Suốt 28 năm qua, quân dân miền Nam đã trải qua
các hoàn cảnh bi đát đau thương và luôn luôn tự hỏi về nguyên nhân
thất bại mau chóng của VNCH trong những ngày của tháng 4-1975.
Đại tướng Cao Văn Viên năm nay 83 tuổi, sống hoàn toàn cô đơn trong một viện cao niên tại miền Đông Hoa Kỳ, cũng có các suy tư khắc khoải của riêng ông.
Đại tướng Cao Văn Viên năm nay 83 tuổi, sống hoàn toàn cô đơn trong một viện cao niên tại miền Đông Hoa Kỳ, cũng có các suy tư khắc khoải của riêng ông.
Trong phần Lời Bạt của một tác phẩm vừa xuất
bản 2003, vị Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng cuối cùng của Quân lực
VNCH đã giãi bày rất nhiều điều quan trọng: Về vai trò của ông và
nhiệm vụ của Bộ Tổng Tham Mưu. Sự liên hệ cá nhân giữa Tướng Cao Văn
Viên và Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Tại sao ông xin từ chức và tại
sao Tổng thống Thiệu không chấp thuận. Những diễn tiến quân sự liên
quan đến việc di tản Quân Đoàn II và Quân Đoàn I. Ông cũng viết về
việc chuẩn bị thuốc độc cho chính mình và sau cùng ông đã ra đi vào
lúc nào.
Phần quan trọng là Đại tướng Cao Văn Viên bác
bỏ một số tin tức liên quan đến ông và Bộ Tổng Tham Mưu trong một tác
phẩm đã được Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, vị cố vấn đặc nhiệm của ông
Thiệu xuất bản gần 20 năm về trước.
Để có thể theo dõi dễ dàng những diễn tiến theo thời gian, chúng tôi xin liệt kê tài liệu thứ tự như sau:
Thứ nhất:
Ngay sau khi miền Nam thất thủ 1975, bắt đầu từ năm 1976, Trung Tâm
Quân Sử của Lục Quân Hoa Kỳ đã mời các sĩ quan cao cấp của Việt –
Miên – Lào viết về kinh nghiệm của cuộc chiến Đông Dương. Đại tướng
Cao Văn Viên cùng 5 vị tướng và Đại Tá VNCH đã hoàn tất 16 tác phẩm
bằng Anh ngữ về các đề tài khác nhau. Trong đó có cuốn the Final
Collapse ấn hành năm 1983. Tài liệu biên khảo vào thời gian 1976 hoàn
toàn có tính cách nghiên cứu các diễn tiến, nhưng chưa đủ các dữ kiện
đầy đủ như hiện nay. Trong đó tác giả ghi rằng không muốn nói nhiều
đến chuyện cá nhân. Cuốn The Final Collapse nguyên tác Anh ngữ phổ
biến hạn chế và chưa từng dịch ra Việt ngữ.
Thứ hai:
Khởi sự từ năm 1977, Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng nguyên là cố vấn đặc
biệt của Tổng thống Thiệu bắt đầu soạn tài liệu để hoàn tất tác phẩm
the Palace File. Chủ đề của tác phẩm viết về những năm cuối cùng tuyệt
vọng của Việt Nam Cộng Hòa. Tác giả viết bằng các dữ kiện trực tiếp
ghi nhận được qua vai trò giao thiệp với chính phủ Mỹ và các bức thư
trao đổi với các Tổng Thống Hoa Kỳ liên quan đến cuộc chiến Việt Nam.
Trong tác phẩm này Tiến sĩ Hưng có đề cập đến
nhiều giới chức gồm cả Bộ Tổng Tham Mưu và Đại tướng Cao Văn Viên,
The Palace File nguyên tác Anh ngữ xuất bản năm 1986 và ấn bản Việt
ngữ xuất bản năm 1987. Có một số dữ kiện trong tác phẩm này cũng cần
phải được duyệt lại vì thực sự tác giả hoàn tất vào đầu thập niên 80
nên không đủ các tin tức như hiện nay.
Cuốn Palace File bản Anh ngữ và Hồ Sơ Mật Dinh
Độc Lập bản Việt ngữ được phát hành tương đối rộng rãi và đã phổ
biến những điều mà Đại tướng Cao Văn Viên cho là không đúng và ông
ghi nhớ từ 17 năm qua.
Thứ ba:
Cho đến năm nay 2003, do cơ duyên đặc biệt Đại Tướng giao cho một
chuyên viên sử học là ông Nguyễn Kỳ Phong chuyển ngữ cuốn The Final
Collapse thành tác phẩm Việt ngữ với tựa đề Những Ngày Cuối Của Việt Nam
Cộng Hòa.
Trong tác phẩm Việt ngữ vừa phát hành này có nhiều ghi chú đặc biệt của dịch giả và của chính tác giả nhằm làm sáng tỏ những điểm mà nguyên tác The Final Collapse năm 1976 chưa đề cập đến.
Trong tác phẩm Việt ngữ vừa phát hành này có nhiều ghi chú đặc biệt của dịch giả và của chính tác giả nhằm làm sáng tỏ những điểm mà nguyên tác The Final Collapse năm 1976 chưa đề cập đến.
Và đặc biệt là những lời đính chính mạnh mẽ
của tướng Cao Văn Viên liên quan đến The Palace File của Tiến sĩ
Nguyễn Tiến Hưng mà ông đã lưu tâm từ năm 1986 khi sách này phát
hành.
+ + +
Đại tướng Cao Văn
Viên nguyên là Tư Lệnh Nhảy Dù, Tư Lệnh Quân Đoàn III và chức vụ sau
cùng là Tổng Tham Mưu Trưởng. Có lúc ông kiêm cả Tổng Trưởng Quốc
Phòng. Vợ của ông đã qua đời nhiều năm trước. Ông có người con gái là
giáo sư luật khoa Lan Cao đã thành danh và có gia đình riêng. Ông
sống một mình trong viện cao niên tại miền Đông. Tuy sức khỏe suy yếu
nhưng tinh thần vẫn minh mẫn và còn giọng nói vẫn mạnh mẽ với 83
tuổi.
Dịch giả Nguyễn Kỳ Phong được ông Cao Văn Viên
tin cậy giao cho việc chuyển ngữ cuốn The Final Collapse là một
chuyên viên sử học tại Hoa Kỳ. 28 năm trước ông là một sinh viên trẻ,
có thể chưa biết nhiều về cuộc chiến và VNCH. Nhưng suốt thời gian
tại Hoa Kỳ ông đã nghiên cứu và đọc hầu hết các tài liệu về chiến
tranh Việt Nam bằng Anh ngữ và Việt ngữ. Ông Phong sưu tầm các tác
phẩm, hồi ký đã xuất bản và cả các tài liệu phổ biến hạn chế trong
các thư khố đặc biệt của Hoa Kỳ liên quan đến Việt Nam.
Năm 2001, Nguyễn Kỳ Phong đã xuất bản tác phẩm
đặc biệt tựa đề: Người Mỹ và chiến tranh Việt Nam. Một cuốn sách làm
ngạc nhiên độc giả lưu tâm đến đề tài này về sự uyên bác của tác
giả. Hiện nay người ta đang chờ đợi cuốn số 2 của ông dự trù sẽ xuất
bản một ngày gần đây.
Sau đây là phần trích dẫn từ tài liệu của Đại tướng Cao Văn Viên đối với những sự kiện chưa từng được nói tới gần 30 năm qua.
Sau đây là phần trích dẫn từ tài liệu của Đại tướng Cao Văn Viên đối với những sự kiện chưa từng được nói tới gần 30 năm qua.
Theo nguyên văn tài liệu, danh từ tác giả ở đây thay cho chữ tôi và xin hiểu đây là Đại tướng Cao Văn Viên.
1. Trước hết về vấn đề đại tướng Cao Văn Viên xin từ chức Tổng tham mưu trưởng. Ông viết như sau:
Đại tướng Cao Văn Viên: Trong những năm 1970
và 1971, tác giả đã đệ đơn xin Tổng thống Thiệu cho về hưu ít nhất là
3 lần. Lý do là vì tác giả đã ở chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng quá lâu
đã đủ thâm niên quân vụ cùng sức khỏe kém. Lý do tác giả hành động
như vậy vì vào khoảng giữa năm 1970, sau một buổi họp với Đại tướng
Creighton Abrams (tư lệnh MACV) ông ta cho biết, theo tin Tòa Đại Sứ
Hoa Kỳ, Tổng thống Thiệu có ý định cho Trung tướng Đỗ Cao Trí thay
thế tác giả. Chờ đợi mãi không thấy lệnh thay thế, tác giả cảm thấy
mình không còn được “sủng ái” nên đã xin về hưu.
Trong thời điểm đó, các đối lập chính trị và
tay chân thân tín của họ bị loại hay vô hiệu hóa. Với đa số dân biểu,
nghị sĩ thân chánh quyền trong Quốc Hội cùng sự thành lập đảng Dân
Chủ, ông Thiệu ở vào thế mạnh. Ngoài ra một số phụ tá trẻ của ông nêu
ý kiến nên thay thế các phần tử mà họ cho là già nua và quan liêu.
Họ thường nói, muốn có một căn nhà tốt cần thay thế các viên gạch cũ
hay các bộ phận vô dụng, và nếu cần, hủy bỏ luôn căn nhà cũ.
+ + +
2. Trải
qua nhiều năm, vẫn một câu hỏi được nêu lên là tại sao Tổng Thống
Thiệu lại không cho phép đại tướng Viên từ nhiệm, chính ông Cao Văn
Viên cũng tự hỏi như vậy.
Đại tướng Cao Văn Viên: Tại sao ông Thiệu
không thay tác giả như đã có ý định? Có thể ông Thiệu nghĩ rằng tác
giả không có tham vọng chính trị, và trong quá khứ không phản ông
Diệm nên cố giữ lại để có sự ổn định trong quân đội. Nhưng những gì
tác giả nghĩ chỉ là giả thuyết mà thôi. Ở vào thế tiến thoái lưỡng
nan, ở vào một hoàn cảnh mập mờ, tác giả không thể nào hăng say phục
vụ như trước nữa. Nhưng vì lương tâm nghề nghiệp, tác giả vẫn làm
việc như thường, chờ ngày thay thế.
+ + +
3. Trong
tác phẩm của ông, đại tướng Cao Văn Viên có dành 1 phần giải thích về
nhiệm vụ của bộ tổng tham mưu đặc biệt là lãnh vực điều hợp các quân
đoàn trên lý thuyết. Còn trên thực tế ông giải thích thêm bắt đầu từ
thời điểm 1973 như sau.
Đại tướng Cao Văn Viên:
Khi Hiệp Định Ba Lê 1973 được ký kết, quốc sách “Bốn Không” ra đời,
lúc mà tất cả hoạt động quân sự có ảnh hưởng đến chính trị, thì các
buổi họp bất thường hay hàng tháng với các tư lệnh Quân Đoàn, Quân
Khu, cùng với các tư lệnh Binh Chủng như Không Quân và Hải Quân… được
diễn ra trong Dinh Độc Lập, thay vì ở Bộ Tổng Tham Mưu như thường
lệ. Buổi họp được đặt dưới quyền chủ tọa của Tổng thống Thiệu như là
Tổng Tư Lệnh Tối Cao của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Từ đó Tổng thống
Thiệu hoàn toàn lấy mọi quyết định, và ra lệnh thẳng cho các nơi.
Như vậy, Tổng thống Thiệu đã đạt được thế thượng phong tuyệt đối, tập
trung mọi quyền Hành Pháp, Lập Pháp và quân đội vào một mối duy nhất.
+ + +
4. Viết
về những ngày bi thảm của tháng 4-1975 cho đến khi đại tướng Dương
Văn Minh lên nhận chức, tướng Cao Văn Viên cho biết.
Đại tướng Cao Văn Viên: Sau cuộc rút lui thất
bại ở quân đoàn II và quân đoàn I, và khi tình hình quân sự trở nên
bi đát, tác giả có xin bác sĩ Phạm Hà Thanh (Cục Trưởng Cục Quân Y)
thuốc độc (loại Cyanid), vì biết chắc chắn nếu bị bắt sẽ bị cộng sản
hành hạ một cách tàn bạo. Bác sĩ Thanh sau khi đi cải tạo về, hiện
nay vẫn còn sống ở ngoại ô Sài Gòn.
Tối Chủ Nhật 27 tháng 4, sau khi Quốc Hội biểu
quyết trao quyền lại cho ông Dương Văn Minh, vì thời gian quá gấp
rút, theo hệ thống quân giai, tác giả trình miệng với Trung tướng
Trần Văn Đôn, đang là Tổng Trưởng Quốc Phòng trong Nội Các của Thủ
tướng Nguyễn Bá Cẩn, trình lên Tổng thống Trần Văn Hương nguyện vọng
được về hưu của tác giả đã xin từ năm năm về trước. Tổng thống Hương
biết rõ chuyện này nên đã ký sắc lệnh cho tác giả về hưu. Ông Nguyễn
Thạch Vân, phụ tá tổng thống, hiện đang sống bên Pháp, biết rõ chuyện
này.
Tác giả không hợp tác với tướng Minh vì ông ta
có ý định giết tác giả trong cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11-1963.
Tác giả cũng không thể phục vụ cho một chính phủ liên hiệp, và lý do
quyết định nhất là đã ở chức vụ này quá lâu (gần 10 năm), sức khỏe
kém và đã xin về hưu 3 lần rồi. Khi biết đã được phép giải ngũ, tác
giả liên lạc với Phòng Tùy Viên Quân Sự Hoa Kỳ (DAO) để xin di tản ra
Đệ Nhất Hạm Đội. Khi rời Việt Nam, tác giả mặc thường phục vì đã về
hưu.
+ + +
5. Đề cập đến chuyện cũ, đại tướng Viên nói về thời gian gặp tướng Minh trong kỳ đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963 như sau.
Đại tướng Cao Văn Viên: Trưa ngày 1 tháng
11-1963, khi trình diện Tổng Bộ Tham Mưu (BTTM) để nhận lệnh hành
quân (lúc đó tác giả là Đại Tá, Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù) tác giả được
đưa lên gặp tướng Dương Văn Minh thay vì tướng Trần Thiện Khiêm
(Tham Mưu Trưởng Liên Quân) như thường lệ.
Tướng Minh hỏi: “Tụi Moi đảo chánh, Toa nghĩ sao?”
Tác giả trả lời: “Đảo chánh là một quốc gia đại sự, sao tới giờ phút này Trung Tướng mới cho tôi hay?”
Đó là nguyên văn câu hỏi và câu trả lời, không hơn không kém. Trong khi đó, một sĩ quan tùy viên của tướng Minh chĩa súng Carbine vào lưng tác giả. Vài phút sau, Đại tá Đỗ Mậu (Giám Đốc An Ninh Quân Đội) kêu tác giả lên đài phát thanh tuyên bố theo phe đảo chánh. Tác giả trả lời là không có gì để tuyên bố cả. Tác giả bị giam giữ tại BTTM và chỉ thoát chết trong đường tơ kẽ tóc nhờ cảm tình của một số Tướng Tá (theo phe đảo chánh) và sự can thiệp của vợ mình.
Tác giả trả lời: “Đảo chánh là một quốc gia đại sự, sao tới giờ phút này Trung Tướng mới cho tôi hay?”
Đó là nguyên văn câu hỏi và câu trả lời, không hơn không kém. Trong khi đó, một sĩ quan tùy viên của tướng Minh chĩa súng Carbine vào lưng tác giả. Vài phút sau, Đại tá Đỗ Mậu (Giám Đốc An Ninh Quân Đội) kêu tác giả lên đài phát thanh tuyên bố theo phe đảo chánh. Tác giả trả lời là không có gì để tuyên bố cả. Tác giả bị giam giữ tại BTTM và chỉ thoát chết trong đường tơ kẽ tóc nhờ cảm tình của một số Tướng Tá (theo phe đảo chánh) và sự can thiệp của vợ mình.
+ + +
6. Nói đến liên hệ của ông với tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, tướng Cao Văn Viên nhắc lại giai đoạn 1974 và 1972 như sau:
Đại tướng Cao Văn Viên: Hai năm 71 – 72 là khúc quanh quan trọng trong đời sống quân ngũ của tác giả. Như đã nói phần trước, tác giả đãû xin Tổng thống Thiệu về hưu ba lần nhưng không được nên phải làm việc như thường tuy kém phần hăng say như năm năm về trước. Vai trò của BTTM vẫn không thay đổi trong thời gian này.
Cuối năm 1971 là năm bầu cử Tổng Thống. Lần
này Tổng thống Thiệu ra ứng cử với ông Trần Văn Hương. Các liên danh
khác bị loại ra vì không đủ điều kiện ấn định bởi luật bầu cử, nên
báo chí rêu rao đây là màn “độc diễn” của Tổng thống Thiệu.
Trước ngày bầu cử, sau một buổi họp quân sự
với các Tư lệnh Quân Đoàn, Tư lệnh các Quân chủng Không và Hải quân,
TTMT, và Tổng trưởng Quốc phòng Nguyễn Văn Vỹ, Tổng thống Thiệu hỏi
các tướng lãnh về cuộc bầu cử sắp tới. Các tướng lãnh có mặt đều
nhiệt liệt ủng hộ liên danh Thiệu – Hương. Khi được hỏi, tác giả trả
lời là Tổng Thống đã có quyết định, nên không có ý kiến gì thêm.
+ + +
7. Một
trong các vấn nạn then chốt của việc sụp đổ nhanh chóng tháng 4-1975
là vấn đề quân viện và nhu cầu tái phối trí các đơn vị. Trong chức vụ
Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH, Đại tướng Cao Văn Viên có viết lại như
sau:
Đại tướng Cao Văn Viên: Vào khoảng tháng
1-1974, Bộ Tổng Tham Mưu được phía Hoa Kỳ thông báo viện trợ quân sự
trong tài khóa 74 – 75 bị cắt giảm 300 triệu Mỹ kim. Tổng Cục Tiếp
Vận phụ trách việc cung cấp quân trang, quân dụng, xe cộ, vũ khí và
đạn dược cho toàn thể quân lực VNCH đã nghiên cứu một kế hoạch để đối
phó với tình hình mới. Một cách tổng quát, kế hoạch nhận định là,
chương trình quân viện bị cắt giảm chỉ có thể thỏa mãn một quân đội
với số quân ít hơn; và số quân đó chỉ có khả năng phòng thủ một lãnh
thổ tương xứng của VNCH mà thôi. Kế hoạch này rất hợp lý trên thực
tế. Nhưng Tổng thống Thiệu, với tư cách Tổng Tư Lệnh Tối Cao Quân Lực
VNCH, đã đề ra đường lối quốc gia “Bốn Không” (một trong nhũng cái
không đó là không cắt đất cho cộng sản). Thấy kế hoạch của Tổng Cục
Tiếp Vận trái với quốc sách trên nên tác giả không chỉ thị trình lên
Tổng Thống một cách chính thức. Trung tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu
Trưởng Liên Quân kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, được phép
trình miệng kế hoạch trên cho Tổng Thống. Theo lời tướng Khuyên trình
lại, sau khi nghe thuyết trình, Tổng Thống Thiệu không có chỉ thị gì
thêm, và Tổng Thống cũng không có chỉ thị nào trực tiếp cho tác giả.
Vì những lý do trên, kế hoạch bị bỏ qua một bên.
+ + +
8. Tiếp theo, Đại tướng Viên viết thêm trong trang 130 gồm cả phần chú thích. Ông cho biết:
Đại tướng Cao Văn Viên: Tổng thống Thiệu bình
thản tiếp tục độc thoại về chính trị địa lý của miền Nam, nhưng khi
nói đến Vùng I và II, ông không tỏ vẻ lạc quan hay tự tin. Chỉ vào
vùng Cao Nguyên trung phần, Tổng thống Thiệu nói Ban Mê Thuột quan
trọng hơn hai tỉnh Kontum và Pleiku nhập lại, vì tài nguyên và dân số
của Ban Mê Thuột. Miền duyên hải của Vùng II cũng quan trọng với
tiềm năng dầu hỏa chứa đựng ở thềm lục địa. Về Vùng I, ý kiến của
Tổng thống Thiệu là “giữ được phần nào thì giữ.” Ông phác họa kế
hoạch phòng thủ ở Vùng I bằng những tuyến cắt ngang duyên hải từ Bắc
xuống Nam. Nếu chúng ta có đủ lực lượng, Tổng thống Thiệu nói, chúng
ta sẽ giữ đến Huế và Đà Nẵng. Nếu không được, chúng ta sẽ tái phối
trí quân lại ở Chu Lai, hay thấp hơn là Tuy Hòa. Kế hoạch này, Tổng
thống Thiệu nói tiếp, cho chúng sắp đặt lại khả năng để có nhiều hy
vọng giữ được những vùng đất quan trọng cho miền Nam trường tồn như
một quốc gia vững mạnh.
Sau này tác giả mới biết, trước buổi họp ngày 11 tháng 3-1975 tại Dinh Độc Lập, Tổng thống Thiệu đã có trong tay 3 đề nghị về việc này: Đề nghị số 1 vào năm 1974, tướng Đồng Văn Khuyên, tham mưu trưởng liên quân kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, đệ trình lên Tổng Thống ý niệm phải thu hẹp lãnh thổ VNCH thế nào tương xứng với sự cắt giảm viện trợ quân sự như chúng ta đã thấy. Thứ 2: Thiếu tướng John Murray thuộc phòng tùy viên quốc phòng Hoa Kỳ (Defense Attache Office-Vietnam) có cung cấp cho Tổng thống Thiệu qua Tòa Đại Sứ Mỹ một sơ đồ tương tự như Tổng Cục Tiếp Vận đề nghị. Thứ 3: Chuẩn tướng Úc Đại Lợi Ted Sarong cũng đề nghị qua một giới chức Phủ Tổng Thống một kế hoạch tương tự.
Sau này tác giả mới biết, trước buổi họp ngày 11 tháng 3-1975 tại Dinh Độc Lập, Tổng thống Thiệu đã có trong tay 3 đề nghị về việc này: Đề nghị số 1 vào năm 1974, tướng Đồng Văn Khuyên, tham mưu trưởng liên quân kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, đệ trình lên Tổng Thống ý niệm phải thu hẹp lãnh thổ VNCH thế nào tương xứng với sự cắt giảm viện trợ quân sự như chúng ta đã thấy. Thứ 2: Thiếu tướng John Murray thuộc phòng tùy viên quốc phòng Hoa Kỳ (Defense Attache Office-Vietnam) có cung cấp cho Tổng thống Thiệu qua Tòa Đại Sứ Mỹ một sơ đồ tương tự như Tổng Cục Tiếp Vận đề nghị. Thứ 3: Chuẩn tướng Úc Đại Lợi Ted Sarong cũng đề nghị qua một giới chức Phủ Tổng Thống một kế hoạch tương tự.
+ + +
9. Sau
đây là đoạn quan trọng nhất Đại tướng Viên kể lại những quyết định
lịch sử của hội nghị cao cấp nhất tại Dinh Độc Lập vào ngày 13 tháng
3-1975 về việc tái phối trí:
Đại tướng Cao Văn Viên: Như thường lệ, Tổng
thống Thiệu chủ tọa buổi họp dưới sự có mặt của Thủ tướng Khiêm, tác
giả, và Trung tướng Đặng Văn Quang. Sau khi tướng Trưởng chấm dứt
tường trình về tình hình Vùng I, Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh
Vùng III, được mời vào báo cáo vùng trách nhiệm của ông. Theo tướng
Toàn, tình hình Vùng III tương đối yên tĩnh, không có biến chuyển
quan trọng xảy ra.
Sau tướng Trưởng và Toàn, đến lượt Tổng thống Thiệu lên tiếng. Ông phân tích tình hình chung và những khó khăn VNCH đối đầu về vấn đề quân viện. Tổng thống Thiệu thú nhận ông không tin Hoa Kỳ sẽ can thiệp dù cho CSBV mở cuộc tổng tấn công vào miền Nam. Ông tỏ ý thông cảm về tình trạng thiếu thốn, khó khăn ở các quân đoàn. Ông cho biết trong thời gian gần đây ông ra nhiều quân lệnh nhưng ông biết các tư lệnh gặp nhiều khó khăn khi thi hành.
Sau tướng Trưởng và Toàn, đến lượt Tổng thống Thiệu lên tiếng. Ông phân tích tình hình chung và những khó khăn VNCH đối đầu về vấn đề quân viện. Tổng thống Thiệu thú nhận ông không tin Hoa Kỳ sẽ can thiệp dù cho CSBV mở cuộc tổng tấn công vào miền Nam. Ông tỏ ý thông cảm về tình trạng thiếu thốn, khó khăn ở các quân đoàn. Ông cho biết trong thời gian gần đây ông ra nhiều quân lệnh nhưng ông biết các tư lệnh gặp nhiều khó khăn khi thi hành.
Trong hoàn cảnh như vậy, Tổng thống Thiệu
tuyên bố, quân đội không thể làm gì khác hơn là thay đổi chiến lược,
tái phối trí lực lượng để giữ các vùng đất phì nhiêu, có tài nguyên.
Nếu chúng ta phải bỏ một số rừng núi cho cộng sản để giữ lại lãnh địa
màu mỡ, nhiều khoáng sản gồm có thềm lục địa, thì chúng ta cũng chấp
nhận. Thà vậy hơn là đứng chung một chánh phủ liên hiệp với cộng
sản. Vùng đất mà Tổng thống Thiệu nói đến là Đà Nẵng. Về vấn đề tái
phối trí quân – chuyện này tự Tổng thống Thiệu nghĩ ra một mình, chưa
hề tiết lộ trong một buổi họp nào – Sư đoàn Nhảy dù sẽ rời Vùng I,
theo sau là Sư đoàn TQLC, nếu tình hình phòng thủ của Vùng I không bị
ảnh hưởng khi hai đơn vị trên rút đi. Rút hai đơn vị trên khỏi Vùng I
cho phép quân đội tái lập lại các lực luọng tổng trừ bị. Cùng với
những cuộc rút quân khỏi Vùng I, Tổng thống Thiệu cho phép tướng Toàn
rút quân khỏi An Lộc, và sử dụng lực lượng đó vào những kế hoạch
phòng thủ nơi nào cần nhất ở Vùng III.
Sau khi Tổng Thống chấm dứt thì đến lượt tác
giả. Với tư cách Tổng Tham Mưu Trưởng, tác giả nhắc các tư lệnh quân
đoàn phải cẩn thận khi rút quân. Buổi hợp ngày 13 tháng 3 chấm dứt
sau ba tiếng rưỡi đồng hồ, mặc dù các tham dự viên đã không bàn cãi
dài dòng.
Như vậy buổi hợp ở Dinh Độc Lập vào ngày 13
tháng 3-1975 đã được thuật lại rõ ràng ở trên. Trong dịp đó Tổng
thống Thiệu đã cho hai vị tư lệnh quân đoàn I và III (tướng Trưởng và
tướng Toàn) biết ý định sắp xếp lại lãnh thổ VNCH sao cho phù hợp
với sự cắt giảm viện trợ quân sự. Tuy nhiên, Tổng thống Thiệu chưa
cho lệnh rút quân ở bất cứ nơi nào vào lúc đó, trừ việc bỏ An Lộc ở
Vùng III. Buổi họp ở Cam Ranh ngày 14 tháng 3 xảy ra sau khi Ban Mê
Thuột mất, và tại Cam Ranh Tổng thống Thiệu ra lệnh tái phối trí lực
lượng của Quân đoàn II để chiếm lại Ban Mê Thuột.
+ + +
10. Đoạn sau đây Đại Tướng nói rõ thêm về việc ông được phép từ chức và ra đi:
Đại tướng Cao Văn Viên: Trước khi từ chức,
Tổng thống Trần Văn Hương đã ký một sắc lệnh giải nhiệm tác giả chức
vụ Tổng Tham Mưu Trưởng. Trong khi chờ đợi tân Tổng thống Dương Văn
Minh chính thức bổ nhiệm Tổng Tham Mưu Trưởng mới, tác giả chỉ định
Trung tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng BTTM, xử lý thường vụ
chức Tổng Tham Mưu Trưởng. Sau đó tác giả được di tản ra Hạm Đội 7
vào trưa thứ Hai, 28 tháng 4-1975.
+ + +
11. Sau
cùng một trong các chi tiết rất nhỏ nhưng có thể rất quan trọng giữa 2
cuốn sách xuất bản cách nhau 17 năm chúng tôi xin ghi lại:
Trong cuốn hồ sơ dinh Độc Lập trang 557 tác giả Nguyễn Tiến Hưng đă viết về buổi họp các tướng lãnh với tổng thống Thiệu (nguyên văn) như sau khi ông đề cập đến vấn đề tín nhiệm.
Thiệu kể lại rằng không có một ai nói một
lời và như vậy là đã rõ là họ không muốn ông ngồi lại ghế tổng thống
nữa. Giữa lúc đó Thiệu tuyên bố từ chức và để phó Tống Thống Trần
Văn Hương lên làm tổng thống. Tướng Cao Văn Viên theo Thiệu về văn
phòng nước mắt chảy quanh và nói: Thưa tổng thống, tôi không bao giờ
nghĩ sẽ có ngày hôm nay.
Đại tướng Cao Văn Viên rất bất bình về
đoạn văn ngắn ngủi này. Sự thực do ông Thiệu kể lại cho ông Hưng ra
sao, câu trả lời đã đem xuống thuyền đài.
17 năm sau khi những trang sách của ông Hưng
được in ra. Trong cuốn sách xuất bản năm 2003, phần ghi chép của
trang 219, đại tướng Cao Văn Viên viết nguyên văn như sau: ” tác
giả (tức đại tướng Viên ghi chú của người dẫn) nhớ rõ ràng, sau buổi
họp tác giả ra về ngay không theo tổng thống Thiệu về phòng làm việc
của ông ta. Đây là lần chót tác giả gặp ông Thiệu trước khi mất
nước. Tác giả không khi nào rưng rưng nước mắt và nói không thể tưởng
tượng có thể xảy ra ngày hôm nay.”
Đây chỉ là chuyện của ông Nguyễn Tiến Hưng
viết trong The Palace File. Mối liên quan giữa tác giả và Tổng thống
Thiệu hoàn toàn đặt trên căn bản quân vụ, nên không có những giờ phút
cởi mở tâm tình.
+ + +
Qua các tài liệu trích dẫn được trình bày,
chúng tôi muốn ghi lại và gửi đến quý vị các nét chính của lịch sử đã
diễn ra qua các nhân vật khác nhau về những ngày cuối của VNCH.
Mỗi ngày trôi qua, chúng ta có thể quên dần
chuyện cũ, nhưng các dữ kiện mới lại xuất hiện. Càng nhiều tin tức
thì sự suy luận lại phải thêm dè đặt. Chúng tôi xin ghi lại các tin
tức lấy từ tài liệu được chính thức xuất bản của các tác giả để chúng
ta cùng suy ngẫm. Chân lý trong lịch sử sẽ chẳng bao giờ toàn vẹn và
sự lên tiếng muộn màng của Đại tướng Cao Văn Viên có thể sẽ là lời
nói sau cùng về những nỗi bất bình mà ông cảm nhận từ nhiều năm nay
cần được giải tỏa. Có lẽ tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng cũng cần xem lại để
phân biệt những gì ông trực tiếp nhìn thấy, với những gì ông nghe
nói lại dù là nghe được từ Tổng Thống về những giọt nước mắt mà Đại
tướng Cao Văn Viên chia sẻ với Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu. Đôi khi
những chuyện nhỏ như vậy có xảy ra hay không, cũng là những chi tiết
quan trọng của lịch sử.
Giao Chỉ – San Jose
No comments:
Post a Comment