Tuesday, November 25, 2025

Đại Tá Phạm Huy Sãnh


Có người hỏi tôi khi ra trường tại sao không tình nguyện qua ngành đặc biệt để đi qua CSDC? Trong lúc ngành ấy chọn 50 người Biên Tập Viên mà không cần bắt thăm. Tôi xin thưa: “ Vì tôi tự biết lấy tôi có nhiều khuyết điểm, tính tình thành thật, ngay thẳng, thường giữ chữ tín, biết ơn, ít mưu mẹo, vì góc là một thầy giáo nên khó hoàn thành nhiệm vụ khi cấp trên giao phó. Vì cảm thấy có nhiều khuyết điểm như vậy, đó là lý do mà tôi không dám gia nhập vào lực lượng cảnh sát đặc biệt là thế.” Khi bắt thăm, tôi bắt nhằm thăm vào lực lượng Cảnh Sát Dã Chiến, âu cũng là cái duyên số trời định. Tôi được Đại Uý Nguyễn duy Am Biệt Đoàn Trưởng Biệt Đoàn 816/CSDC xin với Trung Tá Phạm huy Sảnh trưởng khối cảnh sát dã chiến bây giờ, về Biệt Đoàn 816/CSDC, đóng tại vườn cao su gần ngã tư Bình Hòa, Gia Định. Dù Trung Tá Phạm huy Sảnh xin 50 Biên Tập Viên và 50 Thẩm Sát Viên khóa một về để thay thế cho các ông Đại Đội Trưởng Cảnh Sát Dã Chiến ở các tỉnh với ngạch Thẩm hoặc Phó Thẩm. Nhưng vì chính ông và ban tham mưu của ông đều là những người không có trách nhiệm đúng đắn, nhận sự đúc lót của các ông Đại Đội Trưởng đương thời, nên sự thay đồi không thực hiện. Chỉ có hai người, tôi và Việt người bạn đồng khoá với tôi được đi làm đại đội trưởng. Tôi ở Biệt Đoàn 816 còn Việt về Biệt Đoàn 222/CSDC. Còn lại bao nhiêu thì bị tống lên Đá Lạt làm huấn luyện viên hoặc ngồi chơi sơi nước. Thật là phí tài sản của quốc gia, đào tạo được một cán bộ cảnh sát có trình độ tốn bao nhiêu tài sản của đất nước và sự đóng góp của dân chúng mà không đuợc xài cho đúng chỗ. Huấn luyện viên ở một trung tâm đâu cần Biên Tập Viên và Thẩm sát viên đông như vậy? 

Tôi về Biệt Đoàn 816 được nhận chức vụ Đại Đội Trưởng Đại Đội 3

Cũng ngày ấy tôi đến Bồng Sơn. Đại đội tôi đóng chung với với BCH của Lữ đoàn 1, sư đoàn 1 Kỵ Binh Hoa Kỳ trên một ngọn đồi trọc cách chợ Bồng Sơn độ hai cây số. Mỗi ngày đều đi hành quân và nhảy trực thăng vận. Ngày nào đại đội của tôi cũng lấy được súng AK, K54 của cộng sản và bắt được nhiều chiến binh chánh qui cũng như bọn du kích địa phương của chúng. Trong lúc đó các sư đòan bộ binh của Việt Nam Cộng Hòa chỉ được trang bị Carbine M1, M2 mà thôi. Còn M15, M16 chưa có, sau tết Mậu Thân mới được trang bị. Nhiều lần vị Đại tá Chi Huy Trưởng của Lữ Đoàn 1 và Trung Tướng Tư Lịnh Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Hoa Kỳ đáp trực thăng thị sát tại mặt trận, chứng kiến chúng tôi khui hầm và bắt Việt Công lấy súng, lựu đạn. Đồng thời chúng tôi cũng được hai vị nầy gắn nhiều lần huy chương tại mặt trận. Nhưng sau xin hợp thức hóa bằng giấy tờ thì Trung tá Sảnh nại ra lý do “Cảnh sát không được nhận huy chương quân sự của Hoa Kỳ.“ Chẳng những ở đại đội tôi mà hai đại đội kia cũng vậy. Một ở Phù Cát, một ở Phù Mỹ, phối hợp hành quân chung với hai lữ đoàn 2 và 3 của Sư Đoàn 1 Kỵ Binh. Sau mới rõ ra Trung tá Sảnh đem các huy chương nầy hợp thức hóa cho ông và các tay đàn em của ông. Sau đó ông được lên Đại tá. 

- Sinh tháng 6 năm 1935 tại Sơn Tây
- Nhập ngũ ngày 20-3-1954
- Xuất thân trường sĩ quan Võ Bị Đà Lạt
- Chỉ Huy Trưởng Biệt Đoàn 222 Cảnh Sát
- Trưởng Khối CSDC
- Trưởng Phòng 5 Bộ Tổng Tham Mưu 






Đại Tá Không Quân Nguyễn Quốc Hưng


Về việc này chúng tôi có hỏi Đại tá Nguyễn Quốc Hưng (hiện ở Salem, Oregon), Chỉ huy trưởng Hành quân Không quân thì ông xác nhận là có, và cho biết là có một nhóm trong Không Quân đã thực sự có âm mưu này và đã theo sát chiếc máy bay Boeing 727 là chiếc lãnh đạo cao cấp thường dùng trong những chuyến đi xuất ngoại. Sau cùng thì họ giao cho một sĩ quan ở Cần Thơ thuộc Sư Đoàn 4 Không Quân lo việc này. Ở phi trường Cần Thơ có loại máy bay khu trục A-37 và cả phản lực F5 nữa. Kế hoạch là tại Tân Sơn Nhất có những người được chỉ định theo rõi thật sát các chuyến bay, đặc biệt là chiếc Air Vietnam Boeing 727. Khi nào thấy hai ông Thiệu và Khiêm lên máy bay thì sẽ báo cho Cần thơ ngay để phản lực cất cánh bay thẳng ra khơi, và sẽ bắn rơi chiếc máy bay chở ông Thiệu và ông Khiêm, ở khoảng 100 cây số cách bờ biển.  

Nếu như vậy thì cũng chẳng có tang tích, chẳng có chứng cớ gì về vụ sát hại. Trừ một số người rất nhỏ trực tiếp dính lứu thì không ai biết tin tức gì về việc này. Lúc ấy là đêm 25 rạng ngày 26 tháng 4 rồi, khi dầu sôi lửa bỏng đã lên tới tuyệt đỉnh, mọi người chỉ còn có thể lo cho chính bản thân mình, cho nên cũng chẳng ai để ý tới chuyện gì xảy ra cho ông Thiệu.

Đại tá Hưng cho biết lúc ấy ở ngoài khơi cũng có những máy bay luôn luôn thay nhau theo rõi. Chúng tôi hỏi ông xem nhóm người nào ra lệnh cho phi công ở Cần Thơ? Ông trả lời là do một phe nhỏ chống ông Thiệu ở ngay Bộ Tư Lệnh Không Quân. Đại tá Hưng thêm rằng: về vấn đề đảo chính nói chung thì chính hai Tướng Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Ngọc Loan đều đã không đồng ý và khuyên không được làm như vậy.

Sau cùng thì hai ông Thiệu, Khiêm lại không đi chuyến Boeing 727 mà đi chiếc C-118 của Đại sứ Martin. Đại tá Hưng kể là vài ngày hôm ấy cứ thấy Đại sứ Martin ra ra vào vào phi trường Tân Sơn Nhất.

Nguyễn Tiến Hưng

Saturday, November 15, 2025

Đầm Cầu Hai

 

Cái Chào Của Niên Trưởng.
MX Phạm Vũ Bằng
Ðầu tháng 3/1975, tôi là y sĩ của Đại Đội Quân Y Lữ Ðoàn 258/TQLC, ngày 18 tháng 3/1975, Lữ Ðoàn được lệnh di chuyển từ Quảng Trị về đèo Phước Tượng, nằm trên QLI, phía Bắc đèo Hải Vân và phía Nam Huế. Tuyến phòng thủ của LĐ258/TQLC trải dài từ phía Bắc sông Truồi đến phía Nam Phú Lộc.
(Hình bản đồ phòng thủ của LĐ258 /TQLC)
Theo Trung Tá Lữ Ðoàn Phó Huỳnh Văn Lượm thì Lữ Ðoàn có nhiệm vụ:
1. Bảo vệ trục giao thông huyết mạch và duy nhất trên QL1, phía Bắc đèo Hải Vân để tiếp tế quân viện cho các đơn vị Tiền Phương QĐI như Lữ Ðoàn 147/TQLC, Sư Ðoàn 1/BB, Liên Ðoàn 14/BÐQ, Trung Ðoàn I Kỵ Binh, Pháo Binh và các đơn vị bạn khác tại mặt trận Quảng Trị, Huế-Thừa Thiên.
2.Trong trường hợp không giữ được Huế-Thừa Thiên thì bảo vệ cho các đơn vị trên rút về Ðà Nẵng theo QL1, và làm thành phần ngăn cản các đơn vị truy kích của quân Cộng Sản sau khi các đơn vị kể trên rút an toàn về Ðà Nẵng.
Từ ngày 18/3/1975 đến 25/3/1975, LÐ 258/TQLC đã giao tranh nhiều lần với các đơn vị lớn của Cộng Quân có đại bác yểm trợ nhưng nhờ sự quyết tâm của quân nhân các cấp nên LÐ258/TQLC vẫn giữ vững vị trí để yểm trợ tiếp tế quân cho đạo quân tiền phương QĐI.
Ngày 23/3/1975, trong khi Phú Lộc đang được TĐ8/TQLC thưộc LĐ258/TQLC giữ vững thì chúng tôi vô cùng ngạc nhiên khi nghe đài VOA và BBC đồng loan tin Phú Lộc đã bị Cộng Quân chiếm giữ! Sau khi kiểm điểm chắc chắn Phú Lộc vẫn nằm trong tay quân ta chúng tôi thầm chê trách mấy anh “ký giả quán café” chỉ dựng chuyện nói bậy… Tuy nhiên họ không nói bậy chút nào vì sáng ngày 25/3/ 1975, theo lệnh của QĐI, Lữ Đoàn 258/TQLC phải rút bỏ đèo Phước Tượng-Phú Lộc để về Đà Nẵng! Lệnh này làm chúng tôi kinh ngạc bởi vì đoạn QL1 chạy qua Đèo Phước Tượng là con đường bộ duy nhất để các đơn vị đang chiến đấu tại Quảng Trị và Huế rút về Ðà Nẵng, bỏ đi có nghĩa là “khai tử” các đơn vị này, hay là thượng cấp đã có kế hoạch khác, cho các đơn vị Tiền Phương QĐI đổi hướng ra biển Ðông chăng? Mà rút cả một đạo quân Tiền Phương QĐI bằng Hải Quân thì làm gì có đủ tầu bè để chở, còn hàng trăm chiến xa, đại bác thì lấy gì để mang về Đà Nẵng?
Tuy kinh ngạc nhưng là thuộc cấp của một đơn vị chuyên môn (QY) nên chúng tôi không có quyền và không có thời gian để thắc mắc, việc trước mắt là thương binh. Tôi được lệnh mang các thương binh về Tổng Y Viện Duy Tân Ðà Nẵng bằng đường bộ vì trực thăng không thể đáp được. Thương binh được chở trên mấy chiếc xe GMC có một Trung Ðội TQLC theo bảo vệ, rời đèo Phước Tượng lúc 6 giờ sáng ngày 25/3/1975, đường đi khó khăn, thêm nữa cầu sông Truồi bị công binh QĐI phá hủy đêm hôm trước cho nên mãi tới 8 giờ chiều chúng tôi mới tới được Ðà Nẵng.
Vì ở ngoài mặt trận lâu ngày không được biết tin tức của hậu phương cho nên tôi vô cùng sững sờ khi thấy Ðà Nẵng trước kia phồn hoa bao nhiêu thì nay tang thương bấy nhiêu! Một thành phố đang chết, vắng bóng người dân, trên vỉa hè, dưới lòng đường, lang thang từng toán 5, 6 quân nhân mặc đủ mọi sắc phục vừa đi vừa hướng mũi súng lên trời bắn từng loạt đạn vu vơ, thỉnh thoảng trên hè phố từng đám người mặc đồ dân sự tụ tập, họ nhìn chúng tôi bằng những cặp mắt quen thuộc, cặp mắt của những tên đặc công VC nhìn khi bị chúng tôi bắt trói, vắng bóng dáng Cảnh Sát và Quân Cảnh, không biết giờ này họ đang ở đâu?
Nhà cháy, xe nhà binh cháy, xe dân sự cháy do chủ nhân tự phá hủy hay bị phá hoại! Trong bóng đêm hiện rõ lên là những cột lửa, thỉnh thoảng có những tiếng nổ bùng phát ra từ những đám cháy đó, có thể là do bình xăng, là chất nổ làm cho những cột lửa phụt bốc cao khiến thành phố đúng là đang giãy chết.
Chúng tôi đến Tổng Y Viện Duy Tân vào lúc 9 giờ tối, cổng chính của tổng y viện tối đen, không một bóng đèn mà cũng chẳng có người gác, tuy nhiên phòng nhận bệnh ở phía sau cổng chính vẫn còn ánh đèn vàng hắt ra, nhìn kỹ tôi thấy có mấy người lính y tá đang cặm cụi săn sóc cho thương binh.
Trong lúc đang điều khiển các y tá và anh em binh sĩ TQLC mang thương binh vào phòng nhận bệnh, tôi thoáng trông thấy một quân nhân dáng người mảnh khảnh trong quân phục Nhảy Dù đứng khuất trong ánh đèn vàng vọt chiếu ra từ phòng nhận bệnh, khi tôi đi tới gần thì anh đứng nghiêm đưa tay chào đúng quân cách, thoạt đầu tôi nghĩ anh là một sĩ quan Nhẩy Dù hay Biệt Động Quân, vả lại đang lúc quá vội vàng gấp rút đưa thương binh vào cấp cứu nên tôi chỉ kịp chào lại và không để ý anh là ai.

( *** Hình Bác Sĩ Lương 1) .
Sau khi nhập viện thương binh xong , từ phòng nhận bệnh quay ra tôi vẫn thấy anh ta còn đứng đó và đưa tay chào tôi một lần nữa, quá ngạc nhiên tôi tiến lại gần và nhận ra anh là Y Sĩ Thiếu Tá Phạm Văn Lương, một niên trưởng nổi tiếng trong giới y sĩ của chúng tôi, anh càng được nhiều người biết đến kể từ khi anh mang lựu đạn ngồi tuyệt thực trước Quốc Hội tại Sài Gòn để phản đối tệ nạn tham nhũng.


(*** Hình Bác Sĩ Lương 2 trong quân phục Nhẩy Dù tuyệt thực trước Quốc Hội chống tham nhũng.)

Tôi đứng nghiêm chào lại vị niên trưởng, anh đưa tay bắt kèm theo nụ cười đầy lo âu. Anh hiện là y sĩ trưởng khu giải phẫu Tổng Y Viện Duy Tân nhưng vì một số các đồng nghiệp tại TYV đã bỏ đi cho nên anh phải đảm nhận thêm công tác nhận bệnh. Khi biết vậy, tôi đề nghị với anh để tôi đem thương binh TQLC về bệnh viện dã chiến của Sư Đoàn TQLC tại Căn Cứ Non Nước, anh buồn rầu cho biết ở đó đã hết chỗ và anh bảo đảm với tôi là anh sẽ săn sóc thương binh TQLC tận tình.
Quá thắc mắc vì anh còn ở lại trong TYV gần như trống này, tôi hỏi anh:
-“Tại sao anh còn ở lại đây, đặc công VC đã đầy trong thành phố, anh có thể bị chúng hại bất cứ lúc nào?”
Y sĩ thiếu tá trưởng khu giải phẫu Tổng Y Viện Duy Tân ngần ngừ như không muốn trả lời, thấy tôi vẫn ngó anh chờ đợi, anh khẽ thở dài:
-“Nếu tôi cũng bỏ đi thì sẽ không đủ bác sĩ để săn sóc thương binh, và chưa bao giờ thương binh lại cần đến các anh em y sĩ chúng ta như lúc này.”
Tôi cho anh biết sơ qua tình hình chiến sự phía Bắc đèo Hải Vân thì anh cũng buồn rầu cho tôi biết tình hình chiến sự phía Nam Ðà Nẵng, phòng tuyến bắt đầu tan rã và thành phố Ðà Nẵng sẽ mất trong một vài ngày tới và chợt thoáng vui, anh tiếp:
-“Thấy TQLC các cậu về Ðà Nẵng, tôi hy vọng và tin tưởng rằng các anh (TQLC) sẽ bảo vệ được thành phố này.”
Nghe anh nói, bỗng nhiên tôi cảm thấy thật buồn và cô đơn! Vì nhìn tổng quát tình hình, tôi có thể tiên đoán một sự sụp đổ hoàn toàn của QKI. Ðà Nẵng, một nơi mà tôi thường mơ ước được trở lại thăm sau những tháng ngày dài hành quân vùng rừng núi tỉnh Quảng Trị, dù cho chỉ vài giờ để thưởng thức ly café nóng và ngắm cảnh phồn hoa đô hội. Nay thì tôi đã về và đang đứng đây, không thưởng thức café nóng mà chỉ là những giọt nước mắt đắng cay chảy xuống môi, nước mắt hòa với máu của thương binh dính trên mặt tôi tạo ra vị mặn làm tê đầu lưỡi thay cho hương vị ngọt ngào của ly café. Cảnh phồn hoa đô hội nay chỉ còn là những khói lửa và kinh hoàng! Thành phố thân yêu này đang chết, mọi thứ sẽ đều chết nếu một mai bị đổi chủ!
Công tác tải thương tạm ổn định, tôi chào anh Lương để trở về đơn vị, nơi có hỏa châu đang chiếu sáng và những tiếng nổ liên tục vọng về, nơi đó các đồng đội của tôi đang chiến đấu…

Khi đến tôi thấy anh Lương đứng cô đơn giữa những thương binh, bây giờ ra đi, bỏ anh lại một mình để tôi về cùng đơn vị thì lại thấy anh càng cô đơn hơn! Nhưng không làm sao khác hơn được, thương binh của tôi đã được anh nhận săn sóc thì tôi phải về cùng đồng đội đang ở phía trước, tại tuyến đầu, nơi đó anh em đang còn chiến đấu và sẽ có thêm tử sĩ và thương binh khác cần săn sóc, chỉ có ở đó tôi mới cảm thấy bình yên và ấm cúng bên cạnh các chiến hữu TQLC, chúng tôi có cùng một quyết tâm bảo vệ Ðà Nẵng đến cùng… Nhưng rồi thì tình hình biến chuyển quá nhanh chóng không đúng như chúng tôi đã nghĩ:
– Ngày 26/3/1975, những tin xấu về QĐI Tiền Phương tại Thừa Thiên-Huế liên tục bay về Đà Nẵng. Sáng ngày 25/3/1975, đạo quân Tiền Phương QĐI được lệnh bỏ chiến cụ nặng như súng cộng đồng, đại bác, xe tăng và lương thực, rút về bãi biển Thuận An để chờ tầu Hải Quân đón về Đà Nẵng, nhưng vì “thời tiết xấu” nên tầu Hải Quân không vào đón được, buổi chiều cùng ngày, đạo quân này bị quân truy kích CS Bắc Việt bao vây và tàn sát….!!!
– Sáng ngày 26/3/1975, có 1 chiếc LCU quân vận liều mạng vào cứu được Bộ Chỉ Huy LĐ147/TQLC cùng khoảng hai ba trăm TQLC, chiếc tầu bị hỏa tiễn VC bắn theo làm Đại Tá Nguyễn Thế Lương, Lữ Đoàn Trưởng LĐ147 bị thương ở chân…
Trưa ngày 26/3/1975 tôi được chỉ định ra bến Thương Cảng Đà Nẵng đón thương binh và tử sĩ trên chiếc tầu này…
Tối ngày 26/3/1975 vì hết đạn, không nước uống và lương thực, nên gần như toàn bộ LĐ147/TQLC và QĐI Tiền Phương tan rã và bị quân CS bắt
– Sáng ngày 28/3/1975, sau một buổi họp của Quân Đoàn I, TQLC chúng tôi được lệnh tử thủ Đà Nẵng.
Trưa ngày 28/3/1975, Tổng Lãnh Sự Mỹ tại Đà Nẵng AL Francis cùng hai người Mỹ khác mặc thường phục nhưng trang bị vũ khí cá nhân đến họp với Tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lệnh QĐI tại căn cứ TQLC Non Nước, buổi họp kéo dài đến chiều cùng ngày và sau đó Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I triệu tập một buỏi họp khẩn cấp với các tư lệnh quân binh chủng QĐI tại căn cứ Hải Quân Tiên Sa…
Tôi được lệnh mang Đại Tá Lương quá giang trực thăng của Thiếu Tướng Bùi Thế Lân, Tư Lệnh TQLC, đến Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải, nơi các Tư Lệnh họp, để tìm tầu đưa ông về Cam Ranh, vì TYV Duy Tân quá tải rồi…
Chúng tôi đến sớm, khoảng 7:00 pm, Đại Tá Lương được khiêng vào một căn hầm nổi xây kiên cố bằng bao cát, căn hầm nổi này là trung tâm chỉ huy của Hải Quân Vùng I Duyên Hải. Đại Tá Lương ngồi bệt trên sàn đất dưới dàn điện thoại. Vì di chuyển nhiều, vết thương vỡ ra, máu thấm ướt cả tấm băng làm tôi phải ngồi xuống điều trị cho ông.
Ngoài chúng tôi ra, trong căn hầm nổi này còn có Trung Tướng Tư Lệnh QĐI Ngô Quang Trưởng, Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Thiếu Tướng Bùi Thế Lân. Tướng Trưởng gọi điện thoại cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu để xin bỏ Đà Nẵng, Tổng Thống Thiệu không chấp nhận và ra lệnh cho Tướng Trưởng phải tử thủ và bằng mọi giá giữ Đà Năng để còn mặc cả với CS Bắc Việt. Tướng Trưởng trả lời:
-“Trình Tổng Thống tôi giải quyết theo tình hình”.
Khi các Tư Lệnh Quân Binh Chủng QĐI đến họp gần đầy đủ, Tướng Trưởng tuyên bố: “Mình rút đêm nay” trước sự kinh ngạc của mọi người, vì lệnh rút quân quá đột ngột cho nên cuộc rút quân của QĐI khỏi Đà Nẵng vào sáng ngày hôm sau, 29/3/1975, đã rất hỗn loạn và đẫm máu!

Các nhân chứng nghe được cuộc điện đàm của Tướng Trưởng và Tổng Thống Thiệu tối ngày 28/3/1975 chỉ còn tôi và Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, có ai thắc mắc về sự khả tín của những điều tôi viết trên đây thì xin hỏi Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại.
Sau khi đi tù về, tôi được tin Y Sĩ Thiếu Tá Phạm Văn Lương đã tuẫn tiết trong trại tù “cải tạo”! Tôi rất phục hành động cao cả của anh, bởi vì với địa vị và quyền hạn đang có trong tay, anh có thể rời Ðà Nẵng bằng nhiều phương tiện để vào Sài Gòn và biết đâu anh đã qua Mỹ trước 30/4/1975 như bao nhiêu cấp chỉ huy khác. Nhưng không, anh Phạm Văn Lương đã lựa chọn cho mình một con đường nghiệt ngã nhưng lại quá hào hùng, anh ở lại với thương binh, anh ở lại với Tổng Y Viện đến giờ phút cuối cùng cho dù biết rằng “định mệnh” tàn bạo sẽ đến với anh và rồi nó đã tàn bạo hơn anh tưởng!
Khi quân Cộng Sản vào thành phố Ðà Nẵng, vào chứ không phải đánh chiếm, vì SÐ/TQLC rút bỏ Ðà Nẵng vào sáng 29 tháng 3 năm 1975, chúng đã bắt và xử tử một số thương binh chống đối và đuổi tất cả thương bệnh binh, dù cho bất cứ vết thương như thế nào, ra khỏi Tổng Y Viện Duy Tân. Riêng các bác sĩ quân y thì bị bắt vào trại tù cải tạo! Chính trong hoàn cảnh tù tội này, anh Lương đã đứng lên phản đối hành động dã man của chúng và sau cùng người anh hùng cô đơn Phạm Văn Lương đã tuẫn tiết để giữ khí tiết của một kẻ sĩ sa cơ!
Những cuộc gặp gỡ trong thời chiến và loạn ly thường bất ngờ và ngắn ngủi nhưng thật đậm đà. Lúc 9 giờ đêm 25/3/1975, trước cửa phòng nhận bệnh của Tổng Y Viện Duy Tân, trong ánh đèn vàng vọt, tôi bất ngờ gặp anh lần đầu và không ngờ đó cũng là lần sau cùng tôi gặp Niên Trưởng Pham Văn Lương.
Ðã hơn 40 năm qua, tôi không quên hình ảnh một y sĩ thiếu tá trong quân phục Nhẩy Dù đứng cô đơn buồn bã dưới ánh đèn vàng vọt của bệnh viện nhưng lại thật hào hùng, hào hùng vì anh là ánh sáng, là niềm tin và là sự sống hiếm hoi còn lại cho tất cả những thương binh đang thoi thóp, nhìn thấy anh, họ như tìm thêm được hơi thở.
Cái chào của vị Niên Trưởng Phạm Văn Lương lúc đó đã làm tăng niềm tin và can đảm cho tôi giữa lúc tôi cũng cô đơn cùng anh em thương binh TQLC trong thành phố Ðà Nẵng thân yêu, Đà Nẵng đang hấp hối! Cái chào của vị niên trưởng làm tôi hãnh diện hơn tất cả những huy chương mà tôi đã nhận, mặc dù tôi biết anh đã chỉ chào bộ quân phục TQLC mà tôi đang mặc trên người cũng như tôi đã nghiêm chỉnh chào vị niên trưởng đáng kính và hành động hào hùng của anh.

California Ngày 4/5/2016.
MX Phạm Vũ Bằng

Thư Ngỏ gửi Thí Sinh trúng tuyển vào TVBQGVN (Khoá 29 SVSQTVBQGVN)


Thư Ngỏ gửi Thí Sinh trúng tuyển vào TVBQGVN (Khoá 29 SVSQTVBQGVN)

VIỆT- NAM CỘNG- HOÀ
BỘ QUỐC- PHÒNG
BỘ TỔNG- THAM - MƯU QLVNCH
TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM.
BỘ - CHỈ- HUY
Số 176/ TVBQGVN / P.T. Th
THƯ NGỎ
Gửi Anh Hà T. T
Thí-sinh trúng tuyển kỳ thi nhập học Khóa 29 SVSQ / Hiện - dịch.
Nhân danh Chỉ - Huy - Trưởng Trường Võ -Bị Quốc - Gia Việt -Nam, tôi nhiệt liệt khen ngợi Anh đã cố gắng và thu hoạch kết -quả tốt đẹp trong kỳ thi tuyển vào khóa 29 SVSQ / HD vừa rồi.
Tôi rất hân hạnh đón nhận Anh dưới mái Trường VBQGVN, nơi quy tụ những người trai Việt ưu tú và hào hùng của thế -hệ, trong ngày nhập học sắp tới.
Để Anh có một ý -niệm khái-quát về chương - trình huấn - luyện văn -hoá và quân -sự, cũng như các tiện-nghi giảng -huấn của Trường VBQGVN, chúng tôi nhận thấy có trách - nhiệm cho Anh biết các chi -tiết sau đây :
I- CHƯƠNG - TRÌNH HUẤN - LUYỆN 4 NĂM :
A - Chương - Trình Quân - Sự :
TỔNG - CỘNG 3.752 G
Chiến - thuật 320 G
Vũ - Khi tác - xạ 288 G
Tổng - quát 571 G
Quân - Binh - Chủng 210 G
Chiến - Tranh Chính - Trị 392 G
Thể - Chất 1.040 G
Khảo -hạch và Sinh - hoạt 931 G
TỔNG - CỘNG 3.752 G
B - Chương - Trình Văn - Hóa :
Toán 409 G 5
Khoa - học 234 G
Kỹ - thuật Điện 292 G 5
Kỹ - thuật Công - Chánh 351 G
Kỹ - thuật Cơ - Khí 409 G 5
Nhân - Văn 409 G 5
Luật, Lãnh - Đạo 409 G 5
Ngoại - ngữ 292 G 5
Thực - Tập và Khảo - hạch 366 G
Kỹ - thuật Quân - Sự 478 G
TỔNG - CỘNG 3.652 Giờ
II- CÁC CƠ - SỞ GIẢNG - HUẤN :
Chắc Anh cũng đã rõ 60% thời lượng của chương - trình giảng -huấn văn - hoá 04 năm tại Trường Võ - Bị Quốc - Gia Việt -Nam dành cho các môn kỹ -thuật và khoa - học trong đó có phần thí -nghiệm chiếm một tỷ - lệ khá quan trọng. Do đó, ngoài việc các phòng thí, nghiệm Vật - Lý , Hoá- Học , Điện - tử, Trường Võ - Bị Quốc - Gia Việt - Nam đã hoàn thành việc xây cất một nhà thí -nghiệm nặng với trang - bị đầy đủ và tối-tân. Ngân khoản dành cho việc xây cất và trang - bị này lên tới 400 triệu đồng - Công - tác Xây cất đã hoàn thành cuối năm 1970 và nhà thí - nghiệm nặng đã bắt đâu hoạt - động từ mùa văn -hóa 1971 .
Như thế Khóa 29 của Anh là Khoá thứ 3 sẽ xữ dụng nhà thí - nghiệm nặng , một công -trình đặc - biệt của Trường Võ -Bị Quốc - Gia Việt -nam mà không một trường Đại - học hay Cao -đẳng Dân - sự nào trong nước có được.
III- SĨ QUAN XUẤT THÂN TẠI TVBQGVN CŨNG NHƯ SVSQ ĐANG THỤ HUẤN SẼ ĐƯỢC LẦN LƯỢT CỮ ĐI DU-HỌC TẠI HOA - KỲ:
Theo kế - hoạch của Trường VBQGVN đã được Bộ Tổng - Tham - Mưu chấp - thuận, thì một số các Sĩ- Quan đậu cao trọng số các Sĩ -Quân xuất thân tại Trường Võ Bị Quốc - Gia Việt- Nam sẽ được lần lượt gửi đi du học tại ngoại- quốc dể lấy bằng Cao học - (Master Degree).
Trong năm 1970, có 1 SVSQ đã được gửi đi du học tại Trường Võ - Bị West Point Hoa -Kỳ.
Trong năm 1971, đã có 20 Sĩ -Quan thuộc Khóa 22B được tuyển chọn du học.
Từ năm 1972 và về sau con số tuyển chọn du học sẽ tăng lên 30 người mỗi năm .
Đến dây chắc Anh đã ý - niệm được phần nào về tầm quan -trọng và giá - trị của Trường Võ -Bị Quốc - Gia Việt - Nam, một trong những quân trường lớn nhất ở Đông -Nam -Á.
Anh được trúng tuyển nhập học Khóa 29/SVSQ /HD của Trường VBQGVN, đó là một vinh hạnh lớn cho Anh vậy. Chúng tôi rất mừng thấy Anh đã biết lựa chọn một hướng đi dể thực hiện hoài bảo cao đẹp và xây dựng tương - lai cho chính minh.
Thân ái chào Anh và hẹn gặp Anh
Trong mùa khai- giảng Khóa 29/SVSQ Hiện dịch.
KBC 4027, ngày 10 tháng 11 năm 1972
Thiếu - Tướng Lâm - Quang - Thơ.
Chỉ -Huy -Trưởng Trường Võ- Bị Quốc - Gia Việt - Nam
(Ký Tên và đóng dấu)
Thiếu Tướng Lâm Quang Thơ
Cảm ơn anh HÀ TT đã giữ được những tài liệu quý giá của TVBQGVN Sau hơn 1/2 thế kỷ!
Anthony Hayward