Thời VNCH(1955-1975), quân
đoàn 2 chiếm một lãnh thổ có diện tích lên tới 78.841 km2, rộng nhất
trong bốn vùng chiến thuật. Bộ tư lệnh đóng tại Pleiku, còn 2 Bộ chỉ huy
tiếp vận 2 và 5 thì ở Qui Nhơn và Nha Trang-Cam Ranh, còn có hai SD 2
và 6 không quân chiến thuật đóng tại Pleiku và Nha Trang. Các phi trường
Nha Trang, Bửu Sơn, Phù Cát và Cù Hanh rộng lớn tối tân. Vùng 2 chiến
thuật bao gồm 12 tỉnh cao nguyên và duyên hải trung phần, trong đó quan
trọng và cũng có nhiều phiến cộng, nằm vùng nhất là Bình Thuận-Bình
Định. Để xâm lược miền nam, cọng sản Bắc Việt cho mở lại con đường giao
liên đã có sẳn từ thời toàn dân kháng chiến chống Pháp 1945-1954, thành
con đường chiến lược mang đủ thứ tên trong đó có Hồ chí Minh, xuất phát
từ Hà Nội vào tới Cà Mâu dài trên 2000 cây số. Con đường khai sinh đồng
thời với cái mặt trận ma GPMN sau khi vượt qua vùng phi quân sự ở Bến
Hải , men theo rặng Trường Sơn, tới Đổ Xá, Kòn Tà Nừng, Chulya, Khánh
Hoà. Tại đây đường phân làm hai nhánh, một đi ngược lên Lâm Đồng, Quảng
Đức, Phước Long về Sài Gòn. Nhánh hai tới Ninh Thuận,Bình Thuận, Rừng
lá,rừng sát, Biên Hòa…
Sau ngày binh biến 1-11-1963, VNCH gần
như vô chính phủ, rối nát tan hoang do đám kiêu tăng loạn tướng gây ra,
mãi tới cuối năm 1967 khi tướng Nguyễn văn Thiệu đắc cử Tổng Thống VNCH ,
tình thế mới tạm ổn định. Bình Thuận là một trong các tỉnh ở miền Trung
cùng chịu nhiều nạn kiếp, khiến cho tình hình an ninh toàn tỉnh kể luôn
thị xã Phan Thiết tồi tệ đến mức ai nghe tới cũng sợ, khi phải tới miền
đất này. Dù Tết Mậu Thân 1968, Việt Cộng tấn công Phan Thiết ba lần bị
thất bại, không có cơ hội tắm máu đồng bào như tại Huế theo mong muốn
của một số VC nằm vùng và có thân nhân nhảy núi, tập kết nhưng hoàn
cảnh lúc đó hết sức bi quan, 95 % lãnh thổ bị địch chiếm, vùng còn lại
ban ngày là của ta và thuộc về giặc ban đêm. Tại Phan Thiết, VC về ám
sát, đốt tấn công các trụ sở ấp Đức Nghĩa, Phú Trinh, Hưng Long, Đức
Long.. coi như chỗ không người, thậm chí ngay trong Tòa hành chánh và
tiểu khu, tỉnh trưởng khi di chuyển cũng phải có hộ tống và cận vệ. Các
viên chức xã ấp, công chức, cảnh sát kể luôn các cấp chỉ huy XDNT, Nghĩa
quân, ĐPQ ..ban đêm phải di chuyển chiến thuật tới các vùng tạm có an
ninh ở Sông Mao, Phan Thiết, Mũi Né để ngủ giữ mạng. Các đồn bót trong
tỉnh luôn bị tấn công, VC pháo kích bạt mạng vào thành phố, huyện lỵ và
tàn nhẩn gài mìn khắp nơi, khiến cho thường dân vô tội bị chết oan hằng
ngày khi di chuyển cũng như lúc ra đồng làm ruộng. Các trục giao thông
tại quốc lộ 1, liên tỉnh lộ 8, tỉnh lộ Phan Thiết-Mũi Né.. bị tắt
nghẽn, nhiều trạm thu thuế gần như công khai của VC tại cây số 25, Thiện
giáo, Tùy Hoà,Tà Dôn, Đá ông Địa, Vĩnh Hảo.. làm cho mọi người lo sợ, phải
dùng phương tiện ghe thuyền thay vì đi xe đò. Đã vậy trong tỉnh còn
thêm vụ học sinh các trường trung học xuống đường biểu tình đòi Mỹ rút,
kêu gào bảo vệ đạo pháp và các thầy cha, còn thêm màn mổ bụng rạch ngực
viết huyết thư, tạo đủ đắng cay máu lệ cho người dân vô tội trong cảnh
chiến tranh tận tuyệt. Tóm lại theo lượng giá của Đại Tá Ngô tấn Nghĩa,
trong ngày nhậm chức Tỉnh Trưởng vào mùa thu 1969 thế đại tá Đàng thiện
Ngôn, thì Bình Thuận và Phan Thiết lúc đó sắp lọt vào tay VC. Theo Trung
Tá Ngô văn Xuân, nguyên Tiểu đoàn trưởng TĐ 2, Trung đoàn 44, Sư đoàn
23 BB từng tham chiến nhiều ngày tại Bình Thuận, thì chính Đại Tá Ngô
tấn Nghĩa, một sĩ quan dầy kinh nghiệm trong chức vụ trưởng phòng 2 quân
đoàn 2 nhiều năm, qua nhiều vị tư lệnh, đã thành công trong việc tách
rời các cơ sở cũng như vô hiệu hoá Việt Cộng tại địa phương, từ đó cho
tới ngày miền nam bị sụp đổ vào tháng 4-1975. Chính các lực lượng Địa
phương quân và Nghĩa quân đã góp phần lớn máu xương trong việc bảo vệ an
ninh và mạng sống của đồng bào trong tỉnh, cho tới những giây phút cuối
cùng trong đêm 18 tạng ngày 19-4-1975. Họ là những chiến sĩ của QLVNCH
không tên với những chiến công hiển hách , đã dánh những trận để đời như
sử gia Chánh Đạo đã hết lòng khen ngợi trong tác phẩm “ 55 ngày
đêm-cuộc sụp đổ của VNCH”. Tôn vinh cuộc chiến đấu thần thánh trên là
cách trả lời cao thượng nhất để tri ân và lấy lại uy tín cũng như danh
dự cho người lính miền nam, những người đã vì nước vì đời, mà tự tìm lấy
cái chết bình thản tại chiến trường , ngay lúc giặc đã tràn ngập.
1. NHỮNG NGƯỜI LÍNH ĐPQ & NQ/QLVNCH
Tại Bình Thuận vào năm 1952, trước ngày đình chiến, quân đội quốc gia đã thành lập 2 trung đoàn vệ binh , mỗi trung đoàn có 5 đại đội. Trung đoàn số 2 đóng tại Phan Rí, trung doàn số 4 đóng tại Phan Thiết. Đầu năm 1953, các trung đoàn vệ binh được biến đổi thành tiểu đoàn bộ binh. Do đó, trung đoàn vệ binh số 4 thành tiểu đoàn 264 B1 (Bataillon d’infanterie), còn trung đoàn 2 thành tiểu đoàn 265 B1. Ngày 1-8-1954 lại thành lập trung đoàn 404 BB tại Phan Thiết với các tiểu đoàn 83 (nguyên TĐ 264 B1), tiểu đoàn 84 ( nguyên TĐ 265 B1) và TĐ 808 biệt lập đóng tại Phan Thiết. Đầu năm 1955, Trung đoàn 404 được cải danh là Trung đoàn 43 BB với các TĐ 1/43 (83), 2/43(84) và 3/43(808) thuộc SĐ 15 khinh chiến, từng tham dự các chiến dịch tiểu trừ Bình Xuyên, Hòa Hảo năm 1955 tại Nam phần Từ năm 1964 trung đoàn 43 biệt lập qua các trung đoàn trưởng tài danh như Thiếu tá Võ văn Cảnh, Thiếu tá Quách Đăng, Trung tá Lý bá Phẩm, Đại tá Đàm văn Quý.. trấn đóng tại biệt khu Bình Lâm, sau đó di chuyển vào nam. Năm 1966 cùng với các trung đoàn biệt lập 48 BB,52BB thành lập Sư đoàn 10 BB., sau đổi thành SĐ18BB vào tháng 4-1975, dưới quyền chỉ huy của thiếu tướng Lê minh Đảo, đã tạo nên chiến thắng Xuân Lộc vang lừng trong việt sử cận đại. Cũng tại Bình Thuận vào tháng 7/1954 có 4800 quân nhân người Nùng, thuộc SĐ 3 khinh chiến của Đại Tá Woàng A Sáng từ miền bắc di cư vào đóng tại Sông Mao nhưng cũng chỉ một thời gian ngắn lại di chuyển vào Tam Hiệp, Biên Hòa, sau đó đổi thành SĐ 5 BB. Để thay thế, trung đoàn 44 và 53 thuộc SĐ 23 BB , hậu cứ đóng tại Sông Mao thường xuyên hành quân bảo vệ Bình Thuận và Ninh Thuận. Từ đầu năm 1970, hầu hết các thành phần cơ sở, du kích kể luôn chính quy VC gần như bị tiêu diệt., khiến cho quân khu 7 Việt cộng, trong đó có tỉnh Bình Thuận do tướng Bắc Việt Nguyễn văn Ngàn chỉ huy, cũng lâm vào tuyệt lộ. Để vớt vát cũng như vực dậy niềm tin của cán binh, cán bộ, VC xữ dụng 2 tiểu đoàn chính quy miền bắc là 481 và 482 tấn công vào trung doàn 44 BB tại Sông Mao từ tháng 7-10/1970, đồng thời thường xuyên tổ chức các cuộc phục kích , phá rối trên quốc lộ 1, từ đoạn đường cây số 25 nam về tới Phan thiết và khúc ngang qua mật khu Lê hồng Phong, từ Long Thạnh tới Lương Son, Chợ Lầu và phía bắc trong quận Tuy Phong. Thời gian này Bình Thuận còn có sự yểm trợ của Chi đoàn 3/8 thiết kỵ/QLVNCH và tiểu đoàn 3 thuộc Lử đoàn 506 nhảy dù Hoa Kỳ và toán viễn thám LLĐB/BTTM/QLVNCH, hải pháo Mỹ ở ngoài khơi, các phi tuần Mỹ-Việt luôn tiếp ứng tỉnh mau lẹ và cấp thời , nên đã bẻ gảy tất cả Nhưng rồi giai đọan VN hoá chiến tranh và hiệp định ngưng bắn 1973 đã thành hình, theo đó các đơn vị chính quy của VNCH cũng như Hoa Kỳ đều rời tỉnh vào cuối năm 1971 hoặc hồi hương hay nhận nhiệm vụ mới, giao công cuộc bình định và gìn giữ an ninh cho các đơn vị ĐPQ và NQ của tỉnh lúc đó lên tới 13.000 người đãm trách.
Tại Bình Thuận vào năm 1952, trước ngày đình chiến, quân đội quốc gia đã thành lập 2 trung đoàn vệ binh , mỗi trung đoàn có 5 đại đội. Trung đoàn số 2 đóng tại Phan Rí, trung doàn số 4 đóng tại Phan Thiết. Đầu năm 1953, các trung đoàn vệ binh được biến đổi thành tiểu đoàn bộ binh. Do đó, trung đoàn vệ binh số 4 thành tiểu đoàn 264 B1 (Bataillon d’infanterie), còn trung đoàn 2 thành tiểu đoàn 265 B1. Ngày 1-8-1954 lại thành lập trung đoàn 404 BB tại Phan Thiết với các tiểu đoàn 83 (nguyên TĐ 264 B1), tiểu đoàn 84 ( nguyên TĐ 265 B1) và TĐ 808 biệt lập đóng tại Phan Thiết. Đầu năm 1955, Trung đoàn 404 được cải danh là Trung đoàn 43 BB với các TĐ 1/43 (83), 2/43(84) và 3/43(808) thuộc SĐ 15 khinh chiến, từng tham dự các chiến dịch tiểu trừ Bình Xuyên, Hòa Hảo năm 1955 tại Nam phần Từ năm 1964 trung đoàn 43 biệt lập qua các trung đoàn trưởng tài danh như Thiếu tá Võ văn Cảnh, Thiếu tá Quách Đăng, Trung tá Lý bá Phẩm, Đại tá Đàm văn Quý.. trấn đóng tại biệt khu Bình Lâm, sau đó di chuyển vào nam. Năm 1966 cùng với các trung đoàn biệt lập 48 BB,52BB thành lập Sư đoàn 10 BB., sau đổi thành SĐ18BB vào tháng 4-1975, dưới quyền chỉ huy của thiếu tướng Lê minh Đảo, đã tạo nên chiến thắng Xuân Lộc vang lừng trong việt sử cận đại. Cũng tại Bình Thuận vào tháng 7/1954 có 4800 quân nhân người Nùng, thuộc SĐ 3 khinh chiến của Đại Tá Woàng A Sáng từ miền bắc di cư vào đóng tại Sông Mao nhưng cũng chỉ một thời gian ngắn lại di chuyển vào Tam Hiệp, Biên Hòa, sau đó đổi thành SĐ 5 BB. Để thay thế, trung đoàn 44 và 53 thuộc SĐ 23 BB , hậu cứ đóng tại Sông Mao thường xuyên hành quân bảo vệ Bình Thuận và Ninh Thuận. Từ đầu năm 1970, hầu hết các thành phần cơ sở, du kích kể luôn chính quy VC gần như bị tiêu diệt., khiến cho quân khu 7 Việt cộng, trong đó có tỉnh Bình Thuận do tướng Bắc Việt Nguyễn văn Ngàn chỉ huy, cũng lâm vào tuyệt lộ. Để vớt vát cũng như vực dậy niềm tin của cán binh, cán bộ, VC xữ dụng 2 tiểu đoàn chính quy miền bắc là 481 và 482 tấn công vào trung doàn 44 BB tại Sông Mao từ tháng 7-10/1970, đồng thời thường xuyên tổ chức các cuộc phục kích , phá rối trên quốc lộ 1, từ đoạn đường cây số 25 nam về tới Phan thiết và khúc ngang qua mật khu Lê hồng Phong, từ Long Thạnh tới Lương Son, Chợ Lầu và phía bắc trong quận Tuy Phong. Thời gian này Bình Thuận còn có sự yểm trợ của Chi đoàn 3/8 thiết kỵ/QLVNCH và tiểu đoàn 3 thuộc Lử đoàn 506 nhảy dù Hoa Kỳ và toán viễn thám LLĐB/BTTM/QLVNCH, hải pháo Mỹ ở ngoài khơi, các phi tuần Mỹ-Việt luôn tiếp ứng tỉnh mau lẹ và cấp thời , nên đã bẻ gảy tất cả Nhưng rồi giai đọan VN hoá chiến tranh và hiệp định ngưng bắn 1973 đã thành hình, theo đó các đơn vị chính quy của VNCH cũng như Hoa Kỳ đều rời tỉnh vào cuối năm 1971 hoặc hồi hương hay nhận nhiệm vụ mới, giao công cuộc bình định và gìn giữ an ninh cho các đơn vị ĐPQ và NQ của tỉnh lúc đó lên tới 13.000 người đãm trách.
Để chống địch bằng cây nhà lá vườn, Đại
Tá Nghĩa đã áp dụng chiến lược mọi người đều phải RA TIỀN TUYẾN kể cả
các trưởng ty sở, phó tỉnh trưởng, phó quận.., không bỏ đồn bót lẽ loi
cho giặc về đêm. Theo lời các nhân chứng hiện ở Hoa Kỳ như Phạm ngọc Cửu
phó tỉnh trưởng, Trung Tá Dụng văn Đối quận trưởng Hoà Đa rồi Hàm
Thuận, Đại úy Mai xuân Cúc DDT /DD 948 DPQ.. thì chính Đại tá Nghĩa là
người đầu tiên xung phong làm gương mẫu cho thuộc cấp, ông đã noi gương
cố tổng thống Nguyễn văn Thiệu luôn xông xáo tại chiến trường khi dấu
binh lửa, bom đạn còn ngun ngút , đại tá Nghĩa đã lần lượt ngủ đêm tại
173 trong tổng số 197 tiền đồn hẻo lánh và nguy hiểm của tỉnh, do các
tiểu trung đội nghĩa quân hoặc xây dựng nông thôn trấn giữ. Nhờ vậy đã
tạo được nềm tin trong quân đội cho tới khi mất nước. Một chiến thuật
khác cũng vô cùng hiệu quả, đó là xữ dụng hàng rào mìn claymore làm ấp
chiến lược lưu động. Với phương pháp này đã làm VC bị tổn thất nặng và
gần như hoàn toàn tê liệt. bẽ gảy kế hoạch nuôi ăn cán binh vì ai cũng
sợ toi mạng khi vướng mìn vào ban đêm khi ra vào ấp. Song song còn có
chương trình đập cỏ bắn rắn, tức là ủi quang hai bên quốc lộ 1 từ cây số
25 nam Phan Thiết cho tới Cà Ná, giáp giới Ninh Thuận, các vùng cây cỏ
rậm rạp mà trước đây VC dùng làm địa bàn để hoạt động quân sự, thu thuế,
phục kích, chặn xe đò.., mang lại tình hình an ninh hoàn toàn trong
tỉnh và tại thị xã Phan Thiết.Cũng kể từ đó cho tới hồi tàn cuộc, cán bộ
xã ấp, công chức không còn phải sống lưu vong và việc Tổng Thống VNCH
Nguyễn văn Thiệu tới Phan Thiết cùng với Tỉnh Trưởng săn bắn ban đêm
ngay trên địa bàn của cái gọi là mật khu Lê hồng Phong. hay đi xe jeep
trên quốc lộ 1 từ Phan thiết về Phan Rang như lời tư sự của trung Tá Ngô
văn Xuân, trung đoàn trưởng trung đoàn 44, SD 23 BB, trong Quân sử
VNCH, là một xác nhận khích lệ.
Từ sau hiệp định ngưng bắn 1973, lực
lượng ĐPQ & NQ đã được tổ chức và phối trí lại để phù hợp với hoàn
cảnh hiện tại. Quyền chỉ huy trực tiếp thuộc tiểu khu, chi khu và các
phân chi khu. Quân số cũng được cải tổ từ cấp đại đội thành tiểu đoàn,
liên đội và Liên đoàn. Tính đến năm 1973, quân lực VNCH đã có 360 tiểu
đoàn ĐPQ, quân số từ binh sĩ, HSQ tới SQ một số là chủ lực quân biệt
phái, nên có rất nhiều kinh nghiệm chiến đấu, có đủ khả năng thay thế
các SĐ bộ binh kề cả các lực lượng tổng trừ bị trong các cuộc hành quân
cơ động quy ước chiến, đáp ứng sự hổ trợ đác lực cho các đơn vị chính
quy. Theo tài liệu từ quân sử, cho tới tháng 4-1975, lực lượng ĐPQ-NQ
gần 500.000 người và số tử vong cũng nhiều lần so với các lực lượng
chính quy, diều đó chứng tỏ sự chiến đấu dũng mảnh và can trường của họ.
Trong hiệp định Paris năm 1973, có điều
khoản cắm cờ nhận đất vào giờ N và Bình Thuận được coi là thí điểm. nơi
CS Bắc việt luôn đòi trở thành vùng vỹ tuyến. Các xã giáp tỉnh lỵ như
Đại Nẵm, Phú Long, Tuỳ Hòa,Phú Lâm có nhiều nằm vùng và thân nhân nhảy
núi hoặc tập kết, nên luôn là điạ điểm tin cậy để giặc đóng quân hay đặt
BCH. Với quân số lúc đó là 13.000 ĐPQ-NQ nhưng vì phải bảo vệ 197 ấp
nên đã dàn mỏng , trong khi việt công luôn tập trung được ba tiểu đoàn
địa phương, ngoài ra còn có một trung đoàn chủ lực từ quân khu 6 tăng
phái và cán binh cơ sở, nên tình thế lúc đó cũng thật nguy hiểm. Rồi
giờ G cũng tới, VC tấn công một lúc 13 ấp trong tỉnh nhưng nặng nhất là
tại ấp Đại Tài, xã Đại Nẳm. Nhờ đã chuẩn bị trước, nên sau 2 ngày giao
tranh , VC thất bại trong âm mưu cắm cờ dành đất, một phần là do đồng
bào có ý thức quốc gia không chịu hợp tác hay đồng khởi, phần khác sợ
tai bay đạn lạc nên đã bồng bế nhau tản cư khỏi vùng chiến địa theo lời
kêu gọi của tỉnh qua truyền đơn và đài phát thanh. Cuối cùng các ấp xã
chỉ còn thuần tuý là chiến địa, điểm hợp đồng của pháo binh và phi pháo,
trước khi các đơn vị DPQ-NQ mở cuộc tấn công, làm VC phải chém vè, mang
theo nhiều xác chết đồng bọn khi tháo chạy sau 2 ngày giao tranh đẳm
máu nhưng vẫn bỏ lại tại ấp Đại Tài, xã Đại Nẳm 121 xác chết..
NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG TẠI BÌNH THUẬN
Ngày 7-4-1975, tướng Phạm văn Phú tư lệnh QĐ2 từ Nha Trang đáp trực thăng ghé thăm BCH tiểu khu Bình Thuận lúc đó đang đóng tại lầu ông Hoàng, thuộc xã An Hải quận Hải Long. Lúc này, tướng Phú đã bị tước chức Tư lệnh QĐ2 và do tướng Nguyễn văn Hiếu thay thế. Tình hình đã bắt đầu hổn loạn vì Ninh Thuận, Bình Thuận đã trở thành vùng hỏa tuyến. Sau này tại hải ngoại, có dịp tiếp xúc với những thẩm quyền của Bình Thuận trong phút giờ hấp hối như Đại Tá tỉnh trưởng Ngô tấn Nghĩa, ông Phạm ngọc Cửu phó tỉnh trưởng, Trung Tá Dụng văn Đối, quận trưởng Hàm Thuận và các đại úy Nguyễn chánh Trúc, DDT giữ cầu Phú Long nhưng quan trọng nhất là tự sự của Đại Úy Mai xuân Cúc, đại đội trưởng ĐĐ 948 ĐPQ là đơn vị giữ an ninh trong thị xã Phan Thiết cho tới giờ phút cuối cùng.Tóm lại không giống như nhiều tỉnh thị khác, Bình Thuận vào những giờ phút hấp hối , đã không có những trận đánh không có đại bàng như một tác giã nào đã viết trong mấy năm trước, vì tất cả đại bàng từ cấp thấp nhất như thiếu uý Phùng thế Xương phân chi khu trưởng PCK Hòa Vinh, trung úy Lê Ngữ phân chi khu trưởng PCK Thiện Khánh cho tới các đại bàng cao cấp ở quận như Trung Tá Dụng văn Đối, thiếu tá Phạm Minh trung tâm trưởng Trung tâm Tiếp vận, các vị Phó tỉnh tưởng, quận trưởng, trưởng ty và trên hết là đại tá tỉnh trưởng Ngô tấn Nghĩa đều không bỏ chạy.
Sự sụp đổ nhanh chóng của QLVNCH từ khi
Ban mê thuộc thất thủ, tiếp theo là cuộc di tản đẳm máu trên liên tỉnh
lộ 7-B và Quân đoàn 1, cuộc lui binh tại Qui Nhơn., Quảng Ngãi.. khiến
cho vòng vây bao quanh Sài Gòn càng lúc càng thu hẹp. Mặt bắc, Phan Rang
và Phan Thiết trở thành vùng hỏa tuyến phải đương đầu với nhiều lộ quân
hùng hậu của cọng sản Bắc Việt có đầy đủ tăng, pháo hiện đại do Liên
xô, Trung Cộng và các nước Động Âu trong toàn khối cọng sản quốc tế viện
trợ. Trong lúc đó, VNCH đang lâm vào tuyệt lộ vì đồng minh Hoa Kỳ đã
cạn tào ráo mán, rút ván qua sông, ngoài ra còn đem danh lợi cò mồi một
số tướng lãnh miền nam bỏ nước ôm của chạy, khiến cho QLVNCH bốn bề thọ
địch, chỉ còn chờ chết mà thôi. Ngày 4-4-1975, hai tỉnh còn lại của QD2
là Ninh Thuận và Bình Thuận được sáp nhập vào QD3 lúc đo do tướng Nguyễn
văn Toàn làm tư lệnh, bổ nhiệm thiếu tướng Nguyễn vĩnh Nghi làm tư lệnh
tiền phương QD3, chỉ huy mặt trận Phan Rang, vốn là quê hương của tổng
thống Thiệu. Trong dịp này Phan Thiết cũng được tăng cường trung đaòn 6
và một pháo đội thuộc SD 2 BB vừa di tản từ Quãng Ngải vào Bình Tuy. Tại
Phan Thiết, thời gian này đã giao tranh ác liệt với trung đoàn 812
chính quy và các tiểu đoàn địa phương VC, nhưng đã giữ vửng được phòng
tuyến nhờ sự yểm trợ của phi pháo và hỏa pháo VNCH. Ngày 16-4-1975 mặt
trận Phan Rang tan vở, các tướng lảnh Nghi, Sang, đại tá Nguyễn thu
Lương và nhiều sĩ quan cao cấp khác của VNCH bị bắt làm tù binh. Từ đó
Bình Thuận là chiến tuyến về hướng tây bắc, phiá nam Bình Tuy vẫn còn
nhưng đường bộ bị bít vì giao tranh long trời lở đất đang nổ tung tại
Xuân Lộc , Long Khánh từ ngày 9 cho tới 14/4/1975.
Vào ngày 2/4/1975, đại đội 948 ĐPQ đang
đóng tại Ấp Hiệp Hòa, xã Chợ Lầu , quận Hòa Đa thì được lệnh Trung tá
quận trưởng Kiều văn Út theo chỉ thị của P3 TK , về tăng cường thị xã
Phan Thiết. nhưng đóng quân tại trường nông lâm súc Phú Long , bảo vệ
Trung đội pháo binh đóng gần cầu đang yểm trợ hỏa pháo cho chi khu Thiện
Giáo. Ngày 3-4-1975, đoàn di tản từ Nha Trang-Đà Lạt về trong đó có đủ
mọi quân binh chủng kể luôn trường võ bị quốc gia , nổ súng bắn loạn xạ
làm cho dân chúng sợ hãi và trước khi ra đi đã cướp bốc cũng như đốt chợ
lớn Phan Thiết được xây dựng từ năm 1899. Lúc này tại khu vực Phú Long
và các vùng lân cận, ngoài ĐĐ 948 của ĐU Cúc từ Hòa Đa về tăng cường,
còn có DD 283 DPQ của DU Nguyễn văn Ba giữ Tuỳ Hòa, DD 3/TD 249 DPQ của
DU Hòa phụ trách xã Hòa Vinh, nên tình hình an ninh cũng khả quan, ngoài
các vụ pháo kích, bắn sẽ vào ban đêm mà thôi. Vào ngày 15-4 75 chi khu
Thiện giáo tại huyện ly Ma Lâm được lệnh di tản chiến thuật vì không
chịu nổi đại pháo 130 ly của VC. Các đơn vị của chi khu do DU Lê văn
Tuân, chi khu phó chỉ huy đoàn xe, qua cầu Phú Long về Phan thiết. Ngày
16-4-75 lại thêm một đoàn quân xa đông đảo gồm đủ mọi thứ binh chủng như
Dù, BDQ, Sư đoàn 2 BB, DPQ..từ Phan Rang cũng qua cầu Phú Long, để di
tản về Sài Gòn sau khi Ninh Thuận mất. Lúc này tình hình trong thị xã
Phan Thiết đã bắt đầu hổn loạn, nhiều gia đình kể cả công chức đã cuốn
gói ra đi bằng thủy lộ, trong phố hầu như chỉ còn lại người nghèo không
có phương tiện đào sanh, các hàng cột đèn không có chân và lính, cảnh
sát, XHNT ở lại mà thôi. Từ ngày 10/4/75 DĐ948 DPQ của DU Cúc đổi vùng,
di chuyển về đóng cạnh căn cứ của Duyên đoàn 28 HQ sát cửa Thương Chánh
thuộc ấp Vĩnh Phú, để bảo vệ cho BCH hành quân của Trung tá Trì,
TKP/TKBT. Lúc đó đại tá Nghĩa cho thành lập hai BCH hành quân, BCH chánh
do ông trực tiếp điều động toàn bộ lực lượng DPQ-NQ đóng tại Lầu ông
Hoàng, còn TKP làm việc với các phòng 2,3 hành quân. Cũng trong ngày ,
DU Cúc nhận lệnh trực tiếp từ Đại tá Nghĩa, dẫn DD 948 DPQ biệt phái cho
yêu khu châu thành tại trại Đinh công Tráng của Thiếu tá Cư, trước sân
vận động Quang Trung, nằm kế một phân đội YTQC sát trường Trung học tư
thục Bạch Vân và Dân y viện Phan Thiết. Lúc này VC đã pháo kích nhiều
hỏa tiển 122 ly vào phố, các khu vực quanh TK và Toà hành chánh thường
hứng đạn. Sở dĩ VC bắn rất chính xác vì tiền sát viên của chúng là bọn
nằm vùng, một tên giả làm ngư ông câu cá dươi chân cầu Phan Thiết, tên
khác là cận vệ của Đại tá Nghĩa, một tên làm tuỳ phái cho tòa hành
chánh..
Theo Cúc, thì Phan Thiết lúc đó hầu như
chỉ còn có lính mà thôi, DD 948 DPQ phòng thủ ấp Đại Tài, DD 206 trinh
sát tỉnh của DU Lê văn Trò giữ xã Tường Phong, kế đồn Trinh Tường, xa
hơn có Tiểu đoàn 202 DPQ do DU Nguyễn văn Hoàng, thế thiếu tá Bích làm
XLTV tiểu đoàn trưởng, đóng tại Phú Hội và vùng giáp ranh với Đại Nẳm.
Trên liên tỉnh lộ 8, tiểu đoàn 275 DPQ bao vùng từ cầu Bến Lội , xã Lại
An trên quốc lộ 1, qua tới các ấp Tân An, Tân Điền trên đường Phan
Thiết-Ma Lâm. Về phiá nam giao cho một DD/DPQ và một Liên đội NQ giữ
cổng chữ Y, bảo vệ các ấp Kim Hải, Bình Tú và Đức Long. Trong phố, phần
an ninh được giao cho các đơn vị NQ và NDTV do Thiếu tá Nguyễn thanh
Hải, xã trưởng xã châu thành Phan Thiết chỉ huy. Tại BCH Cảnh Sát Bình
Thuận nằm trên đường Cao Thắng, phía sau CLB sĩ quan và TTTV, là phần
phòng thủ của một tiểu đoàn CSDC do Trung tá trưởng ty điều động. Tại
QYV Đoàn mạnh Hoạch không có đơn vị nào tăng phái bảo vệ, chỉ còn các
quân nhân cơ hửu do y sĩ đại uý Lê bá Dũng và trung úy Công, SQ /CTCT
của Đơn vị chỉ huy. Cũng theo lời Đại uý Mai xuân Cúc hiện ở Hoa Kỳ, một
nhân chứng thật của Bình Thuận trong lúc đó, thì vị thiếu tá
CHT.QYV.Đoàn mạnh Hoạch đã di tản chiến thuật về Sài Gòn từ đầu tháng
4/1975 khi Bình Thuận đang bước vào giờ thứ 25 định mệnh. Trong ngày
17/4/75, VC pháo kích ban ngày lẫn đêm, một vài quả bích kích pháo và
hỏa tiển rơi rớt quanh các khu quân sự, trước tiểu đội quân cảnh điều
tra tư pháp và ty bưu điện , thành phố thật sự đã chết, nhà nhà caì chặt
cửa, chen chúc chui rúc dưới các hố tránh đạn thô sơ làm bằng bao cát
mua ngoài chợ. Nơi nơi im vắng nảo nùng ngoại trừ khu vực cồn chà Đức
Thắng vẫn còn hoạt động tấp nập vì ai cũng chạy.
Giờ N đã tới lúc 17 h 30 chiều ngày
18-4-1975, phòng tuyến Phú Long vỡ nhưng cầu không phá kịp, tuy nhiên
phía bên khu vực Phước Thiện Xuân, An Hải, kể cả Hải Long, Lầu ông Hoàng
vẫn chưa vở tuyến, đại tá Nghĩa cùng BCH vẫn đủ giờ di chuyển về cữa
thương chánh, trong lúc ngoài khơi có hằng hà tàu chiến của hải quân
VNCH nhưng không làm gí được vì tàu lớn không áp sát ven bờ được, hơn
nửa sợ pháo kích như đã từng xãy ra ở Qui Nhơn, Phan Rang, Cà Ná..Bên
Quốc lộ 1, doàn âm binh của cọng sản Bắc việt với tăng, pháo và hàng
hàng lớp lớp cán binh cở lộ quân, chừng mấy chục ngàn người, aò aò hơn
sóng cuộn cuồng phong di chuyển khắp các nẽo đường phố thị. Tất cả các
phòng tuyến DPQ và NQ gần như bị đè bẹp trước đạn súng tối tân của Nga
Hoa. Tại phòng tuyến ở Đại Tài, DU Cúc nhận được lệnh từ Thiếu Tá Cư,
yêu khu trưởng trên máy PRC 25 cho biết VC đã chiếm được Tòa hành chánh,
Tiểu khu nhưng tại Trung tâm tiếp vấn, Thiếu Tá Phạm Minh đã đốt được
các kho quân nhu trước khi di tản, , Bình Thuận coi như đã mất , DD 948
của Cúc được lệnh vượt sông Cà Ty để di tản về Bình Tuy. Nửa đêm rạng
sáng ngày 19/4/75, đại đội tới được xóm đạo Văn Lâm, từ đó lần về quận
đường Hàm Thuận, mới biết Trung tá Dụng văn Đối chi khu trưởng cùng đại
uý Lê viết Lợi chi khu phó , cũng đã nhận được lệnh di tản. Đêm khuya
thật là buồn, cả đại đội phần đói khát thêm lạnh run vì quần áo ướt sủng
nước khi lội qua sông, nên tạm bố trí tại ngả hai Phú Lâm vào lúc 2 giớ
sáng, để rồi khi tiếng gà đầu vừa cất thì mọi người cũng choàng dậy ,
băng quốc lộ 1, đi ngược về hướng Phú Khánh, Bình Tú để xuống bến tàu
cạnh phi trường đợi hải quân vào rước theo lệnh của TKBT. Trong đêm
18/4/75, qua máy truyền tin vẫn còn liên lạc 24/24, DU Cúc biết được
Thiếu tá Cư yếu khu trưởng châu thành cùng Trung tá Trí đã xuống được
thuyền của Duyên đoàn 28 HQ. Theo Điệp Mỹ Linh trong tác phẩm “ HQ.VNCH
ra khơi năm 1975 “ thì giữa lúc khói đạn mịt mùng, tàu HQ 505 nghe tiếng
cầu cứu của Đại tá Nghĩa trong máy PRC 25 nhưng bất lực, tuy nhiên như
lời ông Phạm ngọc Cửu phó tỉnh trưởng, thì đại tá cuối cùng nhờ được một
ghe đánh cá đưa ra tàu lớn và đã rớt xuống biển khi hai chiếc va chạm,
cũng may mọi người cứu ông kịp thời.
Sáng ngày 19-4-75 tuy cọng sản đã làm chủ
Phan Thiết nhưng khu vực bến tàu thuộc ấp Kim Hải, phía sau QYV Đoàn
mạnh Hoạch và phi trường vẫn còn thuộc quyền kiểm soát của QLVNCH, trên
bải có đầy lính đủ mọi quân binh chủng, từ Dù, SD2, BDQ tại mặt trận
Phan Rang còn đọng lại, cho tới các đơn vị DPQ-NQ tỉnh. Cũng trong ngày
19-4-75, một chiếc L19 của KQ/VNCH bay trên thành phố, kêu gọi các lực
lượng ÐPQ-NQ đang bị thất lạc, phải tìm cách xuống bến tàu để được lực
lượng Hải quân V2 Duyên hải cứu vớt đem về Nam. Một phi tuần F.5 có
nhiệm vụ dội bom phá sập ba cây cầu trên dòng sông Mường Mán , hầu ngăn
cản bước tiến quân của cộng quân nhưng đánh lạc vào ngả tư quốc tế, làm
hư hại một vài căn nhà trên đường Gia Long, Ngô sĩ Liên và Nguyễn tri
Phương.
Cuối cùng nhờ kỷ luật và bình tỉnh, tất
cả các quân nhân mọi binh chủng có mặt trên bải biển Bình Tú vào lúc 10
giờ sáng ngày 19-4-75 đều được vớt. Lúc đó thủy triều đang xuống nên
đoàn tàu lớn phải đậu xa bờ hơn nữa cây số. Tuy nhiên nhờ những chiếc
tàu đổ bộ LCM nên tất cả các đơn vị kể cả chi đoàn TQV thuộc thiết đoàn 8
kỵ binh hành quân tại Phan Thiết, cũng được theo tàu về nam, ngoại trừ
một chiếc bị chìm tại bải Vĩnh Phú. Tóm lại đoàn tàu hải quân thuộc BTL
vùng 2 duyên hải đã hoàn thành nhiệm vụ, chở hơn 3000 quân nhân các cấp
thuộc ÐPQ-NQ Bình thuận trong đó có ÐÐ 948 ÐPQ của DU Mai xuân Cúc,
cùng các lưc lượng Dù, BÐQ, SÐ2BB và mọi quân binh chủng tham chiến tại
Phan Thiết – Phan Rang trong những giớ phút hấp hối ngày 19-4-1975, đoàn
tàu HQ đã cặp bến Vũng Tàu an toàn lúc 3 giờ sáng ngày 20-4-1975 và các
đơn vị lại được Ðại Tá Ngô tấn Nghĩa tiếp rước hướng dẫn , vào trú đóng
tại Doanh trại củ của Trungđdoàn 43/SÐ18BB ở Bà Rịa, cùng góp phần tham
chiến với các đơn vị bạn tại đây cho tới ngày tàn cuộc. Riêng Trung Tá
Dụng văn Đối, quận trưởng Hàm Thuận, ngày 18-4-1975 cho người đốt các
kho đạn, kho quân tiếp vụ, sau đó cùng Liên đoàn DPQ-NQ, một pháo đội và
một chi đội thiết giáp V100, mở cuộc hành quân từ Hàm Thuận vào tới Bà
Rịa một cách an toàn. Đoàn quân di tản này được bổ sung cho sư đoàn 22BB
chiến đấu tại Bên Lức Long An, cho tới ngày tàn cuộc. Như vậy, trong
những ngày cuối cùng QLVNCH đã có hai cuộc lui binh thành công, một tại
bến tàu Kim Hải, Phan Thiết do BTL/V2DH thực hiện, vớt ÐPQ-NQ-BT và
nhiều quân binh chủng tham dự trận Phan Rang, cuộc lui binh thứ hai bằng
đường bộ từ Long Khánh về Phước Tuy của SÐ18BB và các đơn vị do Thiếu
tướng Lê minh Đảo chỉ huy.
Đời lính da ngựa bọc thây, nổi tủi hờn
của những thanh niên thời đại VNCH, may thay đã sớm chấm dứt khi cái mặt
thật của lịch sử, của cọng sản Hà Nội trơ trẽn lộ ra sau lớp phấn son
huyền thoại: hại dân, bán nước và vị kỹ.
Mường Giang
No comments:
Post a Comment