Cơn
Mưa Trở Về
Phạm
Hòa .
Đối với anh em
tình nguyện phục vụ cho Nha-Kỹ-Thuật
mà trong đó anh em nhảy tóan thuộc các Chiến Đòan của NKT đã
được đi vào huyền thọai với cái tên là Lôi-Hổ, Trong các chuyến công tác bí mật
(undergroug activities) anh em chúng tôi
luôn luôn được yểm trợ ngòai MACVSOG
ra còn có được sự giúp đỡ chính
thức từ
Không Quân ( như PĐ King Bee 219,
PĐ 229, 235, 110, 118, 530. v.v...) , hay Lực lượng Hải Quân (Hải Tuần, Hạm Đội...) của QL VNCH. Tất cả
anh em Lôi-Hổ và các chiến hữu yểm trợ Tóan đều
đã biết trước số mạng của mình sẽ ra sao
trong những chuyến ra đi không hẹn ngày
về một
khi cùng nhau xâm nhập trong bóng đêm đến bên kia bờ sông Dịch,
Túy
ngọa sa trường quân mặc tiếu
Cổ
lai chinh chiến kỷ nhân hồi...
Số mệnh đã an bài cho những chiến sĩ đã đành, nhưng ít ai
nghĩ đến số phận của thân nhân những anh
em, chiến sĩ vô-danh này khi họ đã hy
sinh vì nước và sau cơn Đại Hồng Thủy
nước mất nhà tan, người chịu cảnh tù tội, người thì hy sinh trên đường tìm tự
do, người thì sống khắc khỏai mong chờ tin người thân mà trong suốt hơn 40 năm qua không biết tìm ở đâu, hỏi ở đâu, sống trong vất
vưởng khổ đau và ngậm ngùi.
Cách đây mấy ngày thật bất ngờ và qúa bất ngờ nhận được Email của một cháu gái tên là Tâm, là con gái
lớn của King Bee Nguyễn Thanh Giang thuộc Phi Đòan Long Mã 219, Trung Úy
Giang có thời cùng sống chết với anh em Lôi-Hổ chúng tôi trong việc thả Tóan và đón Tóan
trên các con đường mòn Hồ Chí
Minh bên Lào, và Cambodia, mà làm sao ai
đã từng ở Recon Team (RT), thuộc 3 Chiến Đòan như: Chiến Đòan 1 Xung Kích (CCN) tại Đà Nẵng, Chiến
Đòan 2 XK (CCC) tại Kontum, và Chiến Đòan 3 XK (CCS) tại Ban Mê Thuật mà lại không
có ít nhiều kỷ niệm với "King
Bee Man" Nguyễn Thanh Giang ... và
trong lá thư của cháu Tâm gởi cho tôi cháu
đã không ngăn được sự xúc động và đau lòng khi biết được cái chết của thân phụ cháu khi đọc
qua thiên hồi ký : "Chuyến Bay Tử
Thần vào đồi 31 Hạ Lào " do King Bee
Bùi Tá Khánh ghi lại, đù nay đã trên 40 năm rồi, nhưng cũng như cơn mưa từ đâu bất chợt ập về làm
ngập hồn bao anh em, và gia đình người
lính bị ngã ngựa VNCH...
Tôi không biết phải nói làm sao đây, dù Đất Trời mênh mang nhưng không biết tìm đâu
ra câu trả lời, tìm đâu ra câu an ủi gia đình thân nhân Tử-Sĩ, tìm đâu ra câu nói thật lòng mình với anh
em đã hy sinh và cũng
tự hỏi lòng ta đang là ai trên xứ lạ này
...
Nếu anh em chưa từng đọc " Chuyến Bay Tử Thần ..." do
anh Khánh viết thì chắc chưa biết một trang Thiên Anh Hùng Ca của QL VNCH có gía trị muôn đời, mà trong đó có một số nhân vật đã chịu
chung số phận bi thảm trên đồi 31 Hạ Lào, nhưng may mắn thay cũng có
1 số rất ít anh em hiếm hoi này vẫn
còn sống và đang được đòan
tụ với gia đình và người thân tại Mỹ như
King Bee Trung-Uý Chung Tử Bủu, sau thời
gian dài lưu đày tại Miền Bắc xa xôi sau khi anh bị gãy cánh đại bàng bên Lào năm 1971, và
hôm nay anh Chung Tử Bửu đã là một vị Mục
Sư đáng kính tại Tiểu Bang Texas Hoa-Kỳ và nhân
đây tôi cũng xin mạn phép trích một đọan về thiên hồi ký này để người
còn sống và những thế hệ tương lai của Việt Nam mai sau hiểu thêm
một giai đọan tuy bi thương nhất của
dân tộc nhưng cũng không kém phần hùng
tráng đã ghi lại trong sử xanh nước Việt về người
chiến Sĩ Miền Nam Việt Nam tức VNCH đã kiên cường bất khuất trong công việc giữ nước và bảo vệ nước.
(Trích
đọan)
. . . Hôm nay đến phiên trực của
chúng tôi. Phi đội gồm có 2 phi cơ do anh Chung tử Bửu lead, tôi copilot và
Nguyễn văn Em là mêvô, chiếc thứ hai tôi chỉ nhớ hoa tiêu chánh là anh Yên.
Chúng tôi vào phi đoàn nhận lệnh vào lúc 8 giờ sáng rồi chia tay nhau về nhà sửa
soạn hành trang, hẹn gặp nhau lúc 10 giờ ngoài phi đạo 219.
Ðúng giờ hẹn, chúng tôi ra phi cơ
làm tiền phi, check nhớt, xăng, load những cơ phận sửa chữa dự trữ, đồ nghề và
anh em kỹ thuật 219 rồi cất cánh, trực chỉ Ðông Hà, Quảng Trị. Khoảng quá trưa
thì chúng tôi ra đến Khe Sanh. Vừa đến nơi, không màng ăn trưa vì nóng lòng muốn
cứu đồng đội nên chúng tôi quyết định phải vào ngay đồi 31 chứ không thể đợi
lâu hơn được. Trong khi anh Bửu vào trình diện với Bộ Chỉ Huy Tiền Phương SÐ Dù
để đặt kế hoạch cho chuyến bay thì tôi và mêvô Em đi check lại máy bay. Xăng vẫn
còn đầy bình trước, dư sức bay không cần phải refuel.
Một lát sau từ phòng briefing ra,
anh Bửu vắn tắt cho anh em biết về phi vụ quyết tử này. Chuyến vào chúng ta sẽ
chở theo một tiểu đội tác chến điện tử Dù cùng với 18 chiếc máy
"sensor" vào tăng phái cho căn cứ 31 dùng để phát giác đặc công địch,
chuyến ra sẽ rước phi hành đoàn anh Nguyễn thanh Giang về. 15 phút trước khi
lên vùng, pháo binh Dù sẽ bắn dọn đường mở một hành lang dọc theo quốc lộ 9, dập
vào những địa điểm được ghi nhận có phòng không địch vì tình hình lúc này rất
gây cấn, địch tập trung lên đến cấp tiểu đoàn phòng không gồm đủ loại từ 37 mm,
12ly7 và lần đầu tiên còn nghe có cả SA7 nữa. Về không trợ thì có 2 chiếc
Gunship của phi đoàn 233 do trung uý Thục bay trước mở đường.
Trước đó trong lúc briefing, anh Bửu
đã được nói chuyện trực tiếp với anh Giang từ trong đồi 31 và được biết, ngày
hôm qua khi bay vào vùng anh Giang đã dùng chiến thuật "lá vàng rơi",
từ trên cao cúp máy auto xoáy trôn ốc xuống, nhưng vì phòng không địch quá dày
đặc nên khi gần đến đất, phi cơ anh bị trúng đạn rớt xuống gãy đuôi nằm bên cạnh
vòng rào phòng thủ ngoài cùng của Lữ Ðoàn 3 Dù. Phi hành đoàn vô sự, chỉ có
copilot là Võ văn On bị xây xát nhẹ ở cổ, tất cả chạy thoát được vào trong căn
cứ Dù. Nhưng trước khi bỏ phi cơ, mêvô Trần hùng Sơn không quên vác theo cả cây
M60 trên cửa máy bay nữa. Rút kinh nghiệm, hôm nay anh Bửu bay Rase Motte sát
ngọn cây theo hướng Ðông-Tây đi vào. Trên đường bay dọc theo quốc lộ số 9 tôi
còn nhìn thấy những cột khói bốc lên nghi ngút, chứng tỏ pháo binh Dù bắn rất
chính xác và hiệu qủa. Gần đến LZ anh Bửu đổi hướng lấy cấp Ðông Nam-Tây Bắc để
đáp xuống. Vừa ló ra khỏi rặng cây, tôi đã thấy chiếc Gunship của trung uý Thục
bay vòng lại, cùng với tiếng anh la lên trong máy "Bửu coi chừng phòng
không ở hướng Tây". Từ trên phi cơ nhìn xuống, giữa màu xanh trùng điệp của
rừng cây nhiệt đới, ngọn đồi 31 đỏ quạch nổi bật với những đốm bụi đất tung lên
từng cơn vì đạn pháo kích quấy phá của cộng quân bắc Việt. Không nao núng, anh
Bửu vẫn điềm tĩnh tiếp tục đáp xuống. Khi phi cơ còn cách mặt đất độ 15 thước
thì trúng một tràng đạn phòng không, phi cơ phát hoả, bùng lên một đám khói bao
trùm cả phi cơ, mêvô Em la lên khẩn cấp trong máy "đáp xuống, đáp xuống
anh Bửu ơi, máy bay cháy". Cùng lúc anh Bửu cũng cao tiếng báo động cho
chiếc wing "Yên ơi, tao bị trúng đạn rồi, đừng xuống nữa" trong khi vẫn
bình tĩnh đáp xuống. May mắn là đạn trúng vào bình xăng phụ đã hết xăng, chỉ
còn ít hơi đốt, nên phi cơ không bắt cháy như phi cơ đại uý An ở Bù Ðốp hôm
nào. Vừa chạm đất, theo phản xạ tôi cùng anh Bửu nhanh tay tắt gió, xăng, điện
rồi nhảy ra khỏi phi cơ. Mọi người chạy ngược lên đồi về phía hàng rào phòng thủ
thứ nhất của đại đội công vụ Dù cách khoảng 100 thước. Tôi còn tiếc chiếc xách
tay quần áo nên phóng vào trong phi cơ để lấy. Một cảnh thương tâm hiện ra trước
mắt, một binh sĩ Dù bị trúng đạn ngay giữa trán, nằm ngửa chết ngay trên ghế.
Trên sàn tàu, đống máy "sensor" vẫn còn nguyên vẹn. Tôi chỉ kịp vớ lấy
cái xách tay rồi phóng chạy lên đồi theo những tiếng kêu gọi của binh sĩ Dù
"trên đây nè thiếu uý, tụi tôi bắn yểm trợ cho". Tôi lom khom chạy
trong khi tiếng đạn nổ lóc chóc trên đầu. Lên đến nơi tôi thở như bò rống.
Không quân mà hành quân dưới đất thì phải biết là mệt đến đâu. Tôi nhớ mãi hôm
đó là ngày 22 tháng 2 năm 1971.
Vừa ngồi nghỉ mệt, tôi vừa nhìn xuống
bãi tải thương nơi chiếc phi cơ đang đậu hiền lành, thì cũng vừa lúc địch điều
chỉnh tác xạ, một quả đạn đạn súng cối rơi trúng ngay tàu nổ tung, bốc cháy
khói đen mù mịt cả một góc trời. Tôi nhìn con tàu xụm xuống, lòng quặn lên. Con
tàu thân thương đó đã gần gụi với mình lâu nay, giờ thành một đống sắt vụn.
Một lát sau, theo chỉ dẫn của anh em
binh sĩ Dù, chúng tôi men theo giao thông hào lần về đến ban chỉ huy Lữ Ðoàn 3
Dù. Gặp lại phi hành đoàn anh Giang, On, Sơn anh em chúng tôi mừng rỡ thăm hỏi
rối rít. Chúng tôi được giới thiệu với các sĩ quan trong ban tham mưu Lữ Ðoàn
3. Ðầu tiên là đại tá Thọ lữ đoàn trưởng Lữ Ðoàn 3, thiếu tá Ðức trưởng ban 3,
dại uý Trụ phụ tá ban 3, đại uý Nghĩa sĩ quan liên lạc KQ, trung uý Chính sĩ
quan Không trợ Dù, thiếu uý Long phụ tá ban 2. Về phía pháo binh thì có trung
tá Châu tiểu đoàn trưởng và đại uý Thương trưởng ban 3 thuộc tiểu đoàn 3 pháo
binh Dù. Ðại tá Thọ mừng anh em "mới đến" mỗi người một điếu Havatampa
và một ly Hennessy để lấy lại tinh thần. Tôi ngạc nhiên vô cùng, đi đánh giặc,
nằm ở tuyến đầu ác liệt vậy mà mấy "ông" nhảy Dù vẫn thản nhiên hút
sì-gà Cuba và uống rượu Mỹ như máy! Quả các anh ăn chơi cũng dữ mà đánh giặc
cũng chì thật.
Buổi chiều vùng rừng núi trời tối thật
nhanh, chúng tôi dùng tạm bữa cơm dã chiến với ban tham mưu Lữ Ðoàn rồi chia
nhau ngủ ké với anh em Dù. Tôi được ngủ chung một hầm với anh Nguyễn quốc Trụ,
một sĩ quan trẻ xuất thân khóa 20 trường Võ Bị Ðà Lạt. Anh cũng là anh ruột của
trung uý Nguyễn hải Hoàn, một hoa tiêu chánh trong phi đoàn tôi. Tin tức chiến
sự mỗi ngày một căng thẳng hơn vì đối với cộng sản bắc Việt, sự hiện diện của
căn cứ 31 trên hệ thống đường mòn HCM như một lưỡi dao đâm thẳng vào yết hầu của
chúng. Vì thế cộng quân đưa thêm quân vào tạo áp lực nặng nề lên căn cứ 31 với
ý định đánh bật căn cứ này ra khỏi sinh lộ của chúng.
Hai hôm sau, vẫn không có chuyến bay
tiếp tế nào vào được vì địch quân luôn di động dàn phòng không của chúng khiến
KQVN và HK không phát huy được ưu thế của mình. Mỗi sáng, chỉ có 2 phi tuần F4
đến ném bom vài khu vực khả nghi chung quanh đồi 31 và thỉnh thoảng mới có một
đợt B52 rải thảm ì ầm xa xa vọng đến rồi mọi sự lại chìm vào rừng núi trùng điệp.
Ngược lại, quân bắc Việt tập trung bao vây, tăng cường pháo kích suốt ngày nhằm
quấy rối và làm tiêu hao lực lượng Dù.
Sáng ngày 25 tháng 2 năm 1971, chúng
tôi nhận được lệnh và khởi sự di chuyển ra các hầm cứu thương sát bãi đáp chờ đến
trưa đích thân phi đoàn với 3 chiếc H34 sẽ vào tải thương binh Dù đồng thời bốc
2 phi hành đoàn ra. Tôi và anh Bửu cùng vài thương binh Dù nấp chung với nhau
trong một hầm trú ẩn. Ðến trưa khi chúng tôi bắt đầu nghe tiếng máy nổ quen thuộc
xa xa thì cũng là lúc địch khởi đầu trận "tiền pháo" dồn dập lên đồi
31. Qua lỗ châu mai từ trong hầm cứu thương nhìn qua bên kia đồi đối diện, cách
nhau một cái yên ngựa, tôi thây rõ hai chiếc xe tăng T-54 của cộng quân tiến
lên xếp hàng ngang, cùng với quân tùng thiết dày đặc chung quanh nhắm đỉnh đồi
chúng tôi mà nhả đạn. Những tia lửa từ nòng súng phụt ra, tôi và anh Bửu thụp đầu
xuống cùng nhìn nhau như nhắc nhớ câu mà anh em trong phi đoàn thường nói với
nhau mỗi khi lên đường hành quân "Trời kêu ai nấy dạ!".
Ngòai kia, trong từng giao thông hào
binh sĩ Dù chống trả mãnh liệt, nhất là những pháo thủ pháo đội C trên căn cứ
31, với những khẩu pháo đã bị hỏng bộ máy nhắm vì pháo kích của địch, họ phải hạ
nòng đại bác để bắn trực xạ thẳng vào xe tăng địch bên kia đồi và trong những
loạt đạn đầu tiên đã hạ ngay được 2 chiếc T54. Nhưng để trả giá cho hành động
dũng cảm này nhiều binh sĩ Dù đã nằm xuống, có người nằm chết vắt trên những khẩu
pháo của họ, trong số này có cả pháo đội trưởng Nguyễn văn Ðương, người đã là
niềm hứng khởi cho một nhạc phẩm nổi tiếng sau đó. Chúng tôi vui sướng reo mừng
trong hầm bên này. Không ngờ, chỉ mỗt lúc sau 2 xe tăng khác ở phía sau tiến tới
ủi những chiếc xe cháy xuống triền đồi rồi lại hướng súng đại bác về đồi chúng
tôi mà bắn! Sau vài loạt đạn, một phi tuần 2 chiếc F4 xuất hiện nhào xuống oanh
tạc vào đội hình địch, và lại phá hủy thêm 2 xe tăng nữa. Trong tiếng bom đạn
tơi bời, tôi vẫn nghe văng vẳng tiếng máy nổ của những chiếc H34 đang vần vũ
trên cao như lo lắng cho số phận những đồng đội của mình. Cho đến khoảng 5 giờ
chiều thì địch tràn lên chiếm được đồi. Chúng lùng xục từng hầm trú ẩn kêu gọi
binh sĩ Dù ra đầu hàng. Biết không thể làm gì hơn, tôi và anh Bửu tháo bỏ súng
đạn cá nhân, chui ra khỏi hầm.
Về phía KQ, tôi, anh Bửu, On và Sơn
bị trói bằng dây điện thoại và bị dẫn giải ra bắc Việt chung với tất cả tù binh
khác. Không thấy anh Giang và Em đâu. Chúng tôi bắt đầu thăm hỏi các SQ và binh
sĩ Dù trên đường đi. Cuối cùng tôi gặp được anh Long là người ở chung trong hầm
với anh Giang khi cộng quân kêu các ra đầu hàng. Ðến lần thứ 3 các anh vẫn
không chịu ra nên chúng thảy lựu đạn chày và bắn xối xả vào hầm. Anh Long chỉ bị
thương nhẹ nên chúng bắt theo còn anh Giang vì bị thương nặng gãy cả 2 chân
không đi được nên bị chúng bỏ lại và chết ở trong hầm. Về phần mêvô Em thì bị lạc
đạn trúng bụng đổ ruột ra ngoài, khi bị bắt dẫn đi Em cứ 2 tay ôm bụng giữ lấy
ruột mà không hề được băng bó vết thương nên đi được một khoảng không chịu được
đau đớn Em gục chết ở bên đường.
Thế là 219 ghi thêm vào quân sử của
mình một thiệt hại 2 phi hành đoàn trên chiến trường Hạ Lào. Trong đó anh Giang
và Em đã vĩnh viễn ở lại trên đồi. Ngọn đồi quyết tử 31. Những người còn lại của
2 phi hành đoàn đó là Bửu, On, Khánh và Sơn thì sa vào tay địch, bị đưa đến những
bến bờ vô định, biết còn có ngày về hay không?
Viết để nhớ đến tất cả những chiến
sĩ anh hùng đã thành danh hay vô danh, vẫn còn sống hay đã hy sinh cho quê
hương đất nước. Sau 31 năm ít ra tên tuổi các anh vẫn còn được nhắc đến một lần.
Bùi
Tá Khánh
-
- - - -
Trở lại tiếp tục chuyện cháu Tâm,
con gái của Tử -Sĩ Trung Úy Nguyễn
Thanh Giang, và tôi cũng xin được chia xẻ
lá thư này với anh em Lôi-Hổ cũng như
anh em trong PĐ King Bee 219 với những gì cháu Tâm đã trải lòng mình như sau,
" Tôi tên Tâm, ở Nha Trang Việt Nam, hôm nay vô tình đọc được
bài viết này mới biết ba tôi Nguyễn Thanh Giang là pilot phi đoàn 219, không
đoàn 41, sư đoàn 1 Đà nẵng , chỉ huy là thiếu tá Nguyễn Văn Nghĩa, hơn 40 năm
qua 4 mẹ con tôi không biết chính xác ngày ba tôi mất, chỉ biết mất tích tháng
2 năm 1971, trận Hạ Lào Lam Sơn 719 đồi 31.Đọc bài chuyến bay tử thần vào đồi
31 Hạ Lào của Ông, tôi thật sự thấy khủng khiếp, vì
khi ba tôi ra đi, tôi chưa được 4 tuổi...Giờ thì tôi biết chính xác ngày ba tôi
mất là 25/2/1971, thật tội nghiệp cho ông, bị thương nặng và gãy cả 2 chân, chỉ
nghĩ đến những giây phút sắp chết của ông, đau đớn, mất máu, cô đơn trong hầm,
trên đồi 31 khói lửa bom đạn,...tôi thật sự sợ hãi và ko dám tưởng tượng nữa...nhưng
dù muộn còn hơn ko bao giờ tôi dc biết sự thật này...
Cám ơn bài viết của Ông rất nhiều, rất rất nhiều, thiệt tội nghiệp cho ba tôi! Cám ơn Ông!
Xin lỗi Ông nếu có một lúc nào đó Ông có thời gian xin email cho tôi với nhé, vì mẹ tôi cần thêm thông tin về quí vị đồng đội của ba tôi,chào Ông và chúc Ông luôn mạnh khỏe và bình an ".
Cám ơn bài viết của Ông rất nhiều, rất rất nhiều, thiệt tội nghiệp cho ba tôi! Cám ơn Ông!
Xin lỗi Ông nếu có một lúc nào đó Ông có thời gian xin email cho tôi với nhé, vì mẹ tôi cần thêm thông tin về quí vị đồng đội của ba tôi,chào Ông và chúc Ông luôn mạnh khỏe và bình an ".
- - - - -
Theo
tôi được biết hiện tại cháu Tâm đang sống tại Nha Trang gồm 3 chị em, và trong số 3 chị em thì lúc anh Giang mất cháu út chưa đầy 1 tuổi
và cháu Tâm lớn nhất gần 4 tuổi, Chị Giang đang dạy học tại Đà Nẵng và sau khi nghe tin anh Giang bị mất tích
(MIA) thì chị xin về lại nguyên quán Nha
Trang và ngày ấy chị cũng không biết nhiều về những chiến hữu của PD219.
Khi nói
chuyện với Chị Giang chị cho biết chỉ nhớ anh Phố, riêng trường hợp mất tích của
anh Giang , chị phải chờ xác nhận của
Phi Đoàn và chị cũng chỉ biết
theo dõi tin tức về Đại Tá Thọ bị bắt tại Hạ Lào trên báo chí mà
thôi .
Chị Giang đã
ráng nuôi 3 cháu 1,2, và 3 tuổi cho các cháu nên người . Riêng gia đình anh
Giang vì anh là con một và cha mẹ anh bây giờ cũng đã mất nên chẳng còn ai.
Khi được
hỏi nguyện vọng của chị và các cháu con anh Giang như thế nào, thì chi Giang cho
biết khi anh Giang hy sinh thì các cháu còn quá nhỏ và hòan tòan không biết chút nào về cha các cháu và chị có nhắn là nếu những chiến hữu trong Phi Đòan
King Bee 219 của ba cháu còn nghĩ đến tình đồng đội thì có thể
liên lạc và giúp các cháu.
Tuần qua
tôi có e-mail cho cháu Tâm để xin số điện thoại và địa chỉ và chưa nhận hồi âm
của cháu, hiện tại chị Giang không sống gần các cháu, và Hoàn cảnh thật thương
tâm của chị Giang và các cháu làm
tôi cũng rất là xúc động không ít..
Tôi cũng
đã liên lạc với anh Bùi Tá Khánh người đã viết Chuyến Bay Tử Thần vào đồi 31
và anh Khánh hứa sẽ liên lạc với cháu Tâm. Tôi cũng đã hỏi anh Chiêu, Cựu Liên Tóan Trưởng tại CCC,
Chiến Đòan 2 Xung Kích, người đã được
anh Giang Thả Tóan và đón Tóan rất
nhiều lần tại đường mòn 96 và 110 của hệ
thống đường mòn Hồ Chí Minh , mà trong
những lần đón Tóan của anh Chiêu phi cơ King Bee (H-34) do anh Giang lái, tưởng rớt nhiều lần vì bị
Ground fire (phòng không của VC), và anh
Lâm Ngọc Chiêu cho biết còn rất nhớ anh Giang lái máy bay rất giỏi nhưng
cũng rất Cao-bồi không ai bằng, nhưng
anh Giang cũng bay ride smooth (bay sát ngọn cây) cũng không thua kém ai trong
phi đòan.
Anh em đã
hy sinh cho người còn sống có được ngày nay , và đa số anh em King Bee 219 qua Mỹ tương đối
sớm, nếu ngày ấy Trung-úy Phi Công 219 Nguyễn Thanh Giang không bị gãy
cánh đại bàng bên xứ Lào xa xôi rồi sau đó không lâu tại đồi 31, cùng hy
sinh một lúc với người Đại-Úy Mũ-Đỏ tên Đương,
" Anh không chết đâu em , người anh Hùng
Mũ-Đỏ tên Đương....
Tôi vẩn thấy đêm đêm, một bông dù sáng trên đồi máu ..."
Thì biết
đâu ngày nay anh Giang cũng có mặt trên
xứ lạ này, và con cái của anh cũng được ăn
học đàng hòang và thành tài như bao con cái của anh em King Bee 219 hay
H.O khác, tôi không biết anh em PĐ Long Mã nghĩ sao, riêng chúng tôi là những
gã Lôi-Hổ còn sống sót trở về,
không dám xem gia đình anh Giang
như kẻ xa lạ hững hờ, mà
cảm thấy như còn một món nợ cho
người nằm xuống cần phải trả , như,
" missions impossible " của ngày nào phải hòan
tất !
Và hàng cây me trút lá khô trên vai tôi...
Càng nhớ thương bạn ơi ! (GBKT)
Phạm Hòa.
Toán 723 /SCT/NKT
(Mùa Tạ Ơn, Tháng 11 năm 2015).
No comments:
Post a Comment