Monday, May 25, 2020

Chuyện Tình Thời Chinh Chiến - Lê Chiến K8/72 SQTB


Chị Phụng của tôi Tôi gia nhập lực lượng Nhân Dân Tự Vệ phường Thạc Gián , quận 2 thành phố Đà Nẵng mùa thu năm 1971, sau một ngày huấn luyện căn bản quân sự và một ngày huấn luyện tác xạ tại trung tâm huấn luyện Hòa Cầm, tôi nhớ không lầm thì đây là nơi huấn luyện cho Địa Phương Quân và Nghĩa Quân của tiểu khu Quảng Nam. Tôi đang học thi Tú Tài II nên được ưu tiên đi gác từ 8 giờ tối đến 10 giờ đêm, tại 1 trong 2 trạm gác của phường, phiên gác nầy chỉ dành cho các cô còn độc thân khoảng 18 đến 25 tuổi, sau đó thì đoàn thanh niên NDTV sẻ tiếp tục phiên gác cho đến sáng. Nhiệm vụ canh gác là ngăn chận CS không di chuyển vũ khí vào các phường, khóm, như chúng đã từng làm trong dịp Tết Mậu Thân. 
Nhóm chúng tôi có 4 người chị Phụng và chị Lý lớn hơn tôi 2 tuổi, còn Kim Anh thì cùng tuổi với tôi. Tôi đi canh gác hàng đêm với một trong ba cô con gái của đoàn Thanh Nữ NDTV thay phiên nhau, tôi có nhiều kỷ niệm đẹp với chị Phụng hơn là chị Lý và Kim Anh, với chị Lý thì chúng tôi là hàng xóm, nhà sát bên nhau nên gặp nhau hàng ngày, chị rất nghiêm trang và ít nói, còn tôi và Kim Anh cùng tuổi thì trò chuyện om sòm mổi lần đi gác với nhau. 
Mẹ tôi thường dặn dò tránh xa con gái cao số thì tôi sẻ chết sớm hay họ sẻ ăn hiếp tôi suốt đời, tôi bận bịu công việc học hành và thay mặt ba tôi còn đang còn tại ngũ coi sóc bảy đứa em còn nhỏ dại, nên không có cơ hội gặp gở người khác phái để dính líu đến vấn đề lo sợ của mẹ tôi, ngoại trừ 2 tiếng đồng hồ mổi đêm đi gác với một trong 3 cô hàng xóm. 
Chị Phụng rất gần gủi với tôi, tuy nhiên chị tuổi Dần nên mẹ tôi không thích sự gần gủi của chúng tôi cho lắm vì theo lời mẹ tôi thì đàn bà tuổi Dần thì cao số, chị có người yêu là một anh Chuẩn Úy BĐQ người Sài Gòn đóng quân trên Thường Đức, nơi mà cách đó vài năm chú tôi là lính LLĐB bị bắt làm tù binh khi CSBV tấn công căn cứ nầy. Anh Hoàng hay theo xe hậu cứ về Đà Nẵng thăm chị Phụng, anh cắm chiếc mũ nâu vào cầu vai áo khi vào xóm, với tôi lúc đó hình ảnh người Sĩ Quan trẻ tuổi mặc áo rằn ri, đi với 2 người lính mà mẹ tôi gọi là tà lọt cho anh Hoàng làm tôi mơ ước và hình dung một ngày nào đó tôi sẻ như anh, mùa đông miền Trung buốt giá từng đêm, nhiều khi có vài cơn mưa phùn lất phất nên gia tăng cái lạnh vô cùng, tôi luôn luôn chờ đợi những đêm cùng phiên gác với chị Phụng, để trong đêm tối nhìn nụ cười rạng rở trên môi hồng của chị, khi tôi kể chị nghe mơ ước ngày mới lớn, tôi mê thơ Hàn Mặc Tử và căn bện dị ứng ngoài da của tôi làm bạn bè càng diểu cợt, có ngày tôi sẻ vào trại cùi Bến Sắn mà không có Mộng Cầm, tôi mơ mộng có Mộng Cầm dù sao đi nữa thì cuộc đời cũng đở cô đơn, tôi hy vọng có một ngày sẻ trở thành nhà thơ nổi tiếng như Xuân Diệu, Huy Cận hay Quang Dũng, mặc dù theo lời các bạn học của tôi thì thơ tôi không hay bằng thơ đánh số đề của báo Trường Sơn, phát hành tại Đà Nẵng vào thời buổi nầy, tôi tập tành viết văn nhưng văn tôi đầy mùi vị của những tuồng cải lương mà tôi nghe từ chương trình phát thanh của đài Sài Gòn hàng tuần, tôi muốn làm lính áo rằn, đội nón bê rê màu phủ bụi đường, vào quán cà phê tán dóc với mấy cô tiếp thụ xinh đẹp mà không lo sợ đám du côn Đà Nẵng hành hung, ăn hiếp. 
Tôi thèm hơi ấm từ người chị sưởi những đêm mưa lạnh, khi chị choàng áo mưa che cho tôi khỏi ướt áo, tôi nghe trái tim ngày mới lớn rạo rực với rung động đầu đời, chị kể tôi nghe chuyện anh Hoàng những ngày trong chiến trận, nổi lo âu một ngày anh không trở lại, tôi an ủi chị và nguyện cầu cho anh được bình an để hai người có một ngày sống hạnh phúc bên nhau khi đất nước thanh bình. Mùa hè đỏ lữa 1972 tôi trình diện Trung Tâm tuyển mộ nhập ngũ theo lịnh Tổng động viên, rồi vào thụ huấn tại trường Đồng Đế, Nha Trang, sau khi tốt nghiệp tôi được về binh chũng Thiết Giáp, trong hai tuần về phép tôi ghé thăm chị Phụng trước khi trình diện trường Thiết Giáp để học SQ Căn Bản TG, chị Phụng trông già đi nhiều tuổi, chị rất mừng khi tôi không làm lính bộ binh, dầu không được mặc áo rằn ri như tôi mơ ước nhưng không lội suối. băng rừng như anh Hoàng lúc nầy đã lên Thiếu Úy, tuy nhiên tình hình chiến sự chung quanh quận lỵ Thường Đức khi đó rất căng thẳng, anh Hoàng hành quân liên miên ít khi có dịp ghé về thăm chị. Chị nắm tay tôi khi giả từ, nước mắt nhỏ xuống khuôn mặt rạng rở, mà tôi đã nhiều lần nhìn trong những đêm ngồi gác bên nhau, tôi nhớ câu thơ (Cổ lai chinh chiến kỹ nhân hồi) nên thấy lòng ái ngại, không biết cho tôi hay cho anh Hoàng trong những ngày tháng tới. 
Mãn khóa CBTG tôi chọn về Lữ Đoàn III Xung Kích, các Thiết Đoàn Kỵ Binh thuộc Lữ Đoàn nầy thường hành quân với các đơn vị BĐQ nên tôi có nhiều kỷ niệm đẹp với những người lính mũ nâu, đầu tháng 10 năm 1974 tôi đi phép về Đà Nẵng, tôi đến tìm thăm nhưng không gặp chị Phụng, anh Hoàng mất tích trong một trận đánh trước đó vài tháng khi CSBV tấn công quận lỵ Thường Đức, chị Phụng lên đó tìm anh mặc dù đường liên tỉnh lộ 4 từ Đại Lộc lên Thường Đức rất nguy hiểm, khi lực lượng Nhảy Dù còn chiến đấu dũng cảm trên đồi 1062 và CSBV thường xuyên phục kích và tấn công trên chặng đường vào quận lỵ nầy. 
Tôi nhớ bản nhạc chuyện tình Mộng Thường, cô em gái hậu phương yêu anh lính Biệt Động Quân rồi tử nạn trên đường đến thăm anh, tôi lo sợ cho chị Phụng khi trên đường về thăm quê nội ở Đại Lộc, nhìn cảnh hoang tàn đổ vở của quê tôi do kẻ thù từ phương Bắc gây ra. Từ đó tôi không còn nghe tin tức gì của chị Phụng và anh Hoàng, năm 2002 tôi có dịp ghé qua Thường Đức trong một lần về lại Việt Nam, cuộc hành trình từ Đà Nẵng băng qua căn cứ huấn luyện Hòa Cầm, từ Ái Nghỉa xuôi theo LTL 4 qua Hà Nha rồi vào Thường Đức, tôi cảm thấy bùi ngùi có thể chị Phụng của tôi đã ra đi trên chặng đường nầy để tìm lại người yêu, tôi nhớ hai câu thơ Mỹ nhân tự cổ như danh tướng Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu Chị Phụng của tôi chẵng phải là mỹ nhân nhưng chị có tấm lòng tốt đẹp dành cho tôi, chị không có nụ cười quyến rũ như những cô minh tinh trên màn ảnh xi nê, mà tôi đã xem trong những buổi cuối tuần tại rạp Trưng Vương nhưng ánh mắt và tiếng cười của chị còn mãi trong tôi dư hương của những ngày với vào tuổi đôi mươi, tôi nhớ mãi lần gặp gở sau cùng khi chị cầm tay tôi trong nước mắt buổi giả từ, có lẻ chị linh cảm một ngày nào chúng tôi sẻ không còn gặp lại nhau, điều nầy làm cho tôi càng nhớ chị hơn nên hồn tôi quặn nổi đau, cơn gió Tây thổi về từ rặng Trường Sơn ngày cuối tháng mười hơi lành lạnh, tôi nhớ hơi ấm tình thương của chị trong những đêm lạnh quê miền Trung và lạ lùng thay khi không có mưa phùn bay mà tôi nghe ướt mắt ngày về lại quê hương.

Lê Chiến khóa 8/72 SQTB Đồng Đế

No comments:

Post a Comment