1. TỔNG QUÁT.
Nhằm đào tạo Sĩ Quan Hiện Dịch cho cả 3 Quân
Chủng: Hải, Lục và Không
Quân, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa,
Tổng Thống Ngô Đình Diệm
đã ký Sắc Lệnh số 317/QP/TT ngày
29-7-1959 cải tổ Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt thành
Trường Võ Bị Quốc Gia
Việt Nam (TVBQGVN) với chương trình Văn Hóa và Quân Sư 4 năm. Sinh Viên Sĩ Quan
(SVSQ) Khóa
16 được tuyển chọn và huấn luyện theo tinh thần sắc lệnh này.
Sau ngày mãn khóa,
các tân sĩ quan có trình độ Văn Hóa tương đương năm thứ 2
Đại Học Dân Sự và trình
độ Quân Sự vững chắc để chỉ huy
đơn vị
cấp
Trung Đội và Đại Đội trong cuộc chiến
tranh mới chống lại ý thức hệ cộng sản. Khóa 16 là khóa
đầu tiên đặt nền móng cho chương trình huấn luyện mới, tạo tiền lệ cho các khóa sau,
phải trải qua những giai đoạn thanh lọc và thử thách cam go.
Khóa Sinh K16 trình diện nhập học
tại TVBQGVN cũ.
-
Nhập Trường: Ngày 23-11-1959.
-
Số Khóa Sinh Nhập Trường: 326.
- Thời Gian Thụ Huấn: Từ
ngày 23-11-1959 đến ngày
22-12-1962.
- Mãn Khóa: Ngày 22-12-1962.
-
Số sĩ quan tốt
nghiệp: 226.
- Vị Chủ Tọa Ngày Mãn Khóa: Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
- Tên Khóa: Khóa Ấp Chiến Lược.
- Thủ Khoa: SVSQ Bùi Quyền.
Khóa sinh K16 được các NT K14 tiếp đón tại phi trường
Liên Khương
2- KHÓA 16 - THỜI GIAN THỤ HUẤN.
Năm thứ 1.
- Nhập học tại Trường
Cũ, gần Hồ Mê Linh.
- Chỉ Huy Trưởng: Thiếu Tướng Lê Văn Kim.
- Trong 8 tuần sơ khởi, một số
khóa sinh bị loại vì lý
do sức khỏe và lý lịch.
- Ngày 5-6-1960, TT Ngô Đình Diệm đặt
viên đá đầu tiên xây Trường mới trên đồi 1515.
Khởi
đầu 8 tuần lễ sơ khởi
Chuẩn bị ra bãi tập
SVSQ K14 gắn Alpha cho TKS/K16 sau 8 tuần lễ Sơ Khởi.
Tổng Thống Ngô Đình Diệm
đặt viên đá đầu tiên
xây cất TVBQGVN trên đồi 1515, ngày 5-6-1960.
xây cất TVBQGVN trên đồi 1515, ngày 5-6-1960.
Đội hình Liên Đoàn SVSQ đầu tiên tại Trường mới
trên đồi 1515 với 2 khóa 16 và 17.
SVSQ/K16 năm thư 1, quân phục làm việc
trên đồi 1515 với 2 khóa 16 và 17.
SVSQ/K16 năm thư 1, quân phục làm việc
Năm thứ 2:
- Chỉ Huy Trưởng: Tr/Tá Trần Ngọc Huyến thay
thế Th/Tướng
Lê Văn Kim sau biến cố Chỉnh Lý ngày 11-11-1960.
- 52 SVSQ, vì số điểm văn hóa dưới trung bình, mặc dầu điểm quân sự cao, được chuyển về thụ huấn Khóa 2 Trường Hạ Sĩ Quan tại Nha Trang, tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn Úy Hiện Dịch.
- 52 SVSQ, vì số điểm văn hóa dưới trung bình, mặc dầu điểm quân sự cao, được chuyển về thụ huấn Khóa 2 Trường Hạ Sĩ Quan tại Nha Trang, tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn Úy Hiện Dịch.
- Khóa đầu tiên được tuyển chọn về
2 Quân Chủng Hải Quân và
Không Quân từ cuối năm thứ 2. Đại diện BTL/KQ lên
Trường chọn
30 SVSQ, và đại diện BTL/HQ chọn 15 SVSQ. Những SVSQ này sau khi
mãn khóa sẽ trình diện Quân Chủng liên hệ để theo học chương trình huấn luyện
chuyên môn.
SVSQ/K16
năm thứ 2, quân phục dạo phố Mùa Hè.
SVSQ/K16 trong một lớp học Văn Hóa.
Phòng thí nghiệm hóa học
Năm thứ 3:
- Sau ngày Khóa 15 mãn khóa, kể từ ngày 3-6-1961, Khóa 16 đảm trách Hệ Thống Tự Chỉ Huy Liên
Đoàn SVSQ/TVBQGVN (LĐ/SVSQ).
- Tháng 8/1961, K16 và K17 được chuyển sang
doanh trại Trường Võ Bị mới tại đồi 1515. LĐ/SVSQ gồm 2
khóa.
- Ngày 23/11/1961 Khóa 18 nhập học, K16 đảm trách huấn luyện TKS Khóa 18.
- Du hành quan sát: Thăm các quân trường (Pháo
Binh, Hải Quân, Biệt Động Quân, Công Binh, Truyền Tin). Thăm các BTL/TQLC,
SĐ5/BB. Quan sát nhẩy dù biểu diễn tại bãi nhẩy dù Củ
Chi.
- Thụ huấn khóa Rừng Núi Sình Lầy nửa tháng tại TTHL/BĐQ Dục Mỹ, Nha Trang.
Doanh trại TVBQGVN trên đồi 1515
TVBQGVN chiếm giải Nhất Diễn Hành Quốc Khánh,
ngày 26/10/1961, với 2 khóa 16 và 17 tại Sài Gòn.
ngày 26/10/1961, với 2 khóa 16 và 17 tại Sài Gòn.
Huấn luyện TKS/K18
Du hành quan sát Lữ Đoàn Dù
Du hành quan sát TTHL/HQ Nha Trang
Năm thứ 4.
- Ngày 21-11-1962 K19 nhập học, LĐ/SVSQ có 4 khóa:
16, 17, 18 và 19.
- Hoàn tất chương trình thụ huấn 4 năm
thu gọn trong 3
năm 1 tháng theo chỉ thị của TT Ngô Đình Diệm vì tình hình chiến sự.
- Tuyển chọn đơn vị. Các tân thiếu úy
được phân phối:
TT Ngô Đình Diệm
và Đại Tướng Lê Văn Tỵ duyệt đội hình SVSQ/K16
TT Ngô Đình Diệm và Tr/Tá CHT Trần Ngọc Huyến
gắn cấp bậc Th/Úy cho Thủ Khoa Bùi Quyền
gắn cấp bậc Th/Úy cho Thủ Khoa Bùi Quyền
Tân Th/Úy K16 tuyên thệ
Tân Th/Úy K16
diễn hành qua khán đài
Tân Thiếu Úy K16 chụp hình lưu niệm
TT Diệm ăn trưa sau Lễ Mẵn Khóa
16
Lục Quân.
- Lưu dụng tại Trường:
Vì muốn duy trì các hệ thống chỉ huy và huấn luyện theo tinh thần cải tổ
của TVBQGVN, 15 tân sĩ quan K16 được BCH Trường đề nghị,
Bộ TTM cho
lưu giữ sau khi tốt nghiệp, để đảm nhiệm các chức vụ chỉ huy trong LĐ/SVSQ và
huấn luyện viên quân sự. Sau đó, số sĩ quan này đã được thuyên chuyển
về các
đơn vị. Thời gian sau lại có một số khác từ các đơn vị tác chiến được
thuyên chuyển về Trường .
- Nhẩy Dù: 3 tân sĩ quan được tuyển chọn. Sau này được thuyên chuyển
về thêm 2 sĩ quan K16.
- Thủy Quân Lục Chiến: 10 tân sĩ quan được
tuyển chọn. 3 SQ/K16 khác cũng đã được thuyên chuyển
về Binh Chủng.
- Biệt Động Quân: 13 tân sĩ quan được tuyển
chọn.
- Lực Lượng Đặc Biệt: Không ai được tuyển chọn.
Về sau, 3 SQ/K16 được thuyên chuyển về.
- Các Sư Đoàn Bộ Binh: 166 tân sĩ quan chọn phục
vụ 9 SĐ/BB.
Không Quân:
- 30 tân sĩ quan được chọn, tuy nhiên 2
người vì lý do an ninh nên BTL/KQ chỉ nhận 28. Trong số này có 11
sĩ quan theo khóa hoa tiêu trực thăng và 2 sĩ quan theo khóa hoa tiêu khu
trục tại Hoa Kỳ. Số còn lại theo học khóa hoa tiêu trực thăng tại phi trường
Tân Sơn Nhất. Gần cuối khóa, 2 sĩ quan qua ngành quan
sát. Sau có 1 sĩ quan từ TQLC thuyên chuyển về TTHL/KQ Nha Trang,
một thời gian lâu sau lên giữ chức Liên Đoàn Trưởng LĐ/SVSQ/KQ, và một sĩ quan bộ binh được tuyển
về KQ phục vụ tại đơn vị
phòng thủ căn cứ.
Hải Quân:
15 tân Th/Úy được thực
tập trên các chiến hạm trong thời gian chờ nhập học Khóa
13/HQ vào tháng
5-1963. Nhưng vì không đồng ý đeo Alpha trở lại, 8 SQ/K16 xin đổi Quân
Chủng được bộ TTM
chấp thuận, chỉ còn 7 SQ/K16 nhập học Khóa 13/HQ và tốt nghiệp ngành chỉ
huy vào tháng 12-64.
3- KHÓA 16 - THÀNH TÍCH TỔNG QUÁT.
Sĩ quan Khóa 16 mang cấp bậc cao nhất:
6 Đại Tá, trong đó 1 Đại Tá tử trận, 1 Đại Tá bị bức tử trong trại
tù lao động khổ sai CS tại Hoàng Liên Sơn năm 1976, và
1 Trung Tá tử trận được truy thăng Đại Tá.
SQ đảm nhiệm các chức
vụ quân sự tại:
- Trường VBQGVN:
Các sĩ quan cán bộ Trung Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng, và Đại
Đội Trưởng của
Trung Đoàn SVSQ; Trưởng Phòng Điều hành quân sự vụ, và các SQ/HLV
các bộ môn quân sự.
- Không Quân:
1 Không Đoàn Trưởng, 1 Không Đoàn Phó,
6 Phi Đoàn Trưởng, 1 Tham Mưu Phó An Phi SĐ, 1 Trưởng
Phòng kế
hoạch BCH/Liên Đoàn Kiểm Báo, 1 Trưởng Phòng Thống
Kê & Huấn Luyện BCH/HQ/KQ, 1 sĩ quan phòng thủ căn cứ, 1 Liên Đoàn Trưởng LĐ/SVSQ thuộc TTHL/KQ Nha Trang.
-
Hải Quân:
3 Hạm Trưởng, 1 CHT của
BTL/HQ,
1 CHT/Căn Cứ HQ Nha Trang, 1 sĩ quan Đại Diện HQ tại
Bộ TTM,
1 sĩ quan đại diện HQ tại TT/Phát Triển Khả
Năng Tác Chiến.
-
Bộ TTM:
Trưởng Ban các Phòng, Sở và Tổng Hành Dinh, ĐĐT/ĐĐ1/Quân
Cảnh.
-
Nhẩy Dù:
2 Lữ Đoàn Trưởng (LĐT), 1 LĐ Phó, 1 Tiểu Đoàn Trưởng.
-
Thủy Quân Lục Chiến:
2 LĐT, 2 LĐP, 3 Trưởng Phòng BTL/SĐ/TQLC, 5 TĐT, 1 LĐT và 1 LĐP mất tích, 1
LĐT chết trong
trại tù lao động khổ sai của CS tại Bắc Việt.
- Lực Lượng Đặc Biệt:
1 CHT Đoàn Công Tác 11 thuộc Sở Công Tác Nha Kỹ Thuật TTM, 1 Phụ tá
B Trưởng KonTum, 1 HLV/LLĐB tại Long Thành, 1 Chỉ Huy
Toán.
- Biệt Động Quân:
1 Liên Đoàn Trưởng và một số TĐT.
-
Bộ Binh:
7 Tr/Đoàn Trưởng (2 tử trận và 1 bị CS Hà Nội sát hại trong trại giam ở
Miền Bắc) và một số Trưởng Phòng cấp SĐ, Tr/Đoàn
Phó, Liên Đoàn Trưởng
Địa Phương Quân.
* Nha Quân Pháp:
1 Giám
Đốc Quân Lao, 1 CHT Trại Giam tù phiến cộng.
* Chức vụ hành chánh: 2 Tỉnh
Trưởng, và 27 Quận Trưởng (6
QT đã hy sinh)
Một số Trưởng ty các Bộ trong
chính phủ. BTL Cảnh Sát, và 4QT Cảnh Sát.
- Chức vụ
Dân Cử: 3 Nghị Viên.
-
Bằng cấp đại học:
3 người, 1 đậu Cao Học Khoa Học vi tính (mất cuối năm 1992), 1 thương binh loại 2 giải ngũ, đậu
KS Công Nghệ tại TT/KT
Phú Thọ, đậu thêm Cao Học Đông Y tại HK, và 1 đậu bằng cử nhân Luật
Công Pháp, năm thứ nhất cao học.
Vì tình hình chiến sự do CSBV gây ra từ đầu thập niên 1960, Bộ TTM/QLVNCH
theo lệnh của Tổng Thống, đã cho rút ngắn chương trình huấn
luyện, khởi đầu từ Khóa
16, giảm từ 4 xuống 3 năm, và các Khóa 17,18,19,20,21 và nửa Khóa 22 xuống 2
năm. Mấy năm đầu sau khi mãn khóa, các sĩ quan Khóa
16 đã hứng chịu nhiều thương vong. Sau đây
là một số hy sinh đáng nhớ:
*
Th/Úy NHỮ VĂN HẢI, SĐ21/BB, SQ tử trận đầu tiên của
Khóa 16. Đêm 21
tháng 3 năm 1963, Th/Úy Hải, đại đội phó
một ĐĐ thuộc
Tr/Đoàn 48/SĐ21/BB trú đóng tại
đồn Biện Nhị, quận Thới Bình,
An Xuyên, bị Tiểu Đoàn U Minh VC bao vây tấn công và tràn ngập, Th/Úy Hải bị trọng thương, bị bắt, nhưng không chịu quy hàng,
bị tra tấn cho đến chết, lúc đó mới 23 tuổi. Do gương can đảm cao độ,
Tr/Tá CHT Trần
Ngọc Huyến, đã đặt tên cho CLB trước cổng
Trường là CLB Nhữ Văn Hải.
* Th/Úy LÝ VĂN QUẢNG TĐ8/ND, tử trận tháng
4-1963 lúc 26 tuổi.
* Th/Úy NGUYỄN TẤN MỸ Tr/Đoàn 44/SĐ23/BB tử
trận giữa năm 1963.
* Th/Úy HỒ XUÂN QUANG
Tr/Đoàn 45/SĐ23/BB tử thương
giữa năm 1963.
* Th/Úy NGUYỄN THẾ ĐỨC tử thương ngày
1-4-1963.
* Th/Úy TRẦN THIỆN GÁI, SĐ1/BB, tử trận
tháng 5-1963 lúc vừa qua 24 tuổi, tại Căn Cứ A Lưới, phía Tây Thành Phố Huế. Vài
năm sau, một con đường trong Thành Nội được
đặt tên: Đường TRẦN THIỆN GÁI.
* Th/Úy VŨ CHẤN HÙNG BB, tử trận ngày
25-11-1963.
* Th/Úy TRẦN TRỌNG MINH tử trận ngày
27-10-1963.
* Th/Úy TRỊNH AN THẠCH TĐ1/TQLC, tử trận
ngày 6-12-1963, mới 24 tuổi.
* Tr/Úy BÙI THANH TÂM SĐ22/BB, tử trận
tại đồi Dương Liễu, Tam Quan, 1965.
* Th/Úy LÊ ĐỨC RIỆP, tử trận ngày
27-7-1964.
* Th/Úy NGUYỄN PHƯƠNG SANH, tử trận tháng
7-1964.
* Th/Úy TRẦN NGỌC SƠN, tử trận
ngày 8-4-1964.
* Th/Úy BẢO SUNG và Th/Úy PHAN VĂN
TÂN.
Cả 2 là phi công trực thăng H-34 bay chung 1 phi vụ hành quân ngày
3-12-1964, Th/Úy Sung là phi công trưởng, Th/Úy Tân phi công phụ. Trực thăng bị
hỏa tiễn VC bắn cháy, đã cùng tử trận.
* Tr/Úy NGUYỄN VĂN NHƯỜNG KQ, phi công trực
thăng, Phi Đoàn 217 Tải Thương. Trong một phi vụ tải thương tháng 9-1964
tại Bời Lời, vùng Tam Giác Sắt, trực thăng bị
đich bắn cháy,
Tr/Úy Nhường bị phỏng nặng lúc mới 26 tuổi, mang thương tật suốt đời,
mất năm
2014 tại VN, thọ 77 tuổi.
* Tr/Úy TRẦN NGỌC TOÀN
TQLC, ĐĐT/TĐ4/TQLC
tham dự trận Bình Giả, Bà Rịa cuối tháng 12-1964,
bị trọng thương, mang nhiều
thương tích cho đến ngày nay.
* Đ/Úy NGUYỄN
BẢO TÙNG KQ, phi công trực thăng H-34 thuộc Biệt Đội Delta, Biệt Đoàn 83
(tiền thân của Phi Đoàn 219). Biệt Đội có nhiệm vụ thả các toán viễn thám Lôi Hổ dọc biên giới
Việt-Lào. Ngày 18-10-1965, từ Khâm Đức bay thả toán Biệt Kích
của Th/Tá Larry
Thorne, trực thăng Tr/Úy Tùng vì mây mù bay lạc và mất tích. Năm 1999, qua nỗ lực tìm kiếm
QN mất tích, HK tìm lại được xác chiếc trực thăng và hài cốt của toán
Biệt Kích
HK. Lễ an táng 4 hài cốt được tổ chức ngày 25-6-2003 tại nghĩa trang Quốc
Gia Arlington, VA, Cố Đ/U
Nguyễn Bảo Tùng cũng được chôn cất tại đây, tử trận khi vừa 25 tuổi.
*
Đ/Úy MAI NGUYÊN HƯNG KQ, phi công khu trục cơ AD-6. Sau một phi vụ Bắc
Phạt năm 1965, trên đường bay đêm về căn cứ KQ Biên Hoà, phi cơ của Tr/Úy Hưng,
phần vì bị trúng đạn phòng không địch, phần
cạn xăng, phải đáp khẩn cấp xuống phi
trường Phước Long. Vì phi đạo ngắn, phi cơ lâm nạn, Tr/Úy
Mai Nguyên Hưng tử thương.
được Truy Thăng Đại Úy, mất ở tuổi 24.
* Thiếu Tá HOÀNG LÊ
CƯỜNG.
Trong
Mùa
Hè Đỏ Lửa năm 1972,
Th/Tá Hoàng Lê Cường là Quận Trưởng quận Hoài Nhơn, Bồng Sơn, Bình Định.
Ngày 18-4-72, Tr/Đoàn 2 và Tr/Đoàn 21/SĐ3/Sao Vàng CS tiến chiếm Hoài
Ân.
Từ 24-4-72 đến 1-5-72, địch vây hãm 2
căn cứ
Bình Dương. Quận Phù Mỹ và Đệ Đức, Quận Hoài Nhơn, Bình Định. Vì áp lực
địch đè nặng lên khu vực trách nhiệm, Th/Tá Cường cùng viên Cố Vấn Hoa
Kỳ từ
Quận lái xe qua cầu Bồng Sơn đến
TĐ/ĐPQ thuộc quyền để duyệt xét tình hình. Sau đó, Th/Tá Cường đến
BCH/TĐ2/40
để yêu cầu phối hợp phòng thủ Quận. Th/Tá Cường
trở về BCH Chi Khu để chỉ huy lực lượng tại đây đang trong tình trạng
nguy hiểm. Khi lái xe qua cầu Bồng Sơn trở về
Quận, xe
jeep của Th/Tá Cường đã bị VC bắn cháy trên cầu, chỉ cách quận lỵ khoảng
500 thước,
Th/Tá Cường hy sinh tại chỗ. Bộ TTM đã đặt tên cho
K29/TVBQGVN là: Khóa Hoàng Lê Cường.
5- KHÓA 16 - THÀNH QUẢ THEO THỜI GIAN.
Đại Úy TRẦN
HỒNG VĨNH.
Thành
quả học vấn:
Tốt
nghiệp từ Trường Kỹ Sư
Công Nghệ, Trung Tâm KT Phú Thọ, Sài Gòn. South Baylor
University, School of Oriental Medicine, CA, USA. MS in Acupunctute and Oriental Medicine, 1993.
Đã phát hành:
Sổ
Tay Đông Y (bìa
mềm) 3 tập. Sổ Tay Đông Y (bìa
cứng) 3 tập.
Khí
Công. Khí Công Tái Bản
(có bổ sung).
Phản
Xạ Trị Liêu Phương (Giúp cho Kỹ Thuật Massage)
Dịch
Cân Kinh
của Đạt Ma Sư Tổ.
Sẽ phát hành:
Dược
Thảo. Đông Y Bệnh Lý Lâm Sàng.
Đại Tá NGUYỄN HỮU THÔNG.
Trung Đoàn Trưởng Tr/Đoàn 42 SĐ/22BB.
Tổng
Thống Nguyễn
Văn Thiệu (quay lưng) và 3 Trung Đoàn Trưởng SĐ22 thuộc K16 (hàng ngang
từ trái qua): Tr/Tá Đinh Văn Mễ Tr/Đ Trưởng Tr/Đ 47, Đ/Tá Nguyễn Hữu
Thông Tr/Đ Trưởng Tr/Đ 42, Đ/Tá Nguyễn Thiều
Tr/Đ Trưởng Tr/Đ 41.
Tháng 3-1975, khi Ban Mê Thuột thất thủ,
SĐ 22 chỉ còn 3 Tr/Đ để phòng thủ Bình Định vì Tr/Đ
40 đã phải tăng phái cho SĐ23 BB tại tuyến bắc Khánh Dương. Tại Bình Định, Tr/Đoàn 47 của Đ/Tá
Lê Cầu (K18) được giao khu vực bắc Bình Định, lo trấn giữ Bồng Sơn, cửa ngõ ra vào
thung lũng An Lão (Xem tiếp phần Đại tá Nguyễn Thiều, phần sau).
Trung Tá NGUYỄN XUÂN PHÚC.
Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2/TQLC - LĐ
Phó LĐ147 và LĐ Trưởng LĐ369/TQLC.
Cựu
Đại Tá Ngô Văn Định, một NT rất có uy tín trong Binh
Chủng TQLC, trên trang mạng "hoiquanphidung.com" đã có những nhận
xét
như sau:
"Khi tôi về làm TĐT/TĐ2 thay ông Minh tử trận tháng 6-1966 thì ông Chùa làm TĐP, Phúc làm ĐĐT/ĐĐ4. Tôi đề nghị cho ông Chùa về Sư Đoàn để ông Phúc làm TĐ Phó.
Ngay những ngày đầu hành quân ở khu Cồn Thiên Gio Linh Quảng Trị, tôi đã nhận biết được Nguyễn Xuân Phúc TĐ Phó là một SQ gan dạ và là cấp chỉ huy tôi có nhiều cảm tình. Đến năm 67 tôi đề nghị cho anh đi học Chỉ Huy Tham Mưu. Đi học về, vì nhu cầu anh được làm TĐP/TĐ5, đánh trận Rạch Ruông, một trận chiến thắng lớn của TĐ5 năm 1968, sau đó anh được đi nhận chức TĐT/TĐ6 hành quân Mậu Thân ở Gia Định.
Năm 1969, tôi bị thương nặng anh ra lãnh trách nhiệm chỉ huy TĐ2 thay tôi. Năm 1970, TĐ2 do anh chỉ huy trong trận Preveng ở Miên, đã đem vể cho hiệu kỳ TĐ2 một ngành Dương Liễu, và đây là Dương Liễu thứ 8 nên TĐ2 được mang dây biểu chương mầu Tam Hợp.
Năm 1971 anh dẫn Trâu Điên sang Hạ Lào, anh thăng trung tá và vẫn coi TĐ2 cho đến khi đánh vào QT 1972 thì giao TĐ2 cho Thiếu Tá Hợp và đi làm Lữ Đoàn Phó 147...và sau đó làm Lữ Đoàn Trưởng LĐ 369/TQLC.
Anh là một SQ quan giỏi, không bao giờ biết đến đồng xu cắc bạc nào của anh em. Không làm điều gì mất danh dự của Quân Đội và TQLC. Anh mất đi để lại cho tôi niềm luyến tiếc.".
Tr/Tá Phúc được ghi nhận mất tích sau cuộc triệt thoái của SÐ/TQLC khỏi Ðà Nẵng sáng ngày 29-3-1975.
"Khi tôi về làm TĐT/TĐ2 thay ông Minh tử trận tháng 6-1966 thì ông Chùa làm TĐP, Phúc làm ĐĐT/ĐĐ4. Tôi đề nghị cho ông Chùa về Sư Đoàn để ông Phúc làm TĐ Phó.
Ngay những ngày đầu hành quân ở khu Cồn Thiên Gio Linh Quảng Trị, tôi đã nhận biết được Nguyễn Xuân Phúc TĐ Phó là một SQ gan dạ và là cấp chỉ huy tôi có nhiều cảm tình. Đến năm 67 tôi đề nghị cho anh đi học Chỉ Huy Tham Mưu. Đi học về, vì nhu cầu anh được làm TĐP/TĐ5, đánh trận Rạch Ruông, một trận chiến thắng lớn của TĐ5 năm 1968, sau đó anh được đi nhận chức TĐT/TĐ6 hành quân Mậu Thân ở Gia Định.
Năm 1969, tôi bị thương nặng anh ra lãnh trách nhiệm chỉ huy TĐ2 thay tôi. Năm 1970, TĐ2 do anh chỉ huy trong trận Preveng ở Miên, đã đem vể cho hiệu kỳ TĐ2 một ngành Dương Liễu, và đây là Dương Liễu thứ 8 nên TĐ2 được mang dây biểu chương mầu Tam Hợp.
Năm 1971 anh dẫn Trâu Điên sang Hạ Lào, anh thăng trung tá và vẫn coi TĐ2 cho đến khi đánh vào QT 1972 thì giao TĐ2 cho Thiếu Tá Hợp và đi làm Lữ Đoàn Phó 147...và sau đó làm Lữ Đoàn Trưởng LĐ 369/TQLC.
Anh là một SQ quan giỏi, không bao giờ biết đến đồng xu cắc bạc nào của anh em. Không làm điều gì mất danh dự của Quân Đội và TQLC. Anh mất đi để lại cho tôi niềm luyến tiếc.".
Tr/Tá Phúc được ghi nhận mất tích sau cuộc triệt thoái của SÐ/TQLC khỏi Ðà Nẵng sáng ngày 29-3-1975.
Trung Tá ĐỖ HỮU TÙNG.
Tiểu Đoàn Trưởng TĐ6/TQLC - Lữ Đoàn Phó LĐ258
và 369/TQLC.
Mở đầu
bài chiến sử "TĐ6/TQLC - Thần Ưng Xé Xác Xe Tăng Địch 1972", về trận thư
hùng giữa TĐ6/TQLC và Trung Đoàn 66 thuộc SĐ304/CSBV
tại căn cứ Phượng
Hoàng đầu tháng 4-1972, Cựu Đ/T Phạm Văn Chung, LĐT LĐ369/TQLC đã viết:
"Qua đợt đầu Cộng sản Bắc Việt tấn công mãnh liệt, hung hãn, ồ
ạt, các căn cứ hỏa lực Carroll (Trung đoàn 56 thuộc Sư đoàn 3 Bộ binh) đầu hàng
và Mai Lộc (Lữ đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến) phải cầm cự lui dần, khi căn cứ
Pedro trở nên tuyến đầu phòng thủ. Thiếu tá
Đỗ Hữu Tùng, Sĩ quan khóa 16
đalat, phong thái trầm tĩnh, luôn như suy nghĩ điều gì, từ từ, thủng thẳng trong
mọi biến cố, kinh nghiệm chiến trường, một trong các Tiểu đoàn trưởng cự phách
của Thủy Quân Lục Chiến, là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến
biết thế nào căn cứ cũng bị chiến xa cùng quân bộ Cộng sản Bắc Việt tấn công kế
tiếp, nên anh phối hợp với Lữ đoàn 258 xin đặt mìn chống chiến xa sâu về hướng
Tây đường tiến sát đến căn cứ...".
TĐ6/TQLC đã xử dụng tối đa mìn chống chiến xa, súng phóng hỏa tiễn chống chiến
xa M72 và đại bác không dật 57 ly cơ hữu để tiêu diệt chiến xa địch, bắn cháy và gây
tổn thất nặng cho gần 20 chiến xa địch.
Th/Tá Đỗ Hữu Tùng được vinh thăng Trung Tá qua
chiến thắng này.
Ngày 1-10-1972, đảm nhận chức vụ LĐ Phó LĐ258, và ngày 1-7-1974 nhận chức vụ LĐ Phó LĐ369.
Sáng ngày 29-3-1975, Tr/Tá Tùng được ghi nhận mất tích sau cuộc triệt
thoái của SÐ/TQLC khỏi Ðà Nẵng.
Trung Tá NGUYỄN VĂN CẢNH,
Tiểu Đoàn Trưởng TĐ3
và TĐ14/TQLC.
Tái chiếm Cổ Thành Đinh Công Tráng, Quảng Trị:
Đêm 14 rạng ngày 15-9-1972, Tiểu
Đoàn
3/TQLC của Thiếu tá Nguyễn Văn Cảnh thuộc
LĐ147 cùng với Tiểu Đoàn 6/TQLC của Trung tá Đỗ Hữu Tùng
thuộc LĐ258 là 2 đơn vị chủ lực tấn công tái chiếm Cổ thành Quảng Trị. Thiếu Tá Nguyễn Văn Cảnh được vinh thăng Trung Tá
sau chiến công hiển hách này. Tháng 1-1975, Tr/Tá Cảnh nhận lệnh
thành lập TĐ14/TQLC và chỉ huy đơn vị này cho đến ngày 30-4-1975.
Trung Tá Cảnh và gia đình hiện định cư tại TP Houston, TB Texas.
Trung Tá NGUYỄN ĐẰNG TỐNG.
Lữ Đoàn Phó LĐ147 - Lữ
Đoàn Trưởng LĐ468/TQLC.
Ngày 9-4-72, Thiếu tá Nguyễn Đằng Tống
là TĐT/TĐ1/TQLC thuộc LĐ258 đã cùng một Chi đội của Chi đoàn
3/20 chiến xa (M48) tăng viện căn cứ Phượng Hoàng, đã truy kích gây thiệt hại
nặng cho Trung đoàn 66 Sư đoàn 304 và bắn cháy 4 chiến xa địch.
Tháng 7-1974, sau khi được thăng cấp, Tr/Tá Nguyễn
Đằng Tống được thăng chức LĐ Phó LĐ147 đến cuối tháng 3-1975.
Ngày 24-4-1975, Tr/Tá Tống được
bổ nhiệm làm LĐ Trưởng LĐ468 thay thế Đại Tá Ngô văn Định, chỉ huy các
Tiểu Đoàn TQLC phòng thủ tuyến Biên Hòa. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975,
Tr/Tá Tống bị CS đi tù lao động khổ
sai CS ngoài Bắc, và chết tại trại tù Yên Bái năm 1977.
Trung Tá NGUYỄN KIM ĐỄ.
Tiểu Đoàn Trưởng TĐ9/TQLC
- Trưởng Phòng 3/SĐTQLC.
Ngày
2-5-72, TĐ9/TQLC được lệnh triệt thoái từ Căn Cứ Barbara phía Tây trên rặng núi
Trường Sơn trở ra QL1 bên giòng sông Ô Khê. Rạng sáng ngày 3-5, TĐ9 và TĐ2 chận đứng
được lực lượng truy kích của Trung
Đoàn
812 thuộc SĐ324/CSBV để cho các đơn vị bạn triệt
thoái từ Quảng Trị về phía nam sông Mỹ Chánh. Sau đó khoảng 15g00, TĐ9
theo lệnh, áp dụng trì hoãn chiến lui quân về lập phòng
tuyến ở bờ Nam sông Mỹ Chánh. Tuyến phòng thủ Mỹ Chánh
với
3 tiểu đoàn: TĐ2, TĐ5 và TĐ9 thuộc LĐ369/TQLC đã chận đứng đà tiến quân của quân
CSBV
trong âm mưu tấn chiếm Cố Đô Huế. Thiếu tá
Nguyễn Kim Đễ được vinh thăng Trung Tá sau chiến
tích mang tính cách chiến lược này. Chức vụ sau cùng của Tr/Tá Đễ
là Trưởng P3/SĐTQLC.
Trước khi về Sài Gòn thụ huấn Khóa CH/TM Cao Cấp tại Long
Bình, ngày 1-10-1974 Tr/Tá Đễ bàn giao P3/SĐ lại cho Tr/Tá Trần Văn Hiển TĐT/TĐ6/TQLC,
vị TP3/SĐ cuối cùng của SĐ/TQLC.
Cố Tr/Tá Nguyễn Kim Đễ qua đời ngày 9-12-2015 vì
bạo bệnh tại TP Portland, TB Oregon, USA, hưởng thọ 76 tuổi.
Đại Tá ĐẶNG PHƯƠNG THÀNH.
Trung Đoàn Trưởng Tr/Đoàn 12 SĐ7BB.
Anh
hùng Đặng Phương Thành, nguyên Đ/Tá Tr/Đoàn Trưởng Tr/ Đoàn 12/SĐ7BB QLVNCH là Danh Nhân Quân
Sự Việt Nam.
Danh tánh, sự tích của Đ/Tá Thành được ghi vào Tân U Linh Việt Điện (quyển sách ghi chép sự tích thần kỳ của những người đã lao tâm lao lực cứu nước giữ nước trong lịch sử Việt Nam cận, trung và hiện đại).
Sự tích: Anh hùng Đặng Phương Thành đã tạo chiến thắng lớn trong trận cuối cùng tại Thủ Thừa tiêu diệt một trung đoàn VC trong tháng 4-1975, nhờ đó giữ vững đưọc Quốc Lộ 4 trong thời gian dầu sôi lửa bỏng này. Khi Đ/Tá Đặng Phương Thành đi tù CS ngoài miền Bắc, nhân lúc ông vượt ngục bất thành và bị bắt lại, hậm hực vì mối nhục thua trận Quốc Lộ 4, bọn cai ngục CS đã treo ông lên và đánh đập tàn nhẫn cho đến chết, ngày 9/9/1976.
Danh tánh, sự tích của Đ/Tá Thành được ghi vào Tân U Linh Việt Điện (quyển sách ghi chép sự tích thần kỳ của những người đã lao tâm lao lực cứu nước giữ nước trong lịch sử Việt Nam cận, trung và hiện đại).
Sự tích: Anh hùng Đặng Phương Thành đã tạo chiến thắng lớn trong trận cuối cùng tại Thủ Thừa tiêu diệt một trung đoàn VC trong tháng 4-1975, nhờ đó giữ vững đưọc Quốc Lộ 4 trong thời gian dầu sôi lửa bỏng này. Khi Đ/Tá Đặng Phương Thành đi tù CS ngoài miền Bắc, nhân lúc ông vượt ngục bất thành và bị bắt lại, hậm hực vì mối nhục thua trận Quốc Lộ 4, bọn cai ngục CS đã treo ông lên và đánh đập tàn nhẫn cho đến chết, ngày 9/9/1976.
Trung Tá TRƯƠNG THÀNH TÂM.
Không Đoàn Trưởng KĐ 64 Chiến
Thuật, KQ.
Là
một trong số 30 SVSQ K16 tình nguyện và được tuyển chọn về KQ vào cuối năm thứ
2. Tháng
8-63, Th/U Trương Thành Tâm mãn khóa huấn luyện trực thăng ở Ft Rucker
HK, và được
bổ nhiệm về Phi Đoàn (PĐ) 217 tân lập. PĐ di chuyển về Cần Thơ gia nhập
Không Đoàn (KĐ) 74 Chiến Thuật đầu năm 1964. Năm 1966, trách nhiệm Trưởng
Phòng Hành Quân PĐ/217, rồi PĐ Phó và sau khi mãn khóa học Squadron Officer
Schơol ở HK năm 1968, về lại PĐ 217 giữ chức vụ PĐ Trưởng tháng 6-1969.
- Tháng 6-1970, tình nguyện bay nhiều phi vụ trực thăng võ trang đầu tiên của KQ/VNCH yểm trợ cho 4 Tiểu Đoàn TQLC/VN tái chiếm thành phố Prey Veng Cam Bốt từ quân CSBV. Sau cuộc hành quân này, PĐ/217 được ân thưởng huy chương Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu.
- Tháng 1-1971 theo học Khóa CHTM Cao Cấp tại Long Bình và giữa năm này được thăng cấp Trung Tá.
- Năm 1972, gởi 2 bạn cùng K16 Trần Châu Rết và Lê Văn Châu đang bay ở PĐ/217 qua nhận lãnh chức vụ PĐ Trưởng PĐ/225 và 227.
- Tháng 5-1973, được chỉ định giữ chức vụ KĐ Phó KĐ/64 CT tân lập. Sau 3 tháng, đảm nhận chức vụ Không Đoàn Trưởng, chỉ huy 3 PĐ 217, 249 và 255, cùng Phi Đội Tải Thương 259 cho đến ngày 30-4-1975. Trung Tá Tâm định cư tại Nam California, qua đời ngày 6 tháng 9 năm 2016, hưởng thọ 77 tuổi.
- Tháng 6-1970, tình nguyện bay nhiều phi vụ trực thăng võ trang đầu tiên của KQ/VNCH yểm trợ cho 4 Tiểu Đoàn TQLC/VN tái chiếm thành phố Prey Veng Cam Bốt từ quân CSBV. Sau cuộc hành quân này, PĐ/217 được ân thưởng huy chương Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu.
- Tháng 1-1971 theo học Khóa CHTM Cao Cấp tại Long Bình và giữa năm này được thăng cấp Trung Tá.
- Năm 1972, gởi 2 bạn cùng K16 Trần Châu Rết và Lê Văn Châu đang bay ở PĐ/217 qua nhận lãnh chức vụ PĐ Trưởng PĐ/225 và 227.
- Tháng 5-1973, được chỉ định giữ chức vụ KĐ Phó KĐ/64 CT tân lập. Sau 3 tháng, đảm nhận chức vụ Không Đoàn Trưởng, chỉ huy 3 PĐ 217, 249 và 255, cùng Phi Đội Tải Thương 259 cho đến ngày 30-4-1975. Trung Tá Tâm định cư tại Nam California, qua đời ngày 6 tháng 9 năm 2016, hưởng thọ 77 tuổi.
Trung Tá NGUYỄN VĂN ỨC.
KQ.
Không Đoàn Phó KĐ/64 Chiến Thuật, KQ.
- 11-1959: Gia nhập Khoá 16 Trường VBQGVN.
- 2-1962: Khi tốt nghiệp được tuyển về Quân Chủng KQ.
- 4-1963: Học Khóa Hoa Tiêu Trực Thăng tại Hoa Kỳ.
- 5-1964: Tốt nghiệp về phục vụ tại PĐ/217, KĐ/33 CT, sau được chuyển về KĐ/74 CT tại Cần Thơ.
- 10-1969: Sĩ quan liên lạc Không Quân tại Hoa Kỳ.
- 1-1971: Phi Đoàn Trưởng PĐ/221, KĐ43 CT, thuộc SĐ3/KQ tại Biên Hoà, trách nhiệm chỉ huy lực lượng trực thăng, yểm trợ cho mặt trận An Lộc.
- 1-1973: Không Đoàn Phó KĐ/64 CT, thuộc SĐ4/KQ tại Cần Thơ.
- Tham gia các sinh hoạt Cộng Đồng, đặc biệt ở các Hội Đoàn CQN tại TP Orange County, TB California từ tháng 4-1975 cho tới nay.
Không Đoàn Phó KĐ/64 Chiến Thuật, KQ.
- 11-1959: Gia nhập Khoá 16 Trường VBQGVN.
- 2-1962: Khi tốt nghiệp được tuyển về Quân Chủng KQ.
- 4-1963: Học Khóa Hoa Tiêu Trực Thăng tại Hoa Kỳ.
- 5-1964: Tốt nghiệp về phục vụ tại PĐ/217, KĐ/33 CT, sau được chuyển về KĐ/74 CT tại Cần Thơ.
- 10-1969: Sĩ quan liên lạc Không Quân tại Hoa Kỳ.
- 1-1971: Phi Đoàn Trưởng PĐ/221, KĐ43 CT, thuộc SĐ3/KQ tại Biên Hoà, trách nhiệm chỉ huy lực lượng trực thăng, yểm trợ cho mặt trận An Lộc.
- 1-1973: Không Đoàn Phó KĐ/64 CT, thuộc SĐ4/KQ tại Cần Thơ.
- Tham gia các sinh hoạt Cộng Đồng, đặc biệt ở các Hội Đoàn CQN tại TP Orange County, TB California từ tháng 4-1975 cho tới nay.
HQ Trung Tá NGUYỄN NHƯ PHÚ.
Hạm Trương Dương Vận Hạm Quy Nhơn HQ504. Trong những tháng ngày triệt thoái kinh hoàng của Quân Dân vùng 1 chiến thuật từ tháng 3 & tháng tư, 1975, chiến hạm HQ 504 của ông và nhiều chiến hạm khác đã tham dự trợ giúp, cứu vớt cuộc di tản đầy đau thương nhất trong lịch sử cận đại của hằng vạn Quân Dân từ Huế, Đà Nẵng. Điễn hình nhất là HQ504 đã cứu gíup trên 3000 người từ Đà Nẵng đến Cam Ranh...
Hạm Trương Dương Vận Hạm Quy Nhơn HQ504. Trong những tháng ngày triệt thoái kinh hoàng của Quân Dân vùng 1 chiến thuật từ tháng 3 & tháng tư, 1975, chiến hạm HQ 504 của ông và nhiều chiến hạm khác đã tham dự trợ giúp, cứu vớt cuộc di tản đầy đau thương nhất trong lịch sử cận đại của hằng vạn Quân Dân từ Huế, Đà Nẵng. Điễn hình nhất là HQ504 đã cứu gíup trên 3000 người từ Đà Nẵng đến Cam Ranh...
Cũng
như một số rất đông Quân Dân Miền Nam không có phương tiện ra đi
ngày 30 tháng tư năm 1975, hoặc vì lý do này hay lý do
khác đã ở lại, HQ Nguyễn Như Phú đã phải trả một giá rất đắt:
trên 10 năm tù cải tạo. Khi ra tù, ông và con trai đã vươt biên
bằng đường biển vào cuối thập niên 1980 và định cư tại Bắc Cali.
Vài năm sau, may mắn thay, vợ và các con còn lại của ông được trùng
phùng qua diện Đoàn tụ sau những năm sống lao động cơ cực tại
quê nhà. Một lần nữa, họ tái định cư tại Anaheim, Miền Nam Cali
tự do.
HQ
Trung Tá Nguyễn Như Phú qua đời sau cơn bạo bệnh tại Kaiser
Hospital, Anaheim, California ngày 6 tháng 3 năm 2016, hưởng thọ
78 tuổi. (Trích tin trên Net)
Trung Tá LÊ MINH NGỌC,
LĐT/LĐ4/ND
và
Trung Tá TRẦN ĐĂNG KHÔI, LĐT/LĐ3/ND.
Vào ngày 1-11-1972, Ch/Tướng Lê Quang Lưỡng nhận chức TL/SĐ Nhảy Dù: LĐT/LĐ3 Tr/Tá Trần Đăng Khôi, và LĐT/LĐ4 Tr/Tá Lê Minh Ngọc. Trong Bút Ký Thiên Thần Mũ Đỏ Ai Còn Ai Mất, Ch/Tướng Lê Quang Lưỡng, ở đoạn kết đã viết: "... Về phần Lữ Đoàn 4, từ Đà Nẵng được rút về Sài Gòn giữa tháng 02-74, biệt phái Biệt Khu Thủ Đô. Chính Lữ Đoàn 4, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Lê Minh Ngọc, mà anh em Dù chúng tôi âu yếm gọi là "Ngọc Nga", đã chận VC ở cửa ngõ Thủ Đô, ngang Xa Lộ Biên Hòa, trong những giờ khắc Sài Gòn bắt đầu rơi vào rối loạn. Lữ Đoàn 3 của Trung Tá Trần Đăng Khôi (Lữ Đoàn Phó mới thay thế Đại Tá Phát trong chức vụ Lữ Đoàn Tưởng Lữ Đoàn 3 Dù, Trung Tá Bùi Quyền Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5, thay thế Khôi trong chức vụ Lữ Đoàn Phó) từ Phan Rang rút về đóng ở Hoàng Hoa Thám, đánh những trận chót ngay trong lòng Thủ Đô, mặc dù trăm nghìn giao động cho tới phút chót. Đến những giây phút cuối cùng, anh em Dù vẫn giữ vững từng tấc đất được giao phó, hoàn thành nhiệm vụ thiêu thân nút chặn để đồng bào ra đi, để được ngã gục trên thân thể của Quê Mẹ nghìn đời...".
Trung Tá TRẦN ĐĂNG KHÔI, LĐT/LĐ3/ND.
Vào ngày 1-11-1972, Ch/Tướng Lê Quang Lưỡng nhận chức TL/SĐ Nhảy Dù: LĐT/LĐ3 Tr/Tá Trần Đăng Khôi, và LĐT/LĐ4 Tr/Tá Lê Minh Ngọc. Trong Bút Ký Thiên Thần Mũ Đỏ Ai Còn Ai Mất, Ch/Tướng Lê Quang Lưỡng, ở đoạn kết đã viết: "... Về phần Lữ Đoàn 4, từ Đà Nẵng được rút về Sài Gòn giữa tháng 02-74, biệt phái Biệt Khu Thủ Đô. Chính Lữ Đoàn 4, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Lê Minh Ngọc, mà anh em Dù chúng tôi âu yếm gọi là "Ngọc Nga", đã chận VC ở cửa ngõ Thủ Đô, ngang Xa Lộ Biên Hòa, trong những giờ khắc Sài Gòn bắt đầu rơi vào rối loạn. Lữ Đoàn 3 của Trung Tá Trần Đăng Khôi (Lữ Đoàn Phó mới thay thế Đại Tá Phát trong chức vụ Lữ Đoàn Tưởng Lữ Đoàn 3 Dù, Trung Tá Bùi Quyền Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5, thay thế Khôi trong chức vụ Lữ Đoàn Phó) từ Phan Rang rút về đóng ở Hoàng Hoa Thám, đánh những trận chót ngay trong lòng Thủ Đô, mặc dù trăm nghìn giao động cho tới phút chót. Đến những giây phút cuối cùng, anh em Dù vẫn giữ vững từng tấc đất được giao phó, hoàn thành nhiệm vụ thiêu thân nút chặn để đồng bào ra đi, để được ngã gục trên thân thể của Quê Mẹ nghìn đời...".
Trung Tá
NGUYỄN PHÚ THỌ.
Trung Đoàn Phó Tr/Đoàn 3 SĐ1/BB.
Tử thủ căn cứ
Checkmate: Mùa Hè Đỏ Lửa, trưa ngày 30-3-1972, ngày cộng sản Bắc Việt tấn công vùng địa đầu
giới tuyến, Trung đoàn 54 do Tr/Tá Nguyễn Thanh Hạnh trách nhiệm khu vực cận
sơn Quận Nam Hòa, phía tây thị xã Huế.
Căn cứ Phú Xuân Bastogne do TĐ 2/54 trấn giữ và căn cứ
Checkmate, cao điểm 342
ở nam lộ 547 và cách Bastogne khoảng 1 cây số do TĐ1/54 của Th/Tá
Nguyễn Phú Thọ trấn giữ. Tr/Đoàn 29 SĐ324B của địch bao vây cũng như pháo kích cả 2 căn cứ từ ngày 2-4-72 và cắt
đứt đường tiếp tế … Do đó 2 căn cứ chỉ nhận được tiếp tế từ thả dù của không
quân.
Ngày 21-4-72, nhân dịp ra
Vùng I CT duyệt xét tình hình quân sự, TT Nguyễn Văn Thiệu đã
quyết định thăng đặc cách thực thụ cho mọi quân nhân đang tử thủ tại 2 căn cứ
trên. Cặp cấp hiệu Tr/Tá được thả theo dù tiếp tế và được binh sĩ Tiểu đoàn
1/54 thu nhặt mang về. Tr/Tá Thọ đã cười và nói một câu để đời bao hàm
nhiều ý nghĩa:
- “Tổng Thống thăng
cấp cho tao nhưng lon lại do chính lính gắn cho tao”.
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ,
đơn vị được lệnh rút khỏi căn cứ. Lúc 13.00g ngày 30-4-72, trên
đường rút lui, TĐ 1/54 bị Tr/Đoàn 29 của địch truy kích. TĐoàn
1/54 đã anh dũng chống trả một cách mãnh liệt.
Sau trận này, Tr/Tá Nguyễn Phú Thọ được bổ nhiệm làm Tr/Đoàn
Phó Tr/Đoàn 3/SĐ 1/BB.
Họp Bạn Sau Ngày Rời Trường.
Họp Khóa năm
1965 tại CLB/SQ An Đông, Chợ Lớn.
Đứng: HTrang, NXPhúc, NVLong, TDQuang, NMChánh NDSự, NVBiên, BQPhầu, NVSử
ĐHTùng, TNToàn, PNTỷ, LSĐức, PQDuy, TNLượng, LHCương. Ngồi: PKĐan, NVKim, ĐQHùng, NXQuang, LTTài, VKSinh, NĐThủy.
Đứng: HTrang, NXPhúc, NVLong, TDQuang, NMChánh NDSự, NVBiên, BQPhầu, NVSử
ĐHTùng, TNToàn, PNTỷ, LSĐức, PQDuy, TNLượng, LHCương. Ngồi: PKĐan, NVKim, ĐQHùng, NXQuang, LTTài, VKSinh, NĐThủy.
Họp mặt tại tuyến đầu Quảng Trị,
cuối tháng 12, 1972 Đứng: MX Tr/tá TVHiển, MĐ Tr/tá BQuyền, MX Tr/tá NVCảnh, MX Tr/tá NĐTống và Nghị Viên NĐThục áo trắng. Ngồi: Tr/tá NPThọ SĐ1, Tr/tá MX NXPhúc, MĐ Tr/tá LMNgọc và Chi Khu Trưởng Th/tá TTChung. |
Ba Ông Cọp nhà Nguyễn:
Nguyễn Đ. Tống, Nguyễn X. Phúc và Nguyễn K. Đễ
Thầy Trò hội ngộ ĐH/K16, Nam Cali USA, 22/11/2009
Từ trái: CaoYết, BNgô,
SQCB LV Lữ, LSĐức, SQCB HB Sơn,
BQuyền, HĐKhuê, PMĐức, NVAn
BQuyền, HĐKhuê, PMĐức, NVAn
6- KHÓA 16 - VÀ SÁU (6) VỊ ĐẠI TÁ.
Đại Tá
NGUYỄN VĂN HUY, BĐQ.
Một trong Ngũ Hổ Miền Tâỵ
Một trong Ngũ Hổ Miền Tâỵ
Sinh ngày 13-3-1938 tại Sài Gòn. Số quân 58A/106.282.
Nhập ngũ ngày 20-11-1959. Xuất thân K16 Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt.
- Thăng Thiếu tá tháng 11-1965 (người đầu tiên K16 thăng thiếu tá). Năm 1968 Tr/tá Liên Đoàn Trưởng LĐ1/BĐQ, tái chiêm thị xã Huế, Tết Mậu Thân.
- 1969-1973: Trung Đoàn Trưởng Tr/Đ 12/SĐ7/BB. Tham dự chiến trường Mộc Hóa, Compuchia.
- 1973-1975: Đại tá Tỉnh Trưởng kiêm TKT Kiến Tường.
- Được tưởng thưởng Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, 21 Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, 4 Chiến Thương Bội Tinh và 2 huy chương Hoa Kỳ.
- Sau 1975, bị tù CS hơn 13 năm từ Nam ra Bắc. Hiện định cư tại Nam California, HK từ tháng 11-1991 (Trích từ cuốn "Lược Sử QL/VNCH" của 3 soạn giả: Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân và Lê Đình Thụy, trang 387).
- Thăng Thiếu tá tháng 11-1965 (người đầu tiên K16 thăng thiếu tá). Năm 1968 Tr/tá Liên Đoàn Trưởng LĐ1/BĐQ, tái chiêm thị xã Huế, Tết Mậu Thân.
- 1969-1973: Trung Đoàn Trưởng Tr/Đ 12/SĐ7/BB. Tham dự chiến trường Mộc Hóa, Compuchia.
- 1973-1975: Đại tá Tỉnh Trưởng kiêm TKT Kiến Tường.
- Được tưởng thưởng Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, 21 Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, 4 Chiến Thương Bội Tinh và 2 huy chương Hoa Kỳ.
- Sau 1975, bị tù CS hơn 13 năm từ Nam ra Bắc. Hiện định cư tại Nam California, HK từ tháng 11-1991 (Trích từ cuốn "Lược Sử QL/VNCH" của 3 soạn giả: Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân và Lê Đình Thụy, trang 387).
Đại
Tá ĐẶNG
PHƯƠNG THÀNH, SĐ7/BB.
"Sự tích: Anh hùng Đặng Phương Thành đã tạo chiến thắng
lớn trong trận cuối cùng tại Thủ Thừa tiêu diệt một trung
đoàn VC trong tháng 4-1975, nhờ đó giữ vững đưọc Quốc
Lộ 4 trong thời gian dầu sôi lửa bỏng này.
Khi Anh hùng Đặng Phương Thành đi tù cộng sản ngoài miền Bắc, nhân lúc ông vượt ngục bất thành và bị bắt lại, hậm hực vì mối nhục thua trận Quốc Lộ 4, bọn cai ngục cộng sản đã treo ông lên và đánh đập tàn nhẫn cho đến chết, ngày 9/9/1976..." (Trích từ trang Web của Hội Sử Học Việt Nam).
Khi Anh hùng Đặng Phương Thành đi tù cộng sản ngoài miền Bắc, nhân lúc ông vượt ngục bất thành và bị bắt lại, hậm hực vì mối nhục thua trận Quốc Lộ 4, bọn cai ngục cộng sản đã treo ông lên và đánh đập tàn nhẫn cho đến chết, ngày 9/9/1976..." (Trích từ trang Web của Hội Sử Học Việt Nam).
Đại Tá NGUYỄN THIỀU, SĐ22/BB.
Tr/Đoàn 41 của Đ/Tá Nguyễn Thiều giữ đoạn Quốc lộ 19 từ Bình Khê đến An Khê trong khi Tr/Đoàn 42 của Đ/Tá Nguyễn Hữu Thông giữ đoạn Quốc lộ 19 phía nam Bình Khê và phần lãnh thổ còn lại của Bình Định.
Ngày 31-3-75, theo lệnh của BTL/QĐ II, Th/Tướng Phan Đình Niệm, TL SĐ22, cho lệnh 3 Tr/Đoàn còn lại của ông rút về phòng thủ thị xã cùng quân cảng Qui Nhơn và chuẩn bị để SĐ 22(-) được hải vận về Nha Trang rồi chuyển lên tăng cường cho mặt trận Khánh Dương. Trong đêm 31-3-75, Tr/Đoàn 41 đã chọc thùng vòng vây của Tr/Đoàn 2 SĐ3 Sao Vàng của địch ở phía nam Bình Khê và trưa ngày 1-4-1975, Tr/Đoàn 41 đã rút về được tuyến sau của Tr/Đoàn 42...(đọc phần kế tiếp)
Tr/Đoàn 41 của Đ/Tá Nguyễn Thiều giữ đoạn Quốc lộ 19 từ Bình Khê đến An Khê trong khi Tr/Đoàn 42 của Đ/Tá Nguyễn Hữu Thông giữ đoạn Quốc lộ 19 phía nam Bình Khê và phần lãnh thổ còn lại của Bình Định.
Ngày 31-3-75, theo lệnh của BTL/QĐ II, Th/Tướng Phan Đình Niệm, TL SĐ22, cho lệnh 3 Tr/Đoàn còn lại của ông rút về phòng thủ thị xã cùng quân cảng Qui Nhơn và chuẩn bị để SĐ 22(-) được hải vận về Nha Trang rồi chuyển lên tăng cường cho mặt trận Khánh Dương. Trong đêm 31-3-75, Tr/Đoàn 41 đã chọc thùng vòng vây của Tr/Đoàn 2 SĐ3 Sao Vàng của địch ở phía nam Bình Khê và trưa ngày 1-4-1975, Tr/Đoàn 41 đã rút về được tuyến sau của Tr/Đoàn 42...(đọc phần kế tiếp)
Đại
Tá
NGUYỄN HỮU THÔNG, SĐ22/BB.
Hai Tr/Đoàn được lệnh QĐ II sử dụng đường bộ rút về Tuy Hòa. Khi Tr/Đoàn 41 tới ngang Ấp Phú Tài phía bắc đèo Cù Mông thì được tin Tuy Hòa đã thất thủ, Đ/Tá TLP/SĐ cho lệnh 2 Tr/Đoàn trở về cảng Quy Nhơn đợi tầu HQ bốc. Khoảng 5g00 chiều ngày 2-4-1975, đơn vị đã lên được tầu HQ. Vì nhiều lý do, có một số quân nhân của SĐ22 ở lại trên bờ, trong đó có Đ/Tá Thông. Sau 30-4-75, một số quân nhân chạy thoát cho biết họ đã nghe nhiều tiếng súng nổ gần quân cảng Qui Nhơn, nơi Đ/Tá Thông đang dừng quân. Dư luận cho là Đ/Tá Nguyễn Hữu Thông đã theo gương danh tướng Võ Tánh cùng mất với Qui Nhơn. Vị Đ/Tá 38 tuổi của K16 đã đi vào huyền thoại từ đấy.
Hai Tr/Đoàn được lệnh QĐ II sử dụng đường bộ rút về Tuy Hòa. Khi Tr/Đoàn 41 tới ngang Ấp Phú Tài phía bắc đèo Cù Mông thì được tin Tuy Hòa đã thất thủ, Đ/Tá TLP/SĐ cho lệnh 2 Tr/Đoàn trở về cảng Quy Nhơn đợi tầu HQ bốc. Khoảng 5g00 chiều ngày 2-4-1975, đơn vị đã lên được tầu HQ. Vì nhiều lý do, có một số quân nhân của SĐ22 ở lại trên bờ, trong đó có Đ/Tá Thông. Sau 30-4-75, một số quân nhân chạy thoát cho biết họ đã nghe nhiều tiếng súng nổ gần quân cảng Qui Nhơn, nơi Đ/Tá Thông đang dừng quân. Dư luận cho là Đ/Tá Nguyễn Hữu Thông đã theo gương danh tướng Võ Tánh cùng mất với Qui Nhơn. Vị Đ/Tá 38 tuổi của K16 đã đi vào huyền thoại từ đấy.
Đại Tá VĨNH DÁC, SĐ3/BB.
Sinh tháng 2-1942 tại Thừa Thiên. Số quân 62A/200.002. Nhập ngũ ngày 23-11-1959. Xuất thân K16 Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Năm 1972 giữ chức vụ Trung Đoàn Trưởng Tr/Đoàn 2/SĐ 1/BB. Năm 74 thăng cấp Đại tá, giữ chức vụ Tr/Đoàn Trưởng Tr/Đoàn 56/SĐ3/BB. Sau năm 1975, bị đì tù CS 13 năm. Hiện định cư tại thành phố Los Angeles, tiểu bạng California.
Sinh tháng 2-1942 tại Thừa Thiên. Số quân 62A/200.002. Nhập ngũ ngày 23-11-1959. Xuất thân K16 Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Năm 1972 giữ chức vụ Trung Đoàn Trưởng Tr/Đoàn 2/SĐ 1/BB. Năm 74 thăng cấp Đại tá, giữ chức vụ Tr/Đoàn Trưởng Tr/Đoàn 56/SĐ3/BB. Sau năm 1975, bị đì tù CS 13 năm. Hiện định cư tại thành phố Los Angeles, tiểu bạng California.
Cố
Đại Tá ĐOÀN CƯ, SĐ21/BB.
Sinh ngày
16-10-1938 tại Đà Lạt.
Thăng chức Trung Tá năm 1972 giữ chức Trung Đoàn Trưởng Tr/Đoàn 32/SĐ21BB. Trong một cuộc hành quân lớn tại Quận Kiên Hưng, tỉnh Sóc Trăng năm 1972, Trung Tá Đoàn Cư bị tử thương bởi hỏa tiễn pháo kích của quân CS, được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu Truy Thăng Đại Tá.
Thăng chức Trung Tá năm 1972 giữ chức Trung Đoàn Trưởng Tr/Đoàn 32/SĐ21BB. Trong một cuộc hành quân lớn tại Quận Kiên Hưng, tỉnh Sóc Trăng năm 1972, Trung Tá Đoàn Cư bị tử thương bởi hỏa tiễn pháo kích của quân CS, được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu Truy Thăng Đại Tá.
7- KHÓA 16 - LỜI KẾT.
Chủ biên xin mượn
Tâm
Bút của Vị CHT/TVBQGVN khả kính, Cố Đại Tá Trần Ngọc Huyến,
gửi cho Khóa 16
trong Cuốn Lưu Niệm, để thay cho Lời Kết:
Thân gửi Sĩ Quan Khóa XVI,
Sáng kiến của các Bạn in thành sách
những kỷ niệm trong thời gian thụ huấn tại Trường, sẽ mở đầu cho một
truyền thống mới của Trường Võ Bị Quốc Gia.
Quyển sách này là giây liên lạc kết chặt các
Bạn với nhau và cũng là nhịp cầu tưởng nhớ giữa những người đang
chiến đấu bốn phương trời với "Mái Trường Mẹ" đã đào luyện
nên họ.
Tuy là Khóa thứ 16 của Trường Sĩ Quan
Hiên Dịch, nhưng thật ra Khóa các Bạn là Khóa đầu tiên của Trường Võ
Bị Quốc Gia được cải tô" lại, với một hệ thống tổ chức mới, một
chương trình huấn luyện mới, những cơ sổ và tiện nghi mới.
Những cái mới ấy có điều hay nhưng cũng
có điều bất lợi cho các Bạn. Một thí dụ cụ thể là trong hơn 3 năm
thụ huấn tại Trương, Khóa các Bạn đã phải chuyển hướng chương trình
huấn luyện hai lần: lần đầu từ chế độ "Liên Quân" sang chế độ huấn
Luyên "Võ Bị Quốc Gia"; lần thứ hai, từ chế độ "thời bình 4 năm"
sang chế độ "thời chiến 2 năm".
Là người nhận trách nhiệm nghiên cứu và
thi hành sự chuyển hướng ấy theo những chỉ thị Bên Trên và những nhu
cầu thiết thực Bên Ngoài, tôi thông cảm với những sự khó khăn mà
Khóa các Bạn đã phải vượt qua.
Nhưng nhờ sự nhận thức chín chắn, các
Bạn đã hết sức hòa nhịp với những sự biến đổi ấy; và qua mỗi đoạn
đường, các Bạn đã gặt hái thêm cho mình ít nhiều kinh nghiệm. Một số
các Bạn đã là những "công tác viên không ngờ" của Bộ Chỉ Huy Nhà
Trường, khi đề nghị sửa đổi một vài phương pháp huấn luyện cho hữu
hiệu hôn. Các Bạn ấy đã thể hiện một trong những nguyên tắc đang
biến thành truyền thống của Trường Võ Bị Quốc Gia = "Sáng tạo
ngay cả đang khi còn thụ huấn".
Trong những giờ giáo dục tinh thần,
chúng ta đã nói nhiều về Con Người tiền Phong. Các Bạn nên
hãnh diện, vì dưới mái Trường này, các Bạn đã thể hiện một phần con
người lý tưởng ấy, đã đặt những viên đá đầu tiên cho một kỷ nguyên
mới, kỷ nguyên của những người Quân Nhân Trí Giả, đã tìm được
cho mình một lý do chiến đấu và hoạt đông cao cả hơn mối hy vọng tư,
nhiên được khích lệ và khen thưởng.
Các Bạn còn phải học hỏi nhiều, từ kinh
nghiệm chuyên môn của nghiệp chỉ huy trong Quân Đội đến kinh nghiệm
thường ngày của cuộc sống.
Nhưng mỗi lần, các Bạn giở lại những
trang giấy này, tôi mong các Bạn hãy lắng tâm hồn giây lát, để so
sánh con người Bạn lúc bấy giờ với con người của Bạn trước đó, khi
Bạn vừa tốt nghiệp, nóng lòng thực hiện những dự định đẹp đẽ nhất
của kiếp người, vì đó là những dự định được thai nghén trong buổi
con người còn hăng hái nhất, thành thật nhất, liêm khiết và vị tha
nhất.
Tôi cầu mong rồi đây Thực Tế sẽ
là trường thử thách và lò đào luyện các Bạn thêm cứng rắn, và sẽ
không là vũng ao tù nước đọng cầm chân những kẻ xưa kia đã từng tự
hứa sống hùng sống động, đấu tranh cho một Lý Tưởng và hoạt
động cho cả Giống Nòi.
Nguyễn Đức Thu, Nguyễn Văn An, Trần Văn Hiển |
Trang Tưởng Niệm CSVSQ Khóa 16 Đã Mãn Phần
No comments:
Post a Comment