Từ một cuộc
di tản chiến thuật tháng Ba 1975
Cuộc chiến đấu một mất một còn
với chủ thuyết cộng sản toàn cầu đã chấm dứt hơn 34 năm về trước, nhưng niềm đau
xót khôn nguôi luôn ám ảnh vào tâm khảm của mỗi chiến sĩ miền Nam Tự Do. Người
lính Việt Nam Cộng Hoà bị buộc phải thua đau trong niềm tức tưởi nghẹn ngào. Còn
kẻ chiến thắng thì bàng hoàng ngơ ngác, không biết từ đâu mà mình chiến thắng
quá nhanh và dễ dàng như vậy.
Niềm oan ức về một sự sụp đổ một thể chế
Cộng Hòa suốt hơn 20 năm gầy dựng, ngày nay đã được minh oan bằng những chứng cớ
lịch sử. Chính nghĩa của một chế độ đã được phục hồi cùng những chiến sĩ can
trường bất khuất trong cuộc chiến đó. Những người lính VNCH đã nằm xuống trên
mọi miền đất nước nay đã được vinh danh, cùng những Thương phế binh đã mất một
phần thân xác mình cũng đã được phục hồi danh dự, bằng những buổi ca nhạc gây
quỹ “Cám ơn Anh” với sự tham dự vài chục ngàn người. Cờ vàng chính nghĩa đã được
công nhận trên rất nhiều tiểu bang Hoa Kỳ, cùng rất nhiều đài tưởng niệm chiến
sĩ Việt Mỹ đã được dựng lên, để tôn vinh và mãi mãi ghi nhớ công lao của những
anh hùng đã nằm xuống, và máu xương đã đổ ra trong cuộc chiến đấu bảo quốc an
dân đó.
Tôi vẫn nhớ mãi cái ngày mà đơn vị tôi đã phải tan hàng tại cửa
biển Thuận An, Huế. Một cuộc bại trận không phải do những người lính chúng tôi
không chịu chiến đấu, mà do từ lệnh trên của các cấp thẩm quyền, ngoài khả năng
hiểu biết của anh em chúng tôi. Một cuộc lui binh chưa từng được viết ra trong
binh pháp, và cũng chưa đơn vị nào đem ra áp dụng bao giờ. Ðó là lần đầu tiên và
cũng là lần cuối cùng trong Quân sử miền Nam VN.
Bài viết nầy xin dành
tặng các chiến hữu TQLC của tôi, những người đã may mắn không hiện diện tại mặt
trận phía Bắc Quảng Trị vào những ngày cuối tháng Ba gãy súng. Các anh có lệnh
xuôi Nam còn chúng tôi những Kình Ngư, Hắc Long, Mãnh Hổ, Sói Biển, Thần Tiễn
còn ở lại. Những diễn biến có thật mà máu và nước mắt tưởng chừng như không đủ
để nói lên những oan trái xót xa đã dành sẵn cho thân phận của một người lính
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Ðầu
tháng 3 năm 1975, cộng sản Bắc Việt dốc toàn lực lượng tấn công hầu cưỡng chiếm
toàn bộ miền Nam.. Bình Long, An Lộc thất thủ. Thị xã Ban Mê Thuộc sau đó cũng
bị bỏ ngõ hoàn toàn với sự rút quân ồ ạt như nước vỡ bờ của Quân Ðoàn II về Nha
Trang và nhiều nơi khác. Trong khi đó phòng tuyến phòng thủ phía Bắc do SưÐoàn
TQLC đảm trách vẫn còn là một vùng đất yên tĩnh trong sự cẩn thận, dè dặt chờ
đợi lẫn nhau
Sau sự phối hợp nhịp nhàng của 2 Sư Ðoàn Tổng Trừ Bị thiện
chiến nhất là Nhảy Dù và TQLC, với thế đánh gọng kìm liên tục từ 2 phía Ðông
Tây, đã buộc địch phải tháo chạy với nhiều tổn thất nặng nề, bằng chiến thắng
tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị ngày 14-9-72. Sư Ðoàn Nhảy Dù được điều động về mật
trận Ðức Dục, Quảng Nam. SÐ/TQLC ở lại chịu trách nhiệm trên một tuyến khá rộng
trải dài từ bờ biển Ðông sang tận những mỏm núi tận cùng phía Tây thuộc dải
Trường Sơn, qua các vùng Mỹ Thủy, Long Quang, Bích La, Triệu Phong, Nam sông
Thạch Hãn, Như Lệ, Tích Tường, La Vang, Ðộng Ông Ðô, Barbara, Anne, Cổ Bi, Hiền
Sĩ, Thanh Tân, Lồ Ô…
Liên Đoàn 911 và các đại đội biệt lập ÐPQ Tiểu Khu
Quảng Trị được đặt dưới quyền điều động của BTL/SÐ/TQLC hành quân trong việc
phòng thủ này. Mặc dù là đơn vị được giao nhiệm vụ phòng thủ, nhưng SÐ/TQLC vẫn
luôn chứng tỏ khả năng cơ động tấn cộng tận sào huyệt địch, như cuộc đổ bộ vượt
sông Thạch Hãn của TÐ6/TQLC vào tháng 10 năm 72, cuộc hành quân thần tốc tái
chiếm cửa Việt tháng 1 năm 1973 trước giờ ngưng bắn có hiệu lực của hiệp định
Paris và đặc biệt Lữ Ðoàn 258 TQLC đã hạ một tàu vận tải lớn tiếp tế địch đang
mon men ngoài khơi bờ biển Mỹ Thủy tháng 6 năm 1973.
Ngược lại, địch quân
chưa có lần nào dám liều lĩnh tấn công vào các đơn vị TQLC. Có chăng chỉ là
những hành động phá hoại lén lút, đặc công, giật mìn lẻ tẻ trên các trục lộ giao
thông tiếp tế. Phải nói rằng đây là phòng tuyến phòng thủ vững chắc nhất, thừa
sức ngăn chặn mọi cuộc xâm lăng từ phương Bắc xuống của cs Bắc Việt.
Do
tình hình xáo trộn chung của đất nước và vì nhu cầu đòi hỏi cấp bách của chiến
trường lúc này, bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH đã quyết định điều động phân lớn các lực
lượng TQLC về Nam gồm các LÐ 258, LÐ 369 và LÐ 486 vừa mới được thành lập. LÐ
147 do Ðại Tá Nguyễn Thế Lương chỉ huy gồm các Tiểu đoàn 3, 4, 5, TÐ Pháo binh,
2 Đại đội Viễn Thám và Tiểu đoàn 7/TQLC thuộc Lực Lượng Ðặc Nhiệm Tango do Ðại
Tá Tư Lệnh Phó trực tiếp chỉ huy đang nằm sẵn trên các tuyến. Thay vào lỗ hỏng
to lớn trên là 2 Liên Ðoàn BÐQ với trang bị quân số thiếu hụt. Ðây là khởi điểm
cho tất cả sự bỏ ngõ sau này ở mật trận Bắc Quảng Trị.
Mãi
đến chiều tối ngày 7/3/1975, địch bắt đầu mở cuộc tấn công đầu tiên thật mãnh
liệt vào một trung đội tiền đồn tại đồi 51 thuộc căn cứ Tư Tưởng, hướng Tây Quốc
Lộ 1, cây số 23. Ðơn vị này được chỉ huy bởi Trung Úy Sáng ÐÐP/ÐÐ1 Tiểu đoàn 4
TQLC đã chiến đấu thật can cường, đẩy lui nhiều đợt xung phong biển người của
địch. Lần liên lạc sau cùng qua máy PRC-25 vào lúc 4 giờ sáng, anh đã yêu cầu
pháo binh chụp thẳng trên đầu mình vì vị trí bị địch tràn ngập. Anh đã tử thương
sau đó trong cuộc cận chiến bằng lựu đạn với kẻ thù.
Sáng sớm ngày
9/3/75, Thiếu Tá Trần Ngọc Toàn TÐTrưởng/TÐ4/TQLC điều động toàn bộ lực lượng
còn lại, nhờ có sự yểm trợ thật chính xác của các phi vụ A-37 thuộc Không Lực
vùng I Chiến Thuật, ta đã hoàn toàn làm chủ tình hình. Xác địch nằm ngỗn ngang
trong các bãi mìn của hàng rào phòng thủ, một số đồng bọn khác đang lẫn tránh
trong các bụi rậm bị ta bắt sống. Cũng cùng trong đêm đó, tại một nơi khác, Tiểu
đoàn 121/ÐPQ Tiểu Khu Quảng Trị đã tóm nguyên trung đội địch khi chúng tìm cách
tiến về hướng quận Hương Ðiền. Ngày 22/3/75, đoàn xe tiếp tế cuối cùng của đơn
vị rời hậu trạm Măng Cá, Huế vào vùng hành quân. Chúng tôi được biết hầu hết dân
chúng đã di tản vào Ðà Nẵng và hậu trạm cũng được Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn mang tất cả
trang thiết bị về cửa biển Thuận An chờ lệnh.
Tôi chỉ thị cho các đại đội
thu gọn lại các trang bị và phải gấp rút di tản các thương bệnh binh đi theo
chuyến tiếp tế này. Ngày 23/3/75 vào lúc 3 giờ chiều, sau khi VC đồng loạt pháo
kích dữ dội vào tất cả các vị trí, địch từ thượng lưu sông Bồ, xung phong tấn
công vào các tuyến của ÐÐ2/TÐ5/TQLC, vì quá bất ngờ và thiếu cảnh giác nên 2
Trung đội tận cùng cánh trái của đại đội này bị bung tuyến. Tôi liên lạc với Ðại
Úy Trần Văn Loan ÐÐT hãy cố gắng gom con cái lại và chỉnh đốn đội hình, đồng
thời báo cáo tình hình này về BCH Lữ-đoàn. Ðại Tá Lữ đoàn trưởng ra lệnh là bằng
bất cứ giá nào cũng phải chiếm lại vị trí vừa mất.
Chấp nhận mọi hy sinh
thiệt hại, ÐÐ4 của Ðại Úy Nguyễn Văn Hai được tăng cường và đã hoàn tất nhiệm vụ
vào lúc 6 giờ sáng ngày 24/3/75. Cũng trong thời gian này, hầu hết tất cả các
đơn vị Biệt Ðộng Quân, Ðịa Phương Quân tự động rã ngũ bỏ tuyến phòng thủ Bắc
Quảng Trị kéo về Huế thật hỗn độn. Thị xã Quảng Trị coi như bị bỏ ngõ hoàn toàn.
Tiểu đoàn 4/TQLC được điều động về làm nút chặn tại phía Nam cầu An Lỗ. TÐ7/TQLC
trấn dọc sông Mỹ Chánh từ cầu Vân Trình ra biển Ðông, phòng tuyến cao nhất phiá
Bắc của miền Nam.
Khoảng 4 giờ chiều cùng ngày, nhận dược lệnh về tham dự
cuộc họp khẩn cấp tại BCH/LÐ. Ðại Tá Lương, LÐTrưởng cho chúng tôi biết rõ tình
hình tổng quát và nhiệm vụ phải thi hành đêm nay là một cuộc di tản chiến thuật
cho tất cả các lực lượng về cửa biển Thuận An, vùng đất từ Bắc đèo Hải Vân trở
ra rồi sẽ lọt vào tay địch… Cũng như thành phố Quảng Trị bị vất bỏ một cách vô
tội vào sáng hôm nay khi mới chỉ có một vài loại pháo kích lẻ tẻ đâu
đó.
Thế là hết, còn gì đâu hào quang chiến thắng “Cờ bay, cờ bay oai hùng
trên thành phố thân yêu vừa chiếm lại đêm qua bằng máu…” Máu của hàng vạn đồng
bào, máu của hàng ngàn chiến hữu nằm xuống cho vùng đất hồi sinh và ngay bây
giờ, từ tối nay Huế cũng sẽ chịu chung số phận. Cố Ðô đầy niềm kiêu hãnh tự hào
dân tộc rồi sẽ bị nhuộm đỏ bởi lũ người khát máu cs. Hàng trăm nấm mồ chôn sống
tập thể còn đó, máu xương mồ hôi nước mắt của bao chiến sĩ QLVNCH còn đây trong
lời thề quyết tử bảo vệ cố đô Mậu Thân 1968. Còn đâu nữa những ngày tháng vàng
son nhất của người lính chiến nơi tuyến đầu lửa đạn lúc nào cũng hùng dũng hiên
ngang. Có nỗi đau nào hơn niềm tủi nhục của người lính bại trận!
Việc cần
thiết trước nhất là phải làm sao bảo đảm được đơn vị rút lui một cách trọn vẹn,
an toàn hầu đủ sức chịu đựng một cuộc dạ hành trên đoạn đường dài gần 30 km.
Thiếu Tá Ngô Thành Hữu, Tiểu đoàn Phó và Ðại Úy Gianh Văn Nhân, Ban 3 đang chờ
đợi tại BCH Tiều Đoàn. Chúng tôi cùng đồng ý với nhau bằng một cuộc lui binh
trong bí mật, bất ngờ. Tất cả vũ khí nặng, cồng kềnh như 90 ly, súng cối 81 ly,
hỏa tiễn TOW chống chiến xa, đạn dược và những trang bị nặng nề được lệnh phá
hủy tại chỗ hay ném xuống dòng sông.
Ðại đội 1 của Ðại Úy Hồ Văn Chạnh
đóng chốt từ xa được di chuyển trước, chúng tôi không xử dụng đoạn đường quen
thuộc hàng ngày, phải băng qua một xóm nhỏ để đến Cây số 17 cầu An Lỗ mà là dọc
con đường sắt suôi Nam, rồi sau đó sẽ đổi hướng vế Quốc lộ 1 khi các đại đội đã
bám sát được với nhau. Ðã có chừng cả trăm người lính đủ mọi binh chủng, không
còn đơn vị đang tụ tập vây quanh 4 chiến xa M-48 nằm chơ vơ giữa lộ, nòng súng
chỉa thẳng về hướng quân thù, bình thản cười nói vui vẻ như đang tham dự một
cuộc dạ hành ngoài trời. Ðến trường trung học Hương Trà nằm sát lề Ðông quốc lộ,
tiểu đoàn dừng lại để kiểm điểm quân số và củng cố lại đội hình. May mà trong
tay chúng tôi còn 1 xe Jeep hành quân, cứ thế chạy lên, chạy xuống để “tha”
những người lính bết bát, trễ nãi sau cùng. Ðiều tưởng như không ngờ, thế mà đã
xảy ra một cách thật tội nghiệp cho trung đội Nghĩa Quân quận Hương Trà, tập họp
và bị bỏ quên tại đây chờ lệnh thượng cấp từ mấy ngày nay. Người Trung đội
Trường già đến xin tháp tùng cùng chúng tôi. Vài chiếc xe M41 nữa cũng bắt đầu
nổ máy rầm rộ tiến giữa đoàn quân. Nhiều đám đông dân chúng hòa lẫn hoặc nối
đuôi phía sau họ ra đi từ chợ Cạn, Hội Yên, Vân Trình, Hải Lăng, Mỹ Chánh… từ
ngày hôm qua hay sớm hôm nay vì không còn gì để hy vọng vào sự bảo vệ của người
lính chúng tôi.
Tiếng khóc than vang vọng thấu trời xanh, họ, những kẻ
bất hạnh, còn lại sau cùng đang lê lết từng bước một lần mò tìm “tự do” vì một
cuộc chủ nghĩa cộng sản bạo tàn. Vài cụ gìà chống gậy, các trẻ thơ vô tội kia
rồi sẽ ra sao? Liệu có còn đủ súc hay phải kiệt hơi ngã qụy dọc
đường.
Rời ngã ba An Hòa rẽ phải tiến về Huế, thành phố bỏ ngõ tối tăm
rải rác còn lại vài bóng bên đường. Nhiều vết lửa tung tóe lên bầu trời u tối do
những trái sáng dược ném từ các toán lính tan hàng mất đơn vị chẳng biết phải
làm gì. Súng vẫn nổ lẹt đẹt đó đây hòa lẫn tiếng chó tru vọng ra từ các căn nhà
vắng chủ. Phú Văn Lâu vẫn nằm đây bên bờ sông Hương, nhưng còn đâu bóng dáng các
con đò quen thuộc hàng ngày. Tiều đoàn bắt đầu tiến quân qua chiếc cầu đúc mới
xây bên dưới bến bờ Nam dòng sông, rồi từ đó quẹo trái về Ðông, hướng ra biển.
Tôi cho xe dừng lại ở phía bên này cầu chờ đợi cho hết người lính sau cùng. Cảm
thấy khá an tâm và một chút hãnh diện về những binh sĩ thuộc quyền, tất cả đều
can đảm, hy sinh chịu đựng và luôn tuân lệnh cấp chỉ huy ngay trong những giờ
phút nguy hiểm nhất như lúc này.
Tôi không nhớ là bao nhiêu lần mình đã
nhân danh thẩm quyền để mà ra lệnh cho thuôc cấp xung phong vào chỗ chết. Với 12
năm trong cuộc đời binh nghiệp, con số này chắc không ít lắm đâu? Dĩ nhiên là
cấp chỉ huy nhỏ, tôi cũng chỉ là kẻ truyền và kiểm soát lệnh và cá nhân mình
cũng bị xoay quanh trong các vòng luẩn quẩn ấy! Vài con gió mạnh thổi từ mặt
biển vào, cũng nơi đây cây cầu, dòng sông một thời kỷ niệm, tôi bỗng cảm thấy
luyến tiếc thèm khát tìm gặp lại một vài nơi chốn quen thuộc lần cuối may ra
hình ảnh cũ để nhớ người xưa! Cho tài xế lùi xe lại tiến về hướng đại lộ Trần
Hưng Ðạo và dự định theo cầu Trường Tiền cũ qua sông. Ðường trống vắng chẳng có
một chiếc xe nào lai vãng, xa xa trong bóng tối chập chờn, lác đác vài bóng
người. Tôi bắt đầu cảm thấy ớn lạnh. Bây giờ ngoài đơn vị TQLC ra, các đơn vị
khác chẳng còn gì nữa để mà phân biệt lẫn nhau, qủa thật chẳng còn tình nghĩa gì
ràng buộc, nếu có ai đó nổi hứng “bóp cò”.
Có lệnh cho tôi tiến về phía
trước để gặp Ðại Bàng Long Mỹ (Ðại Tá Lử Ðoàn Trưởng), ông giao cho một xấp bản
đồ và thay đổi lộ trình về phía phà Tân Mỹ, đoạn đường từ đầu thôn Vỹ Dạ về cửa
biển Thuân An không thể nào nhúc nhích nổi, nhiều dòng người di tản cùng các đơn
vị tan hàng đổ về đây với không biết bao nhiêu xe cộ. Thượng sĩ Thương, thường
vụ tiểu đoàn, chẳng biết từ đâu mang về vài két bia 33, có lẽ từ khách sạn Hương
Giang bỏ trống? Anh nói với tôi:
– Nhậu đi Ðại Bàng, đang buồn ngủ mà gặp
chiếu manh.
– Thôi nhanh lên mà đi ông ơi! Non nước này mà còn nhậu với
nhẹt!
Từ hướng quán cơm Âm Phủ, một người đàn ông già trạc 60 tuổi tìm
đến phàn nàn về một số lính vào đập phá, lục lạo nhà của ông ta.
– Coi
chừng Việt cộng đó Ðại Bàng.
Thử hỏi ai mà biết được ai trong thời buổi
tranh tối, tranh sáng này, ngay cả toán lính đập phá kia – có điều tại sao trong
hoàn cảnh như thế này mà ông ta là kẻ dửng dưng như vậy!
Qua khỏi cầu Ðập
Ðá một quãng nữa, bắt đầu rẽ phải vào con đường đất, thôn Vỹ Dạ chìm đắm trong
màn đêm u tịch, đó đây leo lét nhiều ngọn đèn dầu từ khắp các miếu thờ, vết tích
vàng son của một thời vua chúa. Chó càng lúc càng sủa vang bên những khu vườn
trống vắng, đoàn quân vẫn tiến đều. Ðến khúc lộ bị hư, đành phải vất bỏ xe lại
dọc đường.
– Phá hủy xe đi ông thầy.
– Không cần, mình đang di chuyển,
không nên gây tiếng nổ.
Lẩm bẩm trong miệng, Liên, tài xế mò vào túi quần
lấy ra con dao, cắt hết tất cả dây trong đầu máy xe và quăng bình điện vào một
bụi rậm gần đó. Anh cũng không quên hốt thật nhiều cát bỏ vào bình xăng và
nói:
– Ai ngu để cho lũ ác ôn xử dụng, mình không dùng, phá hư luôn… hì…
hì…
Ðến tờ mờ sáng thì toàn thể đơn vị đã có mặt bên này phá Tam Giang
mênh mông, nềm vui rạng rỡ trên mặt mọi người. Phải mất thêm 3 tiếng đồng hồ nữa
mới đến được bờ bên kia sát biển bằng một số “ghe gọ” của dân còn lại ở xóm
chài. Từ lâu mới có một ngày nắng đẹp như hôm nay, bầu trời trong xanh với nhiều
tia nắng long lanh chiếu vào mặt biển. Gió vi vu vừa đủ để mơn trớn các con sóng
vỗ ì ạch vào bờ. Không còn gì thích bằng ngồi đây, dưới bóng râm của hàng dương
xanh thẩm, trên đồi cát, hướng mắt về đại dương bao la, nơi đó nhấp nhô nhiều
con tàu như người tình mơn trớn hưá hẹn. Ăn vội ít cơm ở bao gạo sấy còn lại,
trong chớp mắt chập chờn, tiếng la khóc, than van còn mãi ám ảnh trong trí tôi
trên đường rút chạy sáng hôm nay.
Cuộc đời khổ đến thế là cùng! Tỉnh giấc
khi có lệnh cho đơn vị chuẩn bị ra bãi bốc để lên tàu. Ðó là khoảng 2 giờ ngày
25/3/75. Cả Lữ Ðoàn tập họp trên bãi cát trắng xóa theo thứ tự sẵn sàng như một
cuộc hành quân đổ bộ ngày nào. Ðâu phải chỉ việc sắp hàng chờ lệnh lên tàu là
xong, địch đã rượt theo ta đêm hôm qua, đã mò sát đít chúng tôi sáng hôm nay,
địch đã có mặt bên kia bờ phà, địch đã trà trộn trong đòan quân. Theo lệnh của
mặt trời Papazulu nào đó (Tướng Lâm Quang Thi, TưLPhó/QÐ1), chiếc HQ-801 dành
riêng cho TQLC đã chực sẵn cách bờ khoảng 50m. Nhưng đâu phải chỉ có chúng tôi
cần sống, còn dân chúng, những người lính mất đơn vị hỗn độn kia, họ cũng cần
cứu vớt như chúng tôi, mà chẳng ai có kế hoạch gì riêng để giúp đỡ
họ.
Trong cơn quẫn bách này, không ai cần nghĩ đến ai, chà đạp tranh
giành nhau mà sống, mạnh được yếu thua, khi con rắn đã mất đầu chỉ còn lại cái
đuôi tha hồ mà ngóc nguẩy. Như sức bật của chiếc lò xo, tất cả ùa nhau tràn ra
tàu, người không biết lội ôm sát người biết bơi, ngụp lặn với tử thần trong sóng
nước, vài chiếc xe M-113 lội nước ủi tới đè lên, tiếng rên la gào thét. Một sơn
sóng nhồi lên, hai cơn sóng đập xuống, những cái đầu lô nhô, nhiều thân hình
chìm lịm, mất hút trong khi con tàu vẫn nổ máy đợi chờ. Ðịch đã vượt phá Tân Mỹ,
đã có mặt ở cái miếu trên đồi cát đầu làng. Ðịch đã bắt sống một số lính phía
sau, địch bắt đầu pháo rải rác khắp nơi trên mặt biển.
Bãi bốc đã không
còn an ninh mà trật tự cũng chẳng có. Con tàu đành bất lực rời bến. Ðể được an
toàn hơn, Lữ Ðoàn quyết định dời bãi bốc về hướng Nam và bằng đủ mọi cách phải
tách rời đám đông hỗn loạn kia hầu dễ dàng đối phó với tình hình mới. Dọc theo
mé nước đầy rẫy xác người, những bộ mặt nhợt nhạt, bất động, ngừng thở theo cơn
sóng biển dập vùi, có lạ, có quen. Người dễ nhận ra nhất là Ðại Úy Ân, ÐÐT/ÐPQ
Tiểu khu Quảng Trị.
Chúng tôi đã di tản chiến thuật bằng con đường máu ở
mặt trận Hạ Lào 1971, đã rời bỏ Ðông Hà, Quảng Trị dọc đại lộ kinh hoàng mùa hè
đỏ lửa năm 1972. Với sự nguy hiểm cùng cực nhưng tinh thần đâu có quá tuyệt vọng
như bây giờ vì dù sao cũng còn chút gì để hy vọng ở đoàn quân tiếp tế phiá sau.
Còn ở đây rơi vào tình thế vô cùng tuyệt vọng. Cả nguyên Lữ Đoàn có hơn 3,000
quân, tiến thoái lưỡng nan trong cái túi càn khôn chỉ vỏn vẹn 4 km 2, đang gìơ
lưng chịu trận.
Tàu chiến Hải Quân QLVNCH vẫn trương cờ lảng vảng ngoài
khơi, nhưng các khẩu đại bác đâu rồi? Niềm hy vọng mong manh còn nhen nhóm là sẽ
được tàu vào đón, nhưng sẽ ưu tiên theo thứ tự nào? Ðơn vị nào sẽ phải nằm lại
chịu trận và làm vật hy sinh sau cùng? Bóng chiều bắt đầu trải dài trên bãi cát
trắng xóa mênh mông để báo hiệu màn đêm buông xuống. Lữ Ðoàn quyết định rải quân
phòng thủ. TÐ4 và 7 phụ trách mặt trận Tây, TÐ3 phía Nam, TÐ5 chúng tôi phía
Bắc. Ðại Úy Tô Thanh Chiêu, ÐÐT/ÐÐ2 và Thiếu Tá Nguyễn Trí Nam TÐPhó/TÐ4/TQLC đã
hy sinh trong giờ phút thứ 25 này cùng một loạt đạn của tên du kích hèn nhát bắn
lén trong khi làm nhiệm vụ điều động quân rải tuyến. Ðiều đáng thương tâm nhất
là hai người vừa mới lập gia đình và cả hai bà vợ đang mang thai. Cái chết thật
quái ác, tình cờ bởi bàn tay oan nghiệt của tạo hóa, định mệnh!
Tin từ
BCH/LÐ cho biết là tàu sẽ vào đón đêm nay hay trễ nhất là sáng sớm ngày mai theo
thứ tự như sau: BCH/LÐ, TÐ2PB, TÐ4, TÐ3, TÐ5, TÐ7… Ðúng theo sự suy nghĩ dự đoán
của chúng tôi, lẽ dĩ nhiên các đơn vị tan hàng hay bị sứt mẻ không còn khả năng
chiến đấu thì ưu tiên mang họ đi càng sớm càng tốt để không làm vướng bận các
đơn vị còn lại. Nhưng cả BCH/LÐ đi hết thì ai sẽ là người chỉ huy chúng tôi.
Ðiều này thật cần thiết và quan trọng nhất. Cái thứ tự di chuyển mà không một
binh thư nào viết ra hoặc chúng tôi chưa hề áp dụng trước đây.
Qua ánh
trăng mờ ảo, dòng người bị bỏ lại ban chiều đang ồ ạt kéo về tuyến phòng thủ.
Không còn cách gì hơn là phải chận họ lại nằm sát phòng tuyến trong tầm bảo vệ
hỏa lực để khỏi làm xáo trộn cho sự điều động chỉ huy của quân bạn bên trong.
Súng vẫn nổ đều khắp nơi và chẳng có con tàu nào cập bến. Trăng vẫn lên cao,
khuya dần. Cùng lúc, vài tốp người xé lẻ, hèn nhát tách bến rã ngũ ra
khơi.
Rạng sáng ngày 26/3/75, khi ánh bình minh vừa ló dạng ở phương Ðông
thì con tàu cùng thủy thủ đoàn cũng bắt đầu tiếp tục nhiệm vụ, ủi thẳng vào bờ
theo sự điều động của BCH. Ðã có chuẩn bị sắp xếp từ trước, nên việc di chuyển
lần này tương đối trật tự hơn. Ưu tiên vẫn là BCH/Lử Ðoàn và các thương phế binh
từ các đơn vị mang đến. Ðịch thừa thắng xông lên cố ra sức đánh vào đầu chúng
tôi những đòn thù chí tử. Ðây là điều nghiệt ngã nhất của chiến tranh, có vay có
trả. Chúng tôi đã diệt gọn nguyên trung đoàn 48 địch một cách không thương tiếc
khi quét sạch chúng ra khỏi hang cuối cùng tại cổ thành Quảng Trị. Những vòng
sắt oan nghiệt của đoàn chiến xa M48 và M41 đã nghiền nát vô số lính cộng sản
Bắc Việt, sinh Bắc tử Nam, qua các dãy địa đạo ngầm trong hầm khi tấn công tiến
vào cửa Việt.
Pháo địch cùng lúc càng mãnh liệt hơn và chiếc tàu nằm
chình ình giữa biển khơi vẫn là mục tiêu tốt nhất để chúng điều chỉnh tác xạ
ngắn, dài… Một cục lửa, hai cục lửa, rồi quá nhiều cục lửa của loại hỏa tiễn tầm
nhiệt AT3 rải rác đó đây. Có cái rớt ngay dòng người di tản ngụp lặn theo sóng
nước. Có cái trúng thẳng vào thân tàu. Con tàu chòng trành nhổ neo tách
bến.
Ðể bớt căng thẳng, tôi chui ra khỏi hố trú ẩn làm một vòng quanh
tuyến. Những vệt sáng của lằn đạn đạo thẳng cùng nhiều quả đạn pháo kích đan
chéo nhau vi vút trong gió biển. Các khẩu súng cối 60 ly và phóng lựu M79 của ta
đáp lễ cầm chừng, không khả năng nhiều lắm nhưng cũng để chứng minh rằng “bên em
vẫn đang có ta đây!” Dọc theo mé nước sát biển, thầy trò Thiếu tá Võ Ðằng
Phương, TÐT/TÐ2/PB/TQLC, Ðại Úy Lê Tự Hào cùng một vài người lính đang gấp rút
xử dụng các mũ sắt của mình để cào cào moi hố. Họ là những người sau cùng bị sót
lại khi hầu hết đơn vị mình đã được lên tàu.
– 207 đây 416 gọi. Anh ở lại
take care con cái.
– Vâng! Nhận rõ.
416!207 là biệt hiệu của Thiếu Tá
Phạm Cang TÐT/TÐ7/TQLC, người thâm niên và giỏi nhất trong đoàn bạn tôi. Còn 416
là danh xưng của Trung Tá Nguyễn Ðằng Tống LÐP/LÐ147.
Nắng chiều nhạt
dần, sóng biển rì rào và bờ cát lại trống vắng đến lạnh lùng, không còn một bóng
người lai vãng, họ đang chiến đấu ở tuyến đầu, họ tránh núp đạn dưới hố sâu, họ
hối tiếc, thèm thuồng về một con tàu khác. Các đại đội lại thêm một số bị
thương, lại thêm vài người chết nữa. Ðạn dược, lương thực cạn dần trong khi
chúng tôi cố hết sức giữ vững tinh thần binh sĩ bằng cách liên lạc máy thường
xuyên với các đại đội. Cảm giác bị vất bỏ bắt đầu nhen nhúm trong ý nghĩ mình,
nhưng tôi vẫn chưa dám tin rằng điều này có thật, vì nếu như vậy thì còn thể
thống gì đến quân đội và tổ quốc mà biết bao người đã hết lòng yêu thương và
phục vụ. Mò mẫm vào cuốn đặc lệnh truyền tin, tôi vận máy qua tầng số BTL/SÐ
đang ở đâu trên đèo Hải Vân, với trạm liên lạc chuyển tiếp giữa Huế và Ðà Nẵng.
Người tiếp tôi là Ðại Úy Ðan, Tùy viên Tư Lệnh:
– Ðại Dương, cho tôi xin
gặp Lạng Sơn (biệt danh của Thiếu Tướng Bùi Thế Lân, Tư Lệnh SÐ/TQLC).
– Lạng
Sơn đang bận lắm. Có gì ông anh nói, tôi sẽ chuyển.
– Nhờ Ðại Dương trình với
Lạng Sơn cho chúng tôi lệnh kế tiếp.
– Ở đây cũng đang lu bù lắm, không ai có
thể giúp gì được cho ông anh. Tốt hơn hết là self-service. Good luck ông
anh!
Mặt mày tối tăm, xây xẫm, thất vọng, tôi ném ống liên hợp xuống cát…
self service… có nghĩa là tự lực cánh sinh, tùy cơ ứng biến, có thể là mạnh ai
nấy lo, có thể là tan hàng!
Th/Tướng
Bùi Thế Lân (thứ 3 từ trái, kế Tr/Tướng Ngô Quang Trưởng)
Khoảng quá xế trưa, mặt trời Papa Zulu lại xuất hiện
bằng một giọng thật đanh thép, ông ra lệnh cho một chiếc HQ khác, bằng bất cứ
giá nào cũng phải bốc tiếp chúng tôi. Con tàu lại tách sóng hướng thẳng vào bờ
phiá Bắc tuyến phòng thủ chừng 200m. Lần này, TÐ4 sẽ lên tàu dưới sự sắp xếp chỉ
huy của Thiếu Tá Ðinh Long Thành, tân TÐTrưởng của đơn vị này. Bất kể là đơn vị
nào, bất cứ là ưu tiên cho ai, thật nhiều đám người từ mọi hướng đổ ập về đây
tràn xuống như thác lũ. Con tàu quá tải tròng trành trên mặt nước, chân vịt
ngưng quay nằm bất động vì máy đã hỏng rồi. Lại thêm một đêm nữa rồi sẽ đến với
tình thế mỗi lúc một tồi tệ hơn. Phải quyết định ngay bây giờ, nhưng giải quyết
bằng cách nào đây? Tôi gọi HS1 Lê Hồng Quảng Nam, người cận vệ thân tín nhất
đến, sau khi đã cạo nhẫn bộ râu của mình, chính nhờ nó mà tôi đã ăn nên làm ra
trong đời binh nghiệp và được giấy phép của bộ TTM cấp hẳn hòi với lý do: “Uy
tín cấp chỉ huy”.
– Anh chuẩn bị cho tôi một ít nước uống và vài gạo sấy
để phòng thân.
Nam do dự mếu máo:
– Ông thầy đừng bỏ tụi em, có gì
cho tụi em theo với. Thuận, Thành hai hiệu thính viên cũng oà lên khóc.
– Yên
trí, thầy trò mình sẽ sống chết có nhau mà.
Ðầu óc tôi cứ mãi bị ám ảnh
bởi lời đề nghị của Ðại Úy Ðan là ông anh nên “self service”. Nhưng chuyện này
cũng có 5, 7 cách khác nhau. Hãy tìm một vài người lính thật khỏe mạnh, bơi nhà
nghề, mà phải là dân chuyên đi biển ở Nha Trang hay Phan Thiết, mò vào nhà dân
hay dọc theo mé nưóc, tìm sẵn một chiếc ghe thật tốt, chuẩn bị sẵn sàng, thừa
nước đục thả câu sẽ cùng bỏ trốn như loài chuột. Nhưng cũng chẳng phải dễ dàng
lắm đâu! Chúng tôi sẽ bị bắn chết bởi đồng đội trước khi nạp mình cho bầy cá
mập, hay là tuyên bố hoạch toẹt rõ ràng, đơn vị tan hàng, mạnh ai nấy lo, đâu
phải lỗi ở mình. Ðiều này quá trắng trở và trắng trợn, chẳng còn tình nghĩa gì.
Nếu còn sống làm sao dám nhìn lại mặt nhau như Hai Chồn, Pake, Loan Mắt Nhung,
Chanh Trọc, Ba Ngành, các ÐÐT lì lợm, nhậu rượu như uống nước mà đánh giặc rất
chí tình. Tôi liên lạc máy với Thiếu Tá Cang TÐT/TÐ7 cùng Thiếu Tá Sử TÐT/TÐ3,
chúng tôi cùng đồng ý với nhau là chẳng còn cách nào khác hơn, mở đuờng máu xuôi
Nam về cửa biển Tư Hiền còn nước, còn tát.
Nói là mở đường máu chứ thực
ra chỉ là cách thối thác cho một sự tan hàng, đường về bít lối, vì nếu có trầy
da tróc vẩy đến nơi thì cũng chỉ là vùng trời mây nước mênh mông, ngồi đó chờ
nộp thịt cho chằng. Di chuyển cũng theo thứ tự lớp lang, nhưng đội hình chẳng
còn. Sức mòn, lực kiệt, súng cầm tay, tinh thần đã mất, đạn dược cũng không, cứ
nhắm mắt nhắm mũi mà chạy 1,2,3,4… 1,2,3,4 “đường trường xa con chó nó tha con
mèo….” càng xa địch bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu.
Nhiều tiếng nổ chát
chúa phía sau, của địch thì ít mà của ta thì nhiều. Những người lính bị thương
không còn khả năng theo kịp đoàn quân, bò lết lại với nhau, bung chốt lựu đạn nổ
để “thà chết vinh, còn hơn sống nhục”. Ðứa con đầu của TÐ3 Sói Biển đang bị một
đại đội du kích chận lại, phía trước ùa về, ở sau đùn tới, vô vọng, tuyệt vọng,
chưa bao giờ tôi cảm thấy thèm sự sống bằng lúc này, miệng luôn luôn lẩm bẩm xin
Phật Trời giá hộ “cùng tắc biến, biến tắc thông”.
Nhóm chúng tôi gồm 5
người tấp vào xóm dân chài, hy vọng sẽ được giúp đỡ bởi tình quân dân cá nước
ngày nào, nhưng hiện tại quân đã tan thì tình cũng chẳng còn, mặc dầu đã cố gắng
nài nỉ hết sức kể cả tiền bạc thuê mướn, nhưng họ đã từ chối thẳng thừng. Chủ
ghe là gã trung niên lực lưỡng, mặt rỗ hoa mè chắc là tên Việt cộng nằm vùng hay
du kích gì đó. Thôi thì “tam thập lục kế”, kê súng vào đầu dọa nạt là thượng
sách nhất.
Ðây là lần thứ hai tôi chạy giặc, lúc nhỏ vào lúc 5 tuổi theo
mẹ trốn vào rẫy mỗi lần “mới sớm mai thằng Tây nó bố vào rừng ta quyết trốn”. Và
bây giờ sau 26 năm khi đã trưởng thành trong quân ngũ… vẫn còn súng đạn trong
tay cùng những chiến hữu bạn bè, tôi phải chạy trốn giặc cộng, thằng chủ ghe
đang ngồi với tôi bây giờ là một tên vc chín rõ mười mươi, hắn phá máy cho ghe
ngừng, hắn làm dấu chỉ điểm mỗi lần kề sát ghe địch. Nhiều người dọa đánh hắn
tại chổ, tôi ngăn không cho, chuyện gì rồi cũng phải tính đường về, nếu nhỡ thì
sao!
Chỉ vỏn vẹn mấy ngày phù du mà bao điều biến đổi dồn dập bất ngờ,
không biết số phận của tôi và bao nhiêu người khác nữa rồi sẽ ra sao khi ánh
bình minh của một ngày mới xuất hiện, Hy vọng sống còn chỉ là việc hiếm mọn nhỏ
nhoi trong cái chết xảy đến mới là điều chắc chắn.
Tờ mờ sáng hôm sau,
sau khi đã cạn hết nhiên liệu, chiếc ghe đành nằm chênh vênh trên mặt nước mênh
mông vùng Tư Hiền, giữa rừng cờ giặc. Xa xa là những dãy núi chập chờn xanh thẳm
của đỉnh đèo Hải Vân như réo gọi, mời mọc, thèm thuồng, tiếc rẻ. Và như số phận
đã an bài, nhưng rồi cũng có lúc “chí tuy còn mong tiến bước mà sức không kham
nổi đọan đường dài, sự nghiệp bao năm đeo đuổi thôi cũng đành gián đoạn từ đây…
bởi đâu? do đâu? vì đâu?.
Giã từ vũ khí, ném súng xuống dòng sông định
mệnh, ngồi chờ địch đến đổi đời lịch sử sang trang. Chúng tôi bị trói tay lùa
lên bờ. Chúng tôi bị “giải phóng” tất cả quần áo, đồng hồ, dây chuyền, đồ đạc.
Một vài người bị dẫn đi xử bắn dã man. Chúng tôi bị xỉ vả, đấu tố làm tay sai
cho đế quốc. Chúng tôi không còn là chúng tôi nữa, chỉ vì chúng tôi là chiến sĩ
QLVNCH bảo vệ miền Nam Tự Do, bị bỏ rơi lại phía sau thề sống chết thủy chung và
chiến đấu hết mình. Cuộc đời tù đầy của vài ngàn quân cũng bắt đầu từ cái ngày
đáng nhớ ấy… 27/3/75 tại một địa danh nhỏ, hẻo lánh, quen thuộc: thôn Vĩnh Lộc,
Thừa Thiên, Huế ngay trên tổ quốc thân yêu của chúng
tôi…
Mũ Xanh Phạm Văn Tiền
No comments:
Post a Comment