Sáu giờ chiều, ánh sáng mặt trời trong rừng
già đã tắt hẳn. Hai trung đội bắt đầu xuất phát. Thiếu Úy Quang
dẫn trung đội đi bên trái, trung đội Thiếu Úy Bá bên phải. Họ
giữ đội hình đi song song và cách nhau khoảng từ 30 đến 40
thước. Pháo Binh 105 ly của ta vẫn đều đều bắn cắm chỉ trên mục
tiêu để địch lo trốn trong hầm, không ngóc đầu lên quan sát quân
ta đang di chuyển. Một giờ, hai giờ, rồi 3 giờ trôi qua. Tình
hình vẫn yên tỉnh, một thứ im lặng ngộp thở, vì mọi người đều lo
cho số phận của đồng đội của mình.
Hệ thống liên lạc vẫn tốt, Thiếu Úy Quang thì
thầm trong máy:
- Rất gần địch, tiếng chửi thề của chúng nó
nghe rõ mồn một, đích thân.
- Được! Cẩn thận nghe Quang! Thiếu Tá Quý trả
lời nho nhỏ trong máy với giọng Huế chay.
Bỗng nghe một loạt đạn nổ bên phải rồi im
lặng. Pháo Binh ngưng tác xạ, hai cánh quân vừa bắn vừa hô xung
phong vang rền cả núi rừng hoang vu. Lửa bắt đầu cháy trên mục
tiêu, nhiều nhất là bên cánh Thiếu Úy Quang. Bộ Chỉ Huy Tiểu
Đoàn 1 Nhảy Dù xin Pháo Binh chuyển xạ về hướng Tây để bắn chận
quân địch. Tiếng của Quang vang trong máy:
- Chiếm được đỉnh rồi đích thân! Hầm quá
nhiều và kiên cố, làm toàn bằng cây to. Mấy đứa con đang bung
rộng chờ cánh quân bên phải!
Trời tối đen như mực, vẫn chưa liên lạc được
Thiếu Úy Bá. Mười lăm phút sau, Thiếu Tá Quý đứng dưới mục tiêu
C thấy trên D có từng cụm lửa lóe lên chen lẫn trận địa pháo
bằng súng cối sơn pháo 120 ly của địch. Tiếng của Quang vang lên
trong máy:
- Chúng pháo dữ quá đích thân, nhưng hầm hố
kiên cố, không sao!
Rồi hàng loạt tiếng đạn AK-47 kêu rít, tiếng
Quang hét trong máy:
- Chúng nó phản công, đông lắm! Cho Pháo Binh
bắn trên đầu tôi, tụi nó đông như kiến! Mau lên! Pháo! Pháo mau
lên!
Ban đêm trời tối, Ðại Ðội 11 trừ bị cho Quang
và Bá đang ở lưng đồi yên ngựa. Trung đội Thiếu Úy Bá thì không
liên lạc được ngay từ loạt đạn đầu, sau này mới biết được Bá và
4 binh sĩ đã hy sinh vì mìn claymore (Việt Cộng lấy của Sư Ðoàn
3 Bộ Binh) ngay từ lúc đó.
Thiếu Tá Ngô Tùng Châu (tiểu đoàn trưởng) bảo
Quý:
- Nếu thấy không được thì bảo Quang rút về,
đừng hy sinh nhiều, ta sẽ tìm cách khác.
Nhưng Quang không nghe lệnh (hoặc không thể
nghe lệnh!). Sau nầy mới biết là Quang đã tập trung đạn của các
binh sĩ bị thương, bảo họ rút, còn Quang thì ở lại bắn tới hết
đạn và hy sinh anh dũng trên mục tiêu D. Đáng phục thay một binh
sĩ can trường, biết hy sinh bảo vệ thuộc cấp và làm tròn bổn
phận núi sông.
Các binh sĩ thuộc hai trung đội đột kích của
Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù đã gặp sự kháng cự phản công quá mãnh liệt,
quân số địch rất đông. Địch định lấy thịt đè người. Từ đỉnh cao,
khe núi, và các địa đạo trong rừng cây ùa ra như đàn ong vỡ tổ!
Lính Nhảy Dù ria bắn không nghỉ tay. Trước khi gần hết đạn,
Quang có gọi Thiếu Tá Quý phải kêu Pháo Binh bắn đạn nổ chụp
ngay trên đầu thí quân, quyết liều sống chết với quân Cộng Sản
Bắc Việt (CSBV) một phen vì ta và địch lẫn lộn, không còn cách
chọn lựa nào khác.
Các đạn pháo CVT đã sát hại 10 phần địch và 3
phần quân bạn. Nhờ vậy các binh sĩ Ðại Ðội 11 được giải tỏa, xác
địch và ta nằm ngổn ngang trên đỉnh đồi 1062.
Ðại Ðội 14 của Trung Úy Vệ bị kẹt cứng ở yên
ngựa nhỏ hẹp giữa mục tiêu C và mục tiêu D, hỏa lực Việt Cộng
phủ kín từ D và 1062. Ðại Ðội 14 tổn thất mỗi ngày mà không tiến
được bước nào. Pháo Binh Dù được sử dụng tối đa nhưng địa thế
núi cao cây rậm. Bản đồ ghi rõ đỉnh 1062, nhưng D1 và D2 ở phía
Bắc và Đông Bắc trong thực tế còn cao hơn 1062. Vì thế Pháo Binh
phải bắn góc độ cao mới "gõ" vào 1062 được, nhưng với độ chính
xác thật ít.
Thiếu Tá Quý lại dùng kế cũ, dương đông kích
tây, đẩy Ðại Ðội 11 về Tây để tấn công 1062 từ chính Nam nhằm
giải tỏa áp lực Ðại Ðội 14 như trường hợp đánh mục tiêu C. Nhưng
lần này sự việc không như lần trước, Ðại Ðội 11 vừa mới đến
triền núi phía Nam của 1062 thì địch dùng súng cối 82 ly từ góc
đồi phía Tây bắn một cách dữ dội, Ðại Ðội 11 bị hy sinh một tiền
sát viên và 4 binh sĩ chưa kể một số bị thương.
Rạng sáng, sau khi sử dụng Pháo Binh và súng
cối 81 ly tối đa tối đa, Ðại Ðội 11 dàn 3 trung đội tấn công
1062 từ chính Nam. Hai bên quần thảo gần 6 tiếng đồng hồ, cuối
cùng Ðại Ðội 11 chiếm được đỉnh 1062. Nhưng chưa đầy 10 phút,
quân Bắc Việt đã từ D1 và D2 đồng loạt khai hỏa bằng đủ loại vũ
khí phủ trùm 1062. May nhờ hệ thống giao thông hào của địch để
lại nên cũng giảm bớt phần nào tổn thất.
Thượng liên Cộng quân bắn liên hồi từ nhiều
vị trí, và sợ nhất là đạn súng cối 61 ly của địch. Ngay đợt pháo
đầu Thiếu Úy Huệ đã bị thương. Đỉnh 1062 trước đó đã bị phi pháo
quần nát từ rậm rạp nay chỉ còn lại một đồi trọc với đất cát
vàng cày xới tung tóe. Ðại Ðội 11 không chịu nổi phải rút về
triền núi phía Nam, Huệ kéo xuống được còn xác Quang bị cháy
thành than như đã nói ở phần trên.
Tổn thất Ðại Ðội 11: Thiếu Úy Quang và 15
binh sĩ hy sinh. Ba mươi bảy (37) bị thương trong đó có Thiếu Úy
Huệ và Thiếu Úy Quách An (sĩ quan Khóa 26 Đà Lạt).
Trong khi đó bên Ðại Ðội 14 cũng cố gắng
xuyên thủng chốt địch trong hốc đá ở yên ngựa để lên 1062 bắt
tay với Ðại Ðội 11, nhưng mọi dự tính không thành. Trung Úy Vệ
bị thương, Trung Úy Bằng, Ðại Ðội Phó Ðại Ðội 11 qua thay, hai
ngày sau cũng bị tử thương vì lựu đạn địch. Eo yên ngựa giống
như một khúc xương kẹt ngay cổ họng, thật khó nuốt vô cùng.
Riêng Ðại Ðội 12 của Trung Úy Thọ (sĩ quan
Khóa 25 Ðà Lạt) và Ðại Ðội 15 của Đại Úy Lộc (sĩ quan Khóa 23 Ðà
Lạt) đi với Thiếu Tá Ngô Tùng Châu vẫn lục soát và làm thành
phần trừ bị ở Đông Lâm. Trung Úy Thọ bị thương do pháo kích,
Trung Úy Khánh (truyền tin) ra thay cũng bị tử thương. Vài hôm
sau, Tiểu Ðoàn 8 của Thiếu Tá Vân vào thay. Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù
rút về Hà Nha dưỡng quân và bổ sung quân số.
Bước tiến quân của Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù trong
giai đoạn đầu đến sát chân đồi 1062, bảo vệ sườn phải cho Tiểu
Ðoàn 9 Nhảy Dù. Sau đó Thiếu Tá Phú "đen" đến thay thế làm tiểu
đoàn phó, Thiếu Tá Quý về đơn vị cũ làm tiểu đoàn phó Tiểu Ðoàn
7 Nhảy Dù.
Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù từ Quảng Trị về nghỉ
dưỡng quân và tái trang bị được 2 tuần thì có lệnh đi hành quân
trở lại, vùng hành quân là Thường Đức. Đúng 6 giờ sáng, tại trại
Trần Quy Mại, đơn vị được trang bị đầy đủ cấp số đạn dược, quân
trang, quân dụng, lương thực. Những người lính lên xe GMC ra phi
trường Tân Sơn Nhất. Năm chiếc vận-tải cơ C-130 chở quân đáp
xuống phi trường Đà Nẳng độ 12 giờ trưa, và đoàn xe vận tải GMC
chở họ đến quận Đại Lộc.
Trong khi binh sĩ lo nghỉ ngơi, nấu nướng,
thì các sĩ quan từ đại đội trưởng trở lên vào họp khẩn cấp về
cuộc hành quân giải tỏa quận Thường Đức. Sau khi mọi người đứng
dậy chào vị chủ tọa là Tướng Lê Quang Lưỡng, các sĩ quan Phòng
2, Phòng 3, và Phòng 4 thuyết trình chi tiết về cuộc hành quân.
Tướng Lê Quan Lưỡng trực tiếp ra lệnh các đơn
vị:
- Các anh phải chiếm các cao điểm và đánh bật
địch ra khỏi khu vực nầy. Muốn như vậy các anh phải đánh địch từ
đàng sau lưng, hoặc bọc ngang hông để cắt đứt đường tiếp tế và
viện binh.
Ông vừa nói vừa chỉ lên bản đồ hành quân và
tấm bảng đen chỉ rõ rành mạch. Đây là lần đầu tiên các sĩ quan
cấp nhỏ được nghe lệnh trực tiếp từ vị tư lệnh sư đoàn, mọi
người đều hiểu rằng cuộc hành quân nầy thật quan trọng và đầy
cam go.
Sau thời gian họp khoảng 45 phút, các binh sĩ
Tiểu Ðoàn 8 tiếp tục lên xe chạy tới điểm xuất phát cách làng Hà
Nha độ 1 cây số về hướng Đông. Lúc đó vào khoảng 5 giờ 30 chiều
cùng ngày, Ðại Ðội 83 của Đại Úy Phạm Văn Hiệu, sĩ quan Khóa 23
Ðà Lạt, được lệnh đánh chiếm Hà Nha. Ðại Ðội 84 của Đại Úy Đồng
Văn Minh, sĩ quan Khóa 26 Thủ Ðức đi cánh phải chiếm ngọn đồi
nhỏ ở phía Bắc Hà Nha.
Hiệu cho lệnh Trung Đội 1 của Thiếu Úy Nguyễn
Văn Tiến (tự Tiến Trâu) dẫn đầu, cho tổ khinh binh dọc theo bờ
sông di chuyển theo đội hình chân vẹt yểm trợ cho nhau tiến vào
làng. Trung Đội 2 của Thiếu Úy Nguyễn Văn Thành đi cánh phải kẹp
theo Tỉnh Lộ 4 tới dàn quân tại gò mả, sẵn sàng yểm trợ Trung
Đội 1.
Trung Đội 3 của Thiếu Úy Lý Mộ Sức và Trung
Đội 4 của Chuẩn úy Thạch Huôn làm thành phần trừ bị. Lúc mới
xuống xe, Hiệu gặp một tiểu đoàn thuộc Sư Ðoàn 3 Bộ Binh vừa từ
Thường Đức đi ra, trong đó có một đại đội trưởng là Trung Úy
Nguyễn Văn Nghĩa, sĩ quan Khóa 25 Ðà Lạt. Hai bạn cùng Trường Mẹ
gặp nhau mừng mừng lo lo, Nghĩa bảo Hiệu:
- Niên Trưởng phải cẩn thận, địch đông lắm,
chúng đang bám sát tụi tôi, chúc "chiến thắng."
Trước khi vào mục tiêu, Hiệu nghe máy gọi:
- Đa Hiệu đây 808 (danh hiệu của Thiếu Tá
Tiểu Ðoàn Trưởng Nguyễn Vân), trả lời.
- Đa Hiệu (danh hiệu truyền tin của Đại Úy
Phạn Văn Hiệu) tôi nghe đích thân.
- Lệnh trên bảo anh phải thanh toán mục tiêu
ngay bây giờ, anh là "cử nhân binh bị" (Võ Bị 4 năm tương đương
bằng cử nhân) không thể chậm trễ đừng làm mất mặt nghe.
Khi Trung đội 1 vào gần tới bờ làng thì quân
Bắc Việt đồng loạt khai hỏa. Các binh sĩ Dù bắn trả mãnh liệt.
Trung Ðội 2 vừa bắn vừa hô xung phong vang rền làm địch hoảng
hốt bỏ chạy. Nhờ đó tổ khinh binh của Tiến nhảy vào chiếm được
bờ làng, Hiệu bảo Thành ngưng tác xạ, và Tiến dẫn toàn bộ trung
đội vào mục tiêu và bung rộng về phía Tây bờ làng.
Sau 40 phút giao tranh, Ðại Ðội 83 hoàn toàn
làm chủ làng Hà Nha. Hiệu cho bố trí và làm hầm hố phòng địch
phản công. Kết quả tịch thu vài súng cá nhân vì quân số địch cỡ
một trung đội, Cộng quân chỉ chống trả yếu vì thấy các binh sĩ
Dù đánh giặc hăng hái và bị nhiều mặt tấn công. Địch tức giận
thua trận nên dùng đại bác không giật từ các cao điểm bên kia bờ
sông bắn trực xạ vào làng Hà Nha. Xạ trường quan sát của địch
thật là chính xác, một xe GMC của Sư Đoàn 3 Bộ Binh chạy lộn
chiều ngang qua Ðại Ðội 83, lập tức bị bắn cháy, tài xế may mắn
chạy khỏi vô sự.
Trong khi binh sĩ Ðại Ðội 83 đào hầm hố, gài
mìn Claymore, mìn chiếu sáng, đặt lính gác giặc, Hiệu điều chỉnh
hỏa tập cận phòng với sĩ quan tiền sát, anh cận vệ dọn cơm cho
Hiệu ăn ở cái bàn nhỏ trước một ngôi nhà tranh. Hiệu thấy trời
sáng trăng, sợ địch ở đỉnh cao bên kia sông trông thấy, nên bảo
dọn vào nhà. Vừa ăn được nửa chén cơm thì nghe "đùng" một tiếng,
cái bàn gỗ trước nhà bị nguyên một trái SKZ-57 ly không giật.
Hiệu giật mình! Nếu sớm chừng 5 phút thì nguyên tổ chỉ huy của
Ðại Ðội 83 đã bị tan tành.
Sau đó địch khai hỏa tứ phía, sơn pháo trực
xạ từ các đỉnh núi bên kia sông, hỏa tiễn 122 ly, đại bác 130 ly
liên tục pháo kích vào làng Hà Nha. Dứt tiếng pháo thì cả tiểu
đoàn địch đồng loạt tấn công biển người vào Đại đội 83.
Nhờ có hố chiến đấu vững chắc, các binh sĩ
Nhảy Dù đã bắn trả mãnh liệt. Hiệu cho súng cối 60 ly bắn yểm
trợ sơ khởi, sĩ quan tiền sát gọi bắn các hỏa tập cận phòng.
Thiếu Úy Tiến và Thành ra lệnh bấm mìn claymore, hàng loạt địch
ngã gục, súng đại liên M-60 và súng cá nhân AR-15 bắn tới tấp.
Hết lớp này tới lớp khác, quân Bắc Việt cứ nhào tới định lấy
thịt đè người tràn ngập mục tiêu làng Hà Nha. Tiến và Thành thật
can đảm, hai anh ra ngay tuyến ngoài đốc thúc binh sĩ chống cự.
Nhưng những loạt đạn vô tình đã kết liễu đời 2 người hùng của
Ðại Ðội 83.
Hiệu điều động Trung Ðội 3 của Thiếu Úy Lý Mộ
Sức qua trám lỗ hổng, nhưng Sức cũng bị thương nặng (phải di
tản). Chỉ còn Chuẩn úy Thạch Huôn và Đại Úy Hiệu đốc thúc các
binh sĩ Dù cố thủ. Cầm cự đến trời sáng thì địch rút lui để lại
rất nhiều vũ khí, xác địch và một số ít tù binh.
Cũng nên nhắc lại rằng làng Hà Nha 1 và 2 là
những làng rất nghèo nàn, có khoảng 20 căn nhà (nói là nhà nhưng
thật ra đó chỉ là những túp lều tranh nhỏ bé), địa thế trống
trải, nên xạ trường quan sát của địch rất tốt, Cộng quân bắn
trực xạ bằng đại bác thật chính xác. Chính sĩ quan và một số
binh sĩ ta đã bị tổn thất vì loại súng trực xạ này.
Ở làng Hà Nha khoảng 4 ngày, Ðại Ðội 83 được
bổ sung hai sĩ quan và một số binh sĩ mới (trong đó có Thiếu Úy
Tiến, Hại Sĩ Hải, và Binh Nhất Châu Văn Lê) để chuẩn bị làm nỗ
lực chính tấn chiếm đỉnh 1062 sắp kể sau đây:
Theo kế hoạch, Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù được điều
động lên thay thế Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù để tiếp tục đánh chiếm
1062. Đại Úy Hùng vừa đi học khóa Đại Đội Trưởng ra tăng cường
hành quân. Hùng xuất thân từ gốc Thiếu Sinh Quân, anh rất gan dạ
đã sát cánh cùng các Đại Úy Minh, Hiệu, và Trung Úy Nam từng lập
nhiều chiến tích ở các cuộc hành quân Hạ Lào, Cam Bốt, và An
Lộc.
Thiếu Tá Tiểu Ðoàn Trưởng Nguyễn Quang Vân,
sĩ quan Khóa 13 Thủ Ðức, cho Đại Ðội 84 của Minh và 83 của Hiệu
làm 2 mũi dùi tấn công sườn phải phía Đông 1062. Chờ phi pháo
dập nát đỉnh đồi, rồi trời vừa chợp sáng Thiếu Tá Vân dẫn Ðại
Ðội 81 của Võ Thế Hùng và Ðại Ðội 82, xuất phát từ chân đèo
Thường Đức leo lên dọc theo đường đỉnh về hướng Bắc, mục tiêu là
đồi 1062.
Các binh sĩ Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù leo dốc đứng
(độ nghiên 70 độ) đồng loạt tiến về mục tiêu là đỉnh đồi 1062.
Đứng trên 1062, ta thấy có 5 đỉnh nhỏ nằm gần nhau, làm thành
hình tròn theo thế liên hoàn; mặt hướng về Tỉnh Lộ 4 thì dốc
thẳng đứng, rất khó leo. Cộng quân thường dùng giàn thung ném
một lần hàng chục quả lựu đạn xuống mỗi khi quân ta tấn công vào
mặt này. Còn các hướng khác thì có 4 đỉnh nhỏ che chở nên 1062
quả là một địa thế dễ thủ khó công. Từ Tỉnh Lộ 4 muốn leo lên
1062 phải qua những đỉnh nhỏ 126, 383, xuyên qua những yên ngựa
chập chùng như sóng gợn.
Hai Đại Ðội 83 và 84 do Thiếu Tá Trần Toán,
sĩ quan Khóa 18 Ðà Lạt, chỉ huy đi băng qua khu vực Tiểu Ðoàn 9
Nhảy Dù tới mục tiêu C của Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù, bọc vòng lên
đỉnh cao bên dãy Sơn Gà để từ mục tiêu C băng qua yên ngựa đánh
lên 1062. Đại đội 81 của Đại Úy Hùng và 82 của Nam lợi dụng đêm
tối lén bò lên đánh vào sườn dốc đứng (vì mặt này địch chỉ phòng
thủ hời hợt chúng cho là ta không thể nào dám vào hướng nầy, vì
sẽ làm mồi cho lựu đạn.
Ba giờ khuya xuất phát tấn công, sau khi cho
phi pháo dập nát đỉnh đồi, Hiệu, Minh, và Hùng dẫn đầu các cánh
quân trèo lên ngọn 1062, Ðại Ðội 82 của Trung Úy Hùng "ốm" làm
thành phần trừ bị. Đoạn đường gai gốc hiểm trở. Những binh sĩ Dù
dùng kế dương đông kích tây, lợi dụng địch đang đang phân tán
phòng thủ và bị phi pháo dập liên tục, Hùng, Minh, và Hiệu chia
từng tổ 3 người bò lên đỉnh núi, diệt từng chốt nhỏ, rồi leo
lên. Đây là những giây phút đùa với tử thần, mà cái chết đến với
họ bất cứ lúc nào. Nếu một trái lựu đạn của địch thả trúng, hay
bị trượt chân xuống, họ có thể chết tan xác. Trèo lên vách đá
dựng đứng, cao hàng trăm thước, trước khi tới miệng hầm, họ dùng
lựu đạn tiêu diệt các chốt địch.
Những người binh sĩ Nhảy Dù gan dạ, anh hùng
của các Đại Ðội 81, 83, và 84 nầy đã phải tránh được từ 5 đến
hàng chục quả lựu đạn do địch từ trên cao ném xuống. Muốn sống,
muốn chiếm được đồi 1062, họ phải vừa quan sát, vừa trèo, và vừa
tránh né, làm sao để những trái lựu đạn đừng nổ trên nón sắt hay
nổ ở lưng chừng núi.
Không phải ai cũng được bình an lên tới đỉnh
núi. Một quả lựu đạn đã rơi trúng nơi trú ẩn của Thiếu Úy Đoàn
Tấn và Chuẩn Úy Đến thuộc Ðại Ðội 81 khiến hai anh bị thương
vong. Lúc quả lựu đạn vừa rơi tới, Thiếu Úy Tấn định nhào lại
lấy thân mình che cho đồng đội, nhưng không kịp nữa. Quả lựu đạn
đã tung nổ, khiến hai người bị trúng nhiều mảnh vào chỗ hiểm.
Riêng Trung Úy Thạch và Thiếu Úy Hà Mai Trường, sĩ quan Khóa 26
Ðà Lạt, thuộc Đại Đội 84 của Minh, vì hăng hái leo lên nên cũng
bị thương.
Thiếu Úy Nguyễn Văn Tiến (từ Đại đội 84
chuyển qua bổ sung cho Tiến "trâu" và Thành vừa hy sinh ở làng
Hà Nha) dẫn Trung Ðội 3 của Hiệu đi bọc phía sau định leo lên
mục tiêu D. Bỗng nghe bịt, bịt, bịt, ba trái lựu đạn từ trên
đỉnh 1062 ném xuống mà tịt ngòi không nổ. Nhưng quả thứ tư trúng
ngay Tiến, làm thân hình anh bị tung lên như quả bóng. May nhờ
áo giáp nên chỉ bị thương nặng và được binh sĩ kéo về phía sau
và phải di tản.
"Cái giá" để chiếm được đồi 1062 thực sự là
một cái giá rất cao, cao nhất của chiến trận mà các chiến sĩ Dù
đã gặp phải từ trước tới nay. Năm tiểu đoàn Dù bị tổn thất nặng,
thảm nhất là Tiểu Ðoàn 3 của Thiếu Tá Đồng, quân số hao hụt gần
50 phần trăm.
Để biết rõ chi tiết trận chiến, chúng ta hãy
theo một đơn vị cấp đại đội (Ðại Ðội 83) làm cách nào để đánh
chiếm đồi 1062:
Hiệu dẫn đại đội xuyên qua Tiểu Ðoàn 9 Nhảy
Dù, tiến về mục tiêu C thay thế Ðại Ðội 11 của Đại Úy Trần Văn
Thể. Thể bảo Hiệu:
- Sư Ðoàn Điện Biên 304 đó, phải cẩn thận vì
địch có lợi thế cao và hầm hố kiên cố.
Trên trục tiến quân có rất nhiều chướng ngại
vật, cây cối um tùm, và địch đã gài nhiều mìn bẫy. Cộng quân
dùng giàn ná phóng mỗi lần hàng chục quả lựu đạn xuống thật nguy
hiểm vô cùng. Địch cũng bắn trực xạ bằng đại bác hoặc sơn pháo,
vì thế các Ðại Ðội 81 (cánh trái), Ðại Ðội 84 (cánh phải), cùng
Ðại Ðội 83 đã thử đột kích đêm nhưng không kết quả.
Địch chỉ ngồi trên cao đạp những tảng đá và
liệng lựu đạn chày xuống làm những chốt đóng gần bị thương hằng
ngày. Quân số các đại đội cứ hao hụt dần. Thiếu Tá Nguyễn Vân
thường gọi máy đốc thúc nhưng vì địa thế quá hiểm trở nên các
đại đội cứ dậm chân tại chỗ.
Ngày N+4 (sau 4 ngày thay Tiểu Ðoàn 1 Nhảy
Dù), vì không thể theo đường đỉnh yên ngựa tấn công, nên lợi
dụng ban ngày địch không chú ý, Đại Úy Hiệu dẫn quân tiến theo
đường thông thủy giữa 2 đỉnh 1062 và đồi Không Tên ở phía Nam
1062. Khi tiền quân Ðại Ðội 83 tiến còn cách 1062 khoảng 50
thước thì địch nghe động nhưng không phát giác là có nguyên đại
đội. Cộng quân bắn dọa (vì không ngờ quân ta dám leo dốc cao)
xuống thung lũng với thượng liên, B-40, nhưng vô hiệu nhờ các
tản đá lớn 2 bên sườn núi che chở, và đồng thời các Ðại Ðội 81,
Ðại Ðội 84 bắn yểm trợ khiến địch phải phân tán mỏng để phòng
thủ
No comments:
Post a Comment