Điện
Biên Phủ năm 1954
Miền
Nam Việt Nam và toàn cõi Đông Dương bị thất thủ vào tay Cộng Sản Bắc
Việt cuối tháng 4-1975, nhiều người đổ lỗi cho Nixon, Kissinger, cho ông
Nguyễn Văn Thiệu sai lầm làm mất miền Nam, hoặc tại Dương Văn Minh đầu
hàng giặc. Thực ra nó bắt nguồn từ những sai
lầm của Lyndon Johnson từ năm 1954 và sau này từ 1968, ông là chính
khách quan trọng đã hai lần nắm giữ vận mạng Đông Dương và ảnh hưởng tới
sự sống còn của mảnh đất này.(1)
Chiến
tranh Triều Tiên chấm dứt tháng 7-1953, Trung Cộng giúp Việt Minh nhiều
hơn trước và Mỹ cũng tăng viện trợ cho Pháp tại chiến trường miền Bắc
nhất là tại trận Điện Biên Phủ,
từ 13-3-54 tới 7-5-1954
Việt
Minh đưa gần hết các sư đoàn chính qui của họ vào trận đánh tại ĐBP
tổng cộng 63,000 người (2). Pháp tổng cộng khoảng 16,000 người. Pháp
phải đối đầu với một lực lượng đông gấp 4, 5 lần cộng với hỏa lực rất
mạnh. Sau ngày 26-3-1954, khu lòng chảo chỉ còn tiếp
tế tăng viện bằng thả dù quân lính cũng như lương thực, đạn dược. Không
quân Pháp quá yếu, toàn bộ chiến trường Đông Dương chỉ có khoàng 200
máy bay (3)
Kể
từ sau ngày 26-3 số phận của Điện Biên Phủ coi như đã được quyết định
rồi. Từ cuối tháng 3-1954, Tòa Bạch Ốc đã nghiên cứu kế hoạch cứu nguy
ĐBP bằng oanh tạc ồ ạt với khoảng gần 100 oanh tạc cơ hạng nặng B-29,
mỗi chiếc mang 9 tấn bom cùng với 400 máy bay
chiến đấu hộ tống. Kế hoạch này lấy mật danh Kên Kên do Đô đốc Arthur
Radford, Tham mưu trưởng liên quân (TMTLQ) đề nghị được Tổng thống
Eisenhower (Cộng hòa), Phó Tổng thống Nixon, Bộ trưởng ngoại giao Foster
Dulles ủng hộ, chấp thuận.
Đô
đốc Radford phác họa tình hình nguy kịch tại Điện Biên Phủ, có thể sụp
đổ bất cứ lúc nào. Dulles đồng ý hoàn toàn với Radford và nói mất
ĐBP sẽ đưa tới thảm họa, Pháp sẽ rút hết và CS sẽ chiếm toàn cõi
Đông Dương. Vòng đai phòng thủ Á châu của Mỹ bị đe dọa, nếu Đông Dương
mất Đông nam Á, Nam Dương cũng sẽ mất theo. Để tránh thảm họa Dulles kêu
gọi Quốc hội hãy yểm trợ Tổng thống để ông
có thể xử dụng Không quân Hải quân trong vùng nếu cần thiết cho quyền
lợi an ninh quốc gia. (Tổng thống có thể can thiệp không cần Quốc hội
nhưng ông sợ trách nhiệm)
Ngày
thứ bẩy 3-4-1954, tám vị đại diện Quốc hội được mời tới Bộ ngoại giao
để hội thảo bí mật với các vị đại diện Hành pháp. Phía Quốc hội gồm
Johnson, trưởng khối thiểu số Thượng viện (Texas, DC) và 7 vị chức sắc
đai diện Quốc hội khác như TNS Russell (Georgia,
DC), TNS Millikin (Colorado, CH)......
TNS Johnson đòi phải lập liên minh các nước nhất là Anh, ý kiến
đòi này được các ông Chức sắc Quốc hội khác đồng ý. Dulles đáp không thể
bảo đảm các nước khác tham dự vì chưa có chứng cớ ta đã can thiệp. Các
đại diện Lập pháp nói điều kiện tiên quyết
phải có các đồng minh tham gia.
Quốc
hội đòi hỏi lập liên minh quân sự, trong đó phải có Anh đã khiến Hành
pháp bị bó tay không thể cứu ĐBP được, yêu cầu Tổng Thống phải lập liên
minh là ý kiến của Thượng nghị sĩ Lyndon Johnson (Texas) nên người ta
coi như ông đóng vai chính trong việc ngăn cản
chiến dịch cứu nguy ĐBP bằng oanh tạc.
Màn
bi kịch cuối cùng là cuộc họp của Tổng Thống Eisenhower, Đô đốc
Radford, một số viên chức cao cấp ngày 29-4 tại Hoa Thịnh Đốn, họ duyệt
lại toàn bộ tình hình một lần nữa. Giới quân sự chỉ có Đô đốc Radford
vẫn ủng hộ hoàn toàn dù là can thiệp đơn phương (không
cần Quốc hội) của Mỹ để cứu ĐBP. Tư lệnh Hải quân, Đô đốc Carney và
Tướng Twining, TMT không quân không nhiệt tâm với kế hoạch này. Tướng
Ridway, TMT quân đội Mỹ chống đối hoàn toàn kế hoạch, cuối cùng TT
Eisenhower quyết định không giúp Pháp.
ĐBP thất thủ ngày 7-5-1954.
Chính
phủ Mỹ có thể đơn phương can thiệp vào Đông dương, oanh tạc ĐBP mà
không cần đưa ra Quốc hội nhưng tình hình năm 1954 người dân không muốn
Mỹ vừa ra khỏi cuộc chiến Triều Tiên nay lại tham dự một mặt trận khác.
TT Eisenhower không dám tự quyết định mà muốn
Quốc hội chia xẻ một phần trách nhiệm với Hành pháp.
Hậu
quả của việc Hoa Kỳ không thực hiện được kế hoạch Kên Kên đã ám ảnh
theo đuổi chính phủ Eisenhower một cách kỳ lạ ngay cả sau khi ngoại
trưởng Dulles qua đời năm 1959 (4). Người Mỹ hối tiếc đã không thực hiện
chiến dịch Kên Kên tiêu diệt hết chủ lực quân Việt
Minh để rồi họ lớn mạnh. Phía CS thắng lớn thay đổi cả một khúc quành
lịch sử.
Trong
phần kết luận cuốn ĐBP, tác giả nổi tiếng Bernard Fall cho rằng Tây
phương (Anh-Mỹ) tránh can thiệp vào Đông Dương năm 1954 (để tiêu diệt
chủ lực quân VM) mà sau này họ phải can thiệp năm 1967 (VNCH). Nếu ĐBP
không bị thất thủ năm 1954 có lẽ lịch sử VN sẽ
ít phức tạp hơn (5), gần đây các nhà học giả nghiên cứ về chiến tranh
Đông Dương như Logevall, Ted Morgan cũng đồng quan điểm trong hai cuốn
sách lớn viết về ĐBP và cuộc chiến Đông Dương lần thứ I
Cuộc
chiến Đông Dương lần thứ hai
Nó
thực sự bắt đầu từ khi TT Johnson lên cầm quyền từ giữa thập niên 60.
Ông lên thay TT Kennedy bị ám sát tháng tháng 11-1963, một năm sau ông
đắc cử TT nhiệm kỳ 1964-68, một sự tình cờ của lịch sử ý kiến của TNS
Johnson trong phiên họp đã ngăn cản TT Eisenhower
can thiệp vào ĐBP năm 1954 và bây giờ 10 năm sau (Việt Minh đã lớn
mạnh) ông trở thành Tổng Thống lại gánh chịu hậu quả sự sai lầm của
chính ông từ hồi 1954.
Năm
1964 CS Hà Nội gia tăng xâm nhập cán binh để chiếm miền Nam. Tại miền
Bắc năm 1957 Lê Duẩn được Hồ Chí Minh điều ra Bắc và cất nhắc lên làm
làm quyền Tổng bí thư thay thế Trường Chinh từ chức vì cải cách ruộng
đất năm 1956. Năm 1960 Ba Duẩn được bầu làm Bí
thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương, Lê Duẩn
vào bộ máy của đảng và dần dần Duẩn trở thành người có nhiều quyền lực nhất từ đầu thập niên 60.
Lê Duẩn lại may mắn khi tình hình CS quốc tế đổi chiền, năm 1964 Nikita
Khrushchev, Thủ tướng Nga bị lật đổ, chấm dứt thời kỳ chung sống hòa bình với Tây Phương,
Leonid
Brezhnev lên thay ủng hộ Lê Duẩn mở cuộc chiến tranh chống Mỹ
Bộ
trưởng quốc phòng McNamara nói (6)
“Sáu
tháng (28-1 tới 28- 7-1965) là giai đoạn quyết liệt trong 30 năm can
thiệp, Tổng thống Johnson đã đưa Hoa Kỳ đi vào con đường can thiệp vào
VN ồ ạt về quân sự, đã đưa quân vào VNCH từ 23,000 người 1964 lên 185,00
năm 1965 và cuối cùng 530,000 năm 1968.”
Mặc
dù đưa vào miền Nam VN nửa triệu quân nhưng Johnson đã thất bại vì phản
chiến. Nói về những lý do đưa tới thất bại, các nhà học giả, sử gia về
chiến tranh VN đã đưa ra nhiều nhận xét chỉ trích những sai lầm của
Johnson
TT
Nixon nói:
“Khi
một ông TT đưa quân Mỹ đi tham chiến, một cái đồng hồ vô hình bắt đầu
chạy. Ông có một khoảng thời gian nhất định để thắng cuộc chiến trước
khi người dân chán nản. Tháng 2 năm 1968, TT Johnson đã hết thời hạn của
mình”
(7)
Vừa
mở mặt trận oanh tạc BV, mặt trận đánh hao mòn địch tại miền Nam, TT
Johnson cũng tạo ra cuộc chiến tại Ngũ Giác Đài những năm 1965, 1966,
1967 giữa hai phe dân sự, quân đội. Cuộc chiến này còn kéo dài cho tới
đầu tháng 4-1969 khi nhiệm kỳ Johnson đã hết.
Cựu Tư lệnh Thái bình dương Đô đốc Sharp và cựu Tư lệnh Westmoreland
công bố bản phúc trình 347 trang về cuộc chiến VN. Các Tướng nhấn mạnh
sự bó tay của Bộ tư lệnh Mỹ trước chính sách Chiến tranh hạn chế
(Limited war) của Johnson-McNamara và lệnh cấm đánh
qua Miên, Lào. Cuối tháng 4-1969 Đô đốc Sharp đăng báo công kích cựu Bộ
trưởng McNamara không cho oanh tạc tiềm lực kinh tế BV mà chỉ cho ngăn
chận xâm nhập khiến cho các cuộc oanh tạc hóa ra vô hiệu
Chiến
lược giới hạn không cho đánh qua miên, Lào là một khuyết điểm lớn, ông CaoVăn Viên nói (8)
“Gần
một phần tư thế kỷ …
CSVN
có được sự an toàn ở các căn cứ hậu cần – trong nội địa hay bên quốc gia lân cận – những căn cứ hậu cần đó là
nơi họ dưỡng quân sau những cuộc đụng độ để chuẩn bị cho những trận đánh mới mà không sợ bị quấy
phá.”
Một
mặt ông áp dụng chiến tranh hạn chế chậm như rùa trong khi phong trào phản chiến ngày càng nhanh như ngựa
Năm
1969 TT Johnson không tái tranh cử vì biết là sẽ không có ai bỏ phiếu
cho mình, ông nhường cho Phó TT Humphrey. Ứng cử viên Nixon thuộc đảng
Cộng Hòa thắng cử, GS Nguyễn Tiến Hưng và ông Trần Đông Phong có nhận
định (trong tác phẩm) sở dĩ Nixon đắc cử là nhờ
ông xúi dục TT Thiệu không tham dự (tẩy chay) họp hòa đàm Ba Lê hồi
tháng 10 và 11-1968, trong phim The Vietnam Wars (2017) mới đây cũng có
nói như vậy.
Nếu
nói ông Thiệu khiến Nixon thắng cử chỉ là nói cho vui thôi. Cuộc tranh cử ngày 5-11-1968
Nixon (CH)
được 301 phiếu Cử tri đoàn, phó TT Humphrey (DC) chỉ được 191
phiếu CTĐ. Người dân Mỹ không chấp nhận chủ trương của Humphrey, sẽ rút
bỏ Đông Dương, cử tri không muốn Đông Dương hoặc miền Nam sụp đổ khi Hoa
Kỳ rút bỏ mà họ muốn hòa bình trong danh dự
nên đã bầu cho Nixon
Người
ta quá chán ngấy cuộc chiến sa lầy của Dân chủ, họ đã làm hai nhiệm kỳ,
tính tới 1968 đã làm thiệt mạng 35,751 người lính Mỹ. Sự thiệt hai tăng
dần năm 1965 có 1,863 lính Mỹ chết tại miền nam, từ 1965 tới 1968 có
tất cả 35,751 người tử trận. Con số tử thương
này đã khiến phong trào phản chiến càng lên cao hơn nên người ta bầu
cho một đảng khác.
Cuối
1965 tỷ lệ số người ủng hộ chiến tranh VN khoảng 61% tới 1968 xuống còn
khoảng 40%, tới 1971 còn khoảng dưới 30% (9). CS bị thảm bại Tết Mậu
thân 1968, ta đánh thắng một trận lớn nhưng thua cuộc chiến, chống đối
tại Mỹ lên cao, họ đòi chính phủ rút quân về
nước. Sau trận Mậu Thân 1968 phong trào chống chiến tranh lên cao tột
đỉnh mà không có gì ngăn cản nổi, người dân cương quyết đòi nước Mỹ ra
khỏi cuộc chiến
Tác
giả George Donelson Moss (trong Vietnam, An American Ordeal) gọi cuộc chiến của Nixon là A War To End
A War, một cuộc chiến để chấm dứt chiến tranh. Thời TT Nixon, biểu tình chống chiến tranh bạo động dữ hơn, có chết người (10)
Lê
Duẩn phải đương đầu với một chính quyền cứng rắn, nhưng y vẫn thí quân
điên cuồng, chấp nhận hy sinh 10 hay 16 thanh niên BV đổi một người lính
Mỹ để đấy mạnh phong trào phản chiến, Duẩn tiếp tục đẩy thanh niên vào
chỗ chết. lấy xương máu của thanh niên để
đạt chiền thắng
Sau
4 năm lãnh đạo cuộc chiến tranh chống CSBV ngày 7 tháng 11 năm 1972
Nixon thắng cử lớn nhất từ xưa đến nay: 96% phiếu Cử tri đoàn (520/17),
thắng hết 49 tiểu bang, đối thủ McGovern (DC) chỉ được 17 phiếu tại một
tiểu bang và DC, Nixon hơn đối thủ McGovern
18 triệu phiếu. Người ta bầu cho ông vì đã đem quân về nước, thực hiện
hòa bình trong danh dự, Đông Dương không sụp đổ trái với chủ trương bỏ
chạy của Dân chủ
Nixon
thắng cử vì người dân nhớ ơn ông,
người đã thực hiện hòa bình trong danh dự,
đã đem quân về nước, cũng như đã hòa với Trung Cộng tháng 2-1972,
với Nga tháng 5-1972. Thực ra phần thưởng này chỉ là cái bánh vẽ, quyền
hành không có phải nghe theo đòi hỏi của Quốc hội Dân chủ, họ luôn nắm
Quốc hội trong suốt thời kỳ có chiến tranh
VN.
1960
Hạ viện Dân chủ 262 ghế (60%) Cộng hòa 175 ghế
Thượng
viện DC 64 (64%) , CH 36
1968
HV
DC 243 (64%)
CH 36
TV
DC 57
(57%) CH 43
1972
HV
DC 242 (56%)
CH 192
TV
DC 57 (57%) CH 43
1974
HV DC 291 (57%) CH 144 (40%)
TV
DC 60 (60%) CH 38
Tháng
12 tại Paris CSBV phá hòa đàm hy vọng Quốc hội mới sẽ ra luật chấm dứt
chiến tranh. Ngày 12-12 Lê Đức Thọ nói sẽ về Hà Nội, biết là hòa đàm vô
vọng, Kissinger bèn (đánh điện) khuyên TT Nixon áp lực mạnh với BV vì họ
ngoan cố (11)
Kissinger
và Nixon tin là BV cố tình phá hòa đàm để hy vọng Quốc hội ra luật chấm dứt chiến tranh (12)
Kissnger
biết là Thọ không muốn tiếp tục đàm phán phá hòa đàm chờ Quốc hội ra luật chấm dứt chiến tranh đầu năm 1973. TT
Nixon
gọi Kissinger về Mỹ ngày 13-12 và đánh một lá bài lớn, giải quyết bế
tắc
hòa đàm Paris bằng vũ lực. Nixon lo ngại Quốc hội có thể cắt ngân khoản
quân sự, chấm dứt mọi xung đột và dành chiến thắng cho CS (13)
Nixon
nghĩ chỉ còn cách oanh tạc BV rồi gọi Kissinger về, ông ta mở chiến
dịch Linebacker II, oanh tạc Hà Nội, Hải Phòng long trời lở đất cuối năm
1972 với 20,000 tấn bom, Nixon
đã kéo BV lại bàn Hội nghị
Về
điểm này nhiều tác giả cho biết Nixon lo ngại quyết định của Quốc hội sẽ khiến ông không thể cứu được đồng minh.
Tháng
1-1973, Theo Mark Clodfelter (14) Quốc hội Mỹ phẫn nộ vì trận oanh tạc, nếu TT Thiệu bác
bỏ ký kết Hiệp định thì việc cắt viện trợ bức tử VNCH chắc chắn là sẽ có (chứ không phải đe dọa).
Cuối
cùng ông Thiệu không chống lại Hiệp định dù nó cho phép BV được đóng quân ở lại miền Nam và
thuận ký kết Hiệp định ngày 27-1-1973 vì sợ Quốc hội ra luật chấm
dứt chiến tranh chứ không phải ông sợ TT Nixon chặt đầu như người ta
đồn. Khi Quốc hội ra luật chấm dứt chiến tranh có nghĩa là Hành pháp
phải tuân hành đem hết số quân còn lại (khoảng
vài chục ngàn) về nước ngay, họ sẽ cắt hết mọi khoản viện trợ. Sự thực
giữa hai cái chết, một cái chết ngay và một cái từ từ vài năm sau cũng
chẳng khác nhau là mấy
Nhiều
người chỉ trích Kissinger ngu xuẩn ký Hiệp định cho phép BV còn đóng
quân ở lại, sự thật thì Nixon còn chẳng có quyền huống hồ Kissinger.
Cương vị Tổng thống ông luôn phải thỏa mãn yêu cầu của Quốc hội Dân chủ ở
bàn Hội nghị, họ luôn đe dọa ra luật chấm dứt
chiến tranh. Nhiều người xỉ vả Nixon-Kissinger làm mất miền Nam, họ cứ
chửi cho sướng miệng mà không biết rằng Nixon phải tuân hành Quốc hội,
Kissinger ba ngày phải báo cáo Tổng thống
mọi việc đàm phán....
Miền
Nam bỏ ngỏ
Sáu
tháng sau khi ký Hiệp định Paris, Quốc hội Dân chủ ra luật cắt hết các
ngân khoản dành cho Hành pháp để oanh tạc yểm trợ cho các nước Đông
Dương. Khi họ ra luật cắt các khoản yểm trợ cho Đông Dương coi như số
phận của giải đất này đã được quyết định rồi.
Ông Cao Văn Viên đã nói trong cuốn Trận Chiến Trong Mùa Lễ Phục Sinh
“Cuộc
công kích của địch quân năm 1972 đã cho thấy nhược điểm của tiến trình
Việt Nam hoá chiến tranh. Nếu không được sự yểm trợ của Mỹ về không lực
và di động tính, QLVNCH khó có thể giữ được An Lộc, bảo vệ được Kontum
và chiếm lại được Quảng Trị. Các phần đất
này sẽ bị mất vĩnh viễn bởi vì chúng tôi không có đủ khả năng để chiếm
lại. Tuy nhiên lúc nào còn không lực Mỹ thì cán cân lực lượng vẫn có thể
được duy trì và VNCH vẫn còn có một cơ hội tốt để sống còn”
Trong
cuốn Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hòa (Bản dịch Nguyễn Kỳ Phong) trang 19 ông cũng nói như vậy:
“Cuộc
tấn công của địch quân vào năm 1972 cho thấy sự yếu kém của kế hoạch
Việt Nam hóa một cách thảm thương. Nếu không có sự yểm trợ về không lực
và không vận của Hoa Kỳ quân đội ta khó giữ nổi An Lộc, chận đứng cuộc
tấn công của Cộng quân vào Kontum, hay chiếm
lại Quảng Trị. Sau cuộc tấn công năm 1972, những phần đất đã mất, chúng
ta để mất luôn vì không còn khả năng đánh chiếm lại. Nói tóm lại, chúng
ta giữ được cán cân quân sự đối với địch nếu có sự yểm trợ không lực
của Hoa Kỳ. Và với không lực, VNCH có khả năng
chống lại mọi cuộc tấn công của miến Bắc”
Như
chúng ta đều biết CSBV đã được cả Nga, Trung Cộng và CS Đông Âu viện
trợ giúp đỡ trong khi Đông Dương chỉ có một mình Mỹ gánh vác
với chia rẽ nội bộ trầm trọng, viện trợ quân sự thì khi có khi không
Cuối
tháng 6-1972, các vị dân cử đưa ra dự luật yêu cầu Tổng thống ký, Nixon
phủ quyết (veto) nhưng các Thượng nghị sĩ, Dân biểu tức giận cho biết
nếu ông Veto, họ sẽ cắt các khoản điều hành, chi tiêu của chính phủ nên
Nixon miễn cưỡng ký thành Luật ngày 30-6,
có hiệu lực từ 15-8-1973.
Tu
chính án như sau:
“Từ
nay không có ngân khoản nào được yểm trợ trực tiếp hay gián tiếp cho
các hoạt động quân sự cho quân đội Mỹ tại Miên, Lào hay Bắc Việt, Nam
Việt hoặc ngoài khơi Miên, Lào, Bắc, Nam VN.và sau ngày 15-8 năm 1973,
từ nay sẽ không có ngân khoản nào được xuất ngân
cho mục đích này” (15).
TT
Nixon nói luật đã khiến tôi không giữ được hòa bình nơi đây và cho phép
các lãnh đạo BV tự do xâm chiếm miền Nam. Sau đó Quốc hội ra luật Wars
Powers Act đòi hỏi Tổng thống có thể can thiệp trong 60 ngày mà không
cần Quốc hội đồng ý và thêm 30 ngày nữa, sau
đó ông phải đem quân về nước. Ngày 24-10-1973 Nixon phủ quyết đạo luật
cho là vi hiến, nhưng ngày 7-11 Quốc hội đã phủ quyết veto của ông.
Sau
khi ký Hiệp định khoảng một năm, Quốc hội Dân chủ Mỹ bắt đầu cắt giảm quân viện VNCH mỗi năm khoảng 50%:
Từ 2,1 tỷ tài khóa
1973 xuống còn một tỷ tài khóa 1974 và xuống còn 700 triệu tài
khoá 1975, con số này thực ra chỉ bằng 500 triệu vì dầu thô lên giá,
tiền mất giá (16).
Từ
tháng 6-1973 Quốc hội Dân Chủ ra luật hoặc quyết định cắt giảm xương
tủy sự yểm trợ, giúp đỡ về quân sư cho Đông dương và VNCH, coi như họ đã
mở cửa bỏ ngỏ miền Nam cho CSBV tự do tiến vào.
Quyết
định cắt giảm Quốc hội đưa tới tình trạng thê thảm, theo tiết lộ của
ông Cao Văn Viên (17) hậu quả là năm 1974 không quân đã phải cho hơn 200
phi cơ ngưng bay vì thiếu nhiên liệu, giảm số giờ bay yểm trợ, huấn
luyện 50%, thám thính giảm 58%, phi vụ trực thăng
giảm 70%.
Hải quân cũng cắt giảm hoạt động 50%, 600 giang thuyền các loại nằm ụ.
Đạn
dược chỉ còn đủ đánh tới tháng 4 /1975, năm 1972 ta xử dụng trên 69
ngàn tấn đạn một tháng, từ tháng 7/1974 đến tháng 3/1975 ta chỉ còn xử
dụng khoảng 19 ngàn tấn một tháng hoả lực giảm 70%. Tháng 2/1975 chỉ còn
đủ đạn tất cả các loại súng cho 30 ngày, tháng
4/1975 chỉ còn đủ đạn đánh trong khoảng hai tuần (18).
Trong
khi ấy theo Kissinger (19) Hà nội đã xin được viện trợ của Sô viết tăng
gấp bội. Tháng 12- 1974, một viên chức cao cấp Nga viếng Hà Nội lần đầu
tiên kể từ sau ngày ký Hiệp định Paris. Tổng tham mưu trưởng Nga Viktor
Kulikov tới tham dự họp chiến lược với Bộ
chính trị BV, nay họ bãi bỏ hạn chế trước đây. Sô Viết đã chở vũ khí
viện trợ quân sự cho Hà Nội tăng gấp 4 lần trong những tháng sau đó. Nga
khuyến khích BV gây hấn
Cuộc
chiến VN là một cuộc chiến viện trợ
tiếp liệu,
hai bên đều tùy thuộc vào quân viện nước ngoài, bên nào nhiều
tiếp liệu, vũ khí đạn dược thì bên đó thắng. Người ta cho là các Tướng
Ngô Quang Trưởng, Nguyễn Văn Phú và Ông Thiệu đã sai lầm để mất miền
Trung. Sự thực với tình hình tiếp liệu đạn dược
bị cắt giảm xương tủy, cái khó nó bó cái khôn cũng khó mà cứu vãn tình
thế, ông Thiệu, các vị Tướng Trưởng, Tướng Phú chỉ là những giọt nước
làm tràn ly.
Cuối
tháng tư-1975, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn Tư lệnh Quân đoàn, Quân khu
III VNCH tổ chức phòng thủ Sài Gòn trên 5 tuyến chính đồng thời bảo vệ
các căn cứ quan trọng tại Biên Hoà, Củ chi, Lai Khê, Long Bình. (20)
Phía
Tây Bắc là Tuyến Củ Chi với Sư đoàn 25 BB và hai Liên đoàn 8, 9 Biệt
động quân. Tuyến Bình Dương ở phía Bắc với Sư đoàn 5 BB. Tuyến Biên Hoà
phía Đông Bắc với Sư đoàn 18 BB và lực lượng Xung kích Quân đoàn III.
Tuyến Vũng tầu và Quốc lộ 15 do Lữ đoàn 1 Dù
cùng với một Tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 3 BB và các đơn vị Thiết giáp, Địa
phương quân, Nghĩa quân của Tiểu khu Phước Tuy phụ trách. Tuyến Long An
phía Nam ngoài lực lượng Địa phương quân, Nghĩa quân cơ hữu còn
có Sư đoàn 22 BB phụ trách cộng với sự tăng cường của Trung đoàn 12 thuộc Sư đoàn 7 BB, Trung đoàn 14 thuộc Sư đoàn 9 BB và Liên
đoàn 6 BĐQ.
Năm
tuyến phòng thủ chính của VNCH cũng trùng với 5 hướng tấn công của năm Quân đoàn CSBV
Tác
giả Nguyễn Đức Phương (Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập) đã nói
“Về
tương quan lực lượng giữa hai bên thì QLVNCH chỉ có 6 sư đoàn để bảo vệ
thủ đô chống lại một lực lượng đông đảo với quân số gần 20 sư đoàn
CSBV. Ba sư đoàn 7, 9 và 21 BB thuộc quân đoàn IV QLVNCH không thể dùng
để tiếp ứng do điều kiện an ninh lãnh thổ của
vùng đồng bằng sông Cửu Long”
BV
có đầy đủ tiếp liệu đạn dược trong khi miền Nam đã kiệt quệ về đạn dược
nhất là lính pháo binh phải đếm từng viên đạn. Sau khi đoàn quân di tản
từ miền Trung kéo vào Nam, Bộ Tổng tham mưu đã mở kho vét hết súng đạn
để tái trang bị. Ông Cao Văn Viên cho biết
(Những Ngày Cuối VNCH trang 92) đạn dược chỉ đủ xử dụng trong khoảng
hai tuần lễ. Lực lượng hai bên trên thực tế quá chênh lệch, ưu thế
nghiêng hẳn về phía Cộng quân
Khi
hai ông Thiệu và Khiêm ra đi hôm 24-4-1975, quân dân hoàn toàn thất vọng,
mấy hôm sau, Tổng Thống Trần Văn Hương hiệu triệu đồng bào về
tình hình vô cùng bi đát của đất nước, ông đã khóc lóc trên đài phát
thanh:
“Nay
Vùng I và II miền Trung đã hoàn toàn tan rã, vùng 4 có nhiếu sứt mẻ,
tôi đã nghĩ tới cái viễn ảnh Sài gòn trở thành núi xương sông máu, hôm
qua tôi có gặp anh Dương Văn Minh, tôi có nói với anh như zầy: Bây giờ
tôi bàn giao chính quyền cho anh, nhưng anh phải
có cái giải pháp gì đem lại hòa bình cho đât nước, chứ bàn giao cho anh
để anh đầu hàng thì bàn giao làm cái gì?
Ngày
28-4 khi Dương Văn Minh đang làm lễ bàn giao thì đài BBC đã nói.
“Hôm
nay tại Sài Gòn ông Dương Văn Minh được cử giữ chức vụ Quyền Tổng thống
do ông Trần Văn Hương trao lại để chuẩn bị cho một cuộc đầu hàng"
Tối
29-4 ông Dương Văn Minh vẫn kêu gọi trên đài phát thanh, lời kêu gọi lập đi lập lại suốt đêm..
“Các
vị Tư lệnh Quân đoàn, Sư đoàn hãy giữ vững vị trí và chờ lệnh mới”
Thực
ra Saigon gần như bỏ ngỏ, tại Ban Mê Thuột Cộng quân không đánh theo
lối bóc vỏ, chúng đánh thẳng vào thị xã rồi mới chiếm các quận xung
quanh. Trái lại, tại Sài Gòn địch lại đánh theo lối bóc vỏ, khi 5 tuyến
phòng thủ quanh Thủ đô sụp đổ thì Sai Gòn gần như
bỏ ngỏ, các đơn vị VNCH chiến đấu anh dũng nhưng cũng không cứu vãn nổi
tình thế.
Khi
ông Dương Văn Minh vào Dinh Độc Lập ngày 28, sáng hôm sau quân thù đã tới Hàng Xanh và ngã tư Bẩy Hiền
Saigon
thất thủ 30-4-75
Có
năm vị Tướng Lãnh Tư lệnh Quân đoàn, Sư đoàn tự sát, nhiều vị Sĩ quan
và những người Lính vô danh cũng chết theo đất nước, những vị này xem ra
không nhiều lắm nhưng cũng giữ được danh dự cho Quân đội VNCH.
Ngày
30-4-1945, Bá Linh thất thủ, Hitler tự sát, đô đốc Doenitz
thay mặt nước Đức
đầu hàng đồng minh. Ba mươi năm sau Dương Văn Minh cũng thay mặt miền
Nam Việt Nam đầu hàng Cộng Sản. Cũng có người trách các ông Nguyễn Văn
Thiệu, Dương Văn Minh không tự sát khi đất nước lọt đã vào tay kẻ địch.
Lê
Duẩn đã hy sinh hàng triệu thanh niên để đẩy mạnh phong trào chống đối,
chiến dịch thí quân của y đã thành công lớn, phong trào phản chiến lên
cao để rồi sau 1972 Mỹ phải rút bỏ Đông Dương, địch bất chiến tự nhiên
thành
Nếu
không nhờ phong trào phản chiến dù Lê Duẩn có đẩy thêm hàng triệu thanh
niên vào tử địa cũng chỉ làm mồi cho B-52 một cách vô ích
Phản
chiến đã cứu sống hàng triệu thanh niên miền Bắc.
Kể
từ ngày Cộng quân đánh chiếm quận Đức Lập ngày 9-3-1975 và Ban Mê Thuột ngày 10-3 để mở
đầu cho cuộc Tổng tấn công
cho tới ngày 30-4-1975, ngày kết thúc chỉ vỏn vẹn
có năm mươi mấy ngày.
Võ
Nguyên Giáp ra lệnh tấn công quân Pháp tại Hà Nội nửa đêm 19-12-1946 là
ngày khởi đầu của cuộc chiến tranh dài nhất của thế kỷ đến trưa ngày
30-4-1975 là ngày kết thúc tính ra đã được ba mươi năm
Ba
mươi năm máu chẩy thịt rơi, mấy chục năm tang thương đau khổ.
Những
kẻ đã gây lên cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn, núi xương sống máu sẽ phải đời đời đắc tội với Non sông và Lịch sử.
Trọng
Đạt
(1)
Tôi đã viết trong bài Những Sai Lầm Của Lyndon Johnson Trong Chiến Tranh Việt Nam, đã phổ biến trên truyền thông
(2)
Quân sử 4,
Bộ TTM
VNCH 1972 , trang 160
(3)
Henri Navarre, Agonie de l’Indochine trang 230
(4)
Bernard Fall, Hell In A Very Small Place trang 313
(5)
Bernard Fall, Hell In A Very Small Place trang trang 462
(6)
McNamara, In Retrospect, The Tragedy and Lessons of Vietnam, trang 169
(7)
Richard Nixon: No More Vietnam trang 88
(8)
Cao Văn Viên: Những Ngày Cuối của VNCH trang 282
(9)
Wikipedia: Opposition to the US involvement in the Vietnam war.
(10)
Richard Nixon :No More Vietnams trang 126
(11)
Mark Clodfelter: The Limits of Air Power trang 182
(12)
Mark Clodfelter: The Limits of Air Power trang 180
(13)
George Donelson Moss: Vietnam, An American Ordeal trang 366
(14)
The Limits of Air Power trang
200, 201
(15)
Richard Nixon: No more Vietnams
trang 179, 180, 181
(16)
Henry Kissinger, Years of Renewal trang 471
(17)
Những Ngày Cuối Của VNCH trang 86, 87
(18)
Sách đã dẫn trên trang 92
(19)
Years of Renewal trang 481
(20)
Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 798-811