LGT
: Bài viết vô cùng cảm động sau đây của quả phụ một sĩ quan QLVNCH, kể
về một mối tình có thật thời chiến tranh Việt Nam giữa chị ruột của
tác giả với một người lính Mỹ, đã hy sinh trong cuộc chiến. Hơn ba mươi
năm sau, tưởng nhớ công ơn người anh rể đã hy sinh cho quê hương, tác
giả ghé thăm bức tường đá đen ghi danh 58,000 tử sĩ Mỹ trong chiến tranh
Việt Nam... Không ngờ, tại đây, bà tình cờ gặp bố mẹ của người anh rể
cũng đến viếng thăm con, và qua câu chuyện, tác giả đã giúp ông bà nội
người Mỹ tìm thấy người con dâu Việt và đứa cháu nội chưa từng biết
mặt.... Trong niềm bồi hồi xúc động đến rưng rưng lệ khi đọc, chắc chắn
quý độc giả không thể không biết ơn những người lính VNCH, Mỹ, Úc... đã
đổ máu bảo vệ Miền Nam trước làn sóng xâm lăng của cộng sản trong suốt
cuộc chiến tranh Việt Nam....
Tháng tư thường cho tôi nhiều nỗi
buồn và nhớ. Buồn vì từ đó ta làm thân mất nước không nhà và nhớ vì
trước đó có quá nhiều kỷ niệm không bao giờ còn tìm lại được. Giữa lúc
lòng tôi đang chơi vơi thì chị bạn rủ theo đoàn nguời về thủ đô Hoa
thịnh Đốn để coi hoa Anh Đào nở và nhất là đi thăm bức tường đá đen, ghi
lại tên tuổi của hơn năm mươi tám ngàn tử sĩ Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, đã
bỏ mình để bảo vệ tự do của miền Nam xưa. Với tôi đó là một dịp may đến
thật tình cờ.
Tôi vẫn thường nghe nói về vườn hoa Anh Đào mà
vương quốc Nhật tặng cho nhân dân Mỹ khi xưa ở thủ đô, đang khoe sắc mỗi
độ xuân về. Thật như thỏa tấm lòng vì cả hai, được nhìn những cành hoa
mà cả một thời tuổi trẻ ước mơ và đến tận nơi bức tường đá đen để tìm
tên một người đã là điều tôi mong muốn từ lâu. Thế nên tôi thu xếp hành
trang vôi vã đi ngay. Hơn hai mươi bốn giờ ngồi trên xe theo nhóm người
du ngoạn đã đưa tôi từ miền Texas xa xôi về tới thủ đô. Con đường Ohio
chạy dọc theo bờ sông Potomac hoa Anh đào đã nở rực rỡ một màu hồng phơn
phớt trắng. Hơi lạnh đầy trong không khí của một mùa đông dài còn sót
lại, vương qua mùa xuân, đọng trên những cánh hoa dọc theo con đường
Constitution dẫn đến bức tường đá đen nằm kia, trầm mặc u buồn.
Tháng
Tư, hoa đã nở từ lâu. Xác hoa rơi lả tả làm hồng cả một khỏang không
gian quanh những con đường chạy dọc theo công viên. Hoa Anh Đào thật đây
rồi, những cánh hoa mà tươi xinh ngày xưa tôi chỉ được nhìn thấy trong
phim ảnh rồi thầm cảm mến những kiếm sĩ của xứ Phù tang, cô đơn vung
đường gươm, để hoa rơi trong tuyết lạnh, thì hôm nay đang rực rỡ khoe
sắc trước mắt tôi đây. Tôi tách ra khỏi nhóm người đi bộ một mình dưới
những tàn cây. Tôi vẫn thích đưọc đi một mình để nhớ về những ngày tháng
đã dần qua.
Ngày xưa chưa mất miền Nam gia đình tôi đã có một
cuộc sống ấm êm hạnh phúc. Chồng tôi, một người lính trận, mỗi lần về
phép thường hay cùng đi với một quân nhân Mỹ, cố vấn trong đơn vị. Hai
người cùng làm việc, cùng chung sở thích và ý nguyện nên rất thân nhau.
Thuở
ấy tôi không biết nhiều về đất Mỹ như bây giờ nhưng qua lời anh diễn
tả, cũng đủ hiểu rằng người lính Mỹ ấy đến từ một vùng quê xa xôi miền
trung bắc Hoa Kỳ. Ngoài cái vẻ bên ngoài rất tài tử, râu ria xồm xoàm vì
những ngày tháng lăn lóc trong chiến trận chưa kịp cắt tiả thì Mike
Wright thật nhân hậu và hiền lành. Tôi cũng ngạc nhiên với tấm lòng rộng
lượng hồn nhiên của nguời Mỹ. Họ đã mang biết bao nhiêu tài sản, cả
sinh mạng khi đến giúp đất nước tôi, hòa nhập vào đời sống người dân bản
xứ, tươi vui trong cuộc sống. Bởi thế, anh chàng râu tia xồm xoàm Mike
chiếm được cảm tình của gia đình, nhất là bà chị lớn chưa chồng của
chúng tôi ngay. Chuyện tình của một người lính viễn chinh từ một đất
nước xa xôi với người con gái Việt Nam còn nguyên nền nếp gia phong diễn
ra thật êm đềm hạnh phúc với một đám cưới đậm chất phương Đông. Chị tôi
khăn đóng, áo dài bên cạnh anh Mike cũng áo dài khăn đóng. Trông họ
cũng thật vừa đôi.
Từ đó tôi không còn cô đơn trông ngóng hằng
đêm mà có cả chị tôi là kẻ đồng tình, đồng cảnh. Chúng tôi đã có những
ngày đợi chờ trong lo lắng, đã có những ngày đoàn viên trong hạnh phúc.
Những tháng tươi vui của một thời son trẻ tưởng như không bao giờ dứt
cho đến một ngày kia. Tôi không quên được cái ngày người chỉ huy hậu cứ
tiểu đoàn đích thân đến báo cho tôi biết là chồng tôi và đơn vị của
chàng không về nữa. Cả người cố vấn Mỹ dễ thương đang là anh rể của tôi
cũng cùng chung số phận. Một đơn vị oai hùng, thiện chiến, tưởng như là
không bao giờ thua trận đã nằm lại đâu đó trên vùng đất Hạ Lào của mùa
hè khói lửa. Tôi và người chị, ngày ấy thực sự bị cuốn vào những cơn ác
mộng, nhất là khi chị tôi biết được rằng mình vừa khó ở, chưa thông báo
cho Mike biết về đứa con vừa thành hình trong bụng chị.
Sau khi
miền Nam lọt vào tay phương Bắc là một quãng đời địa ngục trần gian đến
với chúng tôi. Nhất là chị với đứa con lai đã hứng chịu trăm đắng ngàn
cay bởi vì sự dè bỉu, khinh khi cũng như phân biệt đối xử của người cai
trị mới. Chị tôi bị hành hạ, bị lăng nhục, bị đe dọa đưa vào cái trại
gọi là phục hồi nhân phẩm mà thực chất là tước đoạt hết nhân phẩm con
người. Chịu đựng bao nhiêu đắng cay khổ sở nhưng chị tôi vẫn cắn răng
làm việc nuôi dạy con khôn lớn nên nguời. Có một điều làm tôi lạ lùng là
tình yêu của chị dành cho anh hơn hẳn những thường tình. Chị luôn nhắc
tới anh với những lời yêu thương trang trọng, với sự bùi ngùi thương
tiếc của một người góa phụ tưởng nhớ thương chồng. Chị không đòi hỏi gì ở
anh cũng như đất nước anh. Khi chương trình tái định cư những người con
lai bắt đầu, tôi cũng tưởng chị vui sướng lắm. Nhưng không, chị từ chối
ra đi chỉ vì còn nặng lòng với mảnh đất được sinh ra và đứa cháu tôi
cũng vui vẻ vâng theo lời mẹ. Tôi không giống và cũng không chịu đựng
được như chị. Tôi chọn ra đi để đưa các con tôi về với tự do. Khi con
thuyền mong manh đưa chúng tôi ra biển, tôi đã thầm cầu nguyện ơn trên
cho chúng tôi vượt sóng đươc bình an. Tôi đã chọn tự do hay là chết và
chân thành cầu xin đó là một sự chọn lựa đúng đắn và may mắn nhất trong
đời....
Cứ mải suy nghĩ và đi theo con đường hoa, tôi đến trước
bức tường đá đen tự bao giờ. Con đường dần xuống thấp để những dòng tên
trắng hiện ra. Một cặp vợ chồng người Mỹ trắng đã già lắm, run rẩy dắt
tay nhau bước lên bực thang. Mắt người đàn bà còn ướt đỏ. Tôi đoán rằng
bà vừa mới khóc.
Gặp nhau trên bực thang đầu tiên, tôi vui vẻ chào hai người rồi hỏi lớn:
- Ông bà từ đâu tới.
- Chúng tôi từ Ohio, còn cô.
- Thưa ông bà tôi từ Texas.
Người đàn ông râu dài nhưng cắt tỉa gọn gàng, dáng vẻ hiền từ thân thiện. Ông ta mỉm cưởi hỏi lại.
- Tôi muốn hỏi cô người nước nào. Phi, Tàu, Nhật hay Thái lan.
- Thưa ông tôi là người Việt Nam.
Bỗng
nhiên tôi thấy gương bặt người đàn bà dường như đổi sắc. Hình như một
sự giận dữ bất ngờ chợt làm bà ta vùng vằng cố bước lên bậc thang ngắn
tiến về phía trước. Tôi ngạc nhiên nhìn ông già chờ đợi một lời giải
thích về cử chỉ bất thường của bà. Chắc có một điều gì không ổn vì tôi
biết đa số người Mỹ thường lịch sự, ít ai bày tỏ ngay những điều khó
chịu trong lòng. Như đóan được ý nghĩ của tôi ông buồn rầu giải thích.
-
Cô đừng buồn với thái độ của vợ tôi. Bà ấy đang buồn rầu. Chúng tôi mất
đứa con trai duy nhất ở Việt Nam, nên mỗi khi thấy người Việt Nam vợ
tôi lại xúc động, không ngăn được cảm xúc nên có những cử chỉ bất
thường.
Tôi nhìn bà già đã ngồi xuống chiếc ghế đá bên lối đi,
đang run rẩy cố chống hai tay lên đùi, mắt vô hồn nhìn vào quãng không
gian phía trước. Nếu tôi mất con cho một cái xứ sở xa lạ nào chắc gì tôi
còn giữ được bình tĩnh như bà. Lòng tôi rạt rào niềm thương xót để nói
với ông rằng tôi thông cảm tâm tình của những bà mẹ mất con cho một dân
tộc họ không hề mảy may biết tới.
Trong lúc xúc động tôi cũng nói
với ông là chính tôi và gia đình tôi cũng mất mát rất nhiều trong cuộc
chiến chống cộng sản xâm lăng đó. Và đau đớn hơn thế nữa, chúng tôi đã
mất cả quê hương, tổ quốc. Ông già Mỹ luôn luôn lập đi lập lại rằng tôi
biết, chúng tôi biết, rồi xin phép tôi chạy đến săn sóc cho bà đã ngồi
xuồng ghế đá cách đó không xa lắm. Ông nói lớn, chào từ giã khi tôi đi
lần xuống phía dưới để dò tìm những hàng chữ mang tên người anh rể ngoại
chủng năm xưa đã nằm xuống ở Việt Nam.
Tôi biết vần W sẽ nằm ở
hàng cuối cùng nhưng cũng mất một lúc lâu mới tìm thấy cái tên Mikes
Wright, tên người anh rể tôi năm kia, khiêm nhường giữa tên của bao
nhiêu người. Nhỏ bé và đơn giản trong một không gian bao la, nhưng thật
hào hùng độ lượng như cuộc đời anh và đất nước đang cưu mang chúng tôi
đây.
Tôi lặng chìm trong những giấc mơ xưa về một gia đình hạnh
phúc mà nhớ đến chồng tôi. Tên của Mikes người ta còn nhớ chứ tên của
chồng tôi kẻ thù đã xóa đi. Ngay cả miếng đất nhỏ bé mà chồng tôi an
nghỉ người ta cũng đang toan tính cướp mất của anh. Tôi nhớ đến nghĩa
trang quân đội Biên Hòa. Nhớ đến giây phút vật vã khóc lóc nhìn thi hài
anh được gắn lon giữa hai hàng nến. Nhớ đến những khuôn mặt lầm lỳ, chai
sạn vì gió bụi của những nguời lính bồng súng chào chồng tôi lần cuối
khi đưa chàng về với đất mẹ năm xưa.
Giữa lúc lặng yên tưởng nhớ
thì mấy bà bạn tôi xuất hiện. Các bà gọi la tên tôi ơi ới, trách tôi xé
lẻ tìm vui một mình. Cả bọn trầm trồ, chỉ trỏ reo vui với những cái tên
lạ, nói cười vui vẻ như không cần biết gì về những niềm đau. Ôi nhân thế
thường mau quên để sống, chỉ có mình tôi hay đi ngược thời gian về
những dòng sông cũ. Chúng tôi lại rủ nhau đi thăm viện bảo tàng không
gian gần đó. Một đoàn người vừa đi vừa cười, vừa hỏi thăm đường rộn vui
lên góc phố. Ở đây người ta quen mắt với những cái lố lăng của du khách
từ khắp mọi miền trên thế giới nên chẳng thấy phiền hà.
Đến trưa
lúc sắp ra về tôi lại gặp cặp vợ chồng người Mỹ ban sáng. Lạ một điều là
tôi thấy ông già có nét gì rất quen. Lần này bà có vẻ vui hơn, mỉm cười
khi tôi chào gặp lại. Chắc ông đã giải thích cho bà biết rằng ai cũng
có những nỗi buồn, những mất mát khác nhau chứ không phải riêng bà.
Chúng tôi đứng ngoài hành lang nói chuyện. Ông bà cho tôi biết sẽ về lại
Ohio chiều mai, một nông trại xa xôi nằm sát biên giới tiểu bang
Indiana. Ông nói thế nhưng tôi chẳng hình dung được gì ngoài những con
số mà tôi đoán rằng đất đai chắc là rộng lớn. Tôi cũng cho ông biết
chúng tôi còn ở đây thêm vài ngày, đi thăm một vài nơi nữa rồi chào từ
giã theo dòng người thăm viếng.
Buổi sáng hôm sau tôi có thói
quen thức dậy thật sớm trong lúc mọi người còn say trong giấc ngủ. Tôi
mở cửa bước ra ngoài, đi bộ theo con đường Ohio dọc theo bờ sông, rồi
tình cờ bước dần về phía bức tường đá đen. Trời còn sớm quá nhưng tôi
thấy dưới chân bức tường thấp thoáng bóng ngươi. Bước tới gần hơn tôi
bất ngờ nhận ra ông bà già Mỹ hôm qua đang ở đó tự bao giờ. Bà ngồi hẳn
xuống đưa tay sờ lên những hàng tên như vuốt ve một vật gì quý giá.
Gặp lại nhau tôi lên tiếng:
- Chào ông bà. Ông bà ra đây sớm quá. Tôi cứ tưởng chỉ mình tôi đi bộ trong khu này..
Ông ôn tồn giải thích:
- Chiều nay chúng tôi trở về lại Ohio rồi nên thu xếp thời gian thăm lại nơi đây lần nữa.
Bà
vẫn không nói, đưa tay sờ lên phiến đá. Tôi chắc bà thương yêu người
con và đau đớn lắm khi nhìn lên hàng chữ có tên con mình. Mắt tôi tò mò
nhìn theo và ngạc nhiên thấy tay bà đang đặt trên hàng chữ của vần W.
Như có một linh tính báo trước chuyện lạ lùng tôi buột miệng hỏi ông:
- Con trai của ông bà tên là gì nhỉ. Anh ấy mất ở Việt nam năm nào?
- Con trai tôi tên là Mikes Wright, Tử trận ở Việt năm năm 1972. Tên nó đây, ngay đây này...
Vừa
nói ông vừa chỉ về phía tay bà đang xoa xoa che khuất cái tên mà trước
đây tôi đã đặt tay vào. Chính đó là tên anh rể của tôi. Cha của đứa cháu
mồ côi mà chị tôi yêu quý như báu vật của cuộc đời mình. Tôi đứng lặng
người nhìn ông rồi lại nhìn bà. Sao cuộc đời lại có sự tình cờ kỳ diệu
đến thế này. Để chắc chắn mình không nằm mơ tôi hỏi lại những chi tiết
rất chung chung mà tôi còn nhớ về anh.
- Anh Mikes của ông bà rất nhiều râu và vui tính lắm phải không.
- Cô nói gì tôi không hiểu. Dĩ nhiên ngày ấy Mikes còn trẻ lắm nên râu ria mọc là thường.
Tôi
nhìn lại ông và mơ hồ thấy nét quen thuộc mà tôi chợt khám phá ra hôm
qua, là ông trông rất giống Mike ở cái cằm vuông vức và bộ râu rậm dài.
Ông già bùi ngùi nói tiếp.
- Vợ tôi buồn một điều là đáng lẽ ra
Mikes đã hết hạn phục vụ ở Việt nam trở về Mỹ nhưng vì yêu thương một
người con gái bản xứ nên tình nguyện phục vụ thêm một thời hạn nữa và
cái thời hạn đó không bao giờ chấm dứt...
- Thế ông bà có biết tin tức gì về người con gái ấy không.
-
Mikes có gởi cho chúng tôi một tấm hình, thông báo là đã thành hôn. Lâu
quá rồi nhưng chúng tôi còn giữ tấm hình ấy trong tập ảnh gia đình ở
Ohio. Chỉ có thế mà thôi.
Tôi muốn nói với ông chính tôi là em
người con gái Việt Nam ấy nhưng sợ rằng mình nhận lầm, vì biết đâu có
một anh Mike nào khác nữa nên chỉ nói với ông:
- Hơn ba mươi năm
trước đây tôi cũng có một người anh rể tên là Mike Wright, quê quán ở
miền trung bắc Mỹ. Tôi chỉ biết thế không biết có phải là anh Mikes con
của ông bà không. Tôi từ Texas lên đây chơi nhưng chính là để nhìn thấy
tên anh Mikes Wright một lần trên tấm bia đá này.
Ông mở mắt nhìn
tôi kinh ngạc rồi kéo bà lên, nói với bà tin tức quan trọng đó. Ông
luống cuống, mời tôi ngồi xuống tấm ghế đá trong khi bà cứ há miệng ra
thẫn thờ chờ đợi. Rồi ông dồn dập hỏi.
- Tôi chắc là đúng rồi. Đấy
cô coi có cái tên Mikes Wright nào khác đâu. Thế chị cô bây giờ ở đâu.
Tôi muốn hỏi thăm tin tức về Mikes trong những ngày cuối cùng.
- Thưa ông bà, chị tôi vẫn còn ở Việt Nam. Chắc rằng chị tôi cũng chẳng biết gì hơn ông bà.
Như
chính tôi đây chẳng biết gì hơn tin tức cuối cùng của chồng tôi và
Mikes. Đầu tiên người ta chỉ thông báo cho chúng tôi là hai người đã mất
tích sau một đợt tấn công của địch và cả tuần lễ sau mới tìm thấy xác
mang về.
- Thế thì đúng như cô nói, chắc đúng là Mikes rồi. Khi
chúng tôi đến nhận xác Mikes thì đã không mở ra được nữa vì những điều
kiện vệ sinh.
- Nhưng tôi có một tin quan trọng về anh Mikes, không biết ông bà có muốn nghe không?
-
Tin gì vậy, thưa cô. Chúng tôi không còn gì trên đời này ngoài hình ảnh
của Mikes và những gì liên quan đến đứa con yêu thương của chúng tôi.
-
Chị tôi có một người con với anh Mikes. Chính anh Mikes cũng không biết
vì lúc vừa mới có thai, chưa kịp thông báo thì anh Mikes và chồng tôi
đã không về nữa.
Ông bà liên tục kêu lên những lời thống thiết, không rõ là lời đau khổ hay mừng vui.
- Chúa ơi, thật thế sao! Chúa ơi! Chúa ơi!
- Thật thế thưa ông bà. Cháu giống Mikes lắm. Nếu ông bà thấy cháu là nhận ra ngay thôi.
- Thế bây giờ cháu ở đâu thưa cô.
- Cháu vẫn còn ở Việt nam. Vì thương mẹ nên cháu không về Mỹ theo chính sách trở về quê cha của những đứa con lai.
Tôi
và ông bà Wright cùng bước đi như trong cơn mơ vì sự gặp gỡ bất ngờ.
Tôi cho ông bà địa chỉ, số điện thoại của tôi và nhận lại địa chỉ số
điện thoại của ông bà ở Ohio để tiện bề liên lạc. Những thông tin ban
đầu mặc dù đã chính xác, nhưng tôi muốn biết chắc tấm ảnh ngày xưa có
phải là của chị tôi hay không. Chiều hôm đó ông bà Wright về lại Ohio.
Tôi đoán ông bà vui vẻ lắm. Mất một đứa con cho cái xứ Việt Nam xa xôi
nhưng ông bà sẽ được nhận lại một đứa cháu ngoan ngoãn và đứa con dâu
còn giữ đúng truyền thống Việt Nam. Tôi biết chị tôi là một người đàn bà
Việt Nam hiền thục. Tôi đã đoán không sai vì ba hôm sau khi tôi còn ở
khách sạn thì tiếng điện thoại lại reo. Lần này ông bà Wright theo xe
trở lên, mang cả gia đình đứa con gái gồm con rể và hai đứa cháu. Họ lái
một chiếc xe van lớn mang theo cả tấm ảnh ngày xưa.
Gặp nhau tại công viên ông bà đưa tôi tấm ảnh và giải thích:
-
Vội quá nên chúng tôi không book được vé máy bay. Vả lại Nathalie, em
gái của Mikes và chồng con nó ở gần đó cũng muốn đi nên chúng tôi lái xe
cho tiện.
Tấm ảnh chụp cách đây hơn ba mươi năm giờ đã ố vàng. Màu
sắc phai theo thời gian nhưng vẫn còn sắc nét. Tôi cầm tấm ảnh như đưa
tay chạm vào một phần quá khứ xa xăm. Trong ảnh, chị tôi người con dâu
đất Mỹ, e ấp đứng bên người chồng râu tia xồm xoàm, đang đưa cánh tay
khỏe mạnh ôm vòng lấy người con gái như ôm ấp chính cuộc đời cô.
- Đúng là chị tôi rồi....
Ông
bà Wright mừng vui như mở hội. Bà như trẻ trung hẳn lên. Bao nhiêu bệnh
tật gần như tan biến. Mấy người đi theo cũng lộ nét mừng vui hớn hở. Bà
hỏi tôi những chuyến bay về Việt Nam với những dự định đi thăm viếng
đứa cháu, con của người con tưởng như đã mất, bỗng dưng còn để lại trong
cuộc đời này cả một phần huyết nhục. Tôi thưa với ông bà rằng tôi đã
nói chuyện với chị tôi qua điện thoại. Chị cũng rất vui mừng về sự gặp
gỡ này. Chị sẵn sàng cho cháu về quê nội cũng như chính chị sẵn sàng về
làm dâu ông bà, chăm sóc cho ông bà trong lúc tuổi già đúng như truyền
thống của người Việt nam. Tôi đã biết tình yêu của chị dành cho Mikes
nên không ngạc nhiên với quyết định này. Ông bà chăm chú nghe tôi giải
thích phong tục Việt Nam là người vợ phải làm dâu phụng dưỡng cha mẹ
chồng. Ông kêu Chúa ôi liên tục sau mỗi câu nói làm tôi có cảm tưởng như
đang kể cho ông bà nghe về chuyện phong thần, nhưng tôi biết bây giờ
đối với ông bà, đất trời là cả một mùa xuân.
Sau đó một thời gian
dài, tôi lại bận bịu vì phải lo lắng dẫn ông bà Wright về lại Việt Nam.
Bận bịu nhưng lòng tôi sung sướng. Tôi không giấu được xúc động khi
nhìn thấy ông bà lần đầu tiên gặp lại đứa cháu nội sau hơn ba mươi năm
thương nhớ người con đã khuất. Ông bà cứ kêu lên những lời vui mừng vang
một góc sân và làm ngạc nhiên những người hàng xóm Việt Nam vốn không
thiếu sự tò mò.
-Oh my God! He just looks like his father! Oh my God!
Bây
giờ chị tôi, một người con gái Việt nam về làm dâu muộn màng trên đất
Mỹ, đang thay cha mẹ chồng cai quản một nông trại trồng bắp ở Ohio với
đứa con duy nhất của một cuộc tình nở vội trong cuộc chiến Việt Nam.
Taberd75 (FB Victor Đoàn)
No comments:
Post a Comment