“ Câu chuyện bắt đầu vào một buổi sáng: Thứ tư ngày 27-03-1968 tại
Không Đoàn 62 Nha Trang. Trung uý phi công Trần duy Nguyện, hoa tiêu
PĐ524/KĐ62, ba mươi hai tuổi, cao một mét sáu chín, nặng 72 ký. Chiếc
L19 mang số AP112584 danh hiệu Liver 02 .Phi vụ liên lạc hành quân Nha
Trang- Pleiku. Trung úy Nguyện lái chiếc L19 đó. Anh cất cánh rời phi
đạo 30 hồi 07 giờ 50 phút. Khoảng nửa tiếng sau thì chiếc Liver 02 ngộ
nạn.
Nguyện bay tới giữa vùng Khánh Dương – Dục Mỹ thì thấy trời xấu. Mây
trắng đặc đầy và sương mù kín phủ bốn phía núi non. Anh làm vòng ngược
quay về, nhưng động cơ bung tiếng nổ khác thường rồi ngưng tắt. Nguyện
biết lâm nguy. Nhưng anh vẫn đủ bình tĩnh kiểm lại một lần máy móc và
làm các động tác khẩn cấp cho trường hợp hạ cánh bắt buộc. Anh không
liên lạc được với Phi Vân bằng vô tuyến. Lúc ấy chiếc Liver 02 đang ở
trên ngàn rưỡi bộ và Nguyện nhận ra khúc đường đèo M’Drak chênh vênh
sườn núi mịt mù sương. Anh cho tầu lao xuống đèo. Rơi như hòn đá. Rơi
như một khối vẩn thạch từ cõi thinh không giáng xuống. Thật nhanh, thật
kinh hồn và Nguyện chưa xong thảng thốt, anh nghe tiếng đâm xầm dữ dội
của khối sắt nặng ngàn cân cộng với trọng lượng thân thể mình khi đụng
ngọn cây rừng. Toàn thân anh rung động như nhận chịu một cơn trời xập.
Rồi không biết không hay gì nữa trong cõi hôn mê mịt mùng lãng đãng bắt
đầu một cuộc phiêu lưu định mệnh…
Nguyện còn sống nhưng bị gãy cánh trên tay trái và thân thể anh bầm
dập đau đớn thảm thương. Những đêm, những ngày, gần một trăm tiếng đồng
hồ kiệt cùng sức lực, đói lạnh gian nan bò lết lần tìm về miền đất sống
trong khi tử thần cao ngạo bao lần vung lưỡi hái nhưng không giết anh
ngay. Mà thong thả vờn đùa cắt cứa thân anh từng mảnh thịt da quý báu
Cuối cùng với lòng can đảm tuyệt vời, với sức chịu đựng siêu nhiên,
với ý chí quyết sống mãnh liệt, Nguyện đã thoát vòng hung hiểm, trở về.
Hôm đó, chủ nhật 31 tháng 03 , ngày ăn mừng đầy tháng con trai đầu lòng
của Nguyện….”
MỘT
———–
ASOC gọi xuống Phi Đoàn báo có một L19 mất tích trên đường đi Pleiku,
yêu cầu cho các phi hành đoàn túc trực chuẩn bị việc tìm cứu. Trung trả
lời nhận rõ và tôi thấy gương mặt bạn hốt hoảng:
- Tụi bây kêu mấy đứa trực Rescue và Ground-alert sửa soạn lẹ lên. Tao qua ASOC lấy Frag và hỏi chi tiết xem đứa nào rớt.
Tôi nhảy hai bước níu lấy vai Trung
- Không biết đứa nào mà sui quá vậy?…
Trung không nói gì và tôi hỏi xong mới nghĩ Trung có biết gì hơn tôi
đâu mà nói? Tôi thấy Nam từ phòng Hành quân đi ra, tay cầm tấm bản đồ:
-A hay quá, các cậu vào đây. Peacock vừa báo về cho bên này biết ông
Trung úy Nguyện đến giờ này vẫn không thấy đáp Pleiku, chắc rớt dọc
đường…Các cậu vào lấy chi tiết rồi làm ơn nói Trung úy Bình cho an hem
tìm ngay hộ. Phía Pleiku trời xấu nhưng mình cũng rang tìm may ra hắn
còn sống và mình đem về kịp.
- Tội nghiệp…! Tôi hỏi Nam, Nguyện nào?
- Nguyện 524 đấy. Hắn qua bay L19 mấy hôm nay…
Tôi xửng sốt. “Nguyện 524 hả?” và cũng buột miệng kêu lên. “Tội
nghiệp”. Đồng thời nghe dọc theo sống lưng mình một dòng cảm xúc tái
người chạy ngược lên tủy não. Toàn thân bủn rủn. Tôi không nghe biết
những điều Trung bàn bạc với mọi người trong phòng Hành quân Không đoàn
những gì. Chỉ nghe, chỉ biết một nỗi kinh hoàng rời rã tứ chi. Tấm bản
đồ vùng Hai to lớn trên tường, những chấm xanh chấm đỏ. Những đường bút
chì mỡ khoanh tròn vạch thẳng. Rừng núi, sông ngòi, đường xá và đồng
ruộng…Tôi thấy màu biển xanh nhoẹt nhoè trước mắt. Cái tai nạn của Lê
chiêu Hiền tháng trước…
Chiếc U17 vùi sâu đáy biển trên đường từ Quy Nhơn về Nha Trang. Lần
đó chúng tôi bay vòng ngược vòng xuôi đến mấy mươi lần dọc theo triền
cát, trên vùng biển xanh, đỏ mắt trông tìm mà chỉ thấy cát trên bờ và
biển điềm nhiên đưa sóng ngu si lầm lũi lao vào ghềnh đá…Những cái chết
không tìm ra thân xác. Hoặc có tìm ra cũng chỉ là những tử thi biến
dạng, tan nát thịt xương, đen cháy cong queo. Thật tội thương cho những
người phi công dọc ngang trời rộng. Biết có một ngày hung hiểm đến mà
vẫn thản nhiên nhận chịu căn phần, vẫn chứa chan tim óc trẻ trung nỗi
nhiệt nồng yêu sống, mê luyến không gian. Không ai muốn mà cũng chẳng ai
trôngchờ bất hạnh đến cho mình. Bất hạnh thê thảm nhất là sự chết non
đến rất tình cờ. Người sống và kẻ chết đều không ngờ tới cuộc vĩnh biệt
không lời từ giã.
Bất hạnh đã đến với anh Nguyện rồi sao? Mong gì một sự trở về bình
yên trong những phi vụ phi cơ rớt nơi vùng núi cao biển sâu này? Tôi
muốn kêu lên cho thoát nỗi nghẹn ngào thương sót kết tinh thành khối
chận ngang cổ họng…Xót thương lo lắng cho anh Nguyện. Anh Nguyện dễ
thương không phải với tôi ruột thịt mà tôi đã thực tình lo lắng cho nỗi
an nguy của anh như người ruột thịt. Ai cũng có kẻ thù hay người khinh
ghét. Nhưng tôi nghĩ, người như anh Nguyện chắc không có ai khinh ghét
thù hằn, mà đều quý thương kính nể anh như tôi vậy. Bởi tính tình Nguyện
đễ thương quá đi. Anh điềm đạm, ít nói, nhưng khi nói chuyện thì vui vẻ
cởi mở, đối đãi thật tử tế đứng đắn với tất cả mọi người. Ở đời có
những hạng người tuy chưa từng trò chuyện tiếp xúc nhưng chỉ thoạt nhìn
thấy mặt là tôi ghét và đôi khi coi khinh coi thường. Nhưng cũng có
những người mới vừa trông thấy là tôi đã có cảm tình , sinh lòng quý mến
và coi như thân thiết lắm. Anh Nguyện là lớp người thứ hai và cái nhận
xét chủ quan của tôi chưa bao giờ lầm.
Tôi không ở cùng phi đoàn với Nguyện nên không gặp anh thường và được
biết nhiều về anh. Nhưng thảng hoặc được ngồi cùng bàn trong các bữa
cơm trên Câu lạc bộ hay gặp nhau đâu đó, tôi chào anh, hỏi dăm ba câu
chuyện, anh đều vui vẻ chào hỏi lại và vui vẻ tiếp chuyện, dùng nhân
xưng “tôi” cho anh, chỉ thị đại danh “anh” với tôi, với mọi người. Nhưng
hai tiếng “Anh, Tôi” không có vẻ trịch thượng, không có vẻ nhạt nhẽo
hời hợt mà đầy ý niềm nở thân ái. Đôi khi lễ phép như anh dùng tiếng
“dạ” . Dạ phải. Dạ vâng. Dạ thưa anh nói đúng…Mà những tiếng ấy nhiều
khi làm tôi bối rối . Tôi thật tình chỉ đáng tuổi em thứ hai, thứ ba của
Nguyện. Sau này tôi dần trở nên quen với sự “lễ phép” ấy và hết bối rối
ngượng ngịu, nghĩ đó là lời xưng hô đứng đắn lễ độ của một người có căn
bản giáo huấn tốt và tính hiền tự nhiên như khuôn mặt phúc hậu thật thà
của anh. Người như thế, không thể mang một tâm địa xấu được và tôi chỉ
biết nói, anh Nguyện là một người đàng hoàng. Tôi coi anh như một người
anh gương mẫu khả trọng và điều này tôi giữ trong lòng, anh không biết
được lại có tôi quý mến anh nhường ấy.
Tin Nguyện mất tích truyền đi thật nhanh , xôi nổi một luồng xúc động
khắp Không đoàn. Người không biết anh, tôi chẳng hiểu thế nào. Riêng ở
tôi, ở những bạn bè thân quen với Nguyện, tất cả đều thật tình xúc động
lo lắng cho anh. Tôi nhìn thấy điều đó ở tôi, ở trên khuôn mặt mọi
người, ở cái không khí nhộn nhịp hăng hái chí tình quên ăn quên nghỉ
trong việc tìm kiếm tung tích chiếc phi cơ xấu số. Suốt mấy ngày trời,
dọc theo lộ trình rộng lớn trùng điệp núi rừng xuôi ngược Nha Trang –
Pleiku. Bao nhiêu là máy bay đổ vào phi vụ tìm cứu Nguyện. Trực thăng
H34, khu trục, L19, Cessna, C47, của cả Không đoàn 62 lẫn Không đoàn 33
từ Saìgòn ra và bên Trung tâm huấn luyện. Không biết bao nhiêu lần,
không biết bao nhiêu chiếc và không biết bao nhiêu người đã dồn vào việc
ấy…
Cái gì khiến nên tận tình như vậy? Bổn phận dĩ nhiên phải làm sau mỗi
tai nạn xảy ra hay là gì khác? “ Cái gì khác” đó, tôi biết, thúc đẩy
tinh thần hăng say tận tuỵ kiếm tìm anh Nguyện vượt khỏi một cuộc tìm
kiếm thông thường chính là những tình cảm đẹp đẽ và sự quý mến mọi người
dành cho anh. Thiếu tá Tư lệnh phó cũng đích thân điều động và lái trực
thăng ngày ngày tìm dấu Liver 02. Lòng thương yêu đằm thắm ấy, anh
Nguyện, anh xứng đáng được hưởng . Hơn cả tình nghĩa bạn bè. Trên cả cái
mà người ta gọi là “tình đồng đội, tình huynh đệ chi binh” . Đó là do
lòng sót thương một người anh em như thể anh em ruột thịt.
Ngày đầu chúng tôi hy vọng. ngày thứ hai hy vọng mòn nhụt dần đi sau
khi Lộc về cho biết có thấy một nơi rừng phía Bắc Khánh Dương có hai
người đốt khói đỏ, dơ vải trắng vẫy gọi trực thăng nhưng Lộc nghi ngờ
Việt Cộng lừa bắn không dám đáp vì Nguyện đi Pleiku chỉ có một mình sao
lại những hai người vẫy gọi? Tuy nhiên Lộc vẫn về báo cáo và trở lại chỗ
cũ thì không thấy chỉ ngoài rừng sậy và loang lổ vết cỏ khô ngún cháy.
Ngày thứ ba thì chúng tôi không còn ai hy vọng tìm thấy Nguyện và xác
chiếc L19 nơi đâu. Nhưng vẫn cố công tìm kiếm đến ngày01_gray thứ tư ,
thứ năm… Mọi người không một tin tưởng mong manh nào nữa. Ai cũng thương
sót Nguyện ngùi ngùi. Riêng tôi nặng thêm lòng uẩn ức. Sao không chết
những thằng bần tiện, những thằng không đáng được gọi là người, những
con bọ hung hôi thối trong đoàn thể đang làm điều nhơ nhớp nhục nhã đến
chúng tôi. Đang làm vấy bẩn, uế tạp bộ áo Không Quân danh diện của chúng
tôi, mà chết những người như Nguyện?… Ôi anh Nguyện dễ thương, anh
Nguyện hiền lành. Không biết anh còn sống hay đã thịt xương rữa nát? Tôi
cầu mong có một “phép màu” nào đó cứu mạng sống anh, và đưa anh Nguyện
của chúng tôi trở về. Đem lại ấm cúng cho gia đình anh, để anh chung
chia thống khổ với đồng bào, tham dự với chúng tôi cuộc chiến đấu đắng
cay nhọc nhằn hiện tại. Sơn bảo với tôi rằng anh vừa có con trai đầu
lòng chưa tròn tuổi thôi nôi. Tôi nghe quặn thắt trong lòng. Mối thương
tâm buốt nhức làm hoe nước mắt. Tôi tưởng tượng ra khi người vợ trẻ của
anh nhận được hung tin. Tôi nghĩ đến Quang chết cháy trong chiếc khu
trục trúng đạn và rơi khi nó giáng từng loạt bom sấm sét xuống ngay đầu
kẻ thù man mọi. Quang chết đúng một tuần sau đám cưới. Ngân đã ngất lịm
sau tiếng kêu thảng thốt xé trời. Những cơn khóc than kể lể bi thương
làm tôi mủi lòng. Chị Nguyện rồi sẽ ra sao? Cả đứa con trai đầu lòng của
anh Nguyện nữa? Tôi đâu có biết mặt vợ con anh . Tôi băn khoăn chẳng
hiểu mai này lớn lên trong trí óc sơ sinh của con trai Nguyện có mờ phai
chút nào hình ảnh gương mặt người cha rạng rỡ hoan lạc phút giây nhìn
nó mở mắt chào đời? Đứa con sinh ra thời chiến và tự sơ sinh đã mất vòng
tay chắt chiu nựng nịu của người cha. Thật là tội thương cho nó.
HAI
______
______
Ba giờ trưa ngày chủ nhật 31-03. Tôi đang nằm đọc quyển Văn, thì Cầu mở toang cửa nhảy vào phòng la chói lói:
- Anh Nguyện về rồi mày ơi! Trực thăng bên phi đoàn mày vừa đem về đây xong tức thì.
Nỗi mừng rỡ bật tung tôi dậy. Sự mừng rỡ lớn lao đột ngột quá làm tôi đứng sững. Cầu nói:
- Bác sĩ Trụ đem “thằng chả” qua Nguyễn Huệ rồi. Đụ họ…thiệt hên hết sức!
Tôi hỏi:
- Mày thấy hắn sao không?
- Mẹ, thiệt dễ sợ, trông “đíu” giống ai hết. Quần áo rách mướp đầy
bùn xình. Gãy tay, lọi giò, bầm tím cùng người nhưng coi bộ “thằng chả”
vẫn khỏe và nói chuyện tỉnh khô à.
Tôi cười, đưa tay nắn bả vai, nói:
- Thiệt mừng kể gì hả? Để hắn tĩnh dưỡng yên yên, hôm nào tao đi thăm…
Anh Nguyện được đưa vào Quân y viện Nguyễn Huệ đến đúng chủ nhật sau
tôi mới có thì giờ vào thăm anh gần trọn buổi sáng. Anh Nguyện nằm trong
phòng nhìn thấy tôi và gọi. Tôi đi thoáng qua, nhìn vào, anh nằm đấy mà
đâu nhận ra, ngờ ngợ ngó thân thể nào bó bột trắng hếu cả mình, cả cánh
tay nằm trên giường bệnh viện cho đến khi anh lên tiếng gọi và tôi mừng
rỡ. Anh mời Hảo, mời tôi ngồi trên hai chiếc ghế cạnh giường, nhờ Hảo
lấy dùm gói Pall mall, vồn vã mời chúng tôi hút thuốc. Anh cũng hút một
điếu và tự bật lửa bằng cánh tay còn lành lặn. Đó là cánh tay phải,không
bó bột. Tôi nhìn anh, quan sát từ đầu đến chân, vừa trả lời anh những
câu hỏi, vừa hỏi anh về tình trạng sức khỏe . Anh mặc có chiếc quần đùi,
đôi chân rắn chắc đầy những vết tray xướt quẹt thuốc đỏ và những vết
bầm tím chưa tan. Nguyện nói anh bị gãy cánh trên tay trái, dập một hai
đốt xương sống và cùng khắp thân thể bầm tím như nhuộm chàm, nhất là
khoảng từ lưng trở xuống mông mà tôi không thấy vì anh được bó bột. Bác
sĩ khoét một mảng trước bụng cho khỏi hấp hơi.
- Bây giờ tôi đỡ nhiều lắm rồi đó anh. Hôm mới về tôi nói ai thấy cũng hết hồn không dám ngó.
Tôi cũng nghĩ là bây giờ anh đã đỡ nhiều lắm và thấy anh như không
xụt cân, vẫn rắn chắc đẫy đà nhưng da mặt thì xanh mướt. Nguyện nói
chuyện nhiều, cười nhiều. Giọng nói và nụ cười của anh vẫn ròn rã cởi mở
nhưng dường như chứa đựng nhiều hân hoan vui sướng vì nỗi mình thoát
nạn, nỗi bạn bè thương quý nườm nượp đến thăm mỗi ngày với quà bánh và
những lời an ủi. Anh kể suốt hơn một tiếng đồng hồ cho chúng tôi nghe về
cuộc phiêu lưu định mệnh vừa mới trải qua, hãi hùng tưởng như mơ mà có
thật. Anh kể cho chúng tôi nghe rõ ràng mạch lạc cả từng điều nhỏ mọn
trong cuộc vật nhau với tử thần dài chín mươi chín tiếng và cuối cùng
anh thắng vinh quang đem sinh mạng trở về vùng đất sống.
BA
——–
Nguyện tỉnh dậy sau cơn hôn mê dài lãng đãng phiêu diêu hồn phách.
Tỉnh dậy bàng hoàng như vừa qua một giấc mơ êm đềm mê mẩn chẳng hề tri
giác một phân đau trên cơ thể. Tỉnh dậy và nghe đầu tiên là tiếng chim
kêu và thấy đầu tiên là vùng sáng tối ảo mờ chốn rừng hoang tịch mịch.
Một giây bỡ ngỡ rồi anh hồi tưởng được ngay…. Bắt đầu từ lúc chiếc Liver
02 lúng túng trở xoay trong biển mây mù rồi đột nhiên ngưng tắt. Rồi
mang cả phi công vùn vụt lao xuống rừng cây bên phải con đường đèo
M’Drak. Màu xanh, tiếng kinh hồn trời xập. Màu đỏ, hào quang chói
lói….Bàn tay nào phũ phàng dìm tôi xuống, nâng tôi lên, nhẹ hẫng, bềnh
bồng và tôi không biết không hay gì nữa…
Bây giờ thì Nguyện biết mình vừa hồi tỉnh sau cơn lịm ngất dài. Chiếc
đồng hồ tay còn chạy 11giờ 30. Lúc máy bay rơi tám rưỡi. Nguyện nghe ê
ẩm váng vất. Anh cựa mình,. Cổ anh như gãy, sống lưng anh như gãy. Cánh
tay trái đau dội lên làm Nguyện cứng người cắn răng mà chịu. Đầu anh
cũng nghe ê ẩm và như có tảng máu khô bết nặng. Anh nhắm mắt thở, trán
vã mồ hôi. Nguyện thử nhấc cánh tay và anh phát giác nó đã lọi, gãy lìa
ống xương cánh trên. Không có máu thấm ra vải áo phi hành nhưng Nguyện
nghe rõ các mảnh xương gãy bên trong như dằm củi nhọn, như vụn thủy tinh
đâm xối vào thớ thịt khiến Nguyện đau buốt choáng người muốn trào nước
mắt.
Nguyện thấy mình không hẳn ở trong mà cũng không hẳn ở ngoài phòng
lái. Sợi dây an toàn vẫn giữ anh liền ghế phi cơ nhưng nửa thân trên
nghiêng lọt ra ngoài. Cánh cửa bật tung đâu mất, kính tàu vỡ vụn. Chiếc
máy bay của anh. Nó không còn hình thù của chiếc phi cơ nữa. Cánh quạt,
đầu máy và khung phòng lái cong queo biến dạng như có bàn tay mạnh mẽ vô
cùng nào xoắn vặn. Nguyện rùng mình khi nhìn xuống nền đất dốc nghiêng.
Mảnh helmet tan tành vung vãi cùng những mảnh kim khí vụn nát của thân
tàu. Ôi nếu đầu anh không có chiếc nón bay che chở?…Xác thân anh là thịt
xương trăm ngàn lần mềm hơn sắt thép. Anh sống sót thật kỳ diệu.
Nguyện nhớ nơi mình rơi xuống bên phải con đường đèo M’Drak. Con
đường rắn lượn hình cung và anh có thể theo hướng 180, 200, 250, 279,
…mà đi là ra mặt lộ. Yên vắng trong khu rừng u tịch vây bủa tứ bề.
Nguyện nhìn những chiếc kim, những con số , những vạch đỏ xanh vàng trên
các mặt đồng hồ phi cụ. Tất cả đều im lìm bất động khiến Nguyện mung
lung bối rối. Phải chui ra khỏi chiếc L19 xấu số và tìm kiếm đường về.
Qua giây lát suy nghĩ. Nguyện nghiến nát cơn đau đớn giữa hai hàm răng,
dùng bàn tay phải hì hục toát đẫm mồ hôi gắng sức bẻ cho bằng được chiếc
la bàn cầu du chuyển đã gãy rời ba con ốc vặn. Có đến gần nửa tiếng sau
Nguyện mới xong công việc gỡ lấy chiếc la bàn. Mệt muốn đứt hơi, anh
ngồi rũ người thở dốc…
Nguyện ra khỏi phòng lái bằng cách trườn mình cho người rơi xuống
đất. Cánh tay phải với bàn tay nắm giữ chiếc la bàn không đủ sức chống
đỡ và Nguyện phũ phàng rơi xuống như tấm rẻ rách. Anh bật lên tiếng thét
đau đớn xé trời, nghiến răng ràn rụa nước mắt nằm phủ phục mà chịu nỗi
đau đớn tái tê đến tận nguồn thần kinh cảm giác. Nguyện mệt lả, đau nhức
khốn cùng và anh không dám chống tay ngồi dậy bởi anh biết mình không
đủ sức ngồi dậy. Không dám cử động mạnh nữa. Đau đớn nhức buốt ở từng
khớp xương, ở từng thớ thịt. Nguyện xoay người nằm ngửa trên triền dốc,
anh thử co duỗi đôi chân. Chân anh không gãy nhưng cả hai đều bị trật
khớp ở cổ chân. Anh thử cựa mình, thứ đau đớn nào nhọn hoắt nhói lên nơi
xương sống ngang thắt lưng. Nguyện lại nằm yên đưa đôi mắt nhìn cảnh
vật.
Cây rừng bay cao ngó xuống thì tủn mủn rong rêu, nhưng ở dưới lại là
đại thụ cao to lá tàn rậm rạp. Lá như khối đặc âm u che khuất nắng trời.
Nguyện đếm được tất cả ba ngọn cây cao bị phi cơ anh chém. gục. Chiếc
phi cơ thì đuôi cánh gãy gập, dúm dó chúi đầu nằm thê thảm giữa các mảnh
kim khí vỡ văng vãi tùm lum. Bốn trái Rocket chưa nổ nằm ù lì lăn lóc
dưới cánh tàu gãy cụp. Một giọt nắng xuyên qua kẽ lá xoi thẳng vào mắt
Nguyện, anh thiêm thiếp muốn ngủ…
Nhưng vừa chợp mắt thì Nguyện nghe văng vẳng tiếng máy bay ầm ĩ. Anh
choàng tỉnh, lắng tai và tim đập mạnh. Tiếng động cơ ròn rã quen thuộc
đến gần. Tiếng trực thăng! Không phải một mà những hai chiếc H34 song
song ồ ạt bay ngang, thật thấp và ngay trên đầu Nguyện. Bóng hai chiếc
phi cơ loáng thoáng trên vùng lá biếc và Nguyện rộn rã cơn xúc động bồi
hồi…Anh biết họ đi tìm mình và nôn nao mừng rỡ. Nguyện muốn bật tung
người dậy hò hét vãy gọi bạn bè anh trên đó biết anh ngộ nạn chỗ này
xuống cứu. Nhưng anh không vùng dậy được , không làm gì được mà chỉ nằm
yên nghẹn ngào trông lên bóng hai chiếc trực thăng bay thật gần, thật
thấp trên vùng cây lá um tùm…
Anh nghe rõ tiếng cánh quạt chém gió phành phạch, tiếng máy nổ ầm ĩ
vụt qua…cho đến khi trở lại ầm ì rồi tắt, vậy mà Nguyện vẫn ngẩn ngơ
văng vẳng bên tai những lời mời gọi, hối thúc anh trỗi dậy. Bạn bè đang
đi tìm kiếm anh, họ sẽ trở lại nhiều lần nhưng chắc chắn không ai thấy
bởi cây cao lá rậm và Nguyện không có cách nào báo hiệu. Anh chẳng mang
theo một dụng cụ trang bị cấp cứu cá nhân nào kể cả con dao, khẩu súng.
Giá bây giờ có một viên đạn hỏa châu nhỏ bé hay một trái khói màu?…Tại
tôi coi thường không đem theo những thứ người ta cấp phát. Tôi đã còn
sống sau tai nạn, rồi nếu có chết thê thảm, chốn rừng hoang này chính là
tự tay tôi hủy diệt mạng sống mình.
Nguyện nằm ôm mối uẩn ức giận trách mình. Anh bỏ chiếc la bàn xuống
đất, đưa tay nắn túi áo bay và móc ra được chiếc bật lửa. Anh loay hoay
gắng gượng chịu đựng đau đớn bám lấy thành tàu đu người dựa vào mặt
chiếc phi cơ, với tay mở nắp bình xăng. Mùi nhiên liệu thân quen nực
nồng khứu giác. Nguyện tính đốt tàu gây đám cháy làm hiệu cho phi cơ bạn
trông thấy nhưng anh thất vọng.
Bật bốn năm lần không nhen chút lửa thì chiếc hộp quẹt hết đá. Nguyện
nhét bật lửa vào túi áo. Lúc đó anh mới giật mình hoảng sợ nghĩ đến
điều nếu đốt tàu , bình xăng nổ, cháy tràn lan, anh không thể nào chạy
thoát và sẽ bị thiêu sống. Nguyện thở phào, đưa mắt tìm kiếm trong
tàu…Anh thấy dưới gầm ghế hoa tiêu có một gói dù và một trái khói màu
còn nguyên vẹn. Anh xúc động, lẩy bẩy rướn người nhoài tới. Cánh tay
trái anh gãy lặc lìa như cành cây chỉ còn dính với thân bằng lượt vỏ,
đong đưa trước gió. Nguyện chỉ còn cánh tay phải để xử dụng cho việc
nặng nhọc lung túng xoay vần, kéo đẩy chiếc dù và trái khói màu rơi
xuống đất. Đau đớn dội lên nhưng Nguyện mím môi cưỡng chống, nằm ôm lấy
gói dù mà thở. Lúc này ruột gan anh mới cồn cào vì đói…Buổi sáng Nguyện
vào phi đoàn sớm. Trước khi đi bay anh ghé vào câu lạc bộ Phi Hổ mua
khúc bánh mì jambon 25 đồng bạc, để trên giá đựng bản đồ tính nhẩn nha
vừa bay vừa ăn sáng nhưng chưa kịp cắn miếng nào thì tai nạn xảy ra,
khúc bánh mì đã bay đâu mất.
Cơn đói làm Nguyện cồn cào gan ruột , bải hoải toàn thân. Anh nghe
đầu nặng, mắt hoa, bắp thịt rung chuyển, người nóng bừng bừng như lên
cơn sốt, đầu óc váng vất khó chịu. Chất chua từ dạ dày đưa lên miệng
khiến Nguyện buồn nôn. Đói và khát nữa. Lưỡi anh tê đắng và cổ họng, môi
khô. Nguyện nằm áp má thiêm thiếp trên gói dù đưa mắt lờ đờ nhìn xuống
triền dốc…Đói khát, mệt mỏi, đau đớn khiến Nguyện tưởng chừng kiệt cùng
hơi sức không sao gượng nhích được. Nhưng Nguyện đã nhích gượng. Hơn thế
nữa, anh nhổm dậy, nghiêng người chống khuỷu tay bò như con thằn lằn bị
dập nát hai chân sau. Bằng cách dùng cánh tay phải làm điểm tựa, nhón
đội mũi giày đẩy cả thân hình đồ sộ kéo cánh tay gãy, lết từng phân một
xuống con dốc ngắn. Bởi ở dưới đó có một khe nhỏ mà Nguyện thì khát khô
môi họng. Đá dăm đâm qua làn vải áo nát cánh tay anh. Khoảng cách đến
khe nước bùn không hơn bốn mét, vậy mà có đến nửa giờ mới lết tới được.
Anh hảo hển gối má nằm nghiêng trên những hòn đá nhọn của bờ vũng, ghé
miệng tham lam cuồng dại mà uống, mà thở. Nước bùn ngầu đục tanh tưởi
rong rêu mùn lá nhưng anh bất kể. Nguyện mê mẩn uống, say sưa uống từng
dòng mát lạnh vỗ về cổ họng khô khan, tưới mát ruột gan bỏng cháy, nghe
sảng khoái lâng lâng. Anh lăn người vào trong vũng nước tận hưởng cơn
mát mẻ dễ chịu thấm qua làn vải áo phi hành. Rồi như trẻ con no sữa.
Nguyện nhắm mắt lại, anh thiếp đi hay ngủ cũng không biết nữa.
Nguyện tỉnh dậy lúc xế trưa. Anh vẫn sũng người trong bùn ngầu đục.
Đồng hồ tay anh chỉ 3 giờ 10 phút. Lại có tiếng máy bay ầm ĩ trên vùng
cây cao vợi. Nằm chỗ này. Nguyện thấy được một mảng trời xanh dị dạng
giữa khoảng lá thưa gió thổi chập chờn. Có một giải mây trắng nõn lững
thững bay…Ôi cánh mây giang hồ mỏng manh kia sáng nay có góp phần trong
khối mây mù mịt bưng bít mắt anh, cản lối phi trình và làm anh ra nỗi
hoạn nạn thế này không? Tiếng máy bay ù ù một điệu từ trên không đồng
vọng. Nguyện thấy một chiếc L19 buồn hiu lủi thủi bay ngang mảnh trời
xanh có giải mây trắng nõn ấy. Một lát sau lại thêm hai chiếc trực thăng
song hàng rầm rộ lướt qua. Anh thấy rõ những cái bụng thon dài đậm nét
trên nền trời xanh lơ, những con số màu vàng và lồng kính phi cơ chói
loé ánh mặt trời phản chiếu. Nguyện cảm động nghĩ đến bạn bè đang nôn nả
kiếm tìm mình. Nhớ tới trái khói màu. Nguyện lẩy bẩy chống tay rời khe
nước bò lên. Không mang thương tích chỉ cần vài bước nhảy là tới, nhưng
lúc này Nguyện chỉ nhích người bò lết được vài phân mét lại nằm nhăn nhó
vì đau đớn, hồi lâu mới ngóc đầu tiếp tục bò thêm vài phân mét nữa.
Khoảng cách thật gần nhưng thời gian bò lết dài quá đỗi. Trong khi đó
thỉnh thoảng anh lại nghe, lại thấy những chiếc phi cơ tìm cứu bay ngược
suôi trên đầu. Chúng làm anh nôn nao cuống quíu. Nguyện với được trái
khói màu, anh chờ đợi tiếng máy bay, ghé răng giựt chốt an toàn, quơ tay
thảy xuống triền dốc….
Trái khói vừa lăn vừa cuồn cuộn tuôn màu xanh đậm. Nguyện nằm chong
mắt nhìn và ngửi mùi khét tràn không khí. Gió từ trên lùa xuống, khiến
khói không vươn lên được, mà rạp mình bò sát mặt đất. Gió làm nhiễu loạn
dặt dìu đám khói, loãng nhạt dần màu xanh đậm và cuối cùng chỉ còn
những sợi mỏng tanh uốn éo tan biến trong không khí. Hy vọng của Nguyện
cũng lụn tàn, nghĩ nếu trời im gió khói xanh có bốc lên cao, phi cơ cũng
khó mà thấy được bởi màu xanh của khói tiệp với màu xanh của rừng. Anh
thở dài chua xót…Bạn bè tôi đôn đáo từ sáng đến giờ tìm tôi nhiều quá.
Mà tôi thì mỗi lần tỉnh dậy nghe tiếng động cơ rền rĩ kiếm gọi, muốn làm
hiệu đáp lời, muốn hét to như sấm sét bảo với họ rằng tôi đang bồn chồn
cuống cuồng chờ đợi ở đây, nhưng tôi không làm chi được. Tôi mang
thương tích thảm thê, tôi đã kiệt cùng sức lực…
Nguyện đâm sợ hãi những tiếng ầm ĩ rền rĩ của máy bay, nghe như lời
nghiêm khắc mỉa mai trách mắng làm anh uất nghẹn. Nỗi ăn năn dằn vặt khi
nghe tiếng động cơ trên cao vọng xuống làm anh hoang mang bực tức.
Nguyện muốn bưng tai nhắm mắt ngủ vùi, thiếp đi hay chết để khỏi chịu
đựng đau đớn khổ sở trên thân và cả trong lòng. Anh chỉ còn mong manh hy
vọng ở đây bên xác chiếc L19 may ra tới chiều bạn bè sẽ thấy và xuống
cứu.
Cho tới bảy giờ chiều, suốt ba bốn tiếng nằm chờ, Nguyện nghe tiếng
và trông thấy đủ loại máy bay qua lại nhiều lần. Trực thăng, L19, U 17,
C47, và cả HU1 của Mỹ nữa. Khi nắng chiều chỉ còn thoi thóp và tăm tối
dần nhuộm đen khu rừng. Nguyện không thấy bóng một chiếc phi cơ nào nữa.
Quanh anh chỉ có một bầu tịch mịch im vắng hãi hùng như cõi chết. Đêm
đã xuống hoàn toàn nhưng đêm có trăng và đêm có sao cho Nguyện chút ánh
sáng mờ đủ nhận ra cảnh vật, đủ cho anh nhận ra một phiến đá rộng phẳng
phiu nằm phơi lưng dưới ánh trăng cách chỗ anh đang ngồi chừng 15, 20
thước, không có bóng cây che. Nguyện đã ngồi dậy được nhưng di chuyển
thì phải bò bằng vai và dùng gót giày đẩy thân mình nhích tới. Suốt một
đêm dài, anh hì hục bò, kéo theo bọc dù tới phiến đá. Chiếc dù trở nên
nặng vô cùng. Khoảng cách không đầy hai chục mét đối với Nguyện thật là
dài. Suốt đêm mệt lả, ngủ thiếp và ngất đi không biết bao nhiêu lần mà
đếm. Khi giật mình tỉnh dậy anh lại tiếp tục bò trên đường gồ ghề sỏi
đá, chằng chịt giây leo, lồi lõm hiểm trở để vần bọc dù tới nơi phiến đá
lộ thiên.
chiếc la bàn cầu du chuyển Nguyện làm rơi xuống triền dốc, nằm trong
đám cỏ dưới một hố nông chỉ nửa sải tay là với tới nhưng anh loay hoay
mãi cũng không lấy được. Nguyện đành bỏ và tiếp tục kéo chiếc dù tới
sáng, Chung quanh phiến đá là những cỏ tranh đã cháy tro tan dầy tung
lên làm Nguyện ho sặc sụa. Đến sáng thì Nguyện đã ôm bọc dù nằm trên
phiến đá, chân tay quần áo đen đúa tro than bùn đất và bộ đồ bay màu cam
trở thành màu gì bẩn thỉu, rách tả tơi. Nguyện đã đem được gói dù tới
phiến đá, đã mở được bọc ngoài nhưng anh xoay trở mãi vẫn không thể nào
trải nổi. Cái dù quá rộng, phiến đá thì không bằng phẳng và cao…
Ngày thứ hai, bình minh trong khu rừng còn đẫm sương đêm và có lời
chim hót. Sáu giờ ba mươi. Nguyện bỏ chiếc dù, bắt đầu khởi hành ra phía
bìa rừng không có cây cao chỉ toàn cỏ tranh vượt đầu người cùng những
cây thấp. Bữa điểm tâm của anh là những ngụm nước đầy rong rêu và những
con sâu nhỏ mà anh bẻ nắp bật lửa múc nước từ vũng đọng trên phiến đá.
Về trưa ánh nắng càng gay gắt thiêu đốt Nguyện hừng hực. Chiếc áo bay
bốc hơi hôi nồng, khô cứng. Đói và khát vô cùng. Cổ họng, môi anh khô
bỏng nhưng Nguyện vẫn nhủi đầu dùng bàn tay khỏe mạnh gạt những bụi cây
nhỏ đan chằng chịt trườn bò từng tấc…Qua vùng lau bụi, qua chỗ bằng
phẳng, qua triền đất dốc đá núi gồ ghề sắc cạnh, tới nơi có bóng cây râm
mát trốn chạy nắng như đổ lửa. Nguyện thấy một vũng bùn mà anh tưởng
như gặp dòng suối mát, hổn hển bò tới vục mặt tham lam mút từng chút
nước đen tanh tưởi xác côn trùng. Anh bò đi, đói khát, lại bò trở lại
vũng nước đó mà uống đến hàng chục lần. Có lúc Nguyện thấy đủ loại cây
ăn trái mọc hoang trong rừng như soài, ổi, mít, khế…nhưng còi cọt không
hoa quả. Mà giả có quả anh cũng bất lực ngẩng cổ nhìn thèm chớ không sao
với tới một cành thấp, nói gì đến việc trèo lên mà hái?
Một lần Nguyện đã thử đứng hẳn dậy bằng hai chân để bức mấy chiếc lá
khế mà ăn, nhưng anh mới vừa thẳng người đã lao đao ngã vật,ngất đi vì
đau đớn. Ba bốn phút sau đó Nguyện mới tỉnh, đầu bê bết máu vì khi ngã
va đầu vào đá nhọn. Cánh tay gãy tòn ten bị động lại đau nhức điếng
người. Nguyện hoàn toàn cô đơn lạc lõng. Lúc này Nguyện ước ao có được
bất cứ một ai bên cạnh giúp mình. Anh cùng quẫn muốn điên loạn. Anh đã
cùng đường bi thảm. Mấy lần Nguyện bật tiếng la như người quẫn trí:
- Có ai nghe tôi không? Tiếp cứu! Tiếp cứu!…
Chỉ có tiếng vang của anh trả lời, âm thanh lồng lộng trong miền hoang vu như chế nhạo mình.
Mười giờ sáng Nguyện thấy một trực thăng H 34 bay ngang sát đầu, ngay
trên ngọn cây khế dại. Anh tràn trề hy vọng rồi lại tuyệt vọng ngay,
khi chiếc trực thăng vô tình bay thẳng.
Suốt ngày 28-03 Nguyện bò được không đầy hai trăm thước. Đêm anh nhìn
sao nhắm hướng mà bò. Buổi chiều khi hoàng hôn tắt. Nguyện gặp một hiện
tượng huyền bí mà anh không hiểu có thật hay chỉ là ảo giác? Lúc ấy
Nguyện hoàn toàn tỉnh táo. Anh bỗng nghe có tiếng đàn bà rất thanh
thoát, rõ ràng ở ngay bên cạnh , vồn vã mời Nguyện:
- Lại đây, lại quán này có nhiều món ăn ngon lắm!
Nguyện cảm như có một bàn tay mềm mại nắm bả vai anh đẩy tới và xô
mạnh khiến Nguyện ngã xấp xuống vũng nước bùn. Anh ngoan ngoãn uống, bên
tai vẫn nghe tiếng nói trong thanh đó mời mọc rồi lơ mơ thiếp đi một
giấc dài. Khi tỉnh dậy đã khoảng 8 giờ tối, lại nghe có tiếng đàn ông
kêu:
- Thôi đừng ăn ở quán này. Qua bên kia có đồ ăn ngon gấp ngàn lần…Anh
cứ việc ăn uống cho đã rồi tôi có đủ phương tiện đưa ra đường đón xe mà
về, đừng lo…
Rồi Nguyện được đưa vào một quán nhậu, được mời những món thơm ngon
vô cùng nhưng anh không thấy rõ mặt người đàn ông đàn bà mà chỉ nghe
tiếng nói. Đến đêm, bò một quãng lại thiếp ngủ. Trong giấc mơ màng,
Nguyện nghe nhiều tiếng người cười nói xôn xao, mơ thấy mình nằm bên
cạnh những người bà con họ hàng đủ mặt. Nhưng khi tỉnh dậy anh lại thèm
khát lạ lùng những thứ thật bình thường như một ly nước Sunroc, một ly
nước mía hoặc một chút cặn càphê sữa…Ôi khi đói khát người ta nảy sinh
những cơn thèm muốn hèn mọn làm sao.
Hai ngày trôi qua. Sáng ngày thứ ba. Nguyện thức giấc thật sớm. Đồng
hồ của anh ngưng chạy từ lúc 12 giờ 30 đêm trước. Ý niệm về thời gian
bây giờ là nhìn mặt trời. Lại qua một ngày, lại qua một đêm, gian nan
đói khát lần bò trên đất đá lởm chởm trong các bụi tre gai, những bãi
tro đầy bẩn thỉu. Đói khát đau đớn hành hạ anh khổ sở. Đêm thì lạnh,
ngày thì nóng như thiêu. Suốt bốn ngày trời anh sống toàn bằng nước bùn,
không có một miếng gì vào miệng. Có những vũng bùn chỉ sâm sấp nước,
không thể vục mặt uống được. Nguyện dùng vỏ bút nguyên tử hút từng chút.
Một lần trông thấy một cây chuối non mới mọc bị cháy lá và không có củ.
Nguyện bật rễ, phủi qua lớp than tro bám bên ngoài rồi đưa lên miệng
toan nhai nuốt nhưng anh vội nhổ ra ngay. Chất nước chát xịt và đắng
khiến Nguyện không tài nào nuốt nổi.
Lần khác Nguyện bắt gặp một con nhái nhỏ bằng ngón chân cái ngồi chễm
chệ trên một hòn đá cạnh vũng bùn. Anh mừng quýnh, không chần chờ do dự
chồm tới chụp con mồi. Nhưng Nguyện vồ hụt! Anh nằm sấp trên vũng bùn
tức tối thèm thuồng nhìn theo chú nhái tí hon nhảy vào đám cỏ. Nỗi tuyệt
vọng chán chường của Nguyện đã đến cực cùng. Ngày nào cũng thấy phi cơ
bay ngang nhưng anh không ra hiệu được. Đôi bàn chân ướt sũng làm đôi
giày cao cổ nặng chĩu. Nguyện cởi giày vứt bỏ đôi bí tất hôi thối nồng
nặc, phơi chân khô, lại xỏ giày tiếp tục bò. Suốt ngày anh không vượt
quá 200mét. Bao nhiêu nghị lực gắng gượng đến chiều thứ tư là tàn lụn
không còn chi nữa. Nguyện tin tưởng trăm phần mình gục chết ở nơi đây,
anh đau đớn trông chờ may rủi. Đêm đó Nguyện không bò nữa, anh nằn rũ
liệt nhưng trí óc sáng suốt tỉnh táo vô cùng. Ký ức nảy nở những hình
ảnh, những gương mặt thân quen, những kỷ niệm từ thủa xa xưa như cuốn
phim dài hiện lên rõ ràng đầy đủ hơn bao giờ hết. Có lúc anh mơ thấy
được ăn uống những món sơn hào hải vị chưa khi nào được nếm trong đời.
Có lúc Nguyện mơ thấy vợ con, chị em, cha mẹ…nằm ngay bên cạnh. Anh
thảng thốt choàng dậy gọi thành tiếng tên người yêu dấu…
Đêm mông lung lạnh lẽo chỉ có tiếng thầm thì âm u của gió và tiếng
côn trùng rỉ rả. Nguyện không sợ đêm đen. Anh không sợ rắn rếtL-19Olive
thú dữ , không sợ gặp Việt Cộng. Anh không nghĩ đến những điều đe dọa có
thể đến với mình mà chỉ băn khoăn làm sao thoát nơi đất chết này trở
về. Nguyện không muốn chết. Anh hình dung ra nụ cười trẻ thơ của đứa con
trai đầu lòng bụ bẫm ngày mai vừa tròn thôi nôi…Vợ anh, con anh! Ôi mái
gia đình ấm êm hạnh phúc cần có anh hiện diện. Tình thương thiết tha
dâng ngập khiến Nguyện rưng rưng nước mắt. Anh phải trở về. Phải gượng
gắng đến cùng tìm ra đường về xum họp với vợ con, bè bạn…
Sáng chủ nhật 31 tháng 3, ngày thứ năm của cuộc hành trình bi thảm.
Nguyện như được tưới thêm chất sống nhờ hình ảnh đứa con trai bé bỏng.
Anh dậy thật sớm với lòng hăm hở quyết định sống còn lần chót. Hoặc anh
trở về, hoặc anh gãy gục cuộc đời trong ngày hôm nay. Bao nhiêu sức lực
đã cùng kiệt, tình thương thắm thiết cho đứa con trai đã tưới bùng ngọn
lửa nhiệt thành yêu sống trong anh lần cuối. Anh khởi hành từ mờ đất, bò
lết đến 10 giờ sáng thì Nguyện nghe có tiếng xe chạy!
Ôi thật mừng kể gì…Tiếng xe hơi có vẻ gần lắm và Nguyện bồi hồi cảm
động. Chừng tiếng rưỡi sau. Nguyện mới thấy quốc lộ phơi mình dưới nắng.
Anh đầm đìa nước mắt tủi mừng. Suốt mấy ngày trời gian nan khổ nhọc bây
giờ Nguyện mới thật sự khóc dàn dụa. Anh lết được tới bờ đường. với tay
xoa vuốt mặt nhựa nóng hầm hập mà lòng chứa chan mừng tủi. Nhưng lúc đó
không có một chiếc xe nào chạy ngang. Nguyện thấy chiếc L19 mang dấu
hiệu Không Quân Mỹ chao liệng trên khúc đường đèo cách nơi anh nằm chừng
500 mét, rồi thêm hai chiếc Huey loại Gunship xuất hiện. Những chiếc
trực thăng hung hãn chúi đầu thay phiên nhau bắn từng loạt đại liên,
rocket xuống dọc hai bên khúc đường đèo M’Drak, tiếng nổ ròn rã vang
lên. Nguyện thấy rõ những tia lửa xẹt, đất đá bụi mù tung tóe cùng những
cụm khói nhỏ rải rác bốc lên. Mới đầu Nguyện toan trườn hẳn lên mặt
đường cho phi cơ trông thấy nhưng sau khi nghe tiếng nổ, anh hoảng
sợ…Nguyện không dám nằm bên vệ đường vì sợ phi cơ bắn lầm, bèn bò ngược
lại, lăn mình nấp sau một gò đất có cỏ cao che kín…
Có đến ngoài 30 phút thấp thỏm hồi hộp lo sợ cứng người trước cái
chết oan uổng kỳ cục có thể đến với mình, khi hai chiếc trực thăng bay
đi. Nguyện mới hoàn hồn bò ra ngoài đường cái. Anh nằm phơi nắng, nhuễ
nhại mồ hôi chờ một chiếc xe qua. Nhưng xuốt hơn một tiếng đồng hồ, có
tất cả mười bốn chiếc xe hàng suôi ngược đường Khánh Dương – Dục Mỹ chạy
qua. Nguyện dơ tay vẫy, không xe nào ngừng. Tài xế chạy chậm lại. Thấy
anh họ trợn mắt nhìn kinh hãi tưởng như thấy con vật kinh khủng hay một
con quỷ đội mồ hiện lên, nhổm người ngó anh rồi hết hồn rú ga chạy
thẳng.
Nguyện chua sót nhìn lại thân thể mình. Anh cũng không thể tưởng
tượng ra anh nữa. Bộ áo bay màu cam rách nát bết đen tro bùn, mặt mũi
tóc tai chắc cũng kinh tởm lắm nên tài xế và những hành khách trên 14
chiếc xe đò mới nhìn anh sợ hãi và bỏ chạy như vậy. Nguyện đành liều bò
ra giữa đường, khi anh thấy chiếc xe hàng thứ 15 từ phía Dục Mỹ bon tới.
Chiếc xe thắng gấp giữa đường, những cái đầu nhô ra xôn xao bàn tán. Đó
là chiếc xe du lịch hiệu Renault chở hành khách mang chữ “ Hương Bình”.
Anh ngóc đầu đưa tay ra dấu…
Nguyện được người tài xế và một ông già hành khách vực lên, đặt ngồi
trên băng trước. Anh biết mình từ phút này kể như thoát nạn. Anh tài xế
có tên là Bảy. Những đàn ông đàn bà ở các băng sau ồn lên lời hỏi han,
xót xa tội nghiệp khi được anh cho biết là Phi công rớt máy bay. Những
người ở sau chuyền lên những khúc bánh mì, những chai nước và cả những
lọ dầu khuynh diệp…Nhưng Nguyện mừng quá đỗi anh không thấy đói. Ông
khách già ôm lấy anh dùng khăn ướt lau sạch những vết máu khô trên mặt
và đổ cho anh uống từng ngụm nước cam. Nguyện như đứa trẻ yếu đuối ngoan
ngoãn uống những dòng nước ngọt lịm như sữa mẹ trong bàn tay âu yếm sót
thương của người hành khách già nua. Những săn sóc nhiệt tâm ấy khiến
anh bồi hồi cảm động. Tình quân dân, tình đồng bào ruột thịt đẹp đẽ làm
anh mừng mừng tủi tủi…
Chiếc xe hàng ngừng ngay trước cửa văn phòng Quận Khánh Dương. Ông
Quận trưởng và nhân viên hành chánh Quận, Cảnh sát, Y tá, ùa ra khiêng
Nguyện vào trong phòng bệnh xá Chi y tế. Tất cả mọi người đều lăng xăng
săn sóc Nguyện. Anh được tiêm thuốc khỏe, được chích nước biển và tự tay
ông Quận pha cho anh một ly sữa nóng. Ly sữa của tình thương. Nguyện
uống và cảm thấy ngon nhất đời. Dân chúng nghe tin cũng lại thăm anh. Họ
đem tới những quả cam, những miếng cam thảo…Nguyện chỉ còn biết ứa nước
mắt thu nhận hình ảnh tất cả những gương mặt ấy để nhớ đời ân nghĩa.
Anh nhờ ông Quận trưởng điện thoại về Nha Trang. Hai giờ rưỡi trưa, trực
thăng H34 lên đón Nguyện về.
BỐN
———
Nguyện say sưa nói, chúng tôi say sưa nghe, hồi hộp, thương sót và
cảm phục sức chịu đựng, ý chí mãnh liệt cùng lòng can đảm tuyệt vời của
Nguyện. Hải thì cứ như một bà già xưa đầy lòng nhân ái, luôn miệng suýt
xoa trầm trồ chặc lưỡi lắc đầu những câu: “ …Tội nghiệp, ghê gớm đến thế
kia à, nghe anh Nguyện nói mà lạnh người dễ sợ…” Những điều kinh khủng
Hải nghĩ không gì quá đáng bởi chính từ anh Nguyện kể và trăm phần trăm
chúng tôi tin. Tin là sự thật nhưng vẫn tưởng chừng như chỉ có trong
tiểu thuyết phiêu lưu tưởng tượng mà riêng tôi chưa từng trải qua hay
nghĩ mình nếu lâm vào cảnh huống gian nan cùng khổ ấy lại có thể trở về
như cuộc trở về của Nguyện.
Biến cố ghê gớm nhất đời Nguyện và anh nói không thể nào quên. Anh
cũng không thể nào quên được cái tình nghĩa sâu xa cảm động của bè bạn
đồng đội dành cho anh. Cả những hành khách, anh Bảy tài xế chiếc xe hàng
Hương Bình, ông Quận trưởng Khánh Dương cùng tất cả nhân viên trong
quận đã tận tình săn sóc an ủi anh. Nguyện nói hoài rằng anh cảm kích vô
cùng và nhớ đời ơn nghĩa đó.
Tôi muốn kêu lên, anh Nguyện , anh xứng đáng với những điều đẹp đẽ
mọi người dành cho anh vì anh thật hoàn toàn. Anh Nguyện, dầu sao anh
cũng tai qua nạn khỏi nhờ phúc đức và lòng can đảm của anh hơn là nói
đến điều chúng tôi ơn nghĩa…
Anh đã Không bỏ anh em, không bỏ bạn bè, là điều chúng tôi mừng ghê gớm lắm.
ĐÀO VŨ ANH HÙNG
No comments:
Post a Comment