT hy sinh năm 1965 tại Bãi Ngao, Kiến Hòa)
Di tản sang Phi (4-75) trở thành BRF Camarines Sur (LF-48)
Chuyến hải hành sau cùng của các Trợ chiến hạm :
Trong
tổng số 7 Trợ chiến hạm của HQVNCH, ngoài 3 chiếc bị chìm do đặc công
VC đặt mìn, 4 chiếc còn lại đều di tản được sang Philippines.
HQ 228 :
Thàng
4-1975 : HQ 228 Đoàn Ngọc Tảng do HQ Thiếu tá Nguyễn hoàng Be làm hạm
trưởng được điều động về công tác tại Vùng 4 Sông ngòi với nhiệm vụ
chính yếu là
yểm trợ Hạm đội 21. Chiến hạm thường xuyên hoạt động tại Căn cứ HQ Cần
Thơ.
HQ
228 tách bến Cần Thơ lúc 00 giờ 20 ngày 30 tháng 4-75 mang theo Phó Đề
đốc Đặng cao Thăng, Tư lệnh Hạm đội 21 cùng Bộ Tham mưu, trên chiến hạm
còn có Chuẩn
tướng Chương Dzềnh Quay, Tham mưu trưởng Quân đoàn 4. Chiến hạm trên
đường ra biển dù 'trên máy PRC-46 của tàu vẫn phát lời kêu gọi cũa Tướng
Nguyễn Khoa Nam..các quân nhân không được tự ý rời nhiệm sở..' Chiến
hạm..giữ im lặng vô tuyến trên suốt thủy lộ đường
ra biển. HQ 228 đến điểm tập trung ngoài khơi Côn Sơn và theo đoàn
chiến hạm HQVN hải hành đến Subic Bay.
HQ 228 đến Phi mang theo 149 người trong đó có 37 nhân viên thủy thủ đoàn..
HQ 229 :
HQ
229 Lưu Phú Thọ do HQ Th/tá Vương thế Tuấn lảm Hạm trưởng rởi VN theo
Cửa Tiểu đến Subic Bay ..với 37 người gồm 34 thủy thủ và..3 tỵ nạn (?)
HQ 230 :
Trong
những ngày cuối cùng của VNCH, HQ 230 được Bộ tư lệnh Hạm đội biệt phái
cho Bộ Tư lệnh Vùng 4 Duyên Hải.cùng 3 chiến hạm khác là các Giang pháo
hạm HQ
330 và 331, Tuần duyên hạm HQ 602.
Tư lệnh V4ZH là Đại Tá Nguyễn văn Thiện
Hạm trưởng HQ 230 là Thiếu tá Nguyễn Nguyên
Cuộc di tản ngày 30 tháng 4 của Vùng 4ZH đã được ghi nhận với nhiều điểm trái ngược của những người trong cuộc..
- Đại Tá Thiện trong bài hồi ký '4 Chiến hạm di tản từ đảo Phú Quôc ' (Trang Lưu niệm Khóa 7 Đệ Nhất Thiên Xứng) ghi lại :
Ông
đã họp với các Hạm trưởng của 4 Chiến hạm để định điểm hẹn là ngoải
khơi cách Hòn Thơm chừng một hải lý về phía Tây. Ông đã dùng LCM 8 để
cùng gia đình rời
Bộ Tư lệnh sau khi họp tuyên bố giải tán Vùng 4ZH, đến HQ 230 và di
chuyển ngay về Poulo Panjiang. Ông cho biết là 8 giờ sáng ngày 1 tháng
5, một số gần 40 PCF từ Hải đội 5 Duyên Phòng (Năm Căn) và HĐ 4 DP do dò
tìm tần số trên máy PRC-25 nghe được sự liên
lạc giựa 4 chiến hạm nên đến với đoàn tàu ? và được vớt lên các chiến
hạm di tản..Đoàn tảu 4 chiếc do HQ 230 dẫn đầu, theo sau là HQ 330 giòng
theo HQ 331 (dùng làm chiến hạm dự trữ) và sau cùng là HQ 602.. hải
hành về hướng Singapore..
-
Trong bài 'Trong cảnh sông còn' phổ biến trên nhiều website hải ngoại
và trong tập sách 'Một thuở làm trùm' tác giả Nguyễn Tấn Hưng, Trưởng
Phòng 2 Bộ Tư lệnh
V4DZ đã ghi lại nhiều điều khác biệt hơn :
..'
Trợ chiến hạm HQ 230 vừa kéo neo, chúng tôi chạy ra vừa kịp lúc. Cho
ghe rà lại bên hông định cặp..nhưng bị bắn đuổi..Tôi nhìn lên đài chỉ
huy thấy ông hạm
trưởng Nguyễn Nguyên..(mơi vài ngày qua dã đich thân lên xin tôi bản đồ
vùng TBD)..Tôi tin tưởng ở mình, đưa tay vẫy rồi kêu to :
Commandant..cho tụi tôi lên vơi..nhưng bị bắn đuổi..'
-
Tác giả Nguyễn Hữu Duyệt trên HQ 330 ghi lại trong' Vùng 4 DH những
ngày cuối' (Lướt sóng 40) : 'Sau khi tách bến HQ 330 chạy vòng quanh
phia Nam Phú Quốc để
phối trí và đến điểm hẹn là Hòn Khoai, vớt được khoảng 400 người..HQ
331 bị cháy cả 2 máy, bất khiển dụng , trên tàu có khoãng 300 người nên
được HQ 330 kéo theo, dự trù sẽ chuyển số người này khi gặp được một
Dương vận hạm...HQ 330 dẩn đầu toán. Kéo theo
HQ 331, sau đó là HQ 230 và HQ 602 đi về Singapore.. Sau khi bị
Singapore từ chối không cho tỵ nạn..Đoàn tầu quyết định đi về Úc'..Ông
viết tiếp : ' Tôi nghĩ chiếc HQ 230 phải là chiếc dẫn đầu vì có vị TL
V4ZH trên đó và ông đã hứa là sẽ dẫn đoàn tàu đến nơi
đến chôn với kinh nghiệm của ông..nhưng HQ 330 vẫn được chỉ định dẫn
đầu chạy với một chân vịt nhưng lại kéo thêm HQ 331, kế đó là HQ 230 và
sau cùng là HQ 602..
-
Theo Đ/Tá Thiện : 'Đoàn tảu chúng tôi rời An Thơi với 4 chiến hạm và
gần 3000 người, đến Subic bay với 3 tàu và khoản 2500 người tỵ nạn..'
Tuy nhiên, trong
List of RVNN ships evacuated to the Philippines on April 30, 75 (Hoangsaparacels.blogspot.com)
thì các con số do HK ghi nhận như sau: HQ 230 : mang theo 145 người gồm 40 thủy thủ đoàn và 105 người tỵ nạn.
HQ 330/ 331.. không rõ số người nhưng chắc chằn ..không thể có 2500 người trên 2 tàu này..
Con
số của Đ/Tá Thiện có lẽ bao gồm cả số người trên Tàu Trường Thành (trên
tàu có Tướng Lân TQLC cùng bộ TM) cũng ghé Singapore xin tỵ nạn nhưng
sau đó tự tìm
đường đi Philippines ?
HQ 231 :
Chiến
hạm HQ 231 Nguyễn đức Bổng , do HQ Đ/u Nguyễn văn Phước làm Hạm trưởng,
trong thời gian tháng 4 năm 1975 được tăng phái cho vùng 2 Duyên hải,
giữ nhiệm
vụ hộ tống và bảo vệ các Dương vận hạm trong khi làm công tác chuyẻn
vận và di tản thường dân và các đơn vị quân đội thoát khỏi các vùng CQ
sắp chiếm. Cuối tháng 4, HQ 231 di chuyển về Căn cứ Đồng Tâm và sau đó
được giao nhiệm vụ ngược dòng Mekong về Cù lao
An Long (Long Xuyên), biệt phái cho Bộ Chỉ huy Liên giang đoàn án ngữ
tại Tân châu. Tối 29-4 , chiến hạm được lệnh về Đồng Tâm, Mỹ Tho..Sáu
giờ sáng 30, khi đến Đồng Tâm, căn cứ đã bị CQ nằm vùng khống chế, HQ
231 chạy quanh Mỹ Tho-Đồng Tâm và khi có lệnh
'buông súng' của DVM..chiến hạm chạy ra biển theo đường Cửa Tiễu, rồi
đến Côn sơn và sau cùng đi Subic bay. HQ 231 đến Phi với 126 người gồm
58 thủy thủ và 64 người tỵ nạn..
Trần Lý