Thôn Nữ Bàu Trai
Lời Giới Thiệu:
Tác giả bài viết này là một phụ nữ sinh trưởng ở Bàu Trai, miền
Đông Nam Phần. Đây là một địa danh mà các quân nhân từng hành quân ở
vùng 3 chiến thuật đều quen biết.
Từ câu chuyện tình đơn sơ, một thiếu nữ hiền lành trở thành
người vợ lính thời chiến. Đời sống gia binh, người chồng chuẩn bị đi
hành quân, tiếng khóc của góa phụ nhà kế bên, tiếng xe Jeep của chàng
trở về chạy trên sân sỏi, tiếng súng đêm đêm vọng lại, những lần từ biệt
vội vàng, các chuyến về thăm nhà bất chợt giữa các trận đánh. Người vợ
lính với 20 năm khắc khoải, hạnh phúc đếm từng ngày để đến lúc tan hàng
lại tiếp tục lo cho chồng đi cải tạo. Chúng ta đã từng đọc các trang sử
chiến tranh của nam nhi thời binh lửa. Bây giờ xin một lần đọc để thông
cảm cho những giọt lệ của phụ nữ VN trong vai trò vợ lính thời chinh
chiến.*
Trong các chị em gái của gia đình, tôi là đứa con gái nhút
nhát nhất. Tôi không thích xem phim chiến tranh, sợ nghe tiếng súng nổ,
nên tôi không mong muốn lấy chồng nhà binh như phần đông các cô gái khác
thích những chàng trai trong bộ quân phục oai hùng. Có lẽ tôi chịu ảnh
hưởng của Ba tôi. Ba tôi là viên chức hành chánh, ông thường than phiền
một số sĩ quan trẻ ngang tàng và lái xe ẩu.
Một đêm khuya sau Tết Mậu Thân năm 1968, chúng tôi nghe tiếng
gõ cửa, Ba tôi cẩn thận đuổi chị em tôi vào phòng, đóng cửa kỹ lại. Ông
bỏ cây súng nhỏ vào túi quần và ra mở cửa. Một sĩ quan trẻ tuổi mặc rằn
ri vào xin cho binh sĩ đóng quân trong khu vườn nhà tôi và cho cấp chỉ
huy của họ ở tạm trong phòng khách. Lúc đó Ba tôi mới yên tâm biết là
đơn vị đi hành quân về đến đây tìm chỗ nghỉ quân.
Lính ở đầy trong khu vườn nhà tôi nhưng không phá phách gì
như một số người đồn đại. Riêng vị sĩ quan ở trong phòng khách nhà tôi
với cái ghế bố nhà binh nhỏ bé, nằm khiêm nhượng ở một góc phòng. Cuộc
sống gia đình tôi không có gì thay đổi khi có mặt vị sĩ quan này. Chúng
tôi lịch sự không đi tới lui trong phòng khách. Ban đêm thỉnh thoảng
chúng tôi nghe những câu hát vu vơ hoặc vài câu vọng cổ của các người
lính trẻ than thở nhớ gia đình và người yêu. Chúng tôi thông cảm và
thương mến họ hơn.
Dần dần ba mẹ tôi có cảm tình với vị sĩ quan chỉ huy. Những
lúc rảnh rỗi, ông đến nói chuyện hoặc được ba tôi mời ăn cơm gia đình.
Ông sĩ quan này mượn phòng khách để làm nơi hội họp của bộ chỉ huy, nhờ
thế gia đình tôi quen biết thêm vài sĩ quan nữa. Câu “quân dân như cá
nước” là đúng, chúng tôi thân tình rất mau, có những bữa ăn hoặc những
buổi tối ngồi chung để xem ti vi thật vui vẻ. Quan niệm không tốt về nhà
binh, cảm giác sợ sệt những người lính chiến trong bộ quân phục rằn ri
không còn nữa.
Cũng nhờ dịp đơn vị dừng quân, tôi đã gặp nhà tôi sau này.
Anh là một trong các sĩ quan trẻ của đơn vị. Chúng tôi biết nhau qua sự
giới thiệu của vị sĩ quan quen thân với gia đình như đã kể trên. Một
thời gian sau chúng tôi thương nhau và anh xin làm đám hỏi sớm để còn
lên đường đi hành quân. Có lần anh nói, gia đình hối thúc cưới vợ, nhưng
“Đời lính tác chiến xa nhà, ra đi không chắc có ngày trở lại, cưới vợ
chỉ làm khổ cho người đàn bà.” Và anh không muốn vướng bận thê nhi trong
thời ly loạn. Sau đó anh đi hành quân liên tục, thỉnh thoảng tôi chỉ
nhận được thư. Hơn một năm sau đơn vị anh về đóng quân tại Biên Hòa gần
Sài Gòn, đây là dịp tiện lợi để chúng tôi tổ chức đám cưới.
Tôi theo chồng về ở căn nhà trong trại quân đội. Bây giờ tôi
cảm thấy hạnh phúc nhất, ngoài gia đình cha mẹ thương yêu, tôi còn có
người chồng tính tình trầm tĩnh, hòa nhã với mọi người. Sau những ngày
nghỉ phép cưới vợ, anh trở lại cuộc sống nay đây mai đó, anh đi ba bốn
tháng mới về một lần hoặc lâu hơn tùy tình hình chiến sự.
Khi anh chuẩn bị đi hành quân tôi không hề biết trước nhưng
dễ nhận ra ngay. Tôi thấy những binh sĩ làm việc với anh lăng xăng dọn
dẹp chuẩn bị quân trang. Nhưng tôi vẫn mong mình nghĩ lầm. Anh trở về
nhà gương mặt đượm nét quan trọng, ít nói với tôi hơn. Bận rộn với giấy
tờ, điện thoại và dặn dò người này người kia liên tục. Tôi hiểu anh
không có thì giờ để nghĩ đến gia đình. Tôi không quấy rầy anh, tôi luôn
luôn nhớ lời dạy bảo của ba tôi trước khi tôi đi theo chồng: “Con đừng
bao giờ xen vào công việc của chồng con.” Ăn cơm tối xong anh tiếp tục
chuẩn bị tài liệu. Tôi buồn vì sắp phải xa chồng, không biết làm gì hơn
là ngồi sau lưng anh, áp má vào sau lưng anh im lặng. Anh làm việc đến
gần nửa
đêm, xong anh kêu tôi lại ghế salon ngồi, anh dặn dò mọi việc ở trong
nhà, có buồn trở về nhà cha mẹ chơi, nhất là phải cất kỹ tờ giấy hôn
thú. Tôi hiểu anh muốn ám chỉ điều gì, tôi nghe lòng tê tái. Tôi có bao
giờ nghĩ đến mười hai tháng lương tử tuất để thành góa phụ! Không, tôi
chỉ cần chồng tôi.
Sau đó chúng tôi chỉ ngủ được vài giờ. Ba giờ sáng trong sân
trại rầm rộ tiếng xe, tiếng nói ồn ào của lính. Trong cảnh lờ mờ tối,
tôi nhìn ra sân thấy những người lính, lưng đeo ba lô nặng nề, đầu đội
nón sắt. Trong số đó sẽ có người không trở lại. Quang cảnh này trái hẳn
với những ngày đại lễ, những người lính trong bộ quân phục thẳng nếp,
tay cầm súng đi diễn hành rất đẹp.
Khi chồng tôi bắt đầu mặc áo giáp, đeo súng ngang hông, lòng
tôi tê tái, có một cái gì đó làm cho tôi bất động, chỉ biết nhìn anh và
im lặng. Sau cùng anh đội nón sắt và đưa tay vỗ vào má tôi nói: “Thôi
anh đi”. Anh không có những cử chỉ âu yếm hơn, những lời từ giã nhiều
hơn như những lần anh đi làm việc bình thường hay đi ăn cơm với bạn bè.
Anh sợ làm tôi khóc. Tôi muốn nói anh cố sớm trở về với em,
nhưng càng dặn dò càng đau lòng trong buổi chia tay. Tôi cố gắng không
cho nước mắt trào ra. Tôi nhìn anh thật kỹ, để hình ảnh anh in sâu mãi
trong lòng tôi. Tôi thầm nghĩ, không biết lần này anh có còn trở về
không? Không thể chờ xe anh khuất bóng, tôi chạy vội vào giường khóc nức
nở. Cảnh này cứ diễn đi diễn lại trong cuộc đời làm vợ lính của tôi. Có
lần tôi nói với anh, khi đi hành quân cho em biết trước để em chuẩn bị
tư tưởng cho đỡ sợ. Nhưng có lẽ vì bí mật quân sự hoặc cuộc hành quân
gấp rút, anh chẳng bao giờ chiều tôi chuyện đó.
Mỗi lần nghe có tin đơn vị anh đụng độ lớn tôi chỉ biết vào
phòng âm thầm cầu nguyện, lo sợ gặp những sĩ quan đến báo tin buồn. Có
lúc anh về thăm tôi thình lình. Mừng rỡ không được kéo dài bao lâu lại
nghẹn ngào vì anh ra đi sớm hơn lời hứa. Một buổi chiều anh về và nói
chiều mai mới đi. Tôi vui mừng vì trưa mai vợ chồng tôi sẽ có chung bữa
cơm với nhau. Nhưng đến tối có tiếng điện thoại, anh nghe xong nói với
tôi sáng sớm mai anh phải đi. Thế là mất một đêm hạnh phúc, chỉ có tiếng
than thở và tiếng nức nở của tôi.
Khi tôi có thai được sáu tháng, lúc đó anh đóng quân tại
Bến Tre, anh biết gia đình tôi có quen thân với ông bà bác sĩ tại Mỹ
Tho. Anh hẹn gặp tôi tại đó để anh đến thăm vì từ Bến Tre chỉ qua một
cái phà là đến Mỹ Tho. Anh cho biết sẽ ở chơi từ trưa đến chiều mới đi.
Sáng ngày ấy ba tôi chở tôi xuống Mỹ Tho, sẵn ba tôi thăm lại người bạn
cũ. Tôi gặp anh ngượng ngùng mắc cỡ với cái áo bầu khoác ngoài. Tuy là
vợ chồng nhưng ít khi sống gần gũi nhau nên đối với anh đôi khi tôi vẫn
còn e thẹn. Sau khi chúng tôi hàn huyên được nửa giờ, chúng tôi dùng cơm
trưa, tuy có mặt ba tôi và hai ông bà bác sĩ nhưng tôi cũng cảm thấy
hạnh phúc lắm. Bữa cơm chưa xong, chồng tôi có máy truyền tin gọi trở về
đơn vị,
vậy là anh lại đi ngay. Tôi tiếp tục dùng cơm, nhưng món ăn trở nên lạt
lẽo, dầu bà bác sĩ nấu rất ngon. Thương con, ba tôi cáo biệt về Sài Gòn
sau buổi cơm. Trên xe ông nhìn tôi và vuốt tóc thông cảm.
Một đêm tôi đang ngủ bỗng giật mình thức giấc bởi tiếng
khóc thảm thiết của bà hàng xóm, tôi vội đến cửa sổ nhìn ra ngoài để xem
chuyện gì xẩy ra. Bên ngoài đêm tối yên tĩnh bị đánh tan bởi tiếng khóc
của người vợ trẻ vừa được tin chồng tử trận ngoài chiến trường, cùng đi
hành quân chung đơn vị với chồng tôi. Chị khóc lóc, kêu gào, gọi tên
chồng nhưng chồng chị sẽ mãi mãi không trở về nữa. Tôi trở lại giường
nằm nhưng không ngủ được, tôi thương cho người đàn bà góa phụ kia và lo
sợ cho bản thân mình.
Sáng hôm sau người vợ trẻ đầu phủ khăn tang, gương mặt xanh
xao cùng với bà mẹ già đi lãnh xác chồng theo sau hai đứa con khoảng
ba, bốn tuổi, đầu chít khăn trắng. Chúng nó vô tư không biết gì, thật ra
ba chúng đi hành quân luôn, ít khi ở nhà. Bây giờ không có lời an ủi
nào làm chị vơi được nỗi buồn, chỉ mong thời gian sẽ hàn gắn vết thương
lòng của chị mà thôi. Sau này chị kể, chị nghe tiếng chim cú kêu chiều
hôm đó, chị nghĩ có điều xui rồi. Tôi không bao giờ tin dị đoan, tôi
không xem bói vì thầy bói nói vui tôi không tin, nói buồn tôi phải bận
tâm lo lắng, nhưng bây giờ tôi lại sợ tiếng cú kêu.
Một chị bạn quen, chồng cũng là bạn thân với chồng tôi, nhà
ở trong cư xá đối diện, với ba đứa con nhỏ. Chồng đi hành quân không
chắc có ngày về, tinh thần của chị ngày càng suy nhược, cộng thêm những
lần thay mặt gia đình đi dự đám tang qúa nhiều bạn bè thân thiết bị tử
trận. Tinh thần đã sẵn yếu, ngày càng trở nên suy sụp. Lúc ở Việt Nam,
bác sĩ phải cho uống thuốc an thần. Sau này may mắn được di tản qua sống
ở Mỹ nhưng rồi cũng không tránh khỏi bệnh nan y Alzheimer, chị hoàn
toàn mất trí, thể xác trông cậy vào người chồng thủy chung, ngày xưa là
người chỉ huy chiến trận tài ba, bay giờ biến thành người y tá tận tụy
và hy sinh nhẫn nại cho người vợ tao khang, quen biết từ thuở còn niên
thiếu.
Ngày tôi sanh cháu bé, chồng tôi được nghỉ phép, anh ở hẳn
trong nhà thương với tôi, mặc cho những lời dị nghị của các cô bác theo
xưa cho như vậy là không tốt là bị “mắc phong long”. Mấy ngày sau tôi
rời nhà thương, anh được lệnh đi hành quân tại Campuchia. Nhìn anh đi
tôi khóc mãi vì nghe tin đồn ở Campuchia thường bị “Cáp duồn”. Mẹ tôi
khuyên “Con mới sanh khóc như thế không tốt đâu”. Nhưng tôi đâu nào nghĩ
đến sức khoẻ của tôi, tôi lo cho anh và không muốn con tôi mất cha.
Hàng ngày bận bịu nuôi con, nghĩ đến anh tôi chỉ biết cầu nguyện.
Đến năm 1973 chồng tôi chuyển sang làm việc hành chánh,
mặc dù ở đâu cũng là phục vụ cho nước nhà, nhưng anh không thích lắm.
Riêng tôi vui vẻ hơn vì đây là dịp mẹ con tôi được sống với anh hàng
ngày. Tại đây anh vẫn phải đi xuống thăm các quận thường xuyên. Đã có
các sĩ quan thỉnh thoảng bị chết vì địch phục kích dọc đường, cho nên
tôi vẫn tiếp tục lo lắng cho anh. Ngày này qua ngày khác, mỗi buổi chiều
tôi nghe chiếc xe lăn bánh trên con đường đá sỏi vào cổng là tôi biết
anh đã bình yên trở về. Có những chiều anh về rất muộn, tôi không yên
tâm được, vào phòng ngồi bất động âm thầm cầu nguyện. Tình thương đã
khiến tôi rất thính tai, tiếng cổng mở cửa từ xa tôi đã nghe
được, lúc đó tôi mới thở phào nhẹ nhõm, đi ra ôm lấy con và cùng nhau
ra đón ba nó.
Có những đêm pháo kích tôi sợ quá, một tay ôm choàng
lấy con, một tay nắm chặt tay anh, nhưng sau khi đợt pháo kích đầu tiên
đã chấm dứt, anh phải vội vã từ giã mẹ con tôi để băng qua cửa hông nhà
đi xuống hầm trung tâm hành quân, hầu tiện việc chỉ huy yểm trợ các đơn
vị đồn trú địa phương. Muốn cho chồng luôn được bình yên và tôi bớt đi
nỗi lo âu để yên tâm làm việc nội trợ, một hôm tôi đưa cho anh xâu chuỗi
mà vị linh mục đỡ đầu đã cho anh ngày rửa tội. Tôi nói “Anh nhớ luôn bỏ
xâu chuỗi này vào túi áo mỗi ngày anh đi làm việc, để có Chúa phù hộ
anh và em đỡ lo lắng cho anh.” Tôi biết đàn ông tánh không chu đáo lắm
nên tôi nói thêm “Anh thương em hãy nhớ lời em
dặn.”
Ngày tháng cứ thế trôi qua, chiến sự càng ngày càng sôi động,
cho đến một ngày mẹ con tôi từ giã anh, trở về ở với ngoại, để anh
không phải bận tâm gia đình. Chúng tôi từ giã đời sống gia binh. Lần này
tôi cũng nhìn anh rất kỹ và niềm hy vọng gặp lại anh ít hơn.
Khi cuộc sống của người vợ lính thời chiến chấm dứt thì những
ngày nghiệt ngã mới lại bắt đầu. 30/04/75 đã chấm dứt cuộc đời binh
nghiệp của chồng tôi và anh đi tù với mười ba năm cải tạo. Riêng tôi,
ngoài trách nhiệm nuôi chồng, nuôi con, nỗi lo âu vẫn còn và sự mong đợi
chồng về mỏi mòn hơn.
Sau cùng, nhờ ơn trên, nhà tôi đã trở về. Anh vẫn còn giữ xâu chuỗi
ngày xưa đã cùng anh sống trong ngục tù với những chỗ bị đứt đã nối lại
và rơi mất một hạt.
Hơn hai mươi năm làm vợ lính thời chiến, 13 năm vợ tù cải tạo của
thời bình, là người con gái ở miền quê Bàu Trai, tôi có làm gì đâu mà
suốt đời chỉ sống với nước mắt.
Chiến tranh đã cướp mất tuổi thanh xuân của bao nhiêu người vợ trẻ.
Chỉ còn lại Việt Nam, một quê hương điêu linh, một dân tộc bất hạnh
triền miên trong chiến tranh và nghèo khó.
Thôn Nữ Bàu Trai
nguồn: Email của TH
2. Chân Dung Người Vợ Lính Việt Nam Cộng Hòa
Trong cuộc sống, sự thành công hay thất bại nào cũng có cái giá của
nó. Trong chiến tranh cũng vậy, cái giá của những chiến tích lừng danh
mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) phải trả, là những đồng đội đã hy
sinh, những đồng đội khác đã để lại một phần thân thể trên khắp miền
đất nước, và hệ lụy dài lâu là những đứa trẻ vĩnh viễn xa cha, những
người vợ vĩnh viễn xa chồng! Người quân nhân hy sinh vì tổ quốc, là sự
hy sinh cao cả mà tổ quốc mãi mãi ghi công. Nhưng, hình ảnh người quả
phụ, với một nửa tâm hồn, một nửa con tim, một nửa phần hơi thở, theo
chồng lên đài tổ quốc ghi công, và những nửa còn lại có trách nhiệm
trang bị cho các con một hành trang vào đời, phải được thừa nhận là sự
hy sinh không kém phần cao cả
như người chồng dũng cảm nơi chiến trường, rất xứng đáng được kính
trọng.
Cũng trong chiến tranh, chồng ở chiến trường, vợ ở nhà quán xuyến
công việc gia đình mà công việc gia đình nhiều đến nỗi có những việc
chưa kịp đặt tên, nhưng tất cả đều là việc. Chăm sóc các con, chăm sóc
tình thân gia đình quyến thuộc, chăm sóc tình bạn bè bằng hữu. Để rồi,
những giờ phút yên tỉnh về đêm khi các con chìm trong giấc ngủ, mơ màng
nghĩ đến chồng nơi chốn xa xôi, hay đang trong chiến trường khốc liệt,
với bao khắc khoải lo âu, sầu muộn!
Rồi chiến tranh chấm dứt trong nỗi nghẹn ngào uất hận, bởi đây là
cuộc chiến mà cuối cùng “bị chấm dứt để thua trận”! Sau lời tuyên bố của
vị Tổng Thống cuối cùng, hàng trăm ngàn đồng bào, quân nhân, viên chức,
cán bộ, bỏ của chạy lấy người, tỵ nạn trên đất Mỹ. Với những thành phần
tương tự như vậy gồm 222.809 người, lũ lượt bị lừa vào 200 trại tù trên
khắp miền đất nước. Người 5 năm, 10 năm, 15 năm, thậm chí 17 năm ròng
rã, do lòng thù hận tột cùng của nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Hằng
trăm ngàn gia đình di tản ra ngoại quốc, cũng như hằng chục triệu gia
đình còn lại trên quê hương, tất cả đều hụt hẫng. Hụt hẫng vì cuộc sống
trên đất người với biết bao xa lạ trong một xã hội kỹ nghệ mà bước đầu
chưa
thể hội nhập. Hụt hẫng vì phút chốc, từ chế độ tự do bị đẩy vào chế độ
độc tài trên toàn cõi nước Việt Nam!
Cảnh đời thứ nhất. Trong cuộc đời tỵ nạn, vợ chồng con cháu có cơ
hội bên nhau, cùng chia xẻ khổ đau, cùng gánh vác nhọc nhằn, cùng nhận
chung nỗi nhục! Nỗi nhục phải rời khỏi quê hương trong thân phận lưu
vong! Với những bà vợ chúng ta, vốn sinh ra và trưởng thành trong xã hội
nông nghiệp, nay phải cùng chồng từng bước hội nhập vào xã hội kỹ nghệ
nơi định cư, đã phải đêm đêm đếm bước từ bến xe công cộng về nhà trong
màn tuyết lạnh sau những giờ nhọc nhằn nơi hãng xưởng. Lạnh đến nỗi
không biết giọt nước lăn trên má là nước mắt, hay mảnh tuyết vừa tan!
Cảnh đời thứ hai. Trong xã hội mà kẻ thắng trận đầy lòng thù hận,
thì gia đình ly tán, sự sống bị bóp nghẹt đến tận cùng của khổ đau, của
nước mắt bởi chính sách bịt mắt bịt tai bịt miệng! Cái chế độ mà những
người lãnh đạo luôn miệng huênh hoang là “dân chủ gấp trăm lần dân chủ
tư bản”, lại bắt mọi người phải sống trong nỗi sợ hãi triền miên với
những đôi mắt rình rập quanh năm suốt tháng!
Cảnh đời thứ ba. Riêng với những bà vợ ở lại mà chồng đã vào tù,
còn tệ hơn nhiều so với hai cảnh đời nói trên. Hằng ngày phải đối phó
với bọn cầm quyền địa phương, cái bọn mà đầu óc toàn đất sét và rác
rưởi, chỉ biết đàn áp để cướp đoạt. Đồng thời phải chăm lo cuộc sống các
con từng ngày, lo nuôi chồng từng tháng!
Và những bà vợ chúng ta, hải ngoại hay trong nước, thật sự là Những
Người Đàn Bà Việt Nam rất can đảm khi phải chịu đựng và vượt qua nỗi
đau nỗi nhục đó! Đau đến nỗi không còn nước mắt để khóc, nhục đến nỗi
chẳng còn lời để than! Nếu đem so sánh giữa hai cảnh đời trong nước với
ngoài nước, thử hỏi: “Ai đau hơn ai và ai nhục hơn ai?” Với tôi, không
ai đau hơn ai, cũng không ai nhục hơn ai! Vì nỗi đau nào cũng có cái đau
riêng của nó, nỗi nhục nào cũng có cái nhục riêng của nó! Xin những ông
chồng diểm phúc, hãy nhìn lại đôi nét về hình ảnh Những Bà Vợ Chúng Ta
trong cuộc sống khổ đau thầm lặng đó, mà người viết được những bà vợ
trong cuộc kể lại:
Một cảnh đau thương. Một bà vợ cùng con cầm giấy phép “gánh gạo”
nuôi chồng trên đất Bắc. Ba ngày đi, ba ngày về, 2 tiếng đồng hồ gặp gở!
Khi trở về cư xá Bắc Hải, nhà bị niêm phong với dòng chữ “nhà vắng
chủ”. Đau đớn biết bao! Xót xa biết dường nào! Bỗng dưng nhà bị mất! Bà
gục đầu vào cửa! Bà cùng gia đình định cư tại Houston, Texas từ tháng 4
năm 1991.
Một cảnh đau thương khác. Một bà vợ đã bao nhiêu lần bị công an
Phường ra lệnh đi khu kinh tế mới, nhưng bà vẫn không đi. Chúng hành hạ
bằng cách gọi bà đến văn phòng, bảo ngồi đó từ đầu giờ đến cuối giờ,
ngày nào cũng vậy, và ròng rã 6 tháng như vậy. Một hôm, chúng bảo đưa
giấy tờ nhà để giải quyết. Khi chụp được hồ sơ, lập tức tên công an ra
lệnh trong vòng 24 tiếng đồng hồ bà phải ra khỏi nhà. “Ôi! Còn nỗi đau
nào cao hơn nỗi đau này trong cảnh đời thua trận!” Bà xiêu vẹo trên
đường về nhà cách đó mấy dãy nhà liên kế cũng trong cư xá Bắc Hải, và
gục ngã ngay trước nhà! Bà cùng gia đình định cư vùng bắc California từ
năm 1993, nhưng chồng đã qua đời vào năm 2003.
Một cảnh đau thương khác nữa. Một bà vợ có chồng bị giam trên đất
Bắc hằng chục năm trời, bỗng dưng mất liên lạc. Bà lặn lội khắp các cơ
quan tại Sài Gòn, Hà Nội, tốn kém, mệt nhọc, nhưng hoàn toàn bặt tin.
Nỗi buồn đến với bà quá sức chịu đựng của người phụ nữ tuổi 50, mà có
lúc bà cảm thấy như mình đang bên bờ vực thẳm, rồi ngã dần xuống…… Bà bị
tai biến mạch máu não, nằm bất động một chỗ.
Nhiều tháng sau đó, bất ngờ, người nhà của bà nhận được giấy cho
phép bà thăm chồng. Trại tù chỉ cách nhà vỏn vẹn 1 cây số (khám Chí
Hòa). Bạn bè khiêng bà đến nhà tù. Cả hai “chồng đứng đó vợ liệt toàn
thân”, chỉ biết nhìn nhau, òa khóc…! Khóc cho mình! Khóc cho cuộc đời!
Phải chăng, mọi khổ đau trên cõi đời này đang bao quanh hai con người
đau khổ đó? Không. Không chỉ có vậy. Mà là tất cả những bà vợ có chồng
bị cộng sản giam giữ trong tù, tiêu biểu qua 3 cảnh đời trên đây trong
hàng vạn cảnh đời trên đất nước Việt Nam, đều trong nỗi khổ tột cùng đó!
Tình trạng bại liệt đó theo Bà cùng chồng định cư tại Houston, nhưng
rồi Bà đã từ trần năm 2004!
Sài Gòn-Hà Nội 1.736 cây số, xe lửa tốc hành chạy 72 tiếng đồng hồ,
tức 3 ngày 3 đêm. Mỗi người chỉ được mang theo 20 kí lô lên xe lửa,
mang nhiều hơn số đó phải hối lộ cho một loạt nhân viên từ cổng vào cho
đến nhân viên trên xe lửa. Hành lý ngổn ngang cả trên lối đi giữa toa
xe. Ban ngày cũng phải lách từng bước chân vào chỗ trống. Còn ban đêm,
thật khó mà tưởng tượng! Hai băng ngồi đối diện, một băng 3 người. Hai
băng phía bên kia lối đi, mỗi băng 2 người ngồi. Hai đầu trên của hai
băng 6 người, máng được 3 cái võng cho 3 người, 1 người nằm co quắp trên
sàn xe đen đúa nhầy nhụa giữa 2 băng đối diện, và 2 người còn lại cũng
nằm co quắp trên 2 băng ngồi. Nếu nhìn toàn cảnh của toa xe sẽ thấy,
băng ngồi đầy người nằm, những
chiếc võng bé xíu che kín trên đầu băng, cả lối đi vốn dĩ đã nhỏ hẹp
cũng đầy người nằm chen lẫn trong đống hành lý thật hổn độn. Những bà vợ
thăm chồng, mang theo hằng trăm kí lô, biết bao là nhọc nhằn gian khổ!
Giả thử, nếu những ông chồng chứng kiến những hành khách nằm cong queo
trong cái gọi là chiếc võng kia, hay co quắp giữa những gói quà đầy ấp
tình thương trên sàn xe nhớp nhúa đó, là những bà vợ của mình, liệu có
cầm được nước mắt không? Nghe nói lại, nghe thuật lại, ông chồng nào
cũng
đớn đau thương cảm cho tình cảnh những bà vợ quanh năm gánh gạo
nuôi chồng! Nhưng không có đớn đau thương cảm nào có thể đem cân bằng
nỗi đớn đau thương cảm của những bà vợ trọn tình vẹn nghĩa như vậy được
cả!
Tôi hình dung những bà vợ chúng ta qua hình ảnh trên đây mà chính
tôi trông thấy khi tôi ra trại tập trung cùng với 90 “bạn đồng tù”, từ
Nam Định về Sài Gòn bằng xe lửa đúng 72 tiếng đồng hồ hồi tháng 9 năm
1987.
Trên đây là một cố gắng dựng lại hình ảnh “Những Bà Vợ Chúng Ta”,
nếu không hoàn chỉnh thì ít ra cũng là những nét chính của hình ảnh ấy,
qua sự kết nối bốn hợp phần sau đây:
Hai hợp phần trong chiến tranh, là những bà vợ mà chồng đã hy sinh, và những bà vợ mà chồng đang chiến đấu.
Hai hợp phần sau chiến tranh, là những bà vợ cùng chồng con di tản
ngoại quốc, và những bà vợ ở lại Việt Nam, vừa nuôi con trong một xã hội
đầy hận thù và kỳ thị, vừa nuôi chồng trong những trại tập trung nghiệt
ngã!
Những cảnh đời bi thương, những khổ đau sầu muộn, những nước mắt,
mồ hôi, được khơi lên từ những góc cạnh li ti trong hằng vạn hằng vạn
cảnh đời như vậy, mà Những Bà Vợ Chúng Ta đã chịu đựng trong những năm
dài thật dài!
Quyển Chân Trời Dâu Bể của Giao Chỉ, kể chuyện trên đất Mỹ, và
quyển Giữa Dòng Nghịch Lũ của Duy Năng, kể chuyện trên quê hương Việt
Nam. Hai tác phẩm này trong một mức độ nào đó, có thể xem là tiêu biểu
cho rất nhiều tác phẩm dưới dạng chuyện kể thật bình thường, nhưng ôm ấp
biết bao xót xa thương cảm cho thân phận người phụ nữ Việt Nam sau ngày
thua trận, dù sống trong hai xã hội cách nhau nửa vòng trái đất. Với
tác phẩm của Duy Năng, người kể chuyện là bà Hàng Phụng Hà. Bà là một
trong số hằng trăm ngàn bà vợ thăm nuôi chồng trong tù. Ở phần kết, bà
nói:
“… Các anh trong tù, khổ về vật chất và đau về tinh thần đến vạn
lần, điều đó chúng tôi biết. Nhưng, chúng tôi -những bà vợ của các anh-
đau khổ gấp ngàn cái vạn lần của các anh nữa, các anh có biết không? Tôi
không đề cao một bà vợ nào, mà tôi đề cao tất cả những bà vợ thăm nuôi
chồng trong các trại tù cải tạo. Bởi vì: Họ, đã đứng vững trong phẩm giá
Người Vợ Miền Nam. Họ, rất xứng đáng được các anh kính trọng. Và Họ,
chính là Vợ của các Anh”.
Vì vậy mà một số bạn đồng tù chúng tôi trong trại tập trung, đã
không quá lời khi nói với nhau rằng: “Ra tù, chúng ta phải cõng vợ chúng
ta đi vòng quanh trái đất, để đền bù đôi chút về sức chịu đựng biết bao
nhọc nhằn gian khổ đã nuôi các con và nuôi chúng mình.
Bây giờ nhìn lại, trong một ý nghĩa nào đó, những cựu tù nhân chính
trị chúng ta, đã cõng vợ đi được nửa vòng trái đất rồi. Đến ngày Việt
Nam thật sự tự do dân chủ, chúng ta sẽ cõng vợ trở về quê hương là trọn
vòng trái đất như đã tự hứa, phải không quý vị?
Với nét chân dung đó, tôi quả quyết rằng, Những Bà Vợ Chúng Ta rất
xứng đáng được vinh danh. Và nếu quý đồng đội và quý vị đồng hương đồng ý
với tôi, chúng ta cùng nói to lên rằng:
“Chúng ta cùng vinh danh Những Bà Vợ Chúng Ta là những người đàn bà
cao cả, rất xứng đáng được kính trọng. Bởi, trong hoàn cảnh nghiệt ngã
của chế độ độc tài cộng sản, nhưng đã đứng vững trong phẩm giá Người Vợ
Miền Nam, cùng lúc, chu toàn thiên chức làm Mẹ, và tròn bổn phận làm
Con”.
Vinh danh bằng những tiếng nói
ân tình bên tai vợ, trao tặng vợ một bông hồng thật đẹp, hôn vợ những nụ
hôn thật dài. Điều đó luôn nhắc nhở người chồng trong cuộc sống thường
ngày, phải thể hiện lòng hiểu biết vợ mình nhiều hơn, cảm thông vợ mình
nhiều hơn, rồi quàng tay vào lưng vợ mình chặt hơn, để cùng nhau đi suốt
chiều dài còn lại trong cuộc sống lứa đôi thật mặn nồng, như chưa bao
giờ mặn nồng đến như vậy. Trường hợp vì lý do gì đó mà bạn đang sống một
mình, xin bạn hãy gắn bông hồng màu đỏ lên nơi nào mà khi nằm nghỉ bạn
đều trông thấy, để trao tặng vợ khi đoàn tụ bên nhau. Hoặc sự trông thấy
đó, sẽ giúp bạn có được những giây phút sống lại những năm tháng mặn
nồng trong tình yêu vợ chồng thuở chung chăn
chung gối, thuở mà hai người dùng chung một tên./.
Phạm Bá Hoa
No comments:
Post a Comment