Friday, January 21, 2022

Tôi đi thăm chồng "cải tạo" Bút ký:Minh Hoà

Tôi quen anh năm 17 tuổi, khi còn cắp sách đến trường. Lúc ấy anh là sinh viên sĩ quan năm thứ ba, hai mươi tuổi đời, nhưng dạo đó trong mắt tôi anh thật chững chạc, lại tài hoa, và cũng không thiếu… si mê.
Anh nhất định đòi cưới tôi ngay sau khi ra trường, nói rằng thầy mẹ anh sẽ ưng ý, không thể phản đối. Tôi hình như có hơi ngạc nhiên và hơi… sợ sợ, vì tuổi 18, 19 thời đó còn nhỏ lắm, chẳng biết gì, chỉ biết rằng tôi hình như cũng… yêu anh nhiều lắm. Tôi còn nhớ, tuy còn nhỏ và ngây thơ lắm, nhưng những ngày giữa năm thứ tư của anh, từng đêm tôi đã thổn thức một mình. Cảm giác lúc ấy là chỉ sợ mất anh vào nơi gió cát mịt mù mà biết bao người trai đã ra đi không hẹn ngày về. Và tôi nhất quyết lấy anh, tuy anh làm phiền lòng ba má tôi không ít, khi anh dứt khoát từ chối mọi công lao chạy chọt của song thân tôi ngay từ truớc ngày anh tốt nghiệp. Gia đình tôi ngần ngại, nhưng tôi là con gái út, được cưng nhất nhà, vả lại cả nhà ai cũng quý mến anh…
Thế là tôi rời ghế nhà trường năm 19 tuổi, lên xe hoa mà tưởng như đang trong giấc mộng tình yêu thời con gái. Rồi thì giã từ quê huơng Đà Lạt yêu dấu, giã từ những kỷ niệm yêu đương trên từng con dốc, từng vạt nắng xuyên cành trong hơi lạnh thân quen, từng hơi thở thì thầm trong ngàn thông thương mến, tôi theo anh về làm dâu gia đình chồng ở Sài Gòn. Tôi chưa hề được chuẩn bị để làm dâu, làm vợ, đầy sợ hãi trong giang sơn nhà chồng, còn chưa biết ứng xử ra sao, nhưng được cha mẹ và các em chồng hết lòng thương mến.
Các chú em chồng nho nhã luôn luôn hoan hô những món ăn tôi nấu nướng.
Tuần trăng mật thật vội vã nhưng vô cùng hạnh phúc, chỉ vỏn vẹn trong thời gian anh nghỉ phép ra trường, rồi trình diện đơn vị mới. Mùng sáu Tết Tân Hợi 1971, Sư đoàn Dù của anh đi mặt trận Hạ Lào. Hôm ra đi anh vui tưng bừng như con sáo sổ lồng, trong khi tôi thẫn thờ… Anh siết tôi thật chặt, không cho tôi khóc, nói rằng ra đi trong dòng nước mắt vợ hiền là điều xui rủi.
Tôi vội vã gượng cười, để rồi từng đêm thổn thức một mình trong căn phòng lạnh vắng, run rẩy lắng nghe từng tin chiến sự miền xa… Thư anh từ mặt trận toàn những điều thương nhớ ngâp tràn, pha lẫn những lời như những tràng cười say sưa của người tráng sĩ đang tung mình trên lưng ngựa chiến. Mẹ chồng tôi chẳng vui gì hơn tôi. Hai mẹ con buôn bán xong thường đi lễ chùa, khấn nguyện. Bà cụ bảo tôi: “…phải khấn cho nó bị thương nhẹ để mà về, chứ vô sự thì lại không được về, vẫn còn bị nguy hiểm”… Tôi càng hoang mang, thảng thốt, quỳ mãi trong khói hương với đầy nước mắt, chẵng khấn được câu nào… Má tôi trên Đà Lạt cũng vội lặn lội lên tận cốc xa, thỉnh cho được tượng ảnh Bồ Tát Quán thế Âm để chồng tôi về sẽ đeo vào cổ.
Sau trận đầu tiên ở Hạ Lào anh trở về với cánh tay trái treo trước ngực. Tôi run run dội nước tắm cho anh để nước khỏi vào vết thương, mà không giấu được nụ cười đầy sung sướng, pha lẫn… đắc thắng, cảm ơn Trời Phật linh thiêng…
Rồi anh lại ra đi. Tây Ninh, Cam Bốt, cùng những địa danh trong các dòng tin chiến sự mà tôi thuộc nằm lòng. Trảng Bàng, Trảng Lớn, Suông, Chúp, Krek, Đam Be… Anh đi toàn những trận ác liệt một mất một còn với quân thù quái ác. Vừa lành vết thương là lại ra đi. Tôi thành người chinh phụ, thao thức từng đêm, vùi đầu vào gối khóc mùi trong lời khấn nguyện Phật Trời che chở cho sinh mạng chồng tôi. Còn anh, anh cứ đi đi về về trong tiếng cười vui sang sảng, hệt như các bạn chiến đấu trong cùng đơn vị, mà nay tôi vẫn còn nhớ tên gần đủ: các anh Tường, Hương, Trung, Dũng, Sinh, Chiêu, anh Sĩ, anh Tâm, anh Quyền….
Mỗi lần trở về bình an là một lần cả nhà mở hội, và mỗi khi nhận lệnh đi hành quân là một lần tôi thờ thẫn u sầu trong lúc anh hăng hái huýt gió vang vang khúc hát lên đường. Con người ấy không biết sợ hãi là gì, không cần sống chết ra sao, và không hề muốn nghe lời than vãn, chỉ thích nụ cười và những lời thương yêu chiều chuộng. Anh nói không biết tại sao anh có niềm tin kỳ lạ là không có việc hiểm nguy nào hại đựơc thân anh. Tôi chỉ còn biết chiều theo ý chồng, không bao giờ dám hé môi làm anh buồn bực, vì thời gian gần nhau quá ngắn ngủi, tôi chỉ lo cho anh những phút giây hạnh phúc hiếm hoi của người lính chiến, không muốn để anh bận lòng vì những nỗi lo âu. Lấy chồng hơn hai năm sau mà tôi vẫn chưa có cháu, vì anh cứ đi, đi mãi đi hoài, những ngày gần nhau không có mấy.
Rồi mùa Hè đỏ lửa nổ ra. Anh nhảy vào An Lộc, lăn lóc đánh dập đánh vùi với địch quân đông gấp bội trong gần ba tháng trời, mất cả liên lạc bưu chính, ở nhà không hề nhận một chữ một lời. Người hạ sĩ quan hậu cứ mỗi tháng ghé lại gia đình thăm hỏi đều phải vẫy tay tươi cười ngay từ đầu ngõ. Anh về được đúng một tuần, thì lại lên đường đi Quảng Trị… Rồi anh lại bị thương ở cửa ngõ Cổ Thành, trở về trong phòng hồi sinh Tổng Y Viện Cộng Hòa. Trên đường tới bệnh viện cùng với gia đình, tôi ngất xỉu trên xe của người anh chồng…
Nhưng rồi anh vẫn đứng dậy, lại khoan khoái cất bước hành quân. Ôi, không biết tôi mang nợ anh từ tận tiền kiếp xa xôi nào, mà tôi yêu thương cái con người chỉ biết miệt mài say mê chiến trận. Tôi chỉ biết ước nguyện của anh là trở thành một Tướng Patton của Việt Nam, “Rồi nước mình sẽ phải tự chủ hơn lên, mấy năm nữa phải khác hẳn đi chứ. Nền nếp quân đội sẽ phải thay đổi. Anh sẽ làm tư lệnh đại đơn vị, để anh điều động liên quân chủng, cả thiết giáp, máy bay, đánh giặc như Patton cho mà coi. Cam bốt, Hạ Lào Trung Thượng Lào ăn nhằm gì… Hà hà.” Tôi chỉ ậm ừ vì chẳng hiểu gì, khi anh thì thầm bên tai tôi vào một đêm tôi dần thiếp đi trong đôi cánh của hạnh phúc, một lần anh về phép hành quân…
Sinh cháu gái đầu lòng năm 1973 ở Đà Lạt, anh về thăm mẹ con tôi và trường cũ, xong lại bay đi trấn thủ đường ranh giới ngưng chiến ở vùng Tây Nam Huế…
Tháng Tư năm 1975, đơn vị anh đóng quân ở Thủ Đức, chuẩn bị tử chiến với quân thù. Chú em chồng là sĩ quan chuyển vận tàu HQ505. Tàu ghé Sài Gòn để chuẩn bị đi công tác Phú Quốc. Chồng tôi bảo cả gia đình, gồm thầy mẹ, các chú và cả mẹ con tôi, xuống tàu đi Phú Quốc lánh nạn chiến sự, rồi khi yên sẽ lại trở về. Tôi tưởng anh cũng định ra đi, nhưng anh quắc mắt nói tại sao anh lại phải bỏ đi lúc quân lính của anh vẫn còn chưa nao núng, “bọn nó làm gì thắng nổi khi cả Sư Đoàn Dù đầy đủ bung ra phản công, cho nó ăn một cái Mậu Thân nữa thì mới hết chiến tranh, quân Dù đánh giặc một chấp bốn là thường, còn trận cuối này là xong.” Anh hăng say như sắp xung trận, nhưng rồi anh quay lưng lại, run giọng bảo tôi hãy bế con theo xe của ông anh ra bến tàu. Đến nước đó tôi không còn gì sợ hãi, ôm con nhảy xuống, nhất định đòi ở lại. Vợ chồng sống chết có nhau…
Ba lần toan vượt thoát từ đầu đến giữa Tháng Năm đều thất bại não nề. Anh lên đường đi trại tập trung vào Tháng Sáu, khi tôi đang mang bầu cháu thứ nhì… Bé Dung ưỡn người đòi theo bố. Anh quay lại, vẫy tay cười với mẹ con tôi. Vẫn nụ cười ấy, anh vẫn chẳng nệ âu lo sống chết là gì, nhưng còn mẹ con em, anh ơi???…
Gia đình nhà chồng tôi thiệt có phước, hầu hết đã theo tàu HQ505 đi Phú Quốc rồi sang Mỹ, kể từ hôm tôi ôm con ở lại với chồng. Gia đình tôi từ Đà Lạt chạy về Sài Gòn, sống chen chúc quây quần đùm bọc lẫn nhau. Hàng quán của gia đình chồng tôi bị tịch biên hết. Tôi nhất định giữ chặt ngôi nhà của cha mẹ chồng để lại, đuổi mấy cũng không đi. Chị ruột tôi bỏ dần vốn ra mua được ngôi nhà khác, vì ông chồng ôm vợ bé chạy mất, nhà cửa xe cộ bị tịch biên hết. Tôi và các anh chị em tôi chạy vạy đủ điều để lo sinh kế, nuôi con thơ cha già mẹ yếu. Chồng tôi mịt mù tăm tích, chỉ có đôi ba lá thư viết về từ trại Long Giao. Lên Long Giao cũng không gặp. Anh bị đưa ra Bắc.
Năm đó tôi tròn 25 tuổi, dung nhan tuy tiều tụy nhưng vẫn khiến nhiều kẻ phải suýt soa dòm ngó. Biết bao người mai mối thì thầm bên tai tôi, thôi hãy lo cuộc đời mới, sĩ quan ngụy đi Bắc chẳng có ngày về… Bao nhiêu nỗi khổ đau dồn nén đột nhiên bùng nổ. Tôi vùng lên như một con cọp cái: bác thử nghĩ coi cả bọn cả lũ tụi nó đó có đáng xách dép cho chồng tôi không!!! Rồi ba mẹ con tôi ôm nhau khóc vùi trong tủi hận.
Không, không, một ngàn vạn lần không. Quanh tôi chỉ còn toàn rác rưởi. Vâng, những người đàn ông ở miền Nam mà đang đi tù Cộng Sản mới là những người xứng đáng với đàn bà con gái miền Nam ở lứa tuổi tôi. Chị em chúng tôi gọi đó là “tấm bằng tù cải tạo” của các ông để chọn gửi cuộc đời, dù là trao gửi vào một nơi bất định… Còn gì nữa mà chọn lựa! Thà vậy, đành thôi. Tôi đã là vợ anh, tôi vẫn tôn thờ anh trong tim óc, làm sao khỏi lợm giọng trước bọn người lường lọc, bướm ong, hèn hạ… Chị em tôi buôn bán từ thuốc lá đến bánh cuốn, bánh ướt, bánh mì, thuốc tây, thuốc nam, kiêm luôn cắt chải gội uốn tóc, làm móng tay… nhưng luôn tránh chỗ công quyền và nơi phồn hoa nhan nhản những con mắt hau háu của bọn ăn cướp và bọn trở cờ. Mấy anh chị em tôi đồng lòng, đùm bọc lẫn nhau, nên áo rách nhưng một tấm lòng son tôi vẫn vẹn với câu thề…
Vượt qua được thời gian khó khăn cực khổ nhất lúc ban đầu, sau ba mẹ con tôi được gia đình chồng từ Mỹ chu cấp, tuy không dư dả nhưng cũng đủ gửi quà ba tháng một lần, rồi lại dành dụm cho môt chuyến thăm nuôi…
Anh từ miền cực Bắc bị đưa về Thanh Hóa chừng một năm, thì tôi xin được giấy phép đi thăm nuôi. Tôi và chị tôi chạy đôn chạy đáo mua đủ một trăm năm chục ký quà để tôi đem ra Bắc cho chồng. Bà cụ buôn bán quen ngoài chợ lại nhờ đem thêm năm chục ký thăm dùm con trai, vì con dâu cụ đã vượt biên. Cháu Dung đã lên 6, em Long nó 4 tuổi và chưa lần nào thấy được mặt cha. Tôi đem cả hai con đi cho anh gặp đứa con trai.
Xuống ga Thanh Hóa, cả đoàn quân khuân vác vây quanh gọi mời giục giã. Tôi và mấy chị cùng thăm chồng chia nhau giữ chặt hàng hóa không cho ai khiêng vác, rồi tự mình kéo lê kéo lết đi thuê nhà trọ. Có người đã đi về kể rằng cứ sơ ý là bị vác hàng chạy mất. Chúng tôi cũng phải chia nhau ở lại nhà trọ coi chừng hàng và đi chợ. Tôi nhờ một chị mua thêm được ký mỡ, về rang tóp mỡ ngoài sân nhà trọ. Nghe con khóc, tôi vội vã chạy vô nhà. Chưa kịp dỗ con thì nghe tiếng ồn ào. Quay ra, hai kẻ cắp đã bưng chảo tóp mỡ ù té chạy, chị bạn rượt theo không kịp. Tôi khóc thầm tiếc hoài, cứ nghĩ những tóp mỡ kia đáng lẽ đã giúp chồng mình đỡ bao đói khát.
Xe đò đi Thanh Cẩm chật ních những bà thăm chồng. Chúng tôi năm người lớn và hai cháu xuống ngã ba Nam Phát để vô Trại 5. Tôi lê từng bao hàng rồi lại quay lui kéo lê bao khác, chừng hơn nửa cây số mới đến trạm xét giấy tờ vào trại, hai cháu còn quá nhỏ chẳng muốn chúng đụng tay. Cô Út thiệt giỏi, xong phần mình lại xông xáo giúp hết người nọ tới người kia.
Xong giấy tờ, chờ một lát thì một người tù hình sự đánh xe trâu đến. Hàng hóa và hai con tôi được lên xe trâu, tôi và chị Phước, chị Điệp cùng hai mẹ con cô Út lẽo đẽo theo sau. Đường đi xuyên trại xuyên rừng dài tám cây số. Chúng tôi chưa biết lúc trở ra mới càng thê thảm.
Chân tay rã rời, tới chiều tối mới thấy cổng trại 5 Lam Sơn. Đêm xuống bé Dung còn phải phụ tôi gom lá mía cho tôi vội nấu hết gạo thành cơm, nắm lại từng vắt, vì nghe nói công an không cho tù chính trị đem gạo sống vô, sợ các anh âm mưu trốn trại. Đêm chờ sáng để thăm chồng, nhìn hai con thơ ngây ngủ say sưa vì mỏi mệt, tôi rời rã vô cùng nhưng không sao ngủ được. Hằng trăm hình ảnh chồng tôi nhảy múa trong đầu… Chồng của tôi, người lính dù hăng hái húyt sáo mỗi khi nhận lệnh hành quân ấy, nay đã ra sao???
Sáng, đến lượt ra nhà thăm nuôi ngong ngóng chờ chồng, tôi không được phép ra khỏi cửa căn buồng nhỏ xíu, kê một bàn gỗ dài và hai ghế băng dọc hai bên. Đột nhiên một ông lạ hoắc đứng lù lù ngay cửa. Tôi ngỡ ngàng chưa biết điều gì. Cô nữ công an nhìn chòng chọc, hằn học, đợi chờ như con gà chọi sắp tung đòn. Tôi không thể hiểu người con gái Bắc cỡ cùng tuổi tôi kia thù hằn tôi điều gì. Tôi ngó lại, lát sau cô ta coi sổ xong, mới nói đây là anh Đức mà bà cụ nhờ tôi đi thăm dùm. Mất nửa tiếng giao quà và kể chuyện gia đình cho anh Đức nghe, tôi được biết chỉ còn một tiếng rưỡi gặp chồng. Thế là tôi bắt đầu ôm mặt khóc, càng lúc càng nức nở vì tủi cực, không thể nào cầm được. Trên thế giới này có ai phải lặn lội hằng ngàn cây số để chỉ được gặp chồng có một giờ ba mưới phút không hả Trời?!!
Hai cô công an lớn tiếng dọa dẫm, những là phải động viên học tập tốt, không lau sạch nước mắt thì không cho ra thăm… Nhưng kìa, ai như chồng tôi vừa bước ra khỏi cổng trại. Tôi không còn nhớ quy định luật lệ gì nữa, vùng đứng dậy chạy nhào ra như một tia chớp. Hai đứa nhỏ vừa khóc vừa chạy theo. Hai công an nữ bị bất ngờ không cản kịp, đứng nhìn.
Tôi chạy tới ôm anh, và càng khóc dữ, đôi chân khụyu xuống, không còn sức lực. Trời ơi, chồng tôi ốm yếu đến nỗi tôi ôm không trọn một vòng tay. Người anh nhỏ thó hẳn lại, chỉ có đôi mắt sáng với tia nhìn ngay thẳng là vẫn hệt như ngày nào, nhưng nay đượm nét u buồn khiên tôi đứt ruột. Anh vẫn không nói được lời nào, chỉ bặm môi nhìn tôi nhìn con thăm thẳm. Tôi biết anh đang cố trấn tĩnh, vì không muốn rơi nước mắt trước mặt công an. Anh dìu tôi và dắt con trở vào nhà thăm nuôi. Anh nắm chặt tay tôi, đưa vào chiếc ghế băng. Cô công an lạnh lùng chỉ anh bước sang chiếc ghế đối diện, rồi ngồi sừng sững ở đầu bàn, cứ chăm chăm nhìn vào sát tận mặt tôi. Anh khuyên tôi ở nhà ráng nuôi dạy con cho giỏi. Rồi thật nghiêm trang, anh bảo tôi phải đưa con đi vùng kinh tế mới, về tỉnh Mỹ Tho chỗ bác Chánh với chú Cương và cô Huyền đã tự nguyện đi khai hoang rồi, đang chờ vợ chồng mình lên lao động sản xuất. Tôi hơi sững sờ, rồi chợt hiểu, đang khóc lại suýt bật cười hân hoan, khi thấy nét khôi hài tinh anh của chồng tôi vẫn còn nguyên vẹn. Bác Chánh là tên gọi của thầy mẹ chúng tôi, chú Cương và cô Huyền chính là chú Cường, chú em chồng đã đưa cả nhà xuống tàu HQ 505 đi lánh nạn. Cô công an có vẻ rất đắc ý, nhắc tôi:
– Chị phải nói gì động viên anh ý đi chứ.
Anh nhìn mắt tôi, cười thành tiếng. Tôi chợt cười, nhưng lại chợt giận hờn.
Tôi cúi mặt giận dỗi:
– Em không đi đâu hết, em chờ anh về đã rồi muốn đi đâu cũng được…
Tôi lại khóc, hai tay nắm chặt tay anh, chỉ sợ phải xa rời. Cô công an cứ quay nhìn hết người nọ đến người kia, lên tiếng:
– Chị này hay nhỉ! Phải đi kinh tế mới, lao đông tốt thì anh ấy mới chóng được khoan hồng chứ! Trại giáo dục anh ý tiến bộ thế đấy, còn chị thì cứ… Chỉ được cái khóc là giỏi thôi!!
Anh không nhịn được, lại cười khanh khách và nói:
– Đó em thấy chưa, cán bộ ở đây ai cũng tiến bộ như vậy hết, em phải nghe anh mới được… Em cứ thấy anh bây giờ thì biết chính sách nhà nước ra sao, cũng đừng lo gì hết, ráng nuôi dạy con cho nên người đàng hoàng đừng học theo cái xấu, nghe…
Tôi dở khóc dở cười, chỉ nắm chặt tay anh mà tấm tức, dỗi hờn. Anh gọi hai con chạy sang ngồi hai bên lòng. Cô nữ công an do dự, rồi để yên, lại tiếp tục nhìn sững vào mặt tôi. Anh ôm hôn hai cháu, nói chuyện với hai cháu. Đôi mắt chúng tôi chẳng nỡ rời nhau. Mắt tôi nhòa lệ mà vẫn đọc được trong mắt anh những lời buồn thương da diết. Tội nghiệp hai con tôi đâu biết chỉ được gần cha trong giây lát nữa thôi.
Tôi như một cái máy, vừa khóc vừa lay lay bàn tay anh, nhắc đi nhắc lại, em sẽ đợi anh về, anh đừng lo nghĩ gì nghe, em sẽ đợi anh về, em nhất định đợi anh mà… anh về rồi mình cùng đi kinh tế mới… anh ráng giữ gìn sức khỏe cho em và con nghe… Em thề em sẽ đợi anh về…. Em không sao đâu… Anh đừng lo nghĩ, cứ yên tâm giữ gìn sức khỏe nghe, em thề mà, anh nghe…
Tôi chợt thấy chồng tôi nhòa nước mắt. Cô công an lúng túng đứng dậy, bỏ ra ngoài nhưng lại trở vào ngay, gõ bàn ra hiệu cho người ở ngoài. Người nữ công an kia chẳng biết núp ở đâu, lập tức xuất hiện, báo hết giờ thăm… Vợ chồng tôi lại ôm chặt nhau ở đầu bàn bên kia ngay trước cửa phòng, bất chấp tiếng gõ bàn thúc giục. Anh nắm chặt hai bàn tay tôi, chỉ nói được một câu:
-Anh sẽ về đưa em và con đi, không thể quá lâu đâu, đừng lo nghe, cám ơn em… đã quyết đợi anh về… Rồi anh nghẹn ngào…
Tôi bị ngăn lại ngay cửa nhà thăm nuôi, cháu Dung chạy ù theo cha, cu Bi nhút nhát đứng ôm chân mẹ cùng khóc. Tôi ôm cây cột gỗ nhìn dáng anh chậm chạp buớc tới hai cánh cổng gỗ to sầm, mà không thể nào ngưng tiếng khóc.
Anh ngoái đầu nhìn lại hoài, bước chân lảo đảo, chiếc xe cút kít một bánh mấy lần chao nghiêng vì hàng quá nặng…
Sáng hôm sau tôi như người mất hồn. Các chị bạn cũng chẳng hơn gì. Mấy chị em và bà bác dắt díu nhau ra, mới biết không được về lối cũ, mà phải đi vòng bên ngoài trại cả gần hai chục cây số nữa để trở lại chỗ ngã ba Nam Phát.
Đường xuyên rừng, rồi lại ra đồng trống, nắng hanh chang chang như muốn quật ngã ba mẹ con tôi. Cu Bi mệt lắm, có lúc ngồi bệt xuống, áo quần mồ hôi ướt nhẹp. Tôi phải đứng giữa nắng đem thân mình che nắng cho hai con, dỗ dành chúng, rồi lại bế cu Bi, lầm lũi bước thấp bước cao. Bà bác và hai chị cùng cô Út cứ phải đi chậm lại chờ mẹ con tôi. Bao nhiêu cơm gạo đã giao cho chồng hết, chúng tôi không còn gì ăn uống. Dọc dường mua được mấy cây mía, tôi róc cho các con ăn cho đỡ đói. Hai đứa không khóc lóc một lời. Bé Dung thiệt ngoan, luôn miệng dỗ em cố gắng. Bụng đói, chân mỏi rã rời trong lúc chiều cứ xuống dần. Đám người lang thang trong những cánh rừng tre nứa âm u, trên miền đất không một chút tình thương. Ai cũng lo sợ, dớn dác nhìn trước ngó sau, tự nhiên túm tụm lại mà đi, càng mệt lại càng như muốn chạy. Tôi bế cu Bi, mỏi tay quá lại xoay ra cõng cháu, vừa mệt vừa đói vừa sợ, lếch thếch vừa đi vừa chạy, không biết sẽ ngã gục lúc nào. Cháu Bi nhìn thấy mẹ mệt quá, đòi tuột xuống, rồi lại hăng hái tiến bước. May sao, đến hơn 6 giờ chiều, trời gần tối hẳn, thì trở lại được ngã ba Nam Phát. Hai công an dắt xe ra đạp về nhà, dặn chúng tôi ở đó đón xe đò ra Thanh Hóa.
Đám người ngồi bệt xuống bên đường. Lâu lắm mới có một xe chất đầy người chạy qua, nhưng đều chạy thẳng, không ngừng. Đã hơn chín giờ đêm. Dáng cô Út cao mảnh rắn chắc đứng vẫy xe in lên nền trời đêm đầy sao như một pho tượng thần Vệ Nữ. Một xe lớn có hai bộ đội chở đầy tre nứa, từ xa chiếu đèn pha sáng lòa trên dáng người con gái đảm đang ấy, từ từ dừng lại. Chúng tôi xúm lại hứa trả thật nhiều tiền, rồi bà bác cùng hai con tôi được lên ngồi ca bin, còn tôi với hai chị và cô Út đẩy kéo nhau leo lên ngồi nghiêng ngả trên tre nứa, tay bám, chân đạp chặt vô thành xe, qua năm tiếng đồng hồ trên con đường đất dằn xóc kinh hồn, nhiều lần tưởng đã văng xuống đất. Hai bộ đội tử tế, không lấy tiền, chỉ ăn hai tô cháo lòng mà chúng tôi mời mãi. Ra đến Thanh Hóa là hai giờ sáng. Các chị đi thăm chồng xuống tàu đêm thật đông, thăm hỏi tíu tít, trả lời không kịp. Khi ấy sao mà chị em chúng tôi thương nhau quá sức.
Vé về Nam không có, phải mua vé ra Hà Nội rồi mới đi ngược trở về. Đêm hôm sau mới đến ga Hàng Cỏ, mấy bà con ra đường đang ngơ ngác thì các chị đằng xa đã đôn đáo vẫy chào, kéo chúng tôi tới chỗ… lề đường, đầy những chiếu với tấm ni lông, nơi tạm trú mà các bà “vợ tù cải tạo” gọi là… Hotel California.
Vâng, chúng tôi nghiễm nhiên nhận chồng chúng tôi là “các ông cải tạo” như người miền Nam vẫn kêu với tấm tình trân quý, để phân biệt với những người tù hình sự. Cho nên danh từ thường đi theo với ý nghĩa nào mà người ta hiểu với nhau, không còn giữ được nguyên cái nghĩa mà nó được đặt cho vì mục đích chính trị sâu xa.
Ngủ lề đường nhưng chẳng ai thấy khổ, vì gần nhau thấy ấm hẳn tình người đồng cảnh. Các chị em thì thầm trò chuyện suốt đêm, kẻ thì khóc rấm rứt, người lại cười khúc khích. Tôi vừa ôm con ngủ gật vừa quạt muỗi cho hai cháu, hình ảnh chồng tôi quay cuồng mãi trong đầu, khi anh nói, khi anh cười, lúc anh đầy nước mắt… Sau những nguồn cơn cực nhọc và xúc động mạnh này, về nhà tôi bị thương hàn nhập lý, rụng hết mái tóc dài, gần trọc cả đầu, tôi đã trối trăn cho bà chị nuôi dạy hai cháu, tưởng không còn được thấy mặt chồng tôi lần nữa…
…Chín năm sau, đúng ngày giỗ đầu Ba tôi, anh đột ngột bước vô nhà. Tôi suýt té xỉu vì vui mừng, cứ ôm chặt anh mà.. khóc ngất. Anh cười sang sảng:
– Cái chị này chỉ được cái khóc là giỏi thôi, phải động viên cho chồng đi sang Mỹ đi chứ… Hà hà..
Các chị em tôi từ Đà Lạt tất bật xuống thăm. Vừa xong ngày đám giỗ thì cả nhà đã vui như hội. Tất nhiên tôi là người mừng vui nhất….
Hạnh phúc đã trở về trong vòng tay tôi. Tôi sẽ ôm thật chặt lấy nguồn hạnh phúc này, không bao giờ để cho đi đâu xa mất nữa…
ảnh1: tác giả Minh Hòa chụp cùng chồng tại Đà Lạt năm 1971.
ảnh 2: tác giả Minh Hòa chụp cùng chồng trong ngày đám cưới con trai "cu Bi" tháng 4 năm 2009.

Wednesday, January 19, 2022

Hôm nay 19/1/2022 tưởng niệm 48 năm các Chiến Sĩ Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà đã anh dũng hy sinh trong trận Hải Chiến Hoàng Sa 19/1/1974.

Hải chiến Hoàng Sa 19/1/1974.


“Hoàng Sa, Nhật Tảo anh hùng tử
Việt sử ngàn năm mãi khắc ghi.”

 
Tưởng niệm 74 Chiến Sĩ Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh để bảo vệ biển đảo trước sự xâm lăng của Tàu cộng.


🔥TÓM TẮT
Từ 15/1 tới 18/1 năm 1974, Hải quân Việt Nam Cộng Hòa phát hiện và truy đuổi tàu Trung cộng xâm nhập vùng biển Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa. Trận hải chiến bùng nổ ngày 19/1/1974.

Tàu Trung cộng số 389 và 396 tấn công Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt HQ16. Chiến hạm Nhựt Tảo HQ10 yểm trợ, bắn trúng đài chỉ huy và hủy diệt phòng máy tàu 389 của giặc.

Các chiến hạm TC liền dồn hỏa lực bắn HQ10 khiến tàu bốc cháy, Hạm trưởng NGỤY VĂN THÀ và Hạm phó Nguyễn Thành Trí bị thương nặng. Chiến hạm VNCH bắn tàu Trung cộng 389 và 274 cháy, 271 và 396 trúng đạn, chỉ huy hạm đội Trung cộng trên 274 bị tiêu diệt, 85 lính Trung cộng chết và bị thương.

Tàu săn ngầm 281 và 282 của Trung cộng tiếp tục pháo HQ10 Nhựt Tảo. HQ10 bốc cháy và chết máy. Hạm phó Nguyễn Thành Trí dù bị thương nặng nhưng nhất định không rời tàu. Các chiến sĩ phải dùng sức mạnh để đưa ông xuống bè thoát hiểm. HQ10 Nhật Tảo chìm vào lòng đại dương mang theo Hạm trưởng NGỤY VĂN THÀ và những người con yêu của Mẹ Việt Nam.

CHI TIẾT TRƯỚC GIAO CHIẾN
🔥15/1/1974
Tàu VNCH HQ16 tuần tiễu tại nhóm Lưỡi Liềm (Crescent) bắt gặp các thuyền đánh cá 402 và 407 của Trung cộng (TC) gần đảo Hữu Nhật (Robert Island). HQ16 ra lệnh cho hai tàu đó rời khỏi khu vực và nã pháo vào đảo Hữu Nhật, làm nổ tung cờ của TC cắm ở đó.

🔥16/1/1974
Radar HQ16 phát hiện tàu TC đang di chuyển về hướng đảo Quang Hòa (Duncan). HQ16 yêu cầu tàu TC rời khỏi lãnh hải VNCH. HQ16 phát hiện trên đảo Quang Hòa có dãy nhà gỗ cắm cờ TC và rất nhiều người; đảo Duy Mộng (Drummond) có 2 tàu TC 402 và 407 có trang bị 3 giàn súng được phủ lưới đánh cá để ngụy trang.

Ngoại trưởng VNCH Vương Văn Bắc gởi công hàm cho Hội đồng Bảo An Liên Hợp Quốc để lưu ý tình hình căng thẳng nghiêm trọng có khả năng đe dọa hòa bình và an ninh Việt Nam cũng như quốc tế.

🔥17/1/1974
Chính phủ VNCH tiếp tục gởi công hàm cho Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đề nghị ban bố mọi biện pháp thích hợp để ổn định tình hình.

Trung cộng (TC) tăng cường lực lượng: hạm đội Nam Hải cho hai tàu săn tàu ngầm lớp Kronstadt số 271 và 274 đến nhóm Lưỡi Liềm, có 2 phi cơ chiến đấu J-6 (MiG-19, phiên bản Trung cộng) yểm trợ.

18h00 HQ4 phát hiện hai tàu TC 271 và 274 tiến về đảo Cam Tuyền. HQ4 dùng quang hiệu yêu cầu các tàu giặc rời khỏi lãnh hải VNCH. Chúng chạy quanh chận đầu HQ4, bất chấp quy tắc hàng hải quốc tế. Trước sự ngoan cố khiêu khích của tàu giặc, HQ4 dùng mũi ủi chúng ra xa. Thấy sự quyết liệt của HQ16 và HQ4, tàu giặc bỏ chạy.

HQ4 cho đổ bộ 20 chiến sĩ Người Nhái lên đảo Vĩnh Lạc (Money), thu dọn cờ TC, cắm cờ Việt Nam Cộng Hòa.

🔥18/1/1974
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cố gắng ôn hòa yêu cầu các tàu và người của TC rời khỏi lãnh hải VNCH. Nếu cần sẵn sàng dùng vũ lực để bảo vệ lãnh hải VNCH.

04h30 một tàu TC tiến về HQ4. HQ4 tăng tốc tiến đến chặn đầu tàu địch thì tàu này rút lui.
08h45, HQ16 phát hiện thêm một tàu TC di chuyển phía Đông Nam đảo Duy Mộng. Trên đảo đã thấy cờ TC.
10h00 4 chiến hạm TC lại xuất hiện, gồm 2 chiếc Kronstadt 271 và 274 và 2 chiếc khác mang số 389 và 396.
15h00 HQ4, HQ5 và HQ16 tiến về Quang Hòa để đổ bộ toán hải kích lên đảo thì gặp hai tàu K-271 và K-274 tiến tới chận đường.
19h15 HQ5 phát hiện thêm hai chiến hạm TC loại T43 cải biến mang số 389 và 396.
20h00, HQ10 Nhật Tảo nhập vùng.

🔥19/1/1974
10h25 Trận hải chiến bùng nổ ác liệt. Hải quân VNCH đánh bại 4 chiến hạm TC sau 30 phút giao chiến và kịp thời rút lui trước khi Hạm đội Nam Hải cùng sự hỗ trợ của máy bay và tàu ngầm kéo đến tăng cường. Diễn biến ngày 19/1 như đã kể trên.

Thiệt hại: 2 chiến hạm TC bị chìm, 2 chiếc khác bị thiệt hại nặng và nhiều binh sĩ thiệt mạng. VNCH có 74 chiến sĩ hy sinh. Ba chiến hạm HQ-4 Trần Khánh Dư, HQ-5 Trần Bình Trọng, HQ-16 Lý Thường Kiệt bị hư hại nhưng về được căn cứ. HQ10 Nhật Tảo vĩnh viễn nằm lại trong lòng đại dương cùng với những anh hùng Việt Nam Cộng Hòa.

“Những ai đã chết vì sông núi
Sẽ sống muôn đời với núi sông.” (TTĐ)
================
Trích Net:
Anh hùng Ngụy Văn Thà
Việt Thái
Vào đầu tháng 1 năm 1974, Trung Cộng liên tiếp đưa ra những lời tuyên bố xác nhận chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa nhằm dọn đường cho việc tấn chiếm Hoàng Sa bằng vũ lực. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa liền phản bác các luận điệu này bằng cách đưa ra những bằng chứng lịch sử Hoàng Sa là của Việt Nam, đồng thời ra lệnh Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên Hải thành lập Hải đoàn Đặc nhiệm để tăng cường bảo vệ quần đảo Hoàng Sa.
Ngày 19/1/1974, chiến hạm HQ-16 và HQ-10 tiến gần Hoàng Sa để yểm trợ cho HQ-4
và HQ-5 đổ quân lên đảo Quang Hòa thì đụng độ với 3 chiến hạm Trung Cộng. Một trong 3 chiến hạm này đã nổ súng trước nên chiến hạm VNCH phải bắn trả để tự vệ.
Sau trận hải chiến, 2 chiến hạm Trung Quốc bị chìm, 2 chiến hạm khác bị thiệt hại nặng và nhiều binh sĩ thiệt mạng. Về phía VNCH có 71 chiến sĩ hy sinh và 28 bị thương. Ba chiến hạm HQ-4, HQ-5, HQ-16 bị hư hại nhưng cũng về đến căn cứ.
Riêng Hộ tống hạm Nhựt Tảo HQ-10 bị chìm sau trận hải chiến kéo dài khoảng 3 tiếng đồng hồ, và Hạm trưởng là Thiếu tá Ngụy Văn Thà tử trận. Ông được truy thăng Trung tá và truy tặng Đệ Ngũ đẳng Bảo quốc Huân chương kèm Anh dũng Bội tinh với nhành dương liễu.
Cố Trung tá Ngụy Văn Thà sinh ngày 16/1/1943 tại Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Ông tình nguyện gia nhập vào Binh chủng Hải quân VNCH và tốt nghiệp khóa 12 “Đệ nhất Song ngư” tại trường Sĩ quan Hải quân Nha Trang vào tháng 3 năm 1964 với cấp bậc Thiếu úy.
Sau khi tốt nghiệp, ông thực tập trên Hải vận hạm LST-1166 thuộc Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ. Trong thời gian phục vụ trong Binh chủng Hải quân, ông lần lượt đảm nhận các chức vụ:
-Hạm phó Tuần duyên hạm Ngô Quyền HQ-17.
-Chỉ huy phó Giang đoàn 23 Vĩnh Long,
-Hạm trưởng Chiến hạm HQ-604 và HQ-331.
-Hạm trưởng Hộ tống hạm Nhựt Tảo HQ-10 kể từ ngày 16/9/1973.
Ngày 18 tháng Giêng 1974 , Hộ tống hạm Nhựt Tảo HQ-10 do ông chỉ huy đang tuần tiễu tại vùng biển Đà Nẵng, thì được lệnh hành quân trực chỉ đến quần đảo Hoàng Sa để tiếp ứng Hải đội VNCH. Khi ấy, chiếc HQ-10 đang trong tình trạng hư hỏng động cơ chính và hệ thống hải hành.
Trận giao chiến giữa hải quân VNCH và hải quân Trung Cộng xảy ra vào lúc 10 giờ 22 phút sáng ngày 19/1. Hai chiến hạm Trung Cộng mang số 389 và 396 đồng loạt tấn công Soái hạm VNCH là Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt HQ-16. Chiếc Nhựt Tảo HQ-10 lập tức tiếp trợ, bắn trúng đài chỉ huy và hủy diệt phòng máy chiếc tàu mang số 389 của giặc. Các chiến hạm Trung Cộng liền dồn hỏa lực bắn chiếc HQ-10. Một quả đại bác rơi trúng đài chỉ huy khiến Hạm trưởng Ngụy Văn Thà và Hạm phó Nguyễn Thành Trí bị thương nặng, hệ thống điều khiển tàu hoàn toàn bất khiển dụng, chiến hạm Nhựt Tảo rơi vào tình trạng bị trôi dạt.
Trong giờ phút sinh tử, Hạm trưởng Ngụy Văn Thà ra lệnh cho thủy thủ đoàn rời tàu, đào thoát bằng thuyền cấp cứu, nhưng một số pháo thủ tình nguyện ở lại cùng ông tiếp tục xử dụng các khẩu trọng pháo giao chiến và hủy diệt 2 chiến hạm 389 và 396 của giặc. Chiếc 389 phải ủi lên một bãi san hô, chiếc 396 bị bắn trúng hầm máy và phát nổ. Về phía chiếc HQ-10, Trung úy Huỳnh Duy Thạch, Cơ khí trưởng cùng một số nhân viên cơ khí bị tử thương.
Đến 11 giờ 49 phút, các chiến hạm khác của VNCH được lệnh rút khỏi vùng chiến, 2 chiến hạm số 281 và 282 của Trung Cộng tiếp tục nã trọng pháo vào chiếc Nhựt Tảo. Sau cùng chiến HQ-10 chìm xuống đáy biển, mang theo thân xác vị Hạm trưởng Ngụy Văn Thà và một số thủy thủ can trường vào lúc 2 giờ 52 phút ngày 19/1/1974.
* * *
Bốn mươi năm sau trận chiến, người dân miền Bắc mới biết được sự thật là các chiến sĩ Hải quân VNCH đã anh dũng hy sinh để bảo vệ lãnh hải, trong khi tập đoàn lãnh đạo CSVN đã liên tiếp gửi công hàm công nhận Hoàng Sa thuộc về Trung Cộng.
Điều trớ trêu của lịch sử là tập đoàn CSVN luôn gọi quân lực VNCH là “ngụy quân”, trùng hợp với cái họ của người anh hùng Ngụy Văn Thà, một cái tên được nhắc nhở nhiều nhất trong các cuộc biểu tình chống Tàu Cộng xâm lược mấy năm vừa qua. Nhìn di ảnh của cố Trung tá Ngụy Văn Thà, những ai còn thao thức đến vận mệnh đất nước và tiền đồ của dân tộc đều cảm thấy tự hào về truyền thống bất khuất của nòi giống Tiên Rồng.
Tấm gương hy sinh của Hạm trưởng HQ-10 càng củng cố niềm tin của con dân Việt qua câu thơ bất hủ của đức Nguyễn Trãi trong Bình Ngô Đại Cáo: “Thế nước có lúc thịnh lúc suy, nhưng hào kiệt thì thời nào cũng có”.
Chính vì thế, tên của Hạm trưởng Ngụy Văn Thà xứng đáng được đặt cho nhiều đường phố trên khắp nẻo đường đất nước hơn là những cái tên Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ hay Đoàn Văn Bơ, Huỳnh Văn Bánh chẳng mấy ai biết đến.

FB Ngô Kỷ 



Khi chồng, Hải quân thiếu tá Nguyễn Thành Trí - Hạm phó Hộ tống hạm Nhựt Tảo - tử trận tại Hoàng Sa ngày 19-1-1974, bà Ngô Thị Kim Thanh mới 28 tuổi, đang mang thai đứa con thứ hai. Bà đã ở vậy, nuôi hai con khôn lớn (Nguyễn Thị Thanh Thảo, sinh năm 1969, và Nguyễn Thanh Triết, tự Hoàng Sa, sinh ra 6 tháng sau khi cha mất).
Đây là một tấm ảnh quý, thật sự gây xúc động cho người xem.

Saturday, January 15, 2022

HỒI KÝ VỀ HẢI CHIẾN HOÀNG SA HQ TRUNG ÚY HÀ ĐĂNG NGÂN WICHITA, ngày 3-5-2005



Tôi là HQ/ Tr.U HÀ ĐĂNG NGÂN, thủy thủ của HQ10 và có tham dự trận hải chiến tại Hoàng Sa.
Tôi viết đoạn hồi ký này qua sự gợi ý của anh Thềm Sơn Hà, thời gian cũng khá lâu, nhiều chi tiết cũng đã quên, tôi xin viết lại những gì tôi thấy trong tầm mắt của tôi, không thêm bớt. 
 
HOÀNG SA và HQ10
HQ10 đã hết hạn đi tuần ngoài Cửa Việt, trên đường về Đà Nẵng nghỉ bến và nhận thực phẩm, nước uống thì Hạm trưởng thông báo có lệnh khẩn cấp, quay mũi trực chỉ quần đảo Hoàng Sa và cố gắng đi với tốc độ nhanh nhất.
Theo lời Hạm trưởng, HQ10 ra Hoàng Sa trợ giúp hỏa lực cho hai chiến hạm của Hải quân Việt Nam (HQ/VN) đang thi hành công tác tại Hoàng Sa, đang bị tàu của Hải quân Trung cộng (HQ/TQ) đến Hoàng Sa lấn chiếm và khiêu chiến.
Trên đường đi, Hạm trưởng ra lệnh kiểm soát lại tất cả mọi ụ súng, đem đạn từ hầm đạn lên các dàn súng tối đa. Theo lệnh từ Sài Gòn, tất cả mọi khẩu súng đều phải bao lại và chỉa lên trời, cấm quay ngang.
Kiểm soát súng đạn xong, ông bảo những ai không thuộc phiên 'đi ca', cố ngủ để có sức cho những ngày kế tiếp.
Khoảng gần 11 giờ đêm ngày sau, HQ10 đến Hoàng Sa nhập vùng cùng 3 chiến hạm đang tuần tiểu.
Tại Hoàng Sa lúc này gồm có 4 chiến hạm của HQ/VN, 4 chiến hạm của HQ/TQ và một số tàu đánh cá ngụy trang của Trung quốc đang loanh quanh trong mấy hòn đảo nhỏ.
Hạm trưởng cũng ra lệnh mang lương khô để ở các nhiệm sở tác chiến càng nhiều càng tốt và từ lúc này không ai được rời nhiệm sở tác chiến. Ông cũng ra lệnh kiểm soát lại 4 phao cấp cứu, được báo cáo là tất cả phao còn tốt.
Mặc dù trời rất nắng, nóng nực, nhưng tất cả đều phải mặc áo phao và nón sắt, đây là một nghiêm lệnh của Hạm trưởng.
Bây giờ lấy quần đảo Hoàng Sa làm tâm, Hoàng Sa có 3 lớp bao bọc chung quanh, lớp thứ nhất là các tàu đánh cá ngụy trang của Trung quốc, lớp thứ hai là 4 chiến hạm của Trung quốc, lớp thứ 3 là 4 chiến hạm của HQ/VN.
Rạng sáng ngày 19 tháng 1, trước khi nổ súng, chiến hạm của HQ/VN và chiến hạm của HQ/TQ cứ chạy 'quấn quít' với nhau, rất gần, có khi đụng cả vào nhau, nhưng cả hai phía, các súng lớn nhỏ đều còn bao bọc và chỉa lên trời, lính hai bên nhìn nhau, vẫy tay, cười...
Sau đó, nghe có tiếng súng nổ ở một hòn đảo nhỏ, qua liên lạc, Hạm trưởng cho biết một số thủy thủ trên HQ5 đổ bộ lên đảo nhỏ và lính Trung Quốc chiếm đảo, ở trong các hố cá nhân, đã nổ súng. Hạm trưởng ra lệnh tất cả sẳn sàng, xin phép thượng cấp mở bao súng và hạ súng xuống, nhưng lệnh chưa cho phép.
Bây giờ, sau khi súng đã nổ ở trên đảo; các chiến hạm của HQ/VN và HQ/TQ không còn quần thảo với nhau nữa, từ từ lảng xa nhau, nhưng vẫn không có lệnh mở bao súng.
Khoảng 9.00 sáng, các tàu của HQ/TQ dùng đèn tín hiệu cho nhau, từ từ các tàu đánh cá ngụy trang và 4 chiến hạm theo hàng dọc đi về phương Bắc, dần dần biến mất ở cuối chân trời. Mọi người ai cũng thở phào nhẹ nhỏm, hy vọng HQ/TQ đã rút lui.
Hai ngày qua, lúc nào thần kinh cũng căng thẳng, áo phao, nón sắt rất bực bội, bấy giờ được tạm cởi ra, xuống phòng ăn cơm rồi tắm gội cho sạch sẽ, ngủ một giấc cho lại sức. Ôi hạnh phúc biết bao.
Vừa đặt chân vào phòng tắm, còi nhiệm sở tác chiến đột ngột reo inh ỏi, chạy vội lên nhiệm sở, mặc áo phao, nón sắt, nhìn theo hướng chỉ ở trên đài chỉ huy, thấy có mấy vệt khói mỏng nơi cuối chân trời, rồi từ từ 4 chiến hạm của HQ/TQ rời vùng cách đây mấy tiếng, lại xuất hiện, đang chậm chậm vào vùng! Tôi thầm nghĩ chắc không ổn rồi.
Khi các chiến hạm của HQ/TQ đến gần các chiến hạm của HQ/VN, họ không đến gần như lúc sáng mà ở xa xa khoảng hơn 1 cây số, làm thành một vòng tròn bao HQ/VN ở trong.
Chạy loanh quanh với nhau chừng 2 vòng, các chiến hạm của Trung quốc từ từ lảng ra xa hơn. Như một dấu hiệu khác thường, Hạm trưởng liền xin lệnh trên cho mở bao súng, hạ nòng xuống, nạp đạn và đề phòng mọi bất trắc, nhưng lệnh trên không cho phép.
Chừng nửa giờ sau, 2 trong 4 chiến hạm của Trung quốc xích lại chạy song song với nhau. Như một kinh nghiệm chiến trường thúc đẩy Hạm trưởng ra lệnh hạ nòng súng, tháo bao, nạp đạn sẳn sàng và quay súng về phía tàu Trung quốc.
Ít phút sau, hai tàu Trung quốc này chạy gần sát vào nhau và thình lình cùng quay mũi song song tiến về phía HQ10, hướng 3.00 giờ.
Hạm trưởng ra lệnh tất cả súng hướng về mục tiêu 1 và mục tiêu 2.
Tôi ở ụ súng lớn phía trước mũi (khẩu 76.2 ly) được lệnh nhắm vào mục tiêu 1.
Hạm trưởng lại xin lệnh nổ súng một lần nữa nhưng được trả lời chờ Sài Gòn quyết định.
Thần kinh thật căng thẳng, 2 tàu Trung quốc cứ từ từ đến gần, khi còn cách khoảng 200 thước - 250 thước, Hạm trưởng hét lớn "Bắn". Tất cả hỏa lực trên tàu cùng nhả đạn. HQ10 khai hỏa đầu tiên do lệnh của chính Hạm trưởng
Khoảng 5 phút sau, mục tiêu 1 bốc khói mịt mù và lùi lại phía sau, tất cả hỏa lực lại nhắm vào mục tiêu 2. HQ10 đến lúc này vẫn an toàn, đạn từ tàu Trung quốc bắn tới đều bay qua đầu hoặc nổ trên mặt nước trước mặt.
Vài phút sau, mục tiêu 2 cũng bốc khói, mục tiêu 1 tuy còn chút khói bốc lên, chạy trở vào gần HQ10, bắn trả lại HQ10 và HQ10 bắt đầu trúng đạn của tàu Trung quốc.
HQ10 bị trúng trái đạn đầu tiên ngay trên đài chỉ huy, Hạm trưởng cùng các sĩ quan và thủy thủ có nhiệm sở tác chiến trên đài chỉ huy chết hết, trừ Hạm phó bị thương nặng, bò xuống được sàn tàu.
Đạn vẫn nổ liên miên như pháo bông bên hữu hạm của HQ10, tôi vừa đở Hạm phó để ngồi dựa lưng vào vách nơi chân đài chỉ huy thì một tiếng nổ chát chúa, lửa loé chói mắt, tôi ngã quỵ xuống và tay phải không nhấc lên được nữa, chân trái cũng không cử động được, tôi nghĩ là tay phải và chân trái của tôi đều đã bị gãy, thấy máu ra ướt áo, ướt quần nhưng không có cảm giác đau đớn gì cả.
Chừng 5 phút sau, tiếng súng từ từ ngưng bặt, tứ phía đều im lặng, chỉ còn nghe tiếng nổ từ hầm đạn phía sau của HQ10 và khói bắt đầu bốc lên mù mịt, tiếng đạn nổ gia tăng dưới hầm đạn, tất cả mọi phương tiện chửa cháy, máy móc đều bất khiển dụng.
Tàu của HQ/VN và HQ/TQ cùng rút lui. Tại trận chiến chỉ còn HQ10 đang bốc cháy, hầm đạn đang nổ, cách HQ10 khoảng 400 thước - 500 thước là HQ16 cũng bị bất khiển dụng, tàu bị nghiêng.
Hạm phó ra lệnh rời tàu, những người còn khỏe mạnh lo việc thả 4 phao cấp cứu cùng giúp thả những người bị thương xuống phao, tôi rồi tới Hạm phó là người được thả xuống phao cuối cùng, ông cũng bị thương nặng.
Xuống phao xong, được khoảng hơn 20 người, chia ra 4 phao, phao nào cũng bị trúng đạn, riêng phao của tôi cũng bị trúng đạn bể một mãng lớn nên chỉ có thể ngồi được 8 người và nước ngập tới ngực.
Hạm phó rất tỉnh táo, ông bảo thủy thủ cố đem 4 phao lại gần nhau rồi dùng những dây có sẳn tua tủa chung quanh phao để cột 4 phao lại với nhau cho tàu tìm kiếm dể thấy, nhưng đừng sát nhau quá kẻo sóng xô dập rồi đè lên nhau.
Luồng nước chảy từ từ đưa chúng tôi rời xa HQ10, nhìn lại tàu, thấy tàu bị trúng đạn quá nhiều, lổ chổ như tổ ong.
Thôi giả biệt HQ10, giả biệt Hạm trưởng cùng các chiến hữu hy sinh trên tàu.
Gió hiu hiu, mặt biển rất êm, HQ10 cũng lửng lờ trôi sau chúng tôi khoảng 80 - 100 thước, không còn nghe đạn nổ, chỉ còn một ít khói bốc lên, xa xa khoảng 400 thước, hướng 4 giờ là HQ16 bị bât khiển dụng, vẫn còn nghiêng, không thấy ai lui tới trên boong tàu.
Khoảng nửa giờ ...sau, chúng tôi thấy một luồng khói đen bốc lên từ ống khói của HQ16 rồi thấy có người tới lui trên boong tàu, lúc này, nhóm chúng tôi cách HQ16 khoảng 500 - 600 thước, ai nấy đều có chút hy vọng, vui mừng vì sẽ được HQ16 ghé đón lên tàu. Chúng tôi ngâm người dưới nước biển cả tiếng rồi, lạnh cóng chân tay rồi! Nhưng mà ủa sao càng ngày HQ16 càng chạy xa, sao không quay đầu lại vớt tụi tôi? HQ16 phải trông thấy chúng tôi và HQ10 chứ ? Thất vọng quá, bây giờ chỉ còn ta với trời và sóng nước bao la.
Chừng một khoảng sau, chúng tôi thấy có khói xuất hiện ở cuối chân trời, đoán thế nào cũng có tàu ra cứu hoặc HQ16 quay lại vớt, nhưng dần dần thấy 2 chấm đen, đến gần thì ra 2 tàu của HQ/TQ, chúng chạy chầm chậm về hướng HQ10, lúc này có tiếng súng bắn ra từ HQ10, 2 chiếc tàu Trung Cộng vừa chạy vừa bắn xối xả vào HQ10, một hồi sau tiếng súng trên HQ10 im bặt, tuy nhiên một chiếc vẫn tiếp tục bắn còn chiếc kia chạy lại chổ 4 phao của chúng tôi. Hạm phó dặn nếu bị bắt, bị đánh cũng đừng khóc, đừng van xin, nhưng chiếc tàu này chỉ chạy quanh chúng tôi 2 vòng, thủy thủ trên tàu vẫy tay cười rồi bỏ đi theo chiếc kia. Lúc tàu này chạy vòng thứ 2, chợt tôi có ý nghĩ tất cả chúng tôi có thể là mục tiêu sống cho họ nhắm bắn...
Khi mặt trời gần lặn, dòng nước đưa chúng tôi tới gần một hòn đảo nhỏ, cách khoảng gần 1 cây số, Hạm phó bảo có thể hơn một giờ nửa sẽ gặp được đảo và ông ân cần dặn nếu lên được đảo thì phải đào hố để che gió cho ấm và kiếm nước uống, tuyệt đối không được uống nước biển, sẽ chóng chết
Mặt trời lặn chừng 15 phút sau là trời tối rất lẹ, hòn đảo nhỏ hướng chúng tôi trôi tới đang mờ dần khi đêm xuống, HQ10 thân yêu đang âm thầm theo sau cũng mờ dần, mờ dần, tàu bị hơi nghiêng, chỉ ít phút sau là trời tối mịt, không còn trông thấy gì cách xa chừng 5 thước, gió bắt đầu nổi lên, phao cứ lên xuống theo ngọn sóng, không còn ai nói với ai tiếng nào, ai cũng lạnh, khát và mệt.
Trời mờ mờ sáng, gió dịu dần. Khi trời sáng tỏ, tôi nhìn quanh quẩn không thấy có phao nào chung quanh, tôi nghĩ khi gió lớn, sóng to, các phao giằng co rồi đứt dây, bây giờ trôi nổi mỗi phao một hướng, không còn thấy gì chung quanh cả, chỉ có ta và biển cả bao la, quần đảo Hoàng Sa ở hướng nào? mình đang trôi về đâu? Còn HQ10 đâu rồ? sao không thấy bóng dáng đâu cả? Không lẽ trong đêm khuya u tịch, HQ10 thân yêu của chúng tôi đã âm thầm về với lòng đại dương trong đêm thâu chăng?
Khi mặt trời đã lên cao, kiểm điểm trong phao có 3 người hy sinh, trong đó có Hạm phó, phao còn lại 5 người và tất cả đồng ý thả những người chết ra, chỉ việc cởi áo phao là xác từ từ chìm. Tôi thầm cầu mong xin các anh phù hộ giúp chúng tôi vào được đất liền. Sau khi thả 3 xác người xuống biển, bây giờ nước ngập tới bụng.
Hôm nay ngày đầu tiên sau trận hải chiến Hoàng Sa, quanh đây chỉ có 5 người, không cất nổi tiếng nói, tay chân khó cử động, tôi băn khoăn không biết mấy phao kia có trôi loanh quanh ở đây không? Dòng nước sẽ đưa chúng tôi về đâu? Sao không thấy bóng dáng tàu của HQ/VN, HQ/TQ hay các thương thuyền qua lại?
Hình ảnh HQ16 lại lảng vảng trong đầu, sao lúc ấy HQ16 không trở lại đón bạn đồng đôi? Ít phút sau, tôi lại nghĩ nếu HQ16 quay lại vớt bọn tôi, có thể tàu Trung quốc quay lại gặp HQ16, lại bắn nhau, 1 sao cự lại 2, tình trạng còn thê thảm hơn chúng tôi nữa, nghĩ vậy nên tôi không còn hờn giận HQ16 nữa - Chúc HQ16 may mắn vào đến bờ!!!
Gần tối, trên phao lại có 2 người về cùng biển cả, bây giờ nước ngập dưới bụng, gió nổi lên, sóng to nhiều khi phủ cả đầu, tôi ở vào trạng thái ban ngày, phần cơ thể trên mặt nước thì nóng, phần cơ thể dưới mặt nước thì lạnh, ban đêm, phần trên mặt nước thì lạnh vì gió, phần dưới mặt nước thì lạnh vì nước - làm sao chống lại được cái lạnh đây?
Tôi nghĩ từ ngày thứ 3 là tôi bắt đầu hôn mê vì lạnh, tay chân không còn nhúc nhích được và cũng không còn cảm giác, mặc cho sóng nước đẩy đưa.
Có lẽ bây giờ là nửa đêm ngày thứ 4, tôi nhìn thấy một vùng sáng lớn ở cuối chân trời, tôi nghĩ có thể đó là dàn khoan dầu, một thành phố ở ven bờ biển hoặc một tàu đang đang đi tìm kiếm chúng tôi, cũng may là dòng nước lại trôi về phía ánh sáng, trong đầu tôi cũng loé lên một chút hy vọng nhỏ nhoi.
Không biết bao lâu, phao của tôi trôi tới gần vùng ánh sáng, tôi nhận ra đó là một chiếc tàu lớn đang đậu và trên tàu có rất nhiều đèn sáng chói, đang chớp tắt, chớp tắt như mời gọi chúng tôi, tôi biết họ đang làm hiệu cho chúng tôi nhưng chân tay tôi không còn cử động được, miệng môi sưng to, đau rát và cũng không đụng đậy được, làm sao làm hiệu cho họ biết mình ở đây ? Trên phao còn thêm 2 người nữa, tình trạng cũng như tôi, cả 3 chỉ ngôi im chờ phép lạ, có lẽ đạo ai thì âm thầm cầu theo ý mình, 3 chúng tôi thậm chí cũng không làm một dấu hiệu gì cho nhau được.
Bất chợt tôi nghe tiếng 'Bo-Bo' rất gần rồi từ từ im bặt, chỉ còn gió và sóng rì rào, tôi nghĩ vì có thể vì quá ước mong nên có cảm giác như vậy. Một lúc lâu sau lại nghe thấy như vậy, rất gần rồi lại mất hút - tôi nghĩ chắc chắn có 'bo-bo' đi kiếm chúng tôi, phía xa xa, tàu lớn vẫn đợi, đèn vẫn chớp.
Thật bất ngờ, tôi nghe tiếng máy "bo-bo" sát bên cạnh rồi ánh đèn pin rọi ngay vào phao của tôi, rồi mũi bo-bo kề ngay vào phao, có 2 người nhảy xuống biển, họ cởi áo phao và giúp đưa 3 chúng tôi nên bo-bo, tôi biết cả 3 chúng tôi đã được cứu sống...Tạ ơn Chúa, tạ ơn Trời, tạ ơn Phật, tạ ơn những người thủy thủ giàu lòng nhân ái, đầy can đảm và kiên nhẫn tìm kiếm chúng tôi trong đêm đen mịt mù, tạ ơn thuyền trưởng đã hy sinh thời gian và tổ chức công cuộc tìm kiếm.
Tôi bị thương nặng nên không thể dìu lên tàu được, họ để tôi nằm trên sàn bo-bo, cho y tá mang theo cáng cứu thương xuống, anh y tá xem xét vết thương rồi cắt bỏ hết áo quần của tôi, anh ra hiệu cho tôi biết chân trái tôi bị gãy, tay phải gãy và vai phải bị bể, miễng đạn còn ghim ở xương vai, anh lấy bông gòn đậy vết thương rồi cùng một thủy thủ khác lấy mền bó chặt người và chân tay tôi vào máng cứu thương và trục lên boong tàu lớn...
Khi lên nằm trên boong tàu, một thủy thủ trước khi khiêng tôi vào phòng, nhìn tôi mĩn cười và giơ ra 3 ngón tay, tôi đoán là đã cứu được 3 người nhưng sau này tôi được biết phao của tôi được vớt là phao thứ ba, có 3 người trên phao ... Khoảng 2 tiếng đồng hồ sau, họ vớt được phao thứ 4 là phao cuối cùng.
Trên tàu không có bác sĩ, chỉ có một y tá nên họ cứ để tôi nằm im. Trong thời gian ở trên tàu này, Thủy thủ đoàn và vợ của ông Thuyền trưởng săn sóc chúng tôi rất tận tình, suốt đêm, cứ khoảng 15-20 phút, họ lại hé miệng chúng tôi ra và đổ vào miệng mỗi chúng tôi một chút sửa vì môi miệng ai cũng bị sưng to vì nóng, khát.
Đêm ở trên tàu, chúng tôi lại bị chết thêm một người nữa, có lẽ quá kiệt sức - cả thảy HQ10 còn sống sót 20 người.
Đến chiều ngày hôm sau, chúng tôi được chuyển qua tàu của HQ/VN rồi được đưa về Căn cứ Hải quân Đà Nẵng.
Nằm trên băng-ca được khiêng từ tàu xuống xe cứu thương để ra bệnh viện Duy Tân, tôi nghe nhiều tiếng ồn ào và được biết có một phái đoàn học sinh sinh viên vào cầu tàu chào đón chúng tôi về từ Hoàng Sa.
Nằm trên băng ca, tôi cũng nghe nhiều câu "Hoan hô anh hùng Hoàng Sa", lòng cũng thấy nao nao.
Ôi tình dân và lính nồng nàn quá.
Tại bệnh viện Duy Tân - Đà Nẵng, các bác sĩ sau khi khám, chụp hình đều quyết định phải tháo khớp xương tay phải từ xương vai vì thịt chổ vết thương đã thối rữa hết. Tôi hết hồn và xin các bác sĩ cố chửa hoặc là tôi chết, nhất định không làm một phế nhân, tuổi tôi còn quá trẻ để làm anh cụt tay.
Với thời gian chửa trị cùng các động tác thể dục trị liệu, gần một năm sau, tôi lại tiếp tục phục vụ đất nước như ước mơ của bao người trẻ tuổi.
 
CHUYỆN BÊN LỀ HOÀNG SA
1- Trên chiếc phi cơ C130 chở những người bị thương ở Hoàng Sa, từ Đà Nẵng về SàiGòn, một thủy thủ cho tôi biết tên chiếc tàu vớt chúng tôi là Scopionella, tàu chở dầu của Hòa Lan. Khi chuyển chúng tôi qua tàu của HQVN, họ có tặng cho những người được vớt 2 thùng mền, 2 thùng khăn.
2- Ngày đầu tiên về đến Bệnh viện Bạch Đằng - SàiGòn, phái đoàn CTCT/HQ đến thăm đầu tiên, an ủi, khích lệ, đồng thời cũng vì để tuyên truyền, anh em đừng nói những gì ngược lại với những điều đã được báo chí truyền thanh và truyền hình đã loan tải.
3- Có một sĩ quan trong phái đoàn CTCT/HQ hỏi tôi:
- Trung Úy có thấy mấy chiếc tàu của Trung Quốc bị chìm hay bị cháy không?
- Tôi chỉ biết và thấy 2 tàu Trung Quốc bắn nhau với HQ10 thôi, tôi thấy cả hai cùng có khói bốc lên khá nhiều nhưng chính mắt thì không thấy có chiếc nào bị chìm cả.
- Lúc đánh nhau ở Hoàng Sa, có máy bay của Trung Quốc yểm trợ HQ/TQ không?
- Chỉ có ngày đầu, có 2 chiếc phản lực bay rất cao, vòng 2 vòng rồi về, từ đó không thấy có máy bay nào nữa cả.
- Có thấy HQ10 bị chìm hay bị tàu của Trung Quốc kéo đi không?
- Trước khi trời sụp tối hôm xảy ra trận chiến, HQ10 cũng lững lờ trôi phía sau chúng tôi, tàu bị nghiêng và có khói bốc lên. Qua đêm, đến sáng hôm sau thì không thấy HQ10 đâu nữa.
- Tàu Trung Quốc có dùng hỏa tiển bắn nhau với HQ10 không?
- Không, tôi nghĩ tàu HQ/TQ không có khả năng trang bị hỏa tiển.
- Ai ra lệnh bắn và bên nào bắn trước?
- Khi hai chiến hạm Trung Quốc tiến quá gần HQ10, Hạm trưởng đã ra lệnh nổ súng và HQ10 bắn trước.
4- Chính Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh tặng cho mỗi quân nhân dự trận Hoàng Sa một Hải Dũng Bội Tinh và được đặc cách lên một cấp, tôi nghe TV, báo chí có nói nhiều lần, bạn bè tôi đến thăm ở bệnh viện cũng chúc mừng, nhưng thực tế, bản thân tôi không được gì cả, cho đến nay tôi vẫn không hiểu tại sao? Những anh em khác có không ?...
HQ/TrU Hà Đăng Ngân
_____________________________________________
Lời Phụ giải
Tôi được biết Trung úy Ngân vào khoảng đầu năm 1975 khi anh từ Trung Tâm Thặng Số thuyên chuyển về BTL/HQ/P3 (Phòng Hành Quân-HQ Trung Tá Vũ Nhân là Trưởng phòng).
Trong vài lần nói chuyện, Trung Úy Ngân có kể là anh đã ở trên HQ10 lúc xảy ra trận chiến Hoàng Sa, đã bị thương và đã ở trên cùng bè với Hạm phó Nguyễn Thành Trí. Vào thời điểm lúc bấy giờ, tôi đã không hỏi thêm anh nhiều vì có bao giờ tôi nghĩ đến ngày phải bỏ quê hương, phải giả từ hải nghiệp!!!
Khoảng tháng 2-2005, tôi đọc email của cháu Nguyễn Thị Thanh Thảo (trưởng nữ của cố HQ Thiếu tá Nguyễn Thành Trí) có kèm theo bức thư của một chiến sĩ nặc danh thuộc HQ10 (theo suy luận của tôi thì có lẽ người này là Hạ sĩ Trọng pháo Trần Ngọc Sơn), bức thư này có tên những người xuống chiếc bè cuối cùng với Hạm phó Trí, trong đó có 2 SQ là HQ Trung úy Phạm Văn Thi, khóa 20/SQHQ/NT (viết lầm là Phạm Văn Ngữ) và HQ Trung úy Hà Đăng Ngân, khóa 8 OCS (viết lầm là Phạm Đăng Ngân).
Xem xong email, tôi có ý nghĩ liên lạc với anh để hỏi thêm vài chi tiết về HQ10, đồng thời khuyến khích anh viết ra những gì anh còn nhớ về HQ10 và trận hải chiến Hoàng Sa.
Sau nhiều lần liên lạc để kiểm chứng lại với anh về một số chi tiết, tôi đã được sự đồng ý của anh để phổ biến tài liệu này.
Xin trân trọng gởi lời cám ơn chân thành đến HQ Trung úy Hà Đăng Ngân đã cung cấp một tài liệu rất có giá trị về lịch sử.
Thềm Sơn Hà (Đệ nhị Hải sư)

Tuesday, January 11, 2022

Cuộc Gặp Gỡ Kỳ Diệu

LGT : Bài viết vô cùng cảm động sau đây của quả phụ một sĩ quan QLVNCH, kể về một mối tình có thật thời chiến tranh Việt Nam giữa chị ruột của tác giả với một người lính Mỹ, đã hy sinh trong cuộc chiến. Hơn ba mươi năm sau, tưởng nhớ công ơn người anh rể đã hy sinh cho quê hương, tác giả ghé thăm bức tường đá đen ghi danh 58,000 tử sĩ Mỹ trong chiến tranh Việt Nam... Không ngờ, tại đây, bà tình cờ gặp bố mẹ của người anh rể cũng đến viếng thăm con, và qua câu chuyện, tác giả đã giúp ông bà nội người Mỹ tìm thấy người con dâu Việt và đứa cháu nội chưa từng biết mặt.... Trong niềm bồi hồi xúc động đến rưng rưng lệ khi đọc, chắc chắn quý độc giả không thể không biết ơn những người lính VNCH, Mỹ, Úc... đã đổ máu bảo vệ Miền Nam trước làn sóng xâm lăng của cộng sản trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam....

Tháng tư thường cho tôi nhiều nỗi buồn và nhớ. Buồn vì từ đó ta làm thân mất nước không nhà và nhớ vì trước đó có quá nhiều kỷ niệm không bao giờ còn tìm lại được. Giữa lúc lòng tôi đang chơi vơi thì chị bạn rủ theo đoàn nguời về thủ đô Hoa thịnh Đốn để coi hoa Anh Đào nở và nhất là đi thăm bức tường đá đen, ghi lại tên tuổi của hơn năm mươi tám ngàn tử sĩ Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, đã bỏ mình để bảo vệ tự do của miền Nam xưa. Với tôi đó là một dịp may đến thật tình cờ.

Tôi vẫn thường nghe nói về vườn hoa Anh Đào mà vương quốc Nhật tặng cho nhân dân Mỹ khi xưa ở thủ đô, đang khoe sắc mỗi độ xuân về. Thật như thỏa tấm lòng vì cả hai, được nhìn những cành hoa mà cả một thời tuổi trẻ ước mơ và đến tận nơi bức tường đá đen để tìm tên một người đã là điều tôi mong muốn từ lâu. Thế nên tôi thu xếp hành trang vôi vã đi ngay. Hơn hai mươi bốn giờ ngồi trên xe theo nhóm người du ngoạn đã đưa tôi từ miền Texas xa xôi về tới thủ đô. Con đường Ohio chạy dọc theo bờ sông Potomac hoa Anh đào đã nở rực rỡ một màu hồng phơn phớt trắng. Hơi lạnh đầy trong không khí của một mùa đông dài còn sót lại, vương qua mùa xuân, đọng trên những cánh hoa dọc theo con đường Constitution dẫn đến bức tường đá đen nằm kia, trầm mặc u buồn.

Tháng Tư, hoa đã nở từ lâu. Xác hoa rơi lả tả làm hồng cả một khỏang không gian quanh những con đường chạy dọc theo công viên. Hoa Anh Đào thật đây rồi, những cánh hoa mà tươi xinh ngày xưa tôi chỉ được nhìn thấy trong phim ảnh rồi thầm cảm mến những kiếm sĩ của xứ Phù tang, cô đơn vung đường gươm, để hoa rơi trong tuyết lạnh, thì hôm nay đang rực rỡ khoe sắc trước mắt tôi đây. Tôi tách ra khỏi nhóm người đi bộ một mình dưới những tàn cây. Tôi vẫn thích đưọc đi một mình để nhớ về những ngày tháng đã dần qua.

Ngày xưa chưa mất miền Nam gia đình tôi đã có một cuộc sống ấm êm hạnh phúc. Chồng tôi, một người lính trận, mỗi lần về phép thường hay cùng đi với một quân nhân Mỹ, cố vấn trong đơn vị. Hai người cùng làm việc, cùng chung sở thích và ý nguyện nên rất thân nhau.

Thuở ấy tôi không biết nhiều về đất Mỹ như bây giờ nhưng qua lời anh diễn tả, cũng đủ hiểu rằng người lính Mỹ ấy đến từ một vùng quê xa xôi miền trung bắc Hoa Kỳ. Ngoài cái vẻ bên ngoài rất tài tử, râu ria xồm xoàm vì những ngày tháng lăn lóc trong chiến trận chưa kịp cắt tiả thì Mike Wright thật nhân hậu và hiền lành. Tôi cũng ngạc nhiên với tấm lòng rộng lượng hồn nhiên của nguời Mỹ. Họ đã mang biết bao nhiêu tài sản, cả sinh mạng khi đến giúp đất nước tôi, hòa nhập vào đời sống người dân bản xứ, tươi vui trong cuộc sống. Bởi thế, anh chàng râu tia xồm xoàm Mike chiếm được cảm tình của gia đình, nhất là bà chị lớn chưa chồng của chúng tôi ngay. Chuyện tình của một người lính viễn chinh từ một đất nước xa xôi với người con gái Việt Nam còn nguyên nền nếp gia phong diễn ra thật êm đềm hạnh phúc với một đám cưới đậm chất phương Đông. Chị tôi khăn đóng, áo dài bên cạnh anh Mike cũng áo dài khăn đóng. Trông họ cũng thật vừa đôi.

Từ đó tôi không còn cô đơn trông ngóng hằng đêm mà có cả chị tôi là kẻ đồng tình, đồng cảnh. Chúng tôi đã có những ngày đợi chờ trong lo lắng, đã có những ngày đoàn viên trong hạnh phúc. Những tháng tươi vui của một thời son trẻ tưởng như không bao giờ dứt cho đến một ngày kia. Tôi không quên được cái ngày người chỉ huy hậu cứ tiểu đoàn đích thân đến báo cho tôi biết là chồng tôi và đơn vị của chàng không về nữa. Cả người cố vấn Mỹ dễ thương đang là anh rể của tôi cũng cùng chung số phận. Một đơn vị oai hùng, thiện chiến, tưởng như là không bao giờ thua trận đã nằm lại đâu đó trên vùng đất Hạ Lào của mùa hè khói lửa. Tôi và người chị, ngày ấy thực sự bị cuốn vào những cơn ác mộng, nhất là khi chị tôi biết được rằng mình vừa khó ở, chưa thông báo cho Mike biết về đứa con vừa thành hình trong bụng chị.

Sau khi miền Nam lọt vào tay phương Bắc là một quãng đời địa ngục trần gian đến với chúng tôi. Nhất là chị với đứa con lai đã hứng chịu trăm đắng ngàn cay bởi vì sự dè bỉu, khinh khi cũng như phân biệt đối xử của người cai trị mới. Chị tôi bị hành hạ, bị lăng nhục, bị đe dọa đưa vào cái trại gọi là phục hồi nhân phẩm mà thực chất là tước đoạt hết nhân phẩm con người. Chịu đựng bao nhiêu đắng cay khổ sở nhưng chị tôi vẫn cắn răng làm việc nuôi dạy con khôn lớn nên nguời. Có một điều làm tôi lạ lùng là tình yêu của chị dành cho anh hơn hẳn những thường tình. Chị luôn nhắc tới anh với những lời yêu thương trang trọng, với sự bùi ngùi thương tiếc của một người góa phụ tưởng nhớ thương chồng. Chị không đòi hỏi gì ở anh cũng như đất nước anh. Khi chương trình tái định cư những người con lai bắt đầu, tôi cũng tưởng chị vui sướng lắm. Nhưng không, chị từ chối ra đi chỉ vì còn nặng lòng với mảnh đất được sinh ra và đứa cháu tôi cũng vui vẻ vâng theo lời mẹ. Tôi không giống và cũng không chịu đựng được như chị. Tôi chọn ra đi để đưa các con tôi về với tự do. Khi con thuyền mong manh đưa chúng tôi ra biển, tôi đã thầm cầu nguyện ơn trên cho chúng tôi vượt sóng đươc bình an. Tôi đã chọn tự do hay là chết và chân thành cầu xin đó là một sự chọn lựa đúng đắn và may mắn nhất trong đời....

Cứ mải suy nghĩ và đi theo con đường hoa, tôi đến trước bức tường đá đen tự bao giờ. Con đường dần xuống thấp để những dòng tên trắng hiện ra. Một cặp vợ chồng người Mỹ trắng đã già lắm, run rẩy dắt tay nhau bước lên bực thang. Mắt người đàn bà còn ướt đỏ. Tôi đoán rằng bà vừa mới khóc.

Gặp nhau trên bực thang đầu tiên, tôi vui vẻ chào hai người rồi hỏi lớn:
- Ông bà từ đâu tới.
- Chúng tôi từ Ohio, còn cô.
- Thưa ông bà tôi từ Texas.

Người đàn ông râu dài nhưng cắt tỉa gọn gàng, dáng vẻ hiền từ thân thiện. Ông ta mỉm cưởi hỏi lại.
- Tôi muốn hỏi cô người nước nào. Phi, Tàu, Nhật hay Thái lan.
- Thưa ông tôi là người Việt Nam.

Bỗng nhiên tôi thấy gương bặt người đàn bà dường như đổi sắc. Hình như một sự giận dữ bất ngờ chợt làm bà ta vùng vằng cố bước lên bậc thang ngắn tiến về phía trước. Tôi ngạc nhiên nhìn ông già chờ đợi một lời giải thích về cử chỉ bất thường của bà. Chắc có một điều gì không ổn vì tôi biết đa số người Mỹ thường lịch sự, ít ai bày tỏ ngay những điều khó chịu trong lòng. Như đóan được ý nghĩ của tôi ông buồn rầu giải thích.

- Cô đừng buồn với thái độ của vợ tôi. Bà ấy đang buồn rầu. Chúng tôi mất đứa con trai duy nhất ở Việt Nam, nên mỗi khi thấy người Việt Nam vợ tôi lại xúc động, không ngăn được cảm xúc nên có những cử chỉ bất thường.

Tôi nhìn bà già đã ngồi xuống chiếc ghế đá bên lối đi, đang run rẩy cố chống hai tay lên đùi, mắt vô hồn nhìn vào quãng không gian phía trước. Nếu tôi mất con cho một cái xứ sở xa lạ nào chắc gì tôi còn giữ được bình tĩnh như bà. Lòng tôi rạt rào niềm thương xót để nói với ông rằng tôi thông cảm tâm tình của những bà mẹ mất con cho một dân tộc họ không hề mảy may biết tới.

Trong lúc xúc động tôi cũng nói với ông là chính tôi và gia đình tôi cũng mất mát rất nhiều trong cuộc chiến chống cộng sản xâm lăng đó. Và đau đớn hơn thế nữa, chúng tôi đã mất cả quê hương, tổ quốc. Ông già Mỹ luôn luôn lập đi lập lại rằng tôi biết, chúng tôi biết, rồi xin phép tôi chạy đến săn sóc cho bà đã ngồi xuồng ghế đá cách đó không xa lắm. Ông nói lớn, chào từ giã khi tôi đi lần xuống phía dưới để dò tìm những hàng chữ mang tên người anh rể ngoại chủng năm xưa đã nằm xuống ở Việt Nam.

Tôi biết vần W sẽ nằm ở hàng cuối cùng nhưng cũng mất một lúc lâu mới tìm thấy cái tên Mikes Wright, tên người anh rể tôi năm kia, khiêm nhường giữa tên của bao nhiêu người. Nhỏ bé và đơn giản trong một không gian bao la, nhưng thật hào hùng độ lượng như cuộc đời anh và đất nước đang cưu mang chúng tôi đây.

Tôi lặng chìm trong những giấc mơ xưa về một gia đình hạnh phúc mà nhớ đến chồng tôi. Tên của Mikes người ta còn nhớ chứ tên của chồng tôi kẻ thù đã xóa đi. Ngay cả miếng đất nhỏ bé mà chồng tôi an nghỉ người ta cũng đang toan tính cướp mất của anh. Tôi nhớ đến nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Nhớ đến giây phút vật vã khóc lóc nhìn thi hài anh được gắn lon giữa hai hàng nến. Nhớ đến những khuôn mặt lầm lỳ, chai sạn vì gió bụi của những nguời lính bồng súng chào chồng tôi lần cuối khi đưa chàng về với đất mẹ năm xưa.

Giữa lúc lặng yên tưởng nhớ thì mấy bà bạn tôi xuất hiện. Các bà gọi la tên tôi ơi ới, trách tôi xé lẻ tìm vui một mình. Cả bọn trầm trồ, chỉ trỏ reo vui với những cái tên lạ, nói cười vui vẻ như không cần biết gì về những niềm đau. Ôi nhân thế thường mau quên để sống, chỉ có mình tôi hay đi ngược thời gian về những dòng sông cũ. Chúng tôi lại rủ nhau đi thăm viện bảo tàng không gian gần đó. Một đoàn người vừa đi vừa cười, vừa hỏi thăm đường rộn vui lên góc phố. Ở đây người ta quen mắt với những cái lố lăng của du khách từ khắp mọi miền trên thế giới nên chẳng thấy phiền hà.

Đến trưa lúc sắp ra về tôi lại gặp cặp vợ chồng người Mỹ ban sáng. Lạ một điều là tôi thấy ông già có nét gì rất quen. Lần này bà có vẻ vui hơn, mỉm cười khi tôi chào gặp lại. Chắc ông đã giải thích cho bà biết rằng ai cũng có những nỗi buồn, những mất mát khác nhau chứ không phải riêng bà. Chúng tôi đứng ngoài hành lang nói chuyện. Ông bà cho tôi biết sẽ về lại Ohio chiều mai, một nông trại xa xôi nằm sát biên giới tiểu bang Indiana. Ông nói thế nhưng tôi chẳng hình dung được gì ngoài những con số mà tôi đoán rằng đất đai chắc là rộng lớn. Tôi cũng cho ông biết chúng tôi còn ở đây thêm vài ngày, đi thăm một vài nơi nữa rồi chào từ giã theo dòng người thăm viếng.

Buổi sáng hôm sau tôi có thói quen thức dậy thật sớm trong lúc mọi người còn say trong giấc ngủ. Tôi mở cửa bước ra ngoài, đi bộ theo con đường Ohio dọc theo bờ sông, rồi tình cờ bước dần về phía bức tường đá đen. Trời còn sớm quá nhưng tôi thấy dưới chân bức tường thấp thoáng bóng ngươi. Bước tới gần hơn tôi bất ngờ nhận ra ông bà già Mỹ hôm qua đang ở đó tự bao giờ. Bà ngồi hẳn xuống đưa tay sờ lên những hàng tên như vuốt ve một vật gì quý giá.

Gặp lại nhau tôi lên tiếng:
- Chào ông bà. Ông bà ra đây sớm quá. Tôi cứ tưởng chỉ mình tôi đi bộ trong khu này..
Ông ôn tồn giải thích:
- Chiều nay chúng tôi trở về lại Ohio rồi nên thu xếp thời gian thăm lại nơi đây lần nữa.

Bà vẫn không nói, đưa tay sờ lên phiến đá. Tôi chắc bà thương yêu người con và đau đớn lắm khi nhìn lên hàng chữ có tên con mình. Mắt tôi tò mò nhìn theo và ngạc nhiên thấy tay bà đang đặt trên hàng chữ của vần W. Như có một linh tính báo trước chuyện lạ lùng tôi buột miệng hỏi ông:
- Con trai của ông bà tên là gì nhỉ. Anh ấy mất ở Việt nam năm nào?
- Con trai tôi tên là Mikes Wright, Tử trận ở Việt năm năm 1972. Tên nó đây, ngay đây này...

Vừa nói ông vừa chỉ về phía tay bà đang xoa xoa che khuất cái tên mà trước đây tôi đã đặt tay vào. Chính đó là tên anh rể của tôi. Cha của đứa cháu mồ côi mà chị tôi yêu quý như báu vật của cuộc đời mình. Tôi đứng lặng người nhìn ông rồi lại nhìn bà. Sao cuộc đời lại có sự tình cờ kỳ diệu đến thế này. Để chắc chắn mình không nằm mơ tôi hỏi lại những chi tiết rất chung chung mà tôi còn nhớ về anh.
- Anh Mikes của ông bà rất nhiều râu và vui tính lắm phải không.
- Cô nói gì tôi không hiểu. Dĩ nhiên ngày ấy Mikes còn trẻ lắm nên râu ria mọc là thường.

Tôi nhìn lại ông và mơ hồ thấy nét quen thuộc mà tôi chợt khám phá ra hôm qua, là ông trông rất giống Mike ở cái cằm vuông vức và bộ râu rậm dài. Ông già bùi ngùi nói tiếp.
- Vợ tôi buồn một điều là đáng lẽ ra Mikes đã hết hạn phục vụ ở Việt nam trở về Mỹ nhưng vì yêu thương một người con gái bản xứ nên tình nguyện phục vụ thêm một thời hạn nữa và cái thời hạn đó không bao giờ chấm dứt...
- Thế ông bà có biết tin tức gì về người con gái ấy không.
- Mikes có gởi cho chúng tôi một tấm hình, thông báo là đã thành hôn. Lâu quá rồi nhưng chúng tôi còn giữ tấm hình ấy trong tập ảnh gia đình ở Ohio. Chỉ có thế mà thôi.

Tôi muốn nói với ông chính tôi là em người con gái Việt Nam ấy nhưng sợ rằng mình nhận lầm, vì biết đâu có một anh Mike nào khác nữa nên chỉ nói với ông:
- Hơn ba mươi năm trước đây tôi cũng có một người anh rể tên là Mike Wright, quê quán ở miền trung bắc Mỹ. Tôi chỉ biết thế không biết có phải là anh Mikes con của ông bà không. Tôi từ Texas lên đây chơi nhưng chính là để nhìn thấy tên anh Mikes Wright một lần trên tấm bia đá này.

Ông mở mắt nhìn tôi kinh ngạc rồi kéo bà lên, nói với bà tin tức quan trọng đó. Ông luống cuống, mời tôi ngồi xuống tấm ghế đá trong khi bà cứ há miệng ra thẫn thờ chờ đợi. Rồi ông dồn dập hỏi.
- Tôi chắc là đúng rồi. Đấy cô coi có cái tên Mikes Wright nào khác đâu. Thế chị cô bây giờ ở đâu. Tôi muốn hỏi thăm tin tức về Mikes trong những ngày cuối cùng.
- Thưa ông bà, chị tôi vẫn còn ở Việt Nam. Chắc rằng chị tôi cũng chẳng biết gì hơn ông bà.
Như chính tôi đây chẳng biết gì hơn tin tức cuối cùng của chồng tôi và Mikes. Đầu tiên người ta chỉ thông báo cho chúng tôi là hai người đã mất tích sau một đợt tấn công của địch và cả tuần lễ sau mới tìm thấy xác mang về.
- Thế thì đúng như cô nói, chắc đúng là Mikes rồi. Khi chúng tôi đến nhận xác Mikes thì đã không mở ra được nữa vì những điều kiện vệ sinh.
- Nhưng tôi có một tin quan trọng về anh Mikes, không biết ông bà có muốn nghe không?
- Tin gì vậy, thưa cô. Chúng tôi không còn gì trên đời này ngoài hình ảnh của Mikes và những gì liên quan đến đứa con yêu thương của chúng tôi.
- Chị tôi có một người con với anh Mikes. Chính anh Mikes cũng không biết vì lúc vừa mới có thai, chưa kịp thông báo thì anh Mikes và chồng tôi đã không về nữa.

Ông bà liên tục kêu lên những lời thống thiết, không rõ là lời đau khổ hay mừng vui.
- Chúa ơi, thật thế sao! Chúa ơi! Chúa ơi!
- Thật thế thưa ông bà. Cháu giống Mikes lắm. Nếu ông bà thấy cháu là nhận ra ngay thôi.
- Thế bây giờ cháu ở đâu thưa cô.
- Cháu vẫn còn ở Việt nam. Vì thương mẹ nên cháu không về Mỹ theo chính sách trở về quê cha của những đứa con lai.

Tôi và ông bà Wright cùng bước đi như trong cơn mơ vì sự gặp gỡ bất ngờ. Tôi cho ông bà địa chỉ, số điện thoại của tôi và nhận lại địa chỉ số điện thoại của ông bà ở Ohio để tiện bề liên lạc. Những thông tin ban đầu mặc dù đã chính xác, nhưng tôi muốn biết chắc tấm ảnh ngày xưa có phải là của chị tôi hay không. Chiều hôm đó ông bà Wright về lại Ohio. Tôi đoán ông bà vui vẻ lắm. Mất một đứa con cho cái xứ Việt Nam xa xôi nhưng ông bà sẽ được nhận lại một đứa cháu ngoan ngoãn và đứa con dâu còn giữ đúng truyền thống Việt Nam. Tôi biết chị tôi là một người đàn bà Việt Nam hiền thục. Tôi đã đoán không sai vì ba hôm sau khi tôi còn ở khách sạn thì tiếng điện thoại lại reo. Lần này ông bà Wright theo xe trở lên, mang cả gia đình đứa con gái gồm con rể và hai đứa cháu. Họ lái một chiếc xe van lớn mang theo cả tấm ảnh ngày xưa.

Gặp nhau tại công viên ông bà đưa tôi tấm ảnh và giải thích:
- Vội quá nên chúng tôi không book được vé máy bay. Vả lại Nathalie, em gái của Mikes và chồng con nó ở gần đó cũng muốn đi nên chúng tôi lái xe cho tiện.
Tấm ảnh chụp cách đây hơn ba mươi năm giờ đã ố vàng. Màu sắc phai theo thời gian nhưng vẫn còn sắc nét. Tôi cầm tấm ảnh như đưa tay chạm vào một phần quá khứ xa xăm. Trong ảnh, chị tôi người con dâu đất Mỹ, e ấp đứng bên người chồng râu tia xồm xoàm, đang đưa cánh tay khỏe mạnh ôm vòng lấy người con gái như ôm ấp chính cuộc đời cô.
- Đúng là chị tôi rồi....

Ông bà Wright mừng vui như mở hội. Bà như trẻ trung hẳn lên. Bao nhiêu bệnh tật gần như tan biến. Mấy người đi theo cũng lộ nét mừng vui hớn hở. Bà hỏi tôi những chuyến bay về Việt Nam với những dự định đi thăm viếng đứa cháu, con của người con tưởng như đã mất, bỗng dưng còn để lại trong cuộc đời này cả một phần huyết nhục. Tôi thưa với ông bà rằng tôi đã nói chuyện với chị tôi qua điện thoại. Chị cũng rất vui mừng về sự gặp gỡ này. Chị sẵn sàng cho cháu về quê nội cũng như chính chị sẵn sàng về làm dâu ông bà, chăm sóc cho ông bà trong lúc tuổi già đúng như truyền thống của người Việt nam. Tôi đã biết tình yêu của chị dành cho Mikes nên không ngạc nhiên với quyết định này. Ông bà chăm chú nghe tôi giải thích phong tục Việt Nam là người vợ phải làm dâu phụng dưỡng cha mẹ chồng. Ông kêu Chúa ôi liên tục sau mỗi câu nói làm tôi có cảm tưởng như đang kể cho ông bà nghe về chuyện phong thần, nhưng tôi biết bây giờ đối với ông bà, đất trời là cả một mùa xuân.

Sau đó một thời gian dài, tôi lại bận bịu vì phải lo lắng dẫn ông bà Wright về lại Việt Nam. Bận bịu nhưng lòng tôi sung sướng. Tôi không giấu được xúc động khi nhìn thấy ông bà lần đầu tiên gặp lại đứa cháu nội sau hơn ba mươi năm thương nhớ người con đã khuất. Ông bà cứ kêu lên những lời vui mừng vang một góc sân và làm ngạc nhiên những người hàng xóm Việt Nam vốn không thiếu sự tò mò.

-Oh my God! He just looks like his father! Oh my God!

Bây giờ chị tôi, một người con gái Việt nam về làm dâu muộn màng trên đất Mỹ, đang thay cha mẹ chồng cai quản một nông trại trồng bắp ở Ohio với đứa con duy nhất của một cuộc tình nở vội trong cuộc chiến Việt Nam.
Taberd75 (FB Victor Đoàn)

Saturday, January 8, 2022

Những Mảnh Đời Rách Nát Chương 13 - Nguyễn Văn Huy & Phan Minh Hiển - Chương 13 Tan vỡ một giấc mơ (Viết lại theo lời thuật của Huyền Trang, phế binh Dù, cụt chân phải.)

Thành phố dạo này hay lạnh về đêm. Những người già yếu mắc bệnh phổi thường hay khó ngủ vì cái lạnh xốn xang, phải quấn thêm chăn màn vào người để cho đủ ấm. Đó là hình ảnh của mẹ tôi.

Hôm nay rằm tháng bảy, ngày báo hiếu. Mẹ tôi trăn qua trở lại. Bà ho lên sù sụ, cái chõng tre cũng ọp ẹp theo từng tiếng ho. Nằm bên kia vách ván, tôi ray rứt thở ra từng hồi. Tiếng ván cọt kẹt cũng buồn theo cái cảnh nghèo của mẹ con tôi. Sáng nay, tôi dậy thật sớm. Nhìn qua khung cửa sổ, tôi nghĩ về cuộc đời của tôi, nó cũng mập mờ như cảnh trời nửa tối nửa sáng của ngày hôm nay. Người ta thường dậy sớm vào buổi sáng để suy nghĩ chuyện đời bên tách cà phê hay tư duy về cuộc sống bên ly trà nghi ngút. Còn tôi ngồi đây suy ngẫm chuyện đời cùng với tiếng ếch kêu “uệch uệch” và tiếng thạch sùng tặc lưỡi. Tôi thắc mắc tự hỏi trên cõi dương trần này có Thượng Đế không nhỉ? Nếu Ngài là Đấng Toàn Năng, là Đấng Công Bình, tại sao có người quá ư giàu có, người khác lại quá ư nghèo khổ?

Những lúc tuyệt vọng, tôi thường tìm quên trong kỷ niệm. Nhớ lại quãng đời ngày xưa, năm 1967, lúc còn học lớp đệ tứ A1 trường Hùng Vương thị xã Quảng Ngãi, cuộc đời thật tươi sáng. Cũng ngày này đây, rằm tháng bảy, bạn bè bắt chước phong tục người Nhật: ai còn mẹ cài lên ngực áo một bông hồng, ai mất mẹ cài bông trắng. Tôi cười thành tiếng, cười thật tươi, thật hạnh phúc.

Phải rồi, ngày ấy tôi có người bạn gái tên Mai hát tặng tôi bài “Bông hồng cài áo” của nhà sư Nhất Hạnh: “Một bông hồng cho anh, một bông hồng cho những ai, cho những người còn mẹ, để lòng vui sướng thêm. Rồi một chiều nào đó, anh về nhìn mẹ thật lâu và nói với mẹ rằng: Mẹ ơi, mẹ có biết hay không? Biết gì? Biết là con yêu mẹ không?”. Rồi từ đó tình yêu lớn dần theo năm tháng, tình yêu tuổi học trò đẹp vô cùng. Rất thánh thiện, tôi nhìn Mai như một đóa hoa. Nhẹ nhàng và trân trọng, tôi nhìn Mai từ phía xa xa để nghe thoang thoảng hương vị tình yêu bay đến. Ngày tháng qua, hai chúng tôi đều đậu tú tài toàn phần. Mai theo học sư phạm ở Huế, tôi trường chính trị kinh doanh Đà Lạt. Tuy hai thành phố cách xa, nhưng đôi tim và suy nghĩ chúng tôi không hề rời nhau. Ông phát thơ có lẽ là sứ giả mang thông điệp tình yêu thân mến nhất của chúng tôi.

Thế rồi đất nước lâm nguy, cộng quân gia tăng áp lực quân sự tại khắp nơi trên lãnh thổ. Mùa hè đỏ lửa 72, chính phủ ban hành lệnh tổng động viên, đông đảo sinh viên lên đường nhập ngủ. Tôi trở thành anh lính chiến. Mãn khóa xong, tôi mặc áo hoa dù ra vùng địa đầu chiến tuyến. Tôi tham gia nhiều trận đánh quyết định, giải tỏa áp lực ngày càng nặng của cộng quân. Vài ngày sau khi ký hiệp định Paris, đầu tháng 2-1973, tôi bị thương nặng trong một trận đánh giành dân chiếm đất tại một làng phía Tây Bình Định. Chân phải tôi bị cưa. Trong suốt thời gian nằm điều dưỡng tại Tổng Y Viện Cộng Hòa, tôi không liên lạc với gia đình, kể cả người yêu vì không muốn người thân biết sự thật không may của tôi. Mặc dầu vậy, hình ảnh của Mai luôn luôn hiện diện và lòng tôi không khỏi bồi hồi mỗi khi nghĩ tới.

Mùa hè 1974, tôi được xuất viện và trở về quê cũ. Sau bao năm xa cách, quê hương không có gì thay đổi. Vẫn cảnh nghèo khó quen thuộc. Thật đau lòng khi về lại nhà cũ. Nhìn thấy tôi mẹ thật mừng rỡ, nhưng khi thấy tôi chống nạng vào nhà bà ôm chầm lấy tôi khóc nức nở. Tôi muốn xin lỗi mẹ tôi nhưng miệng khô đắng, tôi chỉ biết ôm lại mẹ tôi lòng chua sót. Bà vội vàng dìu tôi vào nhà, thay quần áo cho tôi, lăn xăng hỏi thăm đủ điều, nhưng tôi chỉ im lặng nhìn mẹ tôi trong nước mắt. Hay tin tôi trở về, Mai từ dãy nhà kế bên chạy vội đến. Thấy tôi, Mai chỉ gọi được một tiếng “Anh!”, rồi gục đầu trên vai tôi khóc. Tôi đau đớn ôm Mai vào lòng và im lặng.

Không gì buồn cho một đời trai, chưa làm gì báo hiếu cho mẹ, chưa làm gì đẹp lòng người yêu đã vội chất thêm gánh sầu trên vai mỗi người. Những ngày đầu tôi sống trong mặc cảm, cứ muốn xin về trại an dưỡng sinh sống với những anh em đồng cảnh ngộ. Ít ra tại đây, tôi không sống trong mặc cảm vì nhiều anh em còn bất hạnh hơn tôi, có người còn mất cả hai chân, hai tay và mù hai mắt.

Nhưng tình yêu của mẹ tôi và Mai giúp tôi yêu dần cuộc sống. Ngày ngày, sau khi thu xếp xong chuyện học hành, Mai lui tới thường xuyên với tôi. Mai vẫn học ở Huế nhưng cố thu xếp để thường xuyên về nhà thăm tôi. Mai sung sướng vì tôi còn sống, đối với Mai như vậy đã là đủ, chuyện thương tật không đáng quan tâm. Bao nhiêu chuyện xa, chuyện gần được kể cho nhau nghe. Nhưng mặc cảm tàn tật cứ ám ảnh trong tôi. Trong những lần hàn huyên, tôi cố trấn áp mặc cảm nhưng rồi một hôm tôi buộc nói lên sự thật :

– Mai ạ, anh với em nên xa nhau thì tốt hơn. Anh giờ đây chẳng còn gì cả, nhất là trong một xã hội này. Anh không còn làm gì được nữa, chỉ là gánh nặng và mặc cảm cho em đối với gia đình và bạn bè mà thôi.

Mai lườm tôi, nói một cách quả quyết:

– Anh bị thương cái chân, đâu bị thương cái đầu hay cánh tay mà nói như thế?

Để an ủi tôi, Mai tập làm nữ y tá, những ngày nghỉ học Mai thường đến thay băng cho tôi. Đúng Mai là chiếc nạng gỗ vững chắc cho tôi trụ chân, cho tôi bước đi trên quãng đời còn lại. Cuộc đời của tôi như vậy êm đềm trôi qua, mẹ tôi vẫn buôn bán bình thường và Mai đến thăm tôi đều đặn. Tôi chỉ muốn ngày tháng đọng lại nơi đây để tôi thấy cuộc đời thật đáng sùống. Đối với tôi con người cần nhất là tình thương, những thứ khác chỉ là phù du.

Nhưng chiến cuộc ngày càng khốc liệt. Tin tức chiến sự ngày càng bất lợi cho phía Việt Nam Cộng Hòa. Những ngày cuối tháng 3-1975, thành phố Huế bỏ ngõ, Quảng Ngãi bị cộng quân chiếm đóng, Mai bỏ học trở về nhà. Một bước ngoặt mới trong cuộc đời của Mai. Ba của Mai là thiếu tá pháo binh, sau biến cố 1975 trở nên bất lực, ông bị đưa “học tập cải tạo” ở miền núi xa xôi hẻo lánh, ba tháng mới được thăm nuôi một lần. Mẹ của Mai, một phụ nữ Huế, suốt đời chỉ biết tề gia nội trợ, mẫu người không thể chật vật, chạy đôn chạy đáo để kiếm từng miếng ăn được. Mai là sinh viên sư phạm, con gái trưởng một gia đình có truyền thống tại địa phương, phải bỏ học nửa chừng cáng đáng trọng trách nuôi một gia đình gồm sáu miệng ăn, trong đó một người cha đang đi học tập cải tạo và ba đứa em nhỏ dại còn cắp sách đến trường. Mai đi buôn chuyến hàng vải từ Đà Nẵng về Quảng Ngãi.

Cuộc sống tiếp tục trôi qua, trôi trong khó khăn và tủi nhục cho những người thất thế. Mặc dù được giải ngũ vì thương tật, tôi cũng phải đi “học tập cải tạo” như bao quân nhân khác nhưng được cái may “học tập cải tạo” tại địa phương nửa tháng. Một thời gian sau, vết thương nơi chân phải tôi làm độc, tôi phải vào bệnh viện mổ lại vì còn sót nhiều mảnh đạn. Làm thủ tục nhập viện thật là trần ai, nhưng rồi sau cùng chân tôi cũng được mổ gấp mảnh đạn ra. May là những y tá phục vụ bệnh viện thị xã là nhân viên thuộc chế độ cũ có cảm tình với tôi nên chân tôi được chữa trị bằng các loại thuốc tốt trong kho còn lại. Một thời gian ngắn sau các vết thương đều lành.

Chuyện buôn bán của Mai chỉ dễ dàng trong mấy tháng đầu, sau đó thì đâu vào đó. Chính quyền cộng sản ngày càng siết chặt gọng kìm, Mai không còn chạy hàng như mong muốn và ngày càng mất vốn. Hôm nay bị bắt hàng hóa, ngày mai hàng hóa bị phạt, bị tịch thu, cuộc sống cứ chồng chất bao nỗi lo âu. Rồi đến ngày thăm nuôi, mẹ của Mai phải khăn gói đi thăm chồng. Chuẩn bị chu đáo lắm cũng mất cả tuần lễ, nào làm đơn đi chứng thị thực từ thôn xóm lên đến xã phường, rồi làm lương khô. Những chuyến đi này bà mang đi cả một “gia tài” của gia đình. Trong một chuyến đi thăm, bà xin phép chồng để tổ chức đám cưới cho tôi và Mai.

Một hôm mẹ của Mai đi rồi, các em đều đi ngủ sớm, tôi và Mai kề đầu vào nhau nói chuyện tương lai. Nếu cuộc sống chỉ là những ước mơ đẹp dành cho lứa đôi thì vui thú biết bao. Tôi đề nghị sau khi làm đám cưới hai đứa sẽ về nhà mẹ tôi, nhưng Mai thở dài:

– Em khó dứt khỏi căn nhà này mà đi được. Vì em đang gánh vác trọng trách của cả gia đình.

Tôi an ủi:

– Trên ấy anh chỉ còn mẹ già, cưới nhau rồi em cứ ở dưới này lo cho gia đình mạ và các em. Em chạy đi chạy về cũng được.

– Bây giờ chưa vô tròng thì nói vậy, chứ hữu sự rồi khó lắm đấy anh.

– Em cứ nghĩ quẩn hoài. Mình thương yêu nhau tùy hoàn cảnh mà sống.

Bỗng nhiên không hiểu bị bức xúc thế nào, Mai nói:

– Thôi, trên anh nghĩ cưới em về để làm cột trụ cho gia đình anh?

– Em đừng nghĩ thế. Nếu em nghĩ có sự lạm dụng hay lợi dụng nhau thì nên dứt khoát nhau là tốt hơn.

– Tùy anh.

Nghe hai tiếng “tùy anh”, tôi choáng váng cả mặt mày. Như bị tạt một gáo nước lạnh vào mặt mình, tôi giận hờn trách móc:

– Trong tình yêu mà em nói “tùy anh” thì anh sẽ tự giải quyết đấy. Em nghĩ sao?

– Sao cũng được.

Tự ái nổi dậy, tôi cầm hai chiếc nạng trên tay, đứng lên nói:

– Kể từ nay coi như anh và em thực sự chia tay nhau. Anh không bao giờ về dưới này nữa.

Mai im lặng. Chẳng nói và cũng chẳng có một hành động nào. Tôi càng tự ái, chống nạng ra về. Vừa đi nhưng tôi hy vọng Mai sẽ gọi giật lại, có lẽ mọi sự sẽ “lành lại” ngay. Nhưng cuộc tình đến đó đã thực sự sang trang. Tôi về lại nhà mẹ tôi, lòng đầy phiền muộn. Bao nhiêu mộng đẹp chỉ trong phút chốc tan biến theo mây khói. Từ đó tôi ở luôn trong nhà, không buồn lên tiếng với ai, kể cả mẹ tôi.

Bấy giờ tôi sống trong bầu “trời” thù hận. Thù tất cả mọi người. Hận đủ thứ. Tôi muốn quên mình, quên tất cả. Nhiều khi ý nghĩ tự tử lại đến với tôi nhưng bị dập tắt ngay khi nghĩ về mẹ. “Tự tử là hèn mạt”. Thế vào những thời gian trống rỗng vô vị đó là cuộc sống lang bạc. Tôi la cà hết nhà người thân này đến nhà người thân nọ để nhậu nhẹt, chén thù chén tạc. Không ai nỡ xua đuổi tôi vì thương hại. Từ đó tôi sống lang thang, không bờ bến, ít khi về nhà. Mẹ tôi trông thấy thân thể tôi ngày càng tiều tụy, vàng vọt, bà khóc thương cho số kiếp bất hạnh của con và năn nỉ tôi trở về với bà.

Mẹ của Mai hay chuyện cũng phiền trách Mai ghê gớm, nhưng trong lúc tuyệt vọng Mai cũng không tìm lời giải thích. Hai chúng tôi mất liên lạc với nhau trong hơn một tháng. Mẹ tôi và mẹ Mai nhờ biết bao nhiêu người lớn đến khuyên răn thắt lại tơ duyên đôi lứa, nhưng không cách chi được. Có lẽ vì vết thương lòng tôi quá lớn để có thể làm lành vết thương tình. Khó kết vá lại được. Có lần mẹ tôi về tận dưới quê nội tôi ở Tịnh An, mời một số tôn trưởng cao niên, chức sắc trong dòng tộc, nói chuyện với tôi, may đâu thuyết phục được tôi để tôi tĩnh táo mà định hướng lại cuộc đời. Những lời vàng ngọc đó vẫn còn văng vẳng trong tôi: “Cháu hãy tự đứng bằng đôi chân của chính mình. Đứng không phải bằng chân thật hay chân giả mà bằng ý chí của mình. Không ai sống giùm cháu cả. Hãy suy nghĩ cho kỹ mà sống. Con người hơn nhau ở ý chí và nhân cách”. Lời nói đó hâm lại bầu máu nóng trong tôi từ lâu tắt ngấm.

Dòng máu của người lính dù, đã từng “đi mây về gió”, đã từng sống hùng không hề sợ chết. Bất giác mấy câu thơ thời sinh viên tranh đấu về lại trí nhớ tôi. “Bao giờ còn sắn phơi khô, còn lang xắt lát thì còn đấu tranh. Làm người phải sống ngang tàng, quyết không chết nhục đầu hàng khó khăn”. Từ đó tôi trở nên tỉnh táo, bỏ hẳn cả rượu chè và quyết định đi tìm cho mình một chỗ đứng bằng cách lìa xa quê hương, một khung trời đầy rẫy hình ảnh, kỷ niệm thân thương. Mẹ tôi bây giờ chỉ sống cho con, tôi là nguồn an ủi, là động lực của bà nên bà chìu theo ý tôi. Một buổi tiệc chia tay đơn sơ, âm thầm, lặng lẽ của vài người thân chí cốt. Lòng ai cũng chừng lại. Mẹ tôi không cầm được nước mắt khi phải rời xa quê hương, xa nơi chôn nhau cắt rốn trong tuổi về chiều. Tôi quyết định không cho gia đình Mai hay biết chuyến đi này, tự ái tôi quá lớn. Tôi nghĩ làm trai mà không lo được cho mình thì còn ai nễ phục, thế là hai mẹ còn tôi đi vào Sài Gòn. Tôi không mơ mộng cao xa, chấp nhận mọi khó khăn miễn sao tìm được cho mình một chỗ đứng bình thường.

Ở đất Sài Gòn này vấn đề thuê nhà không khó lắm, vào trong các khu lao động hỏi vài nơi là tìm được một chỗ ở ưng ý ngay. Cuộc sống tại Sài Gòn cũng rất khó khăn nên nhà nào có dư một căn phòng nhỏ sẵn sàng cho thuê. Lúc đầu tôi xay bột cho mẹ gói bánh bán dạo, ban đêm tôi nhận dạy kèm cho vài em nhỏ trong xóm. Cuộc sống bình dị, êm đềm trôi qua, mặc cảm những ngày tháng cũ cũng được nguôi ngoay. Sau nhiều năm cực nhọc, sức khỏe mẹ tôi ngày một yếu dần. Tôi không để mẹ tôi đi bán bánh nữa, tôi đi bán báo dạo. Sống ở cái xứ hai mùa nắng mưa, cái nghề bán báo thật là nghiệt ngã. Có những hôm bán không được ôm cả chồng báo về nhà, lòng tôi mềm như cọng thun. Tôi nảy ra một ý nghĩ: phải đổi nghề. Nghề gì tôi chưa biết nhưng phải đổi nghề. Tôi không thể đi bán báo suốt đời được. Tuổi đời ngày chồng chất, nạng gỗ cũng hao mòn dần theo từng vết chân. Một hôm sau khi đi dạy kèm về, thấy mặt tôi có vẻ buồn buồn mẹ tôi hỏi:

– Con có điều gì bất an sao có vẻ “dàu dàu” vậy?

– Dạ, con muốn kiếm việc khác làm, chứ bán báo phiêu lưu quá, vả lại không thích hợp với chân con chút nào.

– Này con, hồi chiều có bà bên Hội Thánh (Tin Lành) nói với mẹ là con bị tật nguyền nhưng có chữ nghĩa. Vậy con đến Hội Thánh đọc kinh thánh cho một số con cái Chúa bị khiếm thị, đến tháng họ trả thù lao cho.

Tôi nghe lấy làm mừng lắm vì đỡ phải vận động bằng chân. Thế là tôi có thêm một nghề mới: đọc kinh thánh cho những người mù nghe. Công việc mới này an ủi cuộc sống của tôi vô cùng vì dầu sao tôi cũng còn may mắn, tuy què cụt nhưng tôi còn đủ tai mắt để nghe nhìn. Tôi vẫn hạnh phúc hơn những người này nhiều. Nhất là khi đọc lời kinh câu thánh, tôi khám phá một triết lý sống mới. Chẳng hạn trong Mathiơ 7:13-14 “Hãy vào cửa hẹp, vì cửa rộng và đường khoảng khoái dẫn đến sự hư mất, kẻ vào đó cũng nhiều. Song cửa hẹp và đường chật dẫn đến sự sống, kẻ kiếm được thì ít”.

Bây giờ tôi yêu cuộc sống hơn. Tôi không đòi hỏi họ phải trả cho tôi là bao nhiêu tiền. Tôi muốn tự nguyện dâng hiến một chút công, một chút hiểu biết cho những người bất hạnh này, nhưng họ vẫn thiết tha yêu cuộc sống. Tôi lại thích làm một cái gì hơn nữa để có thật nhiều tiền, không những lo cho mẹ tôi mà còn lo cho những người bất hạnh khác, những con người cần được an ủi, cần được đem yêu thương nhiều hơn.

Trong suốt thời gian bán báo dạo, tôi cũng thu nhận được một vài “đệ tử”, đó là những em bé mồ côi, không nhà không cửa. Các em đó thiều tình thương và sự đùm bọc. Thỉnh thoảng tôi dẫn một vài em về nhà cho tắm rữa và ăn uống, rồi cho ngủ luôn trong nhà để sáng hôm sau cùng tôi đi bán báo tiếp. Từ ngày tôi ngưng đi bán báo, các em đó như thiếu một người cha. Nhiều hôm trời sập tối các em đến nhà thăm hai mẹ con tôi, tất cả đều được cho tắm rửa sạch sẻ và ăn uống no nê. Nhưng mẹ tôi ngày càng già yếu, bệnh ho ngày càng nặng, nhất là những khi trời trở lạnh về đêm như đêm qua, hơn nữa lợi tức của tôi ngày càng eo hẹp, tôi không thể lưu giữ các em mãi trong nhà. Mỗi khi để các em ra lại đường phố, lòng tôi se lại. Tội nghiệp “trẻ không cha như nhà không nóc”, tôi phải tìm một việc gì khá hơn để nuôi những em nhỏ này.

* * *

Sáng nay sau khi hồi tưởng lại chặng đường đi qua, tôi quyết định đi tìm việc làm mới. Tôi rón rén “cà thọt” đến giường mẹ tôi, nhìn bà yên giấc tôi thật yên lòng. Có lẽ đêm qua khó ngủ nên sáng nay bà ngủ mê mệt. Cầm vội chiếc mũ bạc màu và chiếc nạng gỗ, tôi lặng lẻ mở cửa chống nạng “lộc cộc” ra đi. Mấy ngày nay tôi cứ đi đi về về, chưa đâu vào đâu cả. Nhưng sáng nay tôi có linh cảm sẽ gặp điều lành.

Đúng vậy. Theo một địa chỉ mà người bạn phế binh vừa cho tôi hôm qua, tôi đến gặp ông chủ. Đây là một gara sửa xe hơi, vừa mở thêm một chỗ rửa xe đang tuyển người. Sau một hồi hỏi han, ông chủ nhận tôi làm việc, tôi phụ trách rửa xe. Công việc tuy có vất vả nhưng không làm tôi nản lòng vì có đồng lương cố định. Tôi làm việc từ sáng tinh mơ cho đến tối mờ mới về. Đời sống tôi thật bình yên. Mỗi tối thứ ba, thứ năm và thứ bảy dạy kèm. Mỗi tối thứ hai, thứ tư, thứ sáu và sáng chủ nhật đọc kinh thánh cho người mù. Tôi nghĩ là phải lo cho mẹ thật đầy đủ để bù lại những ngày tháng khổ cực đã qua và có thể nuôi vài em bé mồ côi, không nhà không cửa. Từ đây không những tôi cho chúng ăn no, mặc ấm mà còn cho chúng học chữ nữa. Hình ảnh cao thượng của tôi làm động lòng biết bao gia đình giàu có trong xóm, làm se lòng những chức sắc phường khóm nhưng họ để tôi yên vì tôi có dạy kèm con cái họ học thêm buổi tối. Các nhà truyền giáo cũng phải khâm phục con người “tàn mà không phế”, có con tim thực sự sống này. Thật là hạnh phúc.

Tôi làm cho gara anh Bảy, tên chủ nhân, gần bốn năm nay. Mọi chuyện đều êm xuôi, tình giữa tôi và anh Bảy ngày thêm đậm đà vì anh Bảy cũng có một người em tốt nghiệp trường sĩ quan Thủ Đức, cùng khóa với tôi, tử trận năm 1973 tại Chương Thiện. Một buổi chiều kia, mây đen vần vũ, cơn mưa ập xuống dữ dội. Ngay lúc ấy, một chiếc Mercedès Benz E230 cáu cạnh từ đường cái quẹo ào vào gara cạnh chỗ tôi ngồi, một người đàn bà vừa là tài xế vừa là chủ xe bước xuống một cách vội vã vì sợ mưa tạt ướt.

Tôi sửng sốt cả người, phải cố trấn tỉnh nếu không miệng tôi đã thốt lên tên Mai. Mai chẳng nhìn ai, tiến thẳng đến quầy quản lý làm phiếu rửa xe và thay nhớt. Tôi âm thầm theo dõi mọi động tác của Mai. Đã 18 năm rồi, tôi không gặp lại Mai, thật ra thì tôi đã quên hẳn Mai cùng mối tình đầu. Cuộc sống quá khó khăn khiến tôi không còn nghĩ đền chuyện lập gia đình với ai. Nhìn lại Mai, vẫn trẻ đẹp lại còn giàu sang quí phái nữa, tôi cảm thấy thật buồn tủi. Cơn mưa cũng bắt đầu tạnh, Mai cầm biên lai bước vội ra cổng gọi chiếc taxi. Mai đi rồi, tôi ngồi trầm tư với trăm ngàn ray rức. Người mình yêu trước kia nay ngoài tầm với, Mai xa xôi quá. Tại sao ông trời không để tôi yên?

Thấy tôi ngồi thừ lừ, trầm tư khác với thường nhật, anh Bảy thân mật gọi:

– Này Thiện, sao chú như người mất hồn vậy? Sáng mai 6 giờ chú có nhiệm vụ làm chiếc xe Mercedès mới vào đó nghen.

Tôi vội mỉm cười, gật đầu hỏi:

– Dạ, mấy giờ mình phải giao lại cho khách hả anh Bảy?

– 4 giờ chiều.

Cuộc đời giống như một tấn tuồng trên sân khấu, nó diễn biến không ngừng. Ông bà ta xưa kia có câu: “sông có khúc, người có lúc”, ai biết được cuộc đời mình sẽ như thế nào? Que sera sera, bài hát thân thuộc vẫn văng vẳng bên tai mỗi khi suy nghĩ về cuộc đời. Tôi không thể nào tưởng tượng gặp lại Mai ở đất Sài Gòn này, nhất là trong hoàn cảnh này. Cuộc tình đã đi vào quên lãng, nào ngờ giờ đây nó sống dậy trong tôi. Bao kỷ niệm ngày nào tự nhiên trào dâng lên như ngọn sóng triều. Tôi tự an ủi: “Biết đâu người ta đã có chồng con, hơi đâu nghĩ hoài cho mệt”. Hơn nữa Mai giàu đẹp như thế kia chắc phải có một người chồng rất xứng đáng. Thôi quên đi!

Chiều xuống, người đàn bà ấy đến trên một chiếc taxi, thật lộng lẫy trong chiếc rốp tây phương. Mai đến nói gì với ông Bảy tôi không biết, tôi chỉ nghe ông Bảy gọi:

– Thiện ơi, vào đây có chút việc.

Tôi mon men lộc cộc đi vào, tim hồi hộp, cơ hồ muốn rớt ra ngoài. Mai nhìn tôi, môi mím lại, xúc động như muốn khóc:

– Anh Thiện!

– Mai! Em vào đây bao giờ? – Tôi bỡ ngỡ nhìn Mai, giả vờ như rất bình tĩnh nhưng lời nói nghẹn lại.

– Lâu rồi. Em và mạ ở đường 3 tháng 2.

Tôi vội vàng xin phép ông chủ mời Mai đến quầy giải khát. Đã hơn 18 năm rồi, biết bao chuyện đổi, sao dời. Mặc cảm của tôi từ chiều hôm qua đến hôm nay bỗng biến đâu mất, nỗi giận hờn ngày xưa cũng đi đâu vắng mặt. Tôi có cảm tưởng như sống lại thời còn sinh viên. Hai chúng tôi dồn dập hỏi chuyện nhau.

– Ba bây giờ ra sao rồi em?

– Ông được tha về năm 1988, ở nhà bồi dưỡng một thời gian rồi được đi theo diện HO sang định cư tại Hoa Kỳ từ năm 1990 cùng với Hoài Nhân (em trai Mai).

– Hoài Trâm, Hoài Hương (hai em gái Mai) thế nào?

– Hoài Hương lấy chồng, có con không được đi. Hoài Trâm bị chết trong chuyến vượt biên năm 1982. Mạ không chịu đi nên em phải ở lại với mạ. Ba và Nhân viết thư về bảo em tìm anh và cho ổng biết tin tức, địa chỉ của anh.

– Chồng em đâu, sao không thấy đến?

Mai nhìn tôi bẽn lẽn như thời còn yêu nhau.

– Chồng con nào? Em vẫn vậy thôi. Trái tim hóa thạch rồi kể từ dạo ấy.

Tôi cảm thấy thật an ủi, rồi hỏi:

– À, hồi nãy em nói gì với ông Bảy mà ổng gọi anh đó?

– Em thấy ổng ghi tên anh trong phiếu, người trách nhiệm thay nhớt và rửa xe. Em liền hỏi ổng có biết ai tên họ như anh không, vì em cố tình đi tìm anh suốt bao năm nay. Em cũng sợ có người mang trùng tên họ với anh thì quê chết. Không ngờ trời cao có mắt. À, bác gái vẫn khỏe chứ anh?

– Bà già yếu lắm rồi.

– Anh cho em xin địa chỉ để em đến thăm bác gái.

Hai chúng tôi chia tay nhau. Trong tiệm rửa xe mọi người ùa nhau xúm lại hỏi tôi đủ cả:

– Bồ anh khi xưa hay bà con Việt kiều về thăm nước đó?

– Người đồng hương đấy.

Hôm nay tôi cảm thấy rộn ràng, một cái gì vui reo hát trong lòng, tôi như người vừa tìm được một vật quý giá đã đánh mất. Về đến nhà tôi liền thổ lộ việc mẹ con Mai đã vào sống ở Sài Gòn cho mẹ tôi biết. Bà mừng rỡ hỏi tôi đủ thứ tin tức về gia đình Mai. Rồi mẹ tôi cũng dò hỏi tôi về việc tình yêu của tôi và Mai, nhưng nghĩ sao tôi nói:

– Con nghĩ là hai đứa con không thể lấy nhau được, vì ý hướng lập gia đình của con đã tắt từ lúc con bỏ vào Nam. Vả lại với Mai bây giờ lại quá giàu có, hố ngăn cách giữa hai gia đình quá sâu mẹ ạ.

– Nhưng nếu Mai thật lòng yêu của con thì con nghĩ sao?

– Con đã dứt khoát. Bây giờ cũng đã có mười hai đứa “con” (trẻ mồ côi) rồi. Bây giờ con chỉ ước mong xây một nhà lớn hơn cho chúng và những người già cả neo đơn có nơi an dưỡng.

Mẹ tôi buồn cho cuộc tình của tôi nhưng cũng mừng với những ý hướng khác đời của con mình.

Qua trưa hôm sau khi về nhà ăn trưa, tôi thấy một bầy trẻ con bu lại thật đông trước cửa. Bọn trẻ ngỡ Mai là một bà Việt kiều mới về thăm nhà nên tò mò đến xem. Thấy tôi vừa đến cửa, bọn trẻ la lên:

– Thầy đi làm về, thôi đi chơi bọn bay ơi!

Bước vào nhà tôi thấy nào trái cây, nào quà gói của Mai bày la liệt trên bàn. Tôi quên là mình đang sống trong cảnh nghèo khó, lên mặt với Mai như thời còn trẻ:

– Em bày đặt quá, mua gì nhiều quá vậy.

Mai cười:

– Chút quà gọi là cho vui mà anh.

Chúng tôi quên hẳn thời gian, chuyện trò như thuở ngày xưa còn đi học. Mẹ tôi mỉm cười, kín đáo bỏ vào nhà trong để hai chúng tôi trò chuyện.

– À, hôm nào anh lên thăm bác gái và xin địa chỉ bác trai để viết thư thăm Hoài Nhân nữa. Nó là học trò cưng của anh mà.

– Nhân nó nhắc đến anh hoài, sang năm nó ra trường và sẽ về thăm Việt Nam đấy.

Một thời gian sau, mẹ tôi bước ra giục tôi rửa ráy và mời Mai ăn cơm trưa luôn thể. Bà nói:

– Chẳng mấy khi bác mời cháu ở lại ăn cơm trưa với mẹ con bác cho vui.

– Dạ, cho con khi khác, con phải về kẻo mạ con trông cơm nữa.

Khi Mai đã về rồi, mẹ tôi góp ý:

– Mẹ trông con Mai nó không quên con được nên nó xinh đẹp như vậy, giàu có như vậy mà chẳng chịu lập gia đình với ai. Con thấy không?

Tôi đang suy nghĩ mông lung, không nghe câu hỏi của mẹ tôi. Bà phải hỏi lại:

– Con nghĩ thế nào?

– Con nghĩ kỹ lắm rồi mẹ ạ. Lập gia đình với Mai chỉ làm khổ Mai thôi mẹ ạ. Để Mai lập gia đình với người khác, lành lặng hơn, Mai mới có hạnh phúc. Còn con, con còn gì để cho Mai. Thân thể con không còn nguyên vẹn, hình thù biến dạng, mặc cảm này khó tẩy rửa hết được. Người ta sẽ nhìn Mai như thế nào khi đi bên cạnh con, một người què quặt.

Biết là không thể nào lay chuyển ý chí của tôi, mẹ tôi cười an ủi:

– Tùy con định liệu vậy.

Một buổi chiều chủ nhật, như đã hẹn, tôi thuê xe đến nhà của Mai trên đường 3 tháng 2. Một căn nhà rộng lớn vừa là nhà ở vừa là một cửa hàng bán đồ điện tử, gian hàng thật lớn ngoài sức tưởng tượng của tôi. Tôi có đi ngang ngôi nhà này nhiều lần khi còn đi bán báo dạo, nhưng nó không to đẹp như ngày hôm nay. Trông thấy tôi, Mai đon đả chạy ra tiếp đón. Mẹ Mai đang xem tivi ở phòng trong, nghe tiếng con gái phát biểu ồn ào phía ngoài, cũng chạy ra xem. Ôi, mừng mừng tủi tủi. Bao xúc cảm hiện lên trên gương mặt của mỗi người. Bà cụ có vẻ gầy và già hơn trước, tóc đã bạc trắng có lẽ vì tuổi già và nhớ chồng con. Sau vài câu thăm hỏi qua loa, bà liền hỏi một câu để dò lòng tôi:

– Sao con chưa chịu lập gia đình cho mẹ con có cháu nội?

– Dạ, con đâu còn lành lặn như một thanh niên bình thường mà nghĩ đến chuyện gia đình. Con chỉ sợ không mang lại hạnh phúc mà còn làm khổ cho người vợ sau này thôi.

Không chú ý tới lời giải thích của tôi, bà bâng quơ nói một câu như bắt cho tôi một cái thang để leo:

– Chẳng hiểu sao, con Mai nó cũng chẳng chịu lập gia đình. Năm nay bốn mươi mấy rồi chứ còn trẻ trung gì đâu. Bao nhiêu là người, là chỗ đàng hoàng mà nó đều gạt ra ngoài cả.

Trước tấm thịnh tình của bà, tôi chỉ biết im lặng. Một sự im lặng kính nể sự chung tình, chung thủy của một người phụ nữ có một không hai này, vừa giàu có vừa xinh đẹp đã cố tình dành trọn cuộc đời cho tôi. Hai tuần lễ sau, tôi nhận được hai cánh thư từ Mỹ gởi về, một của ba Mai và một của Hoài Nhân, em Mai. Đại ý cả hai đều nhất trí tán thành việc hôn nhân của tôi và Mai, nhất là thư của Hoài Nhân có gởi kèm tặng tôi bức chân dung mẹ Mai, đằng sau ảnh có ghi:

Mẹ đứng trông con trong nắng chiều vòi vọi.

Vợ thương chồng, ngồi lật lịch giữa đêm khuya.

Nhà trống giờ đây buồn khắc khoải.

Còn gì đâu, ngoài nỗi nhớ thương nhau!

Hoài Nhân viết: “Em gởi cho anh tấm hình của Mạ, trong cuộc đời anh cũng đã một lần gọi bà là Mạ rồi, phải không Anh? Năm nay thì bà đã già lắm rồi. Hết khóc vì nhớ ba, nay thì lại khóc nỗi nhớ con, thì làm sao trẻ được? Lần em về, những lúc hai Mạ con nói chuyện với nhau, khi nhắc đến tên Anh, bà chỉ chép miệng thở dài và nói: Không biết nó sống chết ra sao trong nớ (nhắc lại lúc bà còn ở ngoài Trung, tôi đã vào Sài Gòn)”.

Cuộc đời tưởng êm xuôi, hạnh phúc đang mơn trớn trở về. Ai ngờ bất hạnh lại phủ xuống đời tôi. Trời đất sụp đổ khi mẹ tôi qua đời. Trong một đêm kinh hoàng, bà lăn lộn với cơn ho, tôi vội vàng kêu xích lô chở bà vào Bệnh Viện Gia Định. Cũng may tôi mang theo sẵn tiền nên được người ta đưa ngay mẹ tôi vào phòng cấp cứu. Nhưng hỡi ơi, cơn bệnh quá trầm trọng, bà tắt thở vài giờ sau đó. Phổi bà quá nhiều nước. Bệnh này có thể chữa được nếu được điều trị sớm nhưng tôi nghèo quá chỉ có thể mua thuốc cho bà uống cầm chừng. Phải làm gì đây? Nỗi đau xót chưa làm tôi tỉnh táo để định đoạt mọi việc. Tôi chắp hai bàn tay, nhìn lên trời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin đừng bỏ con bơ vơ trên cõi đời này. Xin Chúa thương xót linh hồn mẹ con”.

Cầu nguyện xong, tôi cảm thấy tâm hồn thư thái và tự trấn an: “Chết! Con đường này ai cũng phải một lần đi qua. Một ngày nào đó tôi cũng phải chết, tôi phải cố sống sao hữu ích cho đời. Hãy nhìn thẳng vào tương lai trước mắt mà đi”.

Trong lúc lòng đầy phiền muộn, tôi đi gọi điện thoại cho Mai. Hay tin đột ngột, Mai khóc nức nở bên kia đầu dây. Lần này chính tôi lại an ủi Mai mới lạ. Mai yêu thương mẹ tôi không kém gì tôi thương yêu mẹ tôi. Những ngày sau, tất cả đều tập trung cho sự tiễn đưa linh cữu mẹ tôi về nơi an nghỉ cuối cùng. Tôi mua được miếng đất nhỏ trong nghĩa trang gần cầu Bình Triệu.

Điều làm tôi xúc động có lẽ là nhiều hội đoàn thiện nguyện xã hội, các vị đại diện tôn giáo, các trẻ em mồ côi, câm điếc, khiếm thị, đã đến đưa linh cữu mẹ tôi về nơi chín suối, nhất là mười hai đứa “con” của tôi đều có mặt đông đủ đưa tiễn bà “nội” của chúng trong niềm thương tiếc vô biên. Tôi trả hiếu cho mẹ tôi bằng cái diễm phúc ấy vì tôi chỉ sống bằng trái tim. Tôi xin anh Bảy cho tôi nghỉ vài ngày để lo phần mộ cho mẹ tôi. Tôi chỉ đủ tiền mua cho bà một tấm bia, còn phần mộ sẽ chờ dịp khác.

Tối nay, khi đứng trước đám học trò “mồ côi” của mình, tôi đọc cho chúng nghe bài Mồ côi của nhà thơ Thanh Tịnh diễn tả chung tâm trạng của thầy lẫn trò:

Năm xưa tôi còn bé,

Mẹ tôi đã qua đời.

Lần đầu tiên tôi hiểu

Thân phận trẻ mồ côi.

Quanh tôi ai cũng khóc,

Yên lặng tôi sầu thôi.

Để dòng nước mắt chảy,

Là bớt khổ đi rồi.

Từ nay thôi hết thấy,

Trên trán mẹ hôn con.

Những khi con phải đòn

Đau lòng mẹ biết mấy?

Kìa nhà ai sung sướng,

Mẹ con vỗ về nhau.

Tìm mẹ con không thấy,

Khi buồn biết trốn đâu?

Hoàng hôn phủ trên mộ,

Chuông chùa nhẹ rơi rơi.

Tôi thấy tôi mất mẹ,

Là mất cả bầu trời.

Ai nấy đều bùi ngùi thương cảm, cả đám đều khóc vì đó cũng là hoàn cảnh nghiệt ngã của từng đứa nơi đây.

Buổi học chấm dứt không ai học thêm được một chữ nào. Tôi nhìn chúng lòng thật ngổn ngang. Trước kia chúng được mẹ tôi chăm sóc, nay đứa nào sẽ thay thế bà chăm sóc những đứa nhỏ hơn. Rồi cũng giải quyết được. Mấy đứa “con” của tôi, đứa lớn nhất gần 15 tuổi tên Dũng, đứa nhỏ nhất 3 tuổi rưỡi tên Mi. Tôi có tám đứa con trai và bốn con gái. Dũng rất dễ thương, từ ngày mẹ tôi mất nó thay tôi chăm sóc các “em” của nó.

Mỗi ngày tôi đưa cho nó tiền chợ, tự nó quyết định mua đồ ăn thức uống trong ngày. Cũng đỡ là ban ngày chúng chia nhau đi lượm bao ny lông, bán báo, bán vé số ở các chợ, tiền thu được sau khi giữ lại phần vốn chúng đưa cho tôi cất, tôi dùng số tiền đó đưa cho Dũng chi tiêu trong “gia đình”. Mi vì nhỏ nhất nên được giao nhiệm vụ giữ nhà. Tôi cũng bớt một gánh nặng. Ngày trước khi mẹ tôi còn sống, Dũng điều động các “em” giúp mẹ tôi lau dọn nhà cửa và nấu cơm. Tôi chỉ có nhiệm vụ phụ thêm tiền chợ và mua sách vở cho chúng học hành. Đời sống cũng tạm thời ổn định.

* * *

Về phần Mai, sự qua lại giữa chúng tôi ngày càng thường hơn. Những chiều cuối tuần, Mai thường đến ăn cơm chung với “gia đình” chúng tôi, thỉnh thoảng thuê xe chở các cháu đi ra Vũng Tàu hay lên Thủ Đức cắm trại chơi một ngày. Các cháu thì một mực lễ phép, vâng dạ “cô Mai”. Tình cảm của Mai dành cho tôi vẫn mực nồng nàn nhưng không đi hơn, và tôi cũng vậy. Nhiều khi tôi thấy Mai muốn đặt thẳng vấn đề với tôi nhưng là thân gái, Mai ngại ngùng rồi nói những chuyện bâng quơ cốt ý để cho tôi hiểu chẳng hạn như “Mạ cứ bảo em không thể ở vậy sống một mình được”, hay có lần vì sự cố buộc Mai phải đi khám bác sĩ (phụ khoa), bác sĩ phát hiện Mai bị vô sinh. “Ý hướng lập gia đình của em từ ấy cũng không còn tha thiết nữa”, Mai nhìn tôi buồn bã.

Hôm nhận được một số tiền của bác sĩ Phan Minh Hiển từ bên Pháp gởi cho, tôi nhờ Mai mua cho tôi một chiếc đồng hồ treo tường để kỷ niệm và cũng để nhắc nhở với tôi: thì giờ là vàng bạc. Số tiền còn lại, tôi nhờ Mai mua giùm tất cả sách vở cần thiết cho bầy con mồ côi. Việc này khiến Mai càng nể phục tôi hơn. Tôi không như người khác trong cơn thiếu thốn chỉ mơ ước, ham mê những thứ phục vụ riêng cho cá nhân mình, như thuốc lá, cà phê hay rượu bia… Tôi có cái nhìn khác về cuộc đời. Đời tôi đã khổ nhiều rồi, tôi không muốn thấy người khác khổ hơn tôi. Tôi hướng tất cả cho tha nhân, kể ra cũng khó vì cũng là con người ai không muốn thụ hưởng một vài tiện nghi vật chất, trong khi chính tôi cũng thiếu thốn rất nhiều và hơn nữa còn bị mất mát thật lớn.

Có đến gần nhau mới thấy nhau rõ hơn. Từ đó Mai nhìn tôi như một thần tượng, quí trọng tôi hơn cả tình yêu đôi lứa đời thường. Có lần Mai đề nghị bỏ tiền ra xây mộ cho mẹ tôi, nhưng tôi khéo léo từ chối, Mai cũng không đề cập tới nữa. Thỉnh thoảng Mai khéo léo đưa tiền cho Dũng mua sắm thức ăn cho các em bằng cách đề nghị sẽ đến nhà tôi ăn cơm. Những bữa ăn như vậy, gia đình thật đầm ấm. Rồi đến kỳ lãnh lương, tôi kêu thợ đến xây dựng cho mẹ tôi một mộ bia thật tươm tất, có lộng cả hình bà nữa. Nhân lúc thấy tôi vui vẻ sau bữa cơm chiều, mấy đứa con đều ra ngoài hẻm chơi đùa với các em cùng xóm, Mai hỏi:

– Gặp lại anh khá lâu rồi nhưng em vẫn không biết anh có hoài vọng gì ở tương lai?

Mắt nhìn xa xăm, tôi nói vào khoảng hư vô:

– Anh ước ao, mơ mộng thì nhiều lắm, nhưng không phải cho bản thân anh mà cho những trẻ em mồ côi, những kẻ tật nguyền, những người kém may mắn. Nếu xoa dịu được phần nào nỗi đau thường ngày của họ, anh rất vui sướng và hạnh phúc.

Câu trả lời không đi thẳng vào “vấn đề” này càng làm Mai nóng nảy.

– Em muốn hỏi trong tương lai anh có nghĩ gì về chuyện lập gia đình không?

– Lập gia đình à? – tôi nhìn Mai ngượng ngùng. Anh không còn nghĩ tới. Từ khi xa em, tình yêu anh dành cho em vẫn còn nguyên vẹn. Nhưng anh không dám mơ tưởng đến nữa. Thân anh què quặt, phải nhìn vào thực tế.

Thấy nét mặt của Mai không mấy hài lòng, tôi đánh trống lảng:

– Thôi mình quên chuyện đó đi. Có một điều anh muốn nói với em là tình yêu anh dành cho em đã biến thành một tình yêu khác. Đó là các em mồ côi, anh rất vui sướng khi thấy chúng có nơi ăn chốn ở, được học hành. Anh xem chúng là con của mình, khi một đứa bị đau, anh tận tình chăm sóc nó và cứ nghĩ đó là con của hai đứa mình, thế là hạnh phúc lắm rồi.

Nghe xong, Mai cảm động nói:

– Lòng nhân nơi con người quý hơn lòng từ thiện, nhưng ở anh có cả hai. Em càng quý anh hơn.

– Thật ra anh cũng không xứng đáng gì. Vì không thể yêu em bằng tình yêu bình thường, anh hướng về tình yêu tha nhân. Trong thời gian xa vắng em, anh dành trọn tình yêu cho các em nhỏ này.

Nghe tôi nói vậy, Mai nhìn tôi mạnh dạn:

– Em rất vui sướng cùng anh, chúng ta chung lưng đấu sức hàn gắn, kết và những nỗi đau của những trẻ em mồ côi bất hạnh đầy rẫy trên mảnh đất thân yêu này và những người cơ cực khốn cùng khác.

Tôi nhìn Mai xúc động, Mai cũng có một trái tim lớn như tôi. Tôi sung sướng ôm Mai vào lòng, hôn lên má một nụ hôn thật nồng nàn. Tôi ngây ngất một hồi rồi mỉm cười nhìn Mai lập lại một câu danh ngôn bất hủ của một nhà văn Pháp:

– Yêu là cùng nhau đi trên con đường và cùng nhau nhìn về một hướng.

Mai vui sướng nhìn tôi, đọc khe khẻ mấy câu thơ đã thuộc từ lúc còn đi học:

– Trái tim ngừng trong một lúc vô biên. Thời gian hết, đất trời không có nữa… Em lúc ấy nhìn anh như lệ ứa. Êm ái như trong gió có mùi hương. Trong mắt anh, em tưởng thấy thiên đường. Ôi hạnh phúc! Em gục đầu nhắm mắt…

* * *

Hai tháng sau, đám cưới của chúng tôi được tổ chức thật tưng bừng, trong không khí nửa Á, nửa Âu. Ba và em Mai bên kia nửa quả địa cầu cũng vội vàng tranh thủ bay về vui mừng cho cuộc hôn nhân “độc nhất vô nhị” này. Có thể nói là một “thiên tình sử” vì cuộc tình kéo dài từ thời học trò cho đến lúc tôi và Mai đã trên 40 tuổi, cái tuổi mà người ta gọi là “tứ thập như bất hoặt”. Đúng là một phần tư thế kỷ còn gì? Số người tham dự gồm đủ thành phần trong xã hội. Đây là một cơ hội cho các em mồ côi, những người tàn tật bạn tôi được mặc quần áo đẹp nhất (tôi và Mai sắm cho) vì từ lâu rồi tất cả chưa bao giờ được ăn mặc đẹp như thế này, nằm mơ cũng không thể thấy được.

Trước khi lên đường về lại Hoa Kỳ, ba Mai muốn gặp riêng tôi và Mai. Ông đi thẳng vào vấn đề:

– Bây giờ ba muốn biết ý hướng làm ăn, kinh doanh của hai con. Nếu được ba sẽ giup đỡ.

Tôi còn rụt rè chưa dám nói ý định của mình vì sợ ông không hợp ý hay phật lòng, Mai dành lời:

– Thưa ba, ảnh sẽ phụ bán hàng điện tử với con là đủ rồi. Nhưng có một chuyện chúng con cũng muốn nhờ ba phụ giúp cho một tay mới mong thành tựu được nhưng sợ nói ra ba không tán thành.

Ông cười dễ dãi và nói:

– Tụi con cứ thật lòng. Nhưng mọi việc phải hợp đạo lý ở đời mới bền được các con ạ.

Nghe tới đạo lý, tôi liền vui vẻ trình bày:

– Thưa ba, chúng con có một ý nguyện muốn giúp những trẻ em mồ côi, không nhà, không cửa, những người tứ cố vô thân, bị hất ra ngoài lề xã hội bằng ý định xây một căn nhà tình thương.

Ngẫm nghĩ một hồi, ông mới chợt hiểu ra:

– Hèn chi trong đám cưới, ngoài những khách bình thường ba còn thấy đủ mọi thành phần: trẻ mồ côi, người già cả, kẻ tàn tật…

Ông mỉm cười nói tiếp:

– Thật tình trong lòng ba cũng có ý định giúp người nghèo khó từ lâu, nhưng ở Hoa Kỳ ba chỉ có thể cúng chùa tạ ơn Trời Phật đã độ cho gia đình mình. Bây giờ nghe hai con có ý định tốt như vậy, ba rất hoan nghênh và vui sướng cộng tác với hai con. Phải nói là “tư tưởng lớn thường gặp nhau” là vậy. Mọi chuyện ba đặt tin tưởng ở hai con, ba chỉ có khả năng vận động bên ngoài và ủng hộ về mặt tài chánh mà thôi.

Sau khi đưa tiễn chồng và con trai về lại Hoa Kỳ, trong bữa cơm chiều mẹ Mai thuật lại cho con gái và con rể nghe những lời tâm sự của chồng:

– Anh thật hài lòng và mãn nguyện vì có được thằng rể ngoài sức mình mong muốn. Nó không những là một người có nhân cách mà còn đôn hậu, đạo đức và nhất là có lòng yêu thương người khác hơn bản thân mình. Điều đó khó có lắm. Cuộc đời này rồi cũng qua đi thôi em ạ, chẳng còn gì và cũng chẳng mang theo được gì. Hãy giúp các con mình ra sức giúp đời, giúp xã hội trong cơn khốn khó với khả năng mình. Ấy chính là lúc mình thật sự được hạnh phúc. Em ở nhà cũng nên gắng sức phụ họa với các con được phần nào hay phần ấy.

Bà rất mừng vì tất cả đều trùng hợp, lòng thành tâm nguyện như nhau. Nét nhân hậu thể hiện ngay trên gương mặt của bà. Không phải vì lời khuyên của chồng mà trong cuộc sống thường nhật, bà cũng thường hay làm việc thiện, giúp đỡ người nghèo. Và, kể từ nay bà còn có thêm lý do để giúp những người tàn tật, đặc biệt là thương phế binh, những người như con rể mình đã hy sinh một phần thân thể cho hạnh phúc và sự bình an của chính gia đình bà và những người khác.

Về phần tôi, tôi đi đi về về giữa hai nhà cũ và mới, nhưng trên thực tế tôi đã dọn về nhà của Mai và để lại căn nhà cũ cho các “con” tôi ở. Tôi cũng xin nghỉ làm ở gara anh Bảy và giới thiệu một anh phế binh khác thay tôi vào chỗ rửa xe. “Thằng con” lớn của tôi, Dũng, bây giờ trông lớn hẳn, có lẽ sớm lăn lóc với đời, nó có vẻ “già đời” hơn những bạn đồng lứa. Nhiều lúc tôi phải ngạc nhiên về những dự tính và chọn lựa của nó cho các em. Dũng kiếm được một việc làm ở lò bánh mì, nó đi làm từ sáng sớm trưa về nhà ngủ rồi buổi tối thay tôi dạy kèm các em nhỏ. Mấy đứa “con gái” lớn cũng ngoan, bây giờ nét đẹp tự nhiên đã trở lại trên gương mặt. Chúng không muốn đi lượm bao ny lông hay bán vé số dạo nữa, tôi đã giới thiệu chúng đi học may ở một vài cơ sở tư nhân để có một nghề. Cũng may là lúc này hàng gia công nhiều nên chúng cũng có một đồng lương nho nhỏ gọi là, tôi cũng đỡ lo. Lúc này thành phố đang phát triển một cách cuồng vọng, những thú vui vật chất và xác thịt cám dỗ trẻ vị thanh niên rất nhiều, tôi rất lo nhưng nhờ có “anh hai” Dũng, các em rất sợ và nghe lời anh vì không thể giấu giếm hay qua mặt được.

Tôi dành gần như toàn bộ thì giờ cho những dự tính của mình, nào là nghiên cứu mặt bằng, địa điểm xây dựng, giá cả đất đai, vật liệu xây dựng, lương nhân công, v.v… Với công trình đơn giản nhưng đầy đủ tiện nghi do các kiến trúc sư là bạn bè thiết kế giúp đỡ: khu nhà sẽ lợp ngói đỏ, chung quanh có hàng rào và được trồng cây để gây bóng mát, bên trong có nhà ăn, nhà ngủ, nhà vệ sinh, phòng tắm, nhà bếp, khu giải trí có tivi, đầu máy chiếu phim ảnh, phòng đọc sách. Đặc biệt là một dãy phòng học, mỗi phòng được trang bị tủ bàn ghế sẽ do các anh em phế binh đóng cho các em học tập. Thêm vào đó là một khu vườn trồng trái cây, một ước mơ mà tôi ôm ấp lúc còn là một đứa trẻ ở Quảng Ngãi. Gia đình các anh em phế binh sẵn sàng tham gia vào lực lượng xây cất, các chị vợ hứa sẽ đến ủng hộ nấu cơm trưa. Còn Mai thì phụ trách liên lạc với các nhà thầu cung cấp vật liệu và đã được nhiều giá phải chăng.

Theo dự trù, mặt bằng là một miếng đất rộng cạnh bờ sông ở cầu Bình Triệu. Trước đây là một hãng cưa xuất khẩu nhỏ nhưng hết nguyên vật liệu đã đóng cửa từ lâu. Chúng tôi cũng sợ người ngoại quốc, nhất là Hoa kiều, vào Việt Nam mua đất rất nhiều, nhưng nơi đây xa các vùng thị tứ và trục lộ giao thông và hơn nữa xưởng cưa này nằm trên một bãi lầy nên giá đất cũng tương đối rẻ vì ít ai để ý. Gọi là rẻ nhưng rất đắt đối với chúng tôi, người ta tính giá đất bằng vàng. Về điểm này, gia đình Mai tận tình giúp đỡ và lo các thủ tục giấy tờ.

Nhìn các bản thảo, công trình xây cất bày la liệt trên bàn, lòng tôi tràn ngập niềm vui. Tôi âu yếm nhìn Mai:

– Em học sư phạm nên anh xây trường cho em dạy học đó.

Mai cũng lém lĩnh đối lại ngay:

– Anh học chính trị kinh doanh nên lập dịch vụ tình thương chứ gì?

– Ờ, anh kinh doanh tình thương đấy.

Cả hai cùng cười sung sướng.

* * *

Cuộc đời tôi đến đó tưởng như đang trên thiên đường hạnh phúc ở trần gian, nhưng có ai học được chữ ngờ. Tai ương vẫn rình rập để vồ dập tôi. Không biết ai đã tố cáo tôi là thành phần cựu sĩ quan “ngụy” trốn học tập vào Sài Gòn, đang có “âm mưu liên lạc với các phần tử phản động nước ngoài lập cơ sở chống lại nhà nước xã hội chủ nghĩa”.

Một buổi chiều thật bình thường, hai chiếc xe chở đầy công an đậu trước cửa nhà của Mai trên đường 3 tháng 2, chận các cửa ra vào. Một tốp đứng chận ngoài cửa, một tốp khác vào xét hỏi khách đến mua hàng điện tử, mẹ của Mai và hai vợ chồng tôi, tốp còn lại đi thẳng vào nhà trong và đi lên lầu lục soát tất cả đồ đạc, tịch thu toàn bộ hồ sơ xây cất và thư từ của tôi, trong đó có các thư do ba của Mai, bác sĩ Phan Minh Hiển và các hội đoàn từ thiện hải ngoại gởi cho tôi.

Sau bốn tháng bị biệt giam tại một địa điểm gần Tân Sơn Nhứt, tôi được thả ra và phải trình diện công an phường mỗi tuần một lần. Thỉnh thoảng đội công an chính trị PA18 đến chở tôi đến bộ tổng tham mưu cũ ở đường Huỳnh Hữu Bạt để thẩm vấn. Thật là mỏi mệt, những cuộc thẩm vấn chỉ xoay quanh vấn đề tại sao tôi được cộng đồng người Việt hải ngoại giúp đỡ và tại sao tôi có ý định xây dựng một ngôi nhà tình thương. Chế độ này không tin rằng trên đời này có lòng nhân đạo, họ nghi ngờ tất cả. Đối với họ giúp người nghèo khổ trong nước là có mục đích chính trị. Nếu không xuất phát từ chính quyền cộng sản, tất cả hoạt động từ thiện tư nhân trong nước đều là phản động. Lý luận thật đơn giản.

Tôi thật buồn phiền. Buồn phiền vì đã làm phiền gia đình vợ tôi, mà còn làm phiền cả bạn bè, thân hữu cùng chia sẻ giấc mơ với tôi, trong đó có các ân nhân tại hải ngoại.

Một hôm đang đạp xe thơ thẩn đi trên đường, tôi vô ý quên cột chặt chiếc chân giả nên lúc xe đổ dốc xuống cầu Tân Định, chiếc chân giả sút dây làm tôi lảo đảo. Tôi lật đật thò tay xuống chụp chiếc chân giả thì chiếc xe bị mất thăng bằng làm tôi bị té xuống đường, chiếc xích lô đằng sau lố trớn thắng không kịp cán bừa lên người tôi cùng hai hành khách ngồi trên đó, kéo tôi đi năm mười thước rồi mới dừng lại vào lề xi măng bên đường. Mọi người đều té xuống đất nhưng riêng tôi thì bị nặng hơn cả.

Tiếng người hai bên đường và hai hành khách trên xe xích lô la lên ơi ới. Chiếc chân gỗ của tôi văng ra giữa đường. Vết thương nơi chân phải bị cưa ra máu trở lại, khúc xương từ lâu đã lành giờ làm tôi đau nhức trở lại. Hai bàn tay của tôi trầy trụa, đất cát trên đường ghim vào da rát quá. Cũng may là tôi còn tỉnh táo, dân chúng hai bên đường và hai hành khách trên xe đỡ tôi dậy và chửi mắng anh đạp xích lô, đòi kêu công an lại. Một em nhỏ lượm khúc chân gỗ mang lại cho tôi, thật là cảm động.

Tội nghiệp anh đạp xích lô, đùi anh cũng bị chảy máu, mặt mày sợ sệt, chiếc xe của anh cũng méo mó quẹo càng, bánh xe bị cong như hình số 8. Thấy anh vội vàng chạy đến, tôi liền khoác tay nói không sao và cố gắng chống tay từ từ đứng dậy. Chính anh xích lô sau đó dìu tôi lên xe chở về nhà cùng chiếc xe đạp và Mai đã đưa tôi đi cấp cứu tại Bệnh Viện 115 gần nhà.

Từ đó tôi ngừng mọi hoạt động và im lặng, số phận không mỉm cười với những người cùng khổ. Tôi cần một thời gian nghỉ ngơi để suy nghĩ về mình và về thân phận những từ dưới vực sâu muốn vươn lên vùng ánh sáng. Thiên đàng không có thật trong chế độ này.

Một giấc mơ bị tan vỡ!