Tháng 4 năm 1968 tôi được gọi vào học khóa 2/68 sĩ quan trừ bị. Tháng trước, khóa 1/68 đã được triệu tập và Trần Kim Hoàng đã tham dự khóa đó.
Vậy là sau khóa 27, các khóa kế tiếp được đặt tên là khoá 1/68. khóa 2/68. khóa 3/68...Với cường độ ác liệt của chiến tranh, lệnh tổng động viên được ban hành và hầu như mỗi tháng đều có một khóa sĩ quan trừ bị. Lối huấn luyện sĩ quan trừ bị cũng thay đổi. Thay vì vào thẳng trường Bộ Binh Thủ Đức, các khóa sinh phải học giai đoạn 1 cơ bản quân sự 9 tuần như một người lính tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung rồi mới được chuyển lên trường Bộ Binh Thủ Đức học giai đoạn 2. Lúc học giai đoạn 1, chúng tôi được gọi là khóa sinh dự bị sĩ quan.
Tất cả khóa sinh khoá 1 được tập trung thành tiểu đoàn Nguyễn Huệ, còn khóa 2 chúng tôi đông hơn được chia thành 2 tiểu đoàn: tiểu đoàn Trần Bình Trọng và tiểu đoàn Gia long. Tôi ở tiểu đoàn Trần Bình Trọng và đại đội 3, sĩ quan cán bộ là trung úy Bình mà mọi người gọi là Bình ngọng. Đại đội được xếp thứ tự theo chiều cao của từng người. Tôi là người cao nhứt trong đại đội đáng lẽ mang danh số 1 nhưng gì anh Đàm, một người tốt nghiệp Cao Học Hành Chánh được cử làm khóa sinh đại đội trưởng nên anh ta mang danh số 1, còn tôi mang danh số 2. Anh và tôi ngủ chung một cái giường sắt hai tầng, anh ở tầng trên còn tôi ở tầng dưới. Trong đại đội tôi có một anh bạn đồng nghiệp là Nguyễn Thành Hải, tốt nghiệp cùng khóa 65 với tôi, dạy môn quốc văn ở trường trung học Nguyễn Trung Trực, Rạch Giá. Anh ấy nhỏ con nên đứng hàng cuối cùng trong khi tôi đứng ở hàng đầu.
Công việc đầu tiên, sau khi được phát quân trang và quân dụng, của các khóa sinh là lên kho vũ khí lãnh súng. Vì một nửa quân số có công tác khác nên tôi nằm trong một nửa quân số còn lại phải vác một mình hai khẩu garant M1 nặng trĩu. Về tới doanh trại, tôi gần như muốn xỉu. Rồi thì 9 tuần huấn luyện quân sự của chúng tôi bắt đầu. Mỗi môn học: tác xạ, tháo ráp súng, lựu đạn, mìn claymore, địa hình, bò hỏa lực, đoạn đường chiến binh, cận chiến, hành quân dã trại, trực thăng vận, tác chiến trong thành phố... được một sĩ quan huấn luyện viên giảng dạy và một hoặc hai hạ sĩ quan biểu diễn. Khi vừa chấm dứt bài học thì anh hạ sĩ quan biểu diễn lôi trong thùng đạn đại liên trên xe honda ra nào là nước ngọt, xôi, kẹo, bánh bán cho khóa sinh chúng tôi ăn uống. Mỗi khi một cá nhân hay tập thể vi phạm quân kỷ thì bị phạt nhảy xổm hoặc hít đất, nhưng chúng tôi sợ nhứt là bị phạt"chà láng"
Số là phía trước doanh trại của mỗi đại đội có một giao thông hào đã được các khoá sinh trước đó đào sẵn để phòng thủ. Khóa sinh bị phat phải lấy ga men dùng đựng thức ăn của mình chà thành của giao thông hào láng coóng như xi măng mới được tha. Một ngày tháng 5 năm 1968, không nhớ tôi vi phạm kỷ luật gì mà bị phạt chà láng giao thông hào trước đại đội tôi, Lúc đó nhằm đợt tổng công kích đợt 2 của Việt Cộng vào Sài Gòn, tôi đứng dưới giao thông hào vừa chà láng vừa nhìn về hướng Sài Gòn trông thấy những cột khói bốc cao ngất trời mà lo lắng không biết gia đình mình có được bình an không vì có tin Việt Cộng về tới Tân Quy Đông , bên kia sông hướng Nhà Bè đối diện với quận 4, nơi gia đình tôi ở và đang giao chiến với quân ta
Chúng tôi đang học giữa khóa thì tất cả khóa sinh 1/68 đàn anh của chúng tôi ở tiểu đoàn Nguyễn Huệ mãn giai đoạn 1 lên đường vào trường bộ binh Thủ Đức. Trần Kim Hoàng có sang gặp tôi để từ giả. Đồng thời lúc đó có tin đồn, khóa chúng tôi sẽ có phân nửa đậu lên trường bộ binh học sĩ quan và phân nửa rớt sẽ ra Nha Trang học khóa hạ sĩ quan ở quân trường Đồng Đế. Mọi người rất hoang mang, lo lắng vì tin đồn còn cho biết tiêu chuẩn đậu rớt căn cứ vào điểm môn tác xạ. Riêng tôi, sự lo lắng càng nhiều hơn vì bẩm sinh thể lực không bằng những người khác nên kềm khẩu súng garant không được chặt vì vậy bắn không được chinh xác
Những ngày thi cuối khóa tới, tôi không lo môn nào khác chỉ lo môn tác xạ. Tôi tác xạ bên cạnh Đàm, khóa sinh đại đội trưởng. Đàm biết sự lo lắng của tôi nên hứa sẽ bắn qua bia của tôi, Đúng như anh đã hứa, khi trông thấy tôi bắn bia trật nhiều quá nên anh đã bắn giúp tôi vài phát vào bia của tôi. Nhưng tôi vẫn lo lắng không biết mình có đủ điểm bắn không.
Buổi tối ngày mãn khóa, tình hình ở hai tiểu đoàn khóa sinh Trần Bình Trong và Gia Long rất căng thẳng. Chúng tôi được lệnh tập trung ngoài sân chờ lệnh. Trung úy Bình cầm một tờ giấy đọc tên những khóa sinh được nói là phải mang quân trang tham dự một cuộc di hành. Những người không có tên ở lại chờ lệnh. Linh tính cho tôi biết là ai có tên là được đi học sĩ quan ở trường bộ binh, những người còn lại trong đó có tôi, sẽ đi học hạ sĩ quan.
Sau khi những người may mắn đi rồi thì những người xấu số bắt đầu nổi loạn. Quân cảnh được phái tới rất đông, Đại tá Lê Ngọc Triển đích thân xuống trấn an đám loạn binh nhưng vô hiệu. Cuối cùng, quân cảnh phải áp giải chúng tôi về trại chuyển tiếp Nguyễn Tri Phương.
Tại đây chúng tôi làm một đêm không ngủ và có người đưa sáng kiến là trút tất cả quân trang trong sac marin bày cả lên giường để người ta không thể ép buộc chúng tôi di chuyển được. Gần sáng thì quân cảnh tiến vào phòng áp tải từng người ra xe GMC mặc dù mọi người lấy muỗng gỏ vào ga men báo động,
Cuối cùng, chúng tôi cũng bị chở ra phi trường Tân Sơn Nhứt để đưa ra quân trường Đồng Đế, Nha Trang. Vì số khóa sinh qúá đông nên việc chuyên chở ra Nha Trang kéo dài tới chiều.
Sau một giờ bay, chúng tôi tới thành phố duyên hải. Từ phi trường gần biển đến quân trường Đồng Đế, xe chạy qua những quang cảnh rất đẹp. Nhưng người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ! Khi xe chạy vào cổng quân trường Hạ Sĩ Quan, tôi trông thấy bức tượng người lính bằng đồng đen gây trong tôi ấn tượng những ngày gian khổ sắp tới. Trong quân đội, hạ sĩ quan là cầu nối giữa sĩ quan và binh sĩ và cấp chỉ huy thấp nhứt nhưng gần nhứt với người lính với nhiệm vụ tiểu đội trưởng . Hạ sĩ quan vừa là người chỉ huy vừa là người trực tiếp chiến đấu. Do đó việc huấn luyện một hạ sĩ quan đòi hỏi sự khổ công chịu đưng trong thời gian học tập của khóa sinh.
Trường sở khang trang nằm dưới bóng những hàng cây thông, cây bàng đầy bóng mát. Phía sau trường là một dãy núi chắn ngang, thấp thoáng bức tượng người chiến binh đứng trong tư thế thao diễn nghỉ trên đỉnh núi Hòn Khô, tạo thành một khung cảnh thật hùng tráng. Vì dãy núi trông từ xa như hình một thiếu nữ năm xỏa tóc nên sau này khi vào học ở đây tôi được nghe truyền tụng hai câu thơ mà ai đó đã đặt:
“Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ,
Em nằm xỏa tóc đơi chờ anh.”
Sau bữa cơm trưa, chúng tôi được sắp xếp chỗ ở, tắm giặt., Chiều hôm đó chúng tôi tập họp ở Vũ Đình Trường, để nghe Đại Tá Lê Văn Nhật, Chỉ Huy Trưởng Trường nói chuyện. Đại Tá Nhật nhiệt liệt chào mừng chúng tôi, những tân khóa sinh Hạ Sĩ Quan bằng một bản nhạc hùng do Ban Quân Nhạc của Trường hòa tấu . Đại Tá Nhật cho biết trường hợp của chúng tôi đang được Tổng Cục Quân Huấn và Bộ Tổng Tham Mưu cứu xét, và ông tin tưởng rằng đa số chúng tôi sẽ tiếp tục theo học khóa Sĩ Quan Trừ Bị tại đây. Buổi nói chuyện của vị Đại Tá Chỉ Huy Trưởng gây được nhiểu hy vọng cho chúng tôi .
Vài hôm sau chúng tôi được gọi lên đại giảng đường của quân trường để nghe cựu trung tướng Tôn Thất Đính, dân biểu trưởng khối quốc phòng hạ viện nói chuyện . Những tràng vổ tay vang lên khi tướng Đính loan báo Quốc Hội đã can thiệp để vớt điểm bắn cho chúng tôi. Tổng cuộc quân huấn đã đồng ý chỉ đánh rớt một số khóa sinh tương đương quân số một đại đội phải học khóa hạ sĩ quan, số khóa sinh còn lại được học khóa sĩ quan,
Ngày hôm sau, chúng tôi được phân phối thành 5 đại đội: đại đội 334 học khóa hạ sĩ quan, 4 đại đội cón lại là 335, 336, 337 và 338 học khóa sĩ quan. Tôi được xếp vào đại độ 335 mà sĩ quan cán bộ đại đội trưởng là trung úy Xuân. Tôi có hai người bạn đồng nghiệp là anh Nguyễn Thành Hải, dạy Quốc Văn và anh Nguyễn Thành Tương, dạy Lý Hóa bị xếp vào đại đội 334. Nhờ vậy, sau năm 75 hai anh khỏi phải đi tù cải tạo.
Việc giải quyết trường hợp của chúng tôi tạo tiền lệ cho các khóa sinh viên sĩ quan trừ bị sau này. Không còn có việc đánh rớt khóa sinh để buộc họ phải theo học khóa hạ sĩ quan, mà tất cả đều học khóa sĩ quan, xen kẻ một khóa lẻ học ở trường bộ binh là một khóa chẵn mà phân nửa học ở trường bộ binh, phân nửa còn lại học ở trường Đồng Đế..
Bốn đại đội sinh viên sĩ quan chúng tôi lập thành tiểu đoàn 1 Sinh Viên Sĩ Quan do một vị thiếu tá làm sĩ quan cán bộ..Bốn tuần huấn nhục bắt đầu. Đi đâu từ hai người trở lên đều phải đếm bước chạy. Trước khi vào nhà bàn để ăn thì đại đội phải chạy vài vòng quanh vũ đình trường. Ngòai ra những bài học tuột núi, đi dây tử thần, vượt sông, tấn công lên đồi...là những bài học cam go của chúng tôi.
Ngày chuẩn bị gắn alpha, chúng tôi phải làm một cuộc hành quân chinh phục Hòn Khô. Tôi phải vác cây trung liên Bar leo núi. Khi lên tới đỉnh Hòn Khô thì tôi suýt ngất xỉu vì kiệt sức.Tối đó, tiểu đoàn1 SVSQ làm lễ gắn alpha cho các khóa sinh."Quỳ xuống các khóa sinh dự bị sĩ quan, Đứng lên các sinh viên sĩ quan". Khẩu lệnh đó cùng bản Hồn Tử Sĩ vang lên trang nghiêm làm tôi lạnh người nghỉ tới những tháng ngày xông pha trong vòng lửa đạn sắp tới.
Tiếp tục những ngày huấn luyện của 12 tuần còn lại, mỗi ngày chúng tôi phải chạy đều bước và hát những bản hùng ca theo tiếng hô một hai của sinh viên cán bộ đại đội trưởng mỗi khi đi học hay đi ăn:
"Ngày bao hùng binh tiến lên.
Bờ cõi vang lừng câu quyết chiến ..."
" Đường trường xa muôn vó câu bay dập dồn,
Đoàn hùng binh trong sương lướt gió reo vang.., "
"Đây phù hiệu trường Hạ Sĩ Quan
Lò luyện thép tân tiến nhứt Việt Nam..."
"Trường Hạ Sĩ Quan nung chí người trai,
Một trời thép súng nở hoa tươi cười..."
Chúng tôi chỉ được thoải mái khi đi ứng chiến ban đêm. Có đêm chúng tôi giăng lều nằm ở nhà thủy tọa, lắng nghe tiếng sóng biển rì rào. Có đêm chúng tôi nằm trên đồi Rù Rì để làm mồi cho muỗi cắn.
Cuối tuần, chúng tôi được vài giờ phép để ra thành phố Nha Trang. Có người thì vào quán cà phê Thiện ở đường Độc Lập để trồng cây si cô ngồi caisse, người Sài Gòn đẹp như tranh vẽ. Có người đi xả xú báp ở khu Phước Hải . Có người ra bờ biển nhìn sóng vỗ bờ.
Rồi thì khóa học cũng chấm dứt. Khóa 2/68 sĩ quan trừ bị Đồng Đế mãn khóa tháng 11 năm 1968. Mọi người theo hạng thứ của kết qủa thi mãn khóa lần lượt lên chọn đơn vị. Đa số về Địa Phương Quân, một số ít về các đơn vị chuyên môn và Biệt Động Quân. Tôi và Âu Dương Ư , người bạn đứng cạnh tôi cũng vác trung liên như tôi trong hàng đầu của Đại Đội. chọn về Sư Đoàn 9. Khẩu lệnh để hàng quân chào kính cấp chỉ huy không giống các quân trường khác:"Nghiêm! Súng chào..bắt. Trung liên lên vai."
Đường bộ từ Nha Trang về Sài Gòn lúc đó không an ninh nên tôi ra phi trường Nha Trang mua vé của Air Vietnam để về nhà. Tôi được một tuần nghỉ phép trước khi trình diện đơn vị. Tôi cùng Âu Dương Ư đi xe đò xuống Sa Đéc, nơi đóng bản doanh của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bộ Binh. Anh Bạch Ngọc Hòa, bạn học của tôi ở trường Nguyễn Văn Khuê gởi tôi và Ư ở tạm nhà đại úy Dũng , trưởng phòng 1 của Sư Đoàn 9, là em họ của anh. Hòa đang học khóa sĩ quan không quân chung với Quan, em kế tôi. Sau này khi sang Mỹ học bay, Hòa rớt về bay nên về Việt Nam sớm hơn và học khóa không phi hành. Em tôi ở lại học tiếp khóa trực thăng , khi về nước làm hoa tiêu trực thăng ở sư đoàn 3 không quân và bị bắn rớt máy bay mất tích trong mặt trận An Lộc năm 1972. Thế mới biết mỗi người có số phận khác nhau.
Vài bữa sau, tôi và Ư trình diện đại tá Trần Bá Di, tư lệnh sư đoàn 9 để được bổ nhiệm về đơn vị. Ư được đưa về trung đoàn 15, vùng trách nhiệm là Cao Lãnh và Châu Đốc, còn tôi về trung đoàn 16, hoạt động ở Vĩnh Long và Sa Đéc. Tôi chia tay Ư đi Vĩnh Long nhận đơn vị. Sau này, tôi được tin Ư bị thương ở bụng và được về làm tại bộ tư lệnh quân khu 4 ở Cần Thơ.
Tôi thụ huấn tại trường Hạ Sĩ Quan Nha Trang trong khoá 2/68 sĩ quan trừ bị Đồng Đế chỉ có vài tháng nhưng nơi đây ghi lại nhiều kỷ niệm của thời gian huấn luyện đúng với phương châm “thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”. Trường Hạ Sĩ Quan Nha Trang xứng đáng với tên lò luyện thép, nơi đào tạo cáp chỉ huy gần với binh sĩ nhứt.
Montréal, Canada ngày 22/10/2020
Huỳnh Công Ân
( Trích hồi ký: “Từ Sài Gòn đến Montréal, nổi trôi theo vận nước” cúa cùng tác giả)
No comments:
Post a Comment