Wednesday, October 3, 2012

VÀI NÉT VỀ TƯỚNG BIG MINH


Dương Văn Minh sinh ngày 16.2.1916 tại Vĩnh Long (có tài liệu nói sinh tại Mỹ Tho). Sỡ dĩ ông có biệt danh là Big Minh vì cao 6 feet và nặng 200 pounds, và được gọi như thế để khỏi lẫn lộn với Tướng Trần Văn Minh.

Ông có vợ và ba con: hai người con trai là Dương Minh Đức và Dương Minh Tâm hiện ở Pháp, và người con gái là Dương Mai, có chồng là Đại Tá Nguyễn Hồng Đài, hiện ở Pasadena, California.
Lúc nhỏ ông theo học trường Chasseloup Laubat ở Sài Gòn và đỗ tú tài II vào năm 1938 cùng một lớp với Tướng Trần Văn Đôn.
Năm 1940, ông Minh gia nhập quân đội Pháp, tốt nghiệp khóa Hạ sĩ quan trừ bị Thủ Dầu Một với cấp bậc Aspirant tức là Chuẩn Úy.
Năm 1945, khi Nhật đảo chánh Pháp, Dương Văn Minh đang phục vụ tại Cap’s Jacques (Vũng Tàu) và bị Nhật cầm tù. Khi Pháp trở lại, ông trở lại phục vụ trong quân đội Pháp năm 1946 với cấp bậc Thiếu Úy.

Năm 1952 ông mang cấp bậc Đại Úy và phục vụ tại Phủ Thủ Hiến Nam Phần. Từ Năm 1953 – 1954, ông được thăng Thiếu Tá rồi Trung Tá và phục vụ tại Tổng Tham Mưu Quân Khu 1. Năm 1954 - 1955 ông là Chỉ Huy Trưởng Phân Khu Sài Gòn.
Dương Văn Minh là cháu của Nguyễn Ngọc Thơ. Khi ông Diệm về chấp chánh, ông Nguyễn Ngọc Thơ được mời làm Bộ Trưởng Nội Vụ, đã đề cử Dương Văn Minh chỉ huy huy lực lượng bảo vệ Sài Gòn. Ngày 3.5.1955, Dương Văn Minh được thăng Đại Tá và giữ chức Quân Trấn Trưởng Sài Gòn.

Người đầu tiên đã giúp ông Diệm chống lại các giáo phái không phải là Đại Tá Dương Văn Minh mà Đại Tá Dương Văn Đức. Ngày 5.6.1955, Đại Tá Đức được cử chỉ huy Chiến Dịch Đinh Tiên Hoàng bình định miền Tây Nam Phần. Ông cho quân tiến chiếm Cái Vồn (Cần Thơ), phá tan đại bản doanh của Tướng Trần Văn Soái. Ngày 29.6.1955 ông tiến vào núi Ba Chúc, tấn công lực lượng của Tướng Lê Quang Vinh, tức Ba Cụt.

Ngày 21.9.1955, với tư cách Quân Trấn Trưởng Sài Gòn, Đại Tá Dương Văn Minh được cử làm Chỉ Huy Trưởng Chiến Dịch Hoàng Diệu, mở cuộc hành quân truy kích tàn quân Bình Xuyên tại Rừng Sát. Trung tá Nguyễn Khánh làm Chỉ Huy Phó và Thiếu Tá Nguyễn Hữu Hạnh làm Tham Mưu Trưởng. Sau khi Chiến Dịch Hoàng Diệu chấm dứt, ngày 6.11.1955, ông Diệm cho tổ chức biểu tình hoan hô các chiến sĩ Rừng Sát trở về. Đại Tá Dương Văn Minh được thăng Thiếu Tướng. (Có tài liệu nói Dương Văn Minh được thăng Thiếu Tướng ngày 23.10.1955).

Trong thời gian ông Nguyễn Ngọc Thơ làm Tỉnh Trưởng các tỉnh Cần Thơ, Long Xuyên và Mỹ Tho, Ba Cụt đã mưu sát ông đến 6 lần, nhưng ông vẫn thoát được. Để đối lại, ông Nguyễn Ngọc Thơ cũng đã cho mở các cuộc hành quân để truy kích Ba Cụt, nhưng không bắt được. Do đó, khi nghe ông Ngô Đình Nhu hỏi ý kiến về việc dẹp loạn Trần Văn Soái và Ba Cụt ở miền Tây, ông xin lãnh trách nhiệm ngay. Đây là một cơ hội tốt giúp ông thanh toán một kẻ thù luôn theo đuổi ông. Ông xin xử dụng Tướng Dương Văn Minh vào công tác này. Vì thế, ngày 29.12.1955, ông Diệm đã ra lệnh chấm dứt chiến dịch Đinh Tiên Hoàng do Đại Tá Dương Văn Đức chỉ huy và cho Đại Tá Đức lên Thiếu Tướng. Tướng Đức tỏ vẽ bất bình về chuyện chấm dứt công tác một cách đột ngột này. Do đó, ngày 10.6.1956, ông Diệm phải cử Tướng Đức đi làm Đại Sứ tại Nam Hàn.

Rất hận về chuyện ông Nguyễn Ngọc Thơ đưa Tướng Dương Văn Minh xuống cướp chỗ của mình, khi tham gia cuộc chỉnh lý của Tướng Nguyễn Khánh ngày 30.1.1964 lật đổ Dương Văn Minh, Tướng Đức đã đi tìm ông Nguyễn Ngọc Thơ, lúc đó là Thủ Tướng Chính Phủ, kéo ra và đánh mấy bớp tai trước mặt mọi người!
Mặc dầu Dương Văn Minh đang bị điều tra về việc biển thủ một thùng phuy vàng lấy được của Bảy Viễn, ngày 1.1.1956, ông Diệm đã cử Tướng Dương Văn Minh chỉ huy Chiến Dịch Nguyễn Huệ bình định miền Tây. Ngày 13.4.1955 Tướng Ba Cụt đã bị bắt ở Chắc Cá Đao, cách Long Xuyên 15 cây số và bị Tòa Án Quân Sự tuyên án tử hình. Sáng 13.7.1956, lúc 5 giờ 40 sáng, Tướng Ba Cụt đã bị hành quyết tại nghĩa địa ở đường Hoa Bình, Cần Thơ.
Trong cuộc phỏng ván ngày 16.10.2004, Đại Tá Nguyễn Văn Y, lúc đó là Tỉnh Trưởng Chợ Lớn, cho biết sau khi xử bắn và chôn Ba Cụt xong, Nguyễn Văn Nhung có về gặp ông và cho ông biết Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh cho anh ta đào xác Ba Cụt lên đem đi thiêu rồi lấy tro rải xuống sông Cửu Long, để tay chân bộ hạ của Ba Cụt không lấy xác ông ta đem về lập đền thờ. Nhưng có nhân chứng khác cho biết Nguyễn Văn Nhung đã đào xác Ba Cụt lên, văm nhỏ rồi bỏ vào bao bố đem rải xuống sông chứ không hề thiêu.

Trong cuốn hồi ký "Việt Nam máu lửa quê hương tôi" Đỗ Mậu phịa rằng “vì ông Diệm nhiều lần dụ dỗ Lê Quang Vinh theo đạo Thiên Chúa mà Lê Quang Vinh nằng nặc không theo. Nếu theo đạo Thiên Chúa thì Lê Quang Vinh sẽ được rửa tội trong một buổi lễ long trọng tại nhà thờ Đức Bà Sài Gòn và sẽ được trọng thưởng, và tất nhiên sẽ được tha mạng.” (trang 124).

Ngày 31.5.1956, Chiến Dịch Nguyễn Huệ kết thúc. Ông Diệm lại cử Tướng Dương Văn Minh chỉ huy Chiến Dịch Thoại Ngọc Hầu bình định các tỉnh Tiền Giang và Hậu Giang. Ngày 29.8.1956 ông Diệm cử Tướng Minh làm Tổng Thư Ký Thường Trực Quốc Phòng, chỉ huy Phân Khu Saigon/Chợ Lớn và tiếp tục chỉ huy Chiến Dịch Thoại Ngọc Hầu bình định miền Tây. Ngày 30.10.1956, chiến dịch này kết thúc với kết quả 441 bị tử trận, 948 về quy thuận, 1169 bị bắt và hơn 1.000 súng bị tịch thu.

Ngày 1.2.1957 Dương Văn Minh được thăng Trung Tướng và giữ chức Chỉ Huy Trưởng Bộ Tư Lệnh Hành Quân. Chức Tổng Thư Ký Thường Trực Quốc Phòng được trao lại cho Tướng Dương Văn Đức mới đi học khóa chỉ huy và tham mưu ở Mỹ về. (Khi Tướng Đức xin đi Pháp, chức này lại được trao cho Tướng Nguyễn Khánh). Tướng Minh cũng được gởi qua Mỹ học khóa chỉ huy và tham mưu tại U.S. Command and General Staff College ở Fort Leavenworth thuộc bang Kansas.

Đầu năm 1960, cơ quan tình báo khám phá ra Tướng Dương Văn Minh đã liên lạc với Hà Nội qua người em là Thiếu Tá Việt Cộng Dương Văn Nhựt, nên Tướng Minh không được tin dùng nữa (chúng tôi sẽ tường thuật sau). Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã cử Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu mới từ Hoa Kỳ về làm Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Hành Quân với nhiệm vụ theo dõi và kiểm soát Tướng Minh. Cuối năm 1962 Tổng Thống Diệm quyết định giải tán Bộ Tư Lệnh Hành Quân. Ngày 8.12.1962 Trung Tướng Dương Văn Minh được cử làm Cố Vấn Quân Sự Phủ Tổng Thống, một chức vụ được coi như “ngồi chơi xơi nước”. Trung Tướng Trần Văn Đôn, Tư Lệnh Vùng I, được cử làm Tư Lệnh Lục Quân, một chức vụ mới đặt để thay thế Bộ Tư Lệnh Hành Quân.
Lúc đầu, Tướng Harking tỏ vẽ bất bình về chuyện Tướng Minh bị hạ tầng công tác. Ông ta nghĩ rằng ông Diệm sợ Tướng Minh làm đảo chánh nên đã hành động như vậy. Nhưng sau khi biết được Tướng Minh có liên lạc với Việt Cộng, cơ quan CIA cũng đồng ý về biện pháp này.

Biết Tướng Dương Văn Minh đang bất mãn với ông Diệm, nên khi muốn lật đổ ông Diệm, CIA quyết định xử dụng Tướng Minh. Nhưng sau đó chỉ cho Tướng Minh làm Quốc Trưởng 3 tháng. Ngày 30.1.1964, theo sự sắp xếp của CIA, Tướng Nguyễn Khánh làm “chỉnh lý” xúc các tướng đảo chánh và biến Dương Văn Minh thành Quốc Trưởng bù nhìn.

Ngày 24.10.1964, Nguyễn Khánh đưa ông Phan Khắc Sửu lên làm Quốc Trưởng thay Dương Văn Minh. Ngày 24.11.1964, ông Sửu thăng cho cả Nguyễn Khánh lẫn Dương Văn Minh lên Đại Tướng. Ngày 20.12.1964, Nguyễn Khánh bắt Dương Văn Minh đi lưu vong, làm Đại Sứ VNCH tại Thái Lan. Mãi đến năm 1968, khi ông Trần Văn Hương lên làm Thủ Tướng, Dương Văn Minh mới được trở về Việt Nam. Ông đã đến Sài Gòn ngày 5.10.1968.

Sau đây là một số bí ẩn chung quanh cuộc đời và vai trò của Tướng Dương Văn Minh.

VỤ BIẺN THỦ MỘT PHUY VÀNG


Đại Tá Nguyễn Văn Y, cựu Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia kiêm Giám Đốc Phủ Đặc Ủy Trưởng Trung Ương Tình Báo của VNCH đã kể lại như sau:

Lúc đó ông là Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Chợ Lớn, chỉ huy Tiểu Đoàn 184. Vào khoảng tháng 5 năm 1955, sau khi đánh đuổi quân Bình Xuyên chạy vào Rừng Sát, ông đã thả các nhân viên Phòng 2 đi thăm dò ven rừng. Các nhân viên này thấy một người đang ngồi câu cá trên một chiếc xuồng ở một khu vắng, dáng điệu rất khả nghi, nên bắt về thẩm vấn. Sau nhiều cuộc tra hỏi, người này thú nhận anh ta là một cận vệ của Bảy Viễn, được phái ở lại giữ hai thùng phuy vàng và bạc đã phải nhận chìm xuống nước trước khi chạy trốn. Ông đã cho thợ lặn xuống tìm nhưng không thấy. Nhân viên Phòng 2 tiếp tục phỏng vấn, người này quả quyết nơi anh ta làm dấu đúng là nơi đã nhận 2 thùng phuy xuống. Thấy thái độ quả quyết của anh này, ông cho thợ lặn xuống mò một lần nữa, nhưng trong một khu rộng hơn. Quả nhiên, thợ lặn đã vớt được hai thùng này cách xa nơi đánh dấu khoảng 100 thước, vì bị nước cuốn trôi đi. Đây là hai thùng đựng dầu xăng loại 200 lít.

Công cuộc kiểm tra cho thấy một thùng đựng bạc giấy, còn một thùng đựng vàng. Bạc giấy toàn là loại 500$, được gói trong những bao nilon nhỏ, có nhiều bao bị nước thấm nước. Ông bảo nhân viên đem số bạc ướt phơi khô rồi đưa tất cả đi nạp vào ngân khố. Còn thùng vàng được chở đến giao cho Quân Trấn Sài Gòn do Đại Tá Dương Văn Minh làm Quân Trấn Trưởng. Tướng Nguyễn Khánh, lúc đó là Trung tá Nguyễn Khánh Chỉ Huy Phó của Đại Tá Minh, cho biết số vàng này khi giao nạp đã được bỏ vào trong hai cái rương, nhưng rồi sau đó không còn nghe Dương Văn Minh nói gì về số vàng này.

Ông Diệm đã ra lệnh điều tra vụ này. Hai người được trao nhiệm vụ điều tra là Thẩm Phán Lâm Lễ Trinh, Biện Lý Tòa Sơ Thẩm Sài Gòn, và Thiếu Tá Mai Hữu Xuân, Giám Đốc An Ninh Quân Đội.

Ông Huỳnh Văn Lang, lúc đó là Bí Thư Liên Kỳ của Đảng Cần Lao và Tổng Giám Đốc Viện Hối Đoái, cho biết ông Lâm Lễ Trinh đã tiết lộ rằng khi được hỏi về số vàng này, Tướng Minh đã sừng sộ và giận dữ, nói rằng ông Diệm là người bội bạc, ông đã giúp ông Diệm đánh dẹp Bình Xuyên mà còn hỏi cái gì.

Ông Lang cũng cho biết ông có được đọc bản báo cáo hai trang của Đại Tá Mai Hữu Xuân. Đại Tá Xuân chỉ xác nhận số vàng Tiểu Khu Chợ Lớn tịch thu được đã giao cho Đại Tá Dương Văn Minh cất giữ và đề nghị nên đem ra chia nhau.

Ngày 13.7.1956, khi Ba Cụt bị xử chém, ông Diệm cho Mai Hữu Xuân lên Thiếu Tướng và cử chỉ huy chiến dịch Trương Tấn Bửu, bình định miền Đông. Với công tác này, Mai Hữu Xuân đã làm bậy nên bị mất chức Giám Đốc An Ninh Quân Đội.

Ông Cao Xuân Vĩ cho biết khi ông Nguyễn Ngọc Thơ đề nghị cho Tướng Dương Văn Minh chỉ huy Chiến Dịch Nguyễn Huệ để bắt Ba Cụt, ông Diệm đã nói với ông Nhu: “Thôi, cho nó đi cho yên!”

CUNG CẤP TIN CHO VIỆT CỘNG


Anh Nguyễn Tư Thái, tự là Thái Đen, nhân viên tình báo của Đoàn Công Tác Đặc Biệt, cho biết vào đầu năm 1960, nhân viên của Đoàn thấy một người thường lui tới nhà Dương Văn Minh, ở số 3 đường Trần Quý Cáp, Sài Gòn, nhưng mỗi lần đi ra, anh ta thường nhìn trước nhìn sau rất kỹ, thấy không có gì khả nghi mới bước ra. Những người bình thường không ai làm như vậy. Một hôm, đợi anh ta ra khỏi nhà Dương Văn Minh một khoảng xa, nhân viên tình báo liền bắt đẩy lên xe và đem về thẩm vấn. Lúc đầu anh ta nói anh ta chỉ là người đến dạy học cho các con của Tướng Minh. Tuy nhiên, sau nhiều cuộc thẩm vấn khéo léo, anh ta nhìn nhận anh ta là một ủy viên của Huyện Ủy Thủ Đức, được phái đến gặp Dương Văn Minh để lấy tin tức. Anh này đã bị giam giũ luôn, nhưng Dương Văn Minh không hay biết gì cả.

Sau vụ này, Đoàn Công Tác Đặc Biệt, An Ninh Quân Đội và Tổng Nha Cảnh Sát đã bố trí dày đặc chung quanh nhà Dương Văn Minh và theo dõi từng bước đi của Dương Văn Minh, chụp hình và quay phim. Điện thoại của nhà Dương Văn Minh cũng bị nghe lén.
Khoảng tháng 3 năm 1960, có một người có mặt mày và hình dáng rất gióng Dương Văn Minh, đã đến ở luôn trong nhà Dương Văn Minh và mỗi lần đi đâu thường được chính Dương Văn Minh chở đi. Sưu tra hồ sơ, nhân viên tình báo biết ngay đó là Dương Văn Nhựt, em của Dương Văn Minh, có bí danh là Mười Tỵ, hiện đang là Thiếu tá trong bộ đội miền Bác. Vợ của Dương Văn Nhựt hiện đang sống tại Sài Gòn. Theo dõi sát, nhân viên tình báo biết được Dương Văn Nhựt đang đi vận động Phật Giáo và sinh viên chống ông Diệm.

Trong cuộc phỏng vấn ngày 16.10.2004, Đại Tá Nguyễn Văn Y cho biết khi vợ Dương Văn Nhựt có bầu gần sinh, Dương Văn Nhựt đã đưa vợ tới ở nhà của Trung Tá Dương Văn Sơn, em của Dương Văn Minh. Lúc đó Dương Văn Sơn đang làm trưởng phòng truyền tin của Biệt Khu Thủ Đô. Tướng Minh thường đến nhà Dương Văn Sơn nói chuyện với Dương Văn Nhựt. Vì thế, nhà Dương Văn Sơn cũng bị theo dõi như nhà Dương Văn Minh.
Một hôm, Tổng Thống Diệm gọi ông và bảo đem tất cả hồ sơ vụ Dương Văn Minh vào gặp ông. Khi ông đem hồ sơ vào, Tổng Thống Diệm hỏi: Dương Văn Minh có theo Cộng Sản không? Rồi ông nói tiếp: Võ Nguyên Giáp nhiều công trạng như rứa mà nay Cộng Sản chỉ mới cho lên Trung Tướng. Dương Văn Minh công trạng có bao nhiêu đâu mà nay đã lên Trung Tướng rồi, còn muốn gì nữa?

Đại Tá Y nói ông vốn là đàn em và là người quen biết với Tướng Minh nên chưa biết phải trả lời như thế nào. Tổng Thống liền đưa cho ông cái hộp quẹt và bảo đem tất cả hồ sơ ra đốt đi. Tổng Thống nói: 
“Mỹ mà nó biết được Trung Tướng của mình theo Việt Cộng thì xầu hổ lắm. Đốt hết đi! Từ rày tôi không muốn nhắc tới cái vụ này nữa.” 
Nhưng đốt hồ sơ rồi cũng chưa xong, nhân viên tình báo còn phải bắt Dương Văn Nhựt và dẫn ông ta ra chiến khu để ông ta đi qua Cam-bốt và trở về lại miền Bắc, với lời cảnh cáo: Nếu trở lại sẽ bị thanh toán. Câu chuyện này có lẽ Tổng Cục Phản Gián của Hà Nội không hề hay biết.

Sau đó, ông Diệm đã bảo Đại Tướng Lê Văn Tÿ, Tổng Tham Mưu Trưởng, thông báo cho Tướng Minh biết từ nay ông ta chỉ có thể sử dụng các đơn vị cấp đại đội trở xuống mà thôi. Tướng Minh biết lý do tại sao, nhưng các cô vấn Mỹ không biết chuyện gì đã xẩy ra, nên rất thắc mắc. Họ nghĩ rằng ông Diệm sợ Tướng Minh đảo chánh nên mới hạn chế như vậy. Ngày 18.7.1962, ông Diệm thông báo cho Tướng Harkins biết ông quyết định hủy bỏ chức Tư lệnh Bộ Tư lệnh Hành quân của Tướng Minh vì ông ta “thiếu khả năng.”
Sau này, báo Tuổi Trẻ Chúa Nhật của Việt Cộng trong số ra ngày 
1.9.1996, dưới đầu đề “Tướng Dương Văn Minh dưới mắt các nhà binh địch vận”, đã tường thuật lại mối quan hệ giữa Tướng Dương Văn Minh và người em là Dương Văn Nhựt như sau:

“Năm 1960, Mười Tỵ, thiếu tá thuộc Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Nhân Dân Việt Nam - được lệnh về Nam nhận công tác đặc biệt. Nhiệm vụ của ông là quan hệ, tranh thủ người anh ở bên kia chiến tuyến, đại Tướng Dương Văn Minh. Sau khi vượt Trường Sơn vào Nam, Thiếu Tá Dương Văn Nhựt, tức Mười Tỵ, đã được Ban Binh Vận Trung Ương Cục tìm mọi cách đưa vào Sài Gòn. Thông qua một người em gái, ông Mười Tỵ đã đến được và ở lại nhà của Dương Văn Minh suốt một tuần lễ. Hai anh em ở hai phía chiến trận gặp gỡ hàn huyên. Bằng tình cảm gia đình, ông Mười Tỵ thuyết phục Tướng Minh. Từ đó, ông Mười Tỵ cứ phải đi về trong “vùng địch” hoặc ra nước ngoài để tiếp xúc và gặp gỡ anh mình. Khi Dương Văn Minh lưu vong ở Thái Lan, ông Mười Tỵ cũng được bố trí sang Thái Lan qua ngả Campuchia. Ông đến Nam Vang, sống trong nhà một Hoa kiều. Tại đó, trong vòng một tháng, ông vừa học bằng sách vở, vừa thực tập giao tiếp để nói tiếng Hoa để nhập vai người đi buôn. Có khi từ Nam Vang ông phải bay lòng vòng sang Ý, rồi từ Ý được cơ sở Việt kiều đón về Pháp để móc nối chị dâu (vợ của Tướng Minh) từ Thái Lan qua liên lạc”. 
Bài báo viết thêm:“Kể từ 1972, bộ đội bắt đầu mở nhiều trận đánh lớn, nên Mười Tỵ được lệnh không ra vùng địch và ra nước ngoài nữa vì “sợ rủi ro làm hỏng ý đồ chiến lược”, nên việc móc nối với Dương Văn Minh được giao cho Nguyễn Hữu Hạnh.”

TÊN ĐAO PHỦ DƯƠNG VĂN MINH


Biết Tướng Dương Văn Minh đang bất mãn với ông Diệm nên CIA thuyết phục ông ta làm đảo chánh lật đổ ông Diệm. Dương Văn Minh đồng ý ngay. Trên danh nghĩa, ông ta là người chỉ huy cuộc đảo chánh, nhưng bên trong CIA chỉ giao cho ông ta một nhiệm vụ duy nhất là thanh toán nhà Ngô. Còn việc lập kế hoạch và chỉ huy cuộc đảo chánh được trao cho Tướng Trần Thiện Khiêm.

Như chúng tôi đã nói trong số báo tuần trước, trong cuốn“The Secret History of the CIA” của Joseph J. Trento mới xuất bản (2005) có ghi lại cuộc phỏng vấn ông William R. Corson, một nhân viên CIA cao cấp tại Sài Gòn năm 1963. Ông Corson cho biết: 
“Các lệnh đưa đến cái chết của ông Diệm và bào đệ của ông ta phát xuất từ Harriman và được phụ tá quân sự của Cabot Lodge thực hiện.” 
Harriman đã điều khiển vấn đề Việt Nam không hỏi ý kiến của Tổng Thống và ông Robert Kennedy, Bộ Trưởng Tư Pháp.

Phụ tá quân sự của Cabot Lodge được ông Corson nói ở đây không ai khác hơn là Lucien Conein.

Trong công điện ngày 5.10.1963 gởi về Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, Đại Sứ Cabot Lodge đã dành một đoạn để đề cập đến những người bị coi là nguy hiểm nhất ở miền Nam cần phải thanh toán. Dương Văn Minh cho ông biết có ba người nguy hiểm nhất là Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn và Dương Văn Hiếu (người chỉ huy theo dõi vụ Dương Văn Minh liên lạc với Việt Cộng). Nhưng Lucien Conein luu ý rằng Lê Quang Tung đáng sợ hơn. Với nhận định như thế, ngoài Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Lodge thấy rắng cần phải giết thêm ba người nữa là ông Ngô Đình Nhu, ông Ngô Đình Cẩn và Đại Tá Lê Quang Tung. Lê Quang Triệu không có tên trong sổ đen, nhưng đem mạng tới nạp nên bị Dương Văn Minh ra lệnh giết luôn!

Khi cuộc đảo chánh xẩy ra, Lucien Conein đến ngồi ở ghế của Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham Mưu Trưởng, hai chân gác lên bàn để điều khiển, bên cạnh là khẩu Magnum 44, dưới chân bàn là hai xách tay trong đựng sáu triệu đồng bạc Việt Nam.

Trong cuốn “Việt Nam Nhân Chứng”, Tướng Trần Văn Đôn cho biết khi hay tin ông Diệm đã ra khỏi Dinh Gia Long, Lucien Conein, đã nói với các tướng đảo chánh bằng tiếng Pháp:
 “On ne fait pas d'omelette sans casser les oeufs.” [Người ta không thể làm món trứng rán mà không đập bể những cái trứng.] (tr.228). Ông ta ra lệnh phải bắt lại bằng mọi giá.

Khi được ông Diệm báo tin đang ở nhà thờ cha Tam, Dương Văn Minh đã cho lập “toán hành quyết” đi đón và giết ông Diệm và ông Nhu. Toán này gồm có Đại Tá Mai Hữu Xuân, Đại Tá Nguyễn Văn Quan, Đại Úy Nguyễn Văn Nhung, Đại Úy Phan Hòa Hiệp và Đại Úy Dương Hiếu Nghĩa (chúng tôi sẽ nói về toán hành quyết này vào một dịp khác). Khi xác ông Diệm đưa về Tổng Tham Mưu, một quân cảnh cho biết chính mắt ông ta thấy Tướng Dương Văn Minh đã xuống lột quần ông Diệm ra xem có “chim” hay không.
Tướng Trần Văn Đôn cho biết khi hay tin hai ông đã chết, ông rất xúc động và đến hỏi Dương Văn Minh:

- Tại sao hai ông ấy chết? 
Ông Minh có vẽ khó chịu, trả lời bằng tiếng Pháp: 
- Ils sont morts! Ils sont morts! (Mấy ông ấy chết rồi, thì chết rồi) (tr. 231)Hôm sau, phái đoàn các tướng đảo chánh đến trình diện Quan Thái Thú Cabot Lodge. Ông Lodge cười hoan hĩ và nói: C’est formidable! C’est magnifique! (Thật là tuyệt vời!).Đảo chánh xong, ông Võ Văn Hải đem tiền bạc trong Dinh Gia Long bàn giao cho Đại Úy Đặng Văn Hoa, Chánh Văn Phòng của Tướng Trần Văn Đôn là 2.390.000$ và 6.297 dollars trước sự chứng kiến của ông Quách Tồng Đức. Tướng Dương Văn Minh đã bỏ túi 6.297 dollars, phần còn lại dành cho Tướng Trần Thiện Khiêm.

Ngày 26.5.1964, Đại Sứ Cabot Lodge có gởi cho Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ một văn thư, trong đó có đoạn trình như sau:

“Tướng Khánh nói với tôi ngày 25 tháng 5 rằng khi ông Diệm bị bắn ông ta có trong tay một cái cặp chứa một triệu đô la ‘loại tiền lớn nhất”. Khánh nói rằng Tướng Minh đã lấy cái cặp đó và chưa bao giờ giao nộp. Khánh nói thêm rằng cũng trong thời gian đó, Tướng Minh đã chiếm đoạt 40 kg vàng thoi.

“Tôi khuyên Khánh không nên công bố chuyện đó ra cho dân chúng biết để khỏi làm giảm sự tin tưởng của dân chúng vào các tướng lãnh. Tôi hy vọng Tướng Minh sẽ ra đi một cách thầm lặng.” 

Rất khó mà biết được thực hư như thế nào!

BỊ ĐƯA RA LÀM HÀNG TƯỚNG

Vào tháng 4 năm 1975, Hoa Kỳ thấy tình hình miền Nam Việt Nam không còn cứu vãn được, nên đã sắp xếp cho miền Nam đầu hàng Bắc Việt. Biết Tướng Dương Văn Minh có liên lạc với Việt Cộng, Đại Sứ Martin của Mỹ đã phối hợp với Đại Sứ Merillon của Pháp thuyết phục Tướng Thiệu từ chức và lừa Tướng Dương Văn Minh ra làm hàng tướng bằng cách tạo cho ông một ảo vọng rằng chỉ có ông mới có thể nói chuyện với “phía bên kia” để hình thành một chính phủ liên hiệp Quốc – Cộng!

Trong cuốn Decent Interval, Frank Snepp nói rằng tại miền Nam lúc đó, không ai tin Hà Nội có thể chấp nhận một giải pháp khi họ đang trên đà chiến thắng. Ông Vũ Văn Mẫu cũng đã nhận ra được điều đó nên khi gặp Đại Sứ Merillon, ông đã nói với ông Đại Sứ bằng tiếng Latin rằng nếu giải pháp một chính phủ liên hiệp không thành thì xin giúp ông được ra đi.

Sau khi ép buộc Tướng Nguyễn Văn Thiệu từ chức Tổng Thống, Mỹ thúc đẩy Phó Tổng Thống Trần Văn Hương trao quyền lại cho Tướng Dương Văn Minh để đầu hàng Việt Cộng. Ông Trần Văn Hương không hay biết chuyện đó nên tìm cách cù cưa, nhưng cuối cũng cũng phải chấp nhận.

Chiều ngày 28.4.1975, Đô Đốc Chung Tấn Cang, Tư Lệnh Hải Quân, vào Dinh Hoa Lan gặp Tướng Minh cho biết tình hình và hỏi Tướng Minh có định ra đi không. Tướng Minh cho con gái là Dương Mai, con rễ là Đại Tá Nguyễn Hồng Đài và hai cháu ngoại lên tàu di tản với Đô đốc Cang, còn ông và bà Minh ở lại.

Đêm 29.4.1975, Tướng Minh vào ngũ trong Dinh Độc Lập để tránh pháo kích. Lúc đó, ông chỉ còn hy vọng Thượng Tọa Thích Trí Quang, người hứa sẽ đưa người “phía bên kia” đến thương lượng để thành lập chính phủ liên hiệp. Nhưng lúc 5 giờ 15 sáng ngày 30.4.1975, Thích Trí Quang đã nói với Dương Văn Minh qua điện thoại:

“Thưa Tổng Thống, cũng như Tổng Thống là tôi vẫn chờ đến giờ nầy và theo tôi nghĩ có lẽ với tình thề hiện tại, trong sứ mạng của tôi, người đứng trung gian bắc nhịp cầu của thế cờ chính trị, có thể nói là chấm dứt. Với trọng trách là Tổng Thống, hơn nữa là một Đại Tướng, tôi nghĩ công việc phải nhờ vào tài quân sự của Đại Tướng, chứ giải pháp chính trị của tôi coi như chấm dứt, và từ giờ phút này nếu có chuyện gì xẩy đến thì mọi trách nhiệm đều do Tổng Thống, à quên Đại Tướng quyết định với giải pháp quân sự, mà trong lãnh vực này Đại Tướng rất rành và giỏi hơn tôi. Xin chào Tổng Thống...” 
Dương Văn Minh chỉ trả lời gọn một câu: “Thầy giết tôi rồi!” và cúp máy điện thoại.

Lúc 11 giờ 30 sáng ngày 30.4.1975, khi thấy không còn gì để hy vọng nữa, Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Chiếc xe tăng Cộng Sản đầu tiên loại T-54 tiến trên đại lộ Thống Nhứt về phía Dinh Độc Lập, ủi sập cổng, sau khi bắn hai phát đại bác long trời lở đất. Tiếng chân chạy ồn ào trong đại sảnh, có tiếng đạn lên nòng, một khẩu lệnh vang lên:
 “Mọi người đi ra khỏi phòng ngay!” 
Dương Văn Minh là người bước ra đầu tiên, Thiếu Tá tùy viên Hoa Hải Đường đi bên cạnh, phía sau là Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Văn Huyền...

Nhiều bộ đội ở đầu kia đại sảnh hét to:
 “Mọi người giơ hai tay lên!”. 
Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu và đoàn tùy tùng nhất loạt tuân lệnh. Tính lại, Dương Văn Minh đã làm Tổng Thống được 40 tiếng đồng hồ!

Năm 1983 Dương Văn Minh đã được đi định cư ở Pháp và sống với hai người con trai là Dương Minh Đức và Dương Minh Tâm. Khoảng năm 1988, ông đã lén qua Pasadena, Nam California, Hoa Kỷ và sống với con gái là Dương Mai đang định cư ở đó.

Ngày 5.8.2001, ông bị té từ xe lăn, được đưa vào bệnh viện Huntington Memorial Hospital và qua đời ngày hôm sau, hưởng thọ 86 tuổi. Linh cữu ông cũng được phủ cờ vàng ba sọc đỏ, được di chuyển lên xe bởi 6 người thân gồm các ông Hoa Hải Đường, Nguyễn Hồng Đài, Trịnh Bá Lộc, Hoa Hải Thọ, Ngô Long, Nguyễn Trí Dũng. Sau đó, linh cửu đã được hoả thiêu trưa thứ bảy 18.8.2001 vào lúc 12 giờ tại vãng sanh đường Skyrose thuộc nghĩa trang Rose Hill, Nam California.

Bây giờ ở dưới tầng Naraca, có lẽ Dương Văn Minh đang bị bắt ngồi đếm lại vàng

No comments:

Post a Comment