Trong
số 11 vị tướng lãnh trên chỉ có TrT Lữ Lan và Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ
Thoại còn tại thế, 9 vị còn lại đã qua đời (năm mất trong dấu ngoặc)
Theo Wikipedia, Quân Lực VNCH có 173 vị tướng từ cấp thống tướng đến chuẩn tướng.
Theo
tài liệu lưu giữ tại Viện Bảo Tàng Việt Nam ở San Jose, vào tháng 4 năm
1975, VNCH có 112 tướng lãnh trong số có 80 vị đã rời khỏi Việt Nam khi
Cộng Sản chiếm Saigon.
Theo
sự tìm hiểu của chúng tôi, nếu không kể vị Thống Tướng duy nhất là Lê
Văn Tỵ đã mất năm 1964, các tướng lãnh đã mất vì già yếu, vì tử trận
(7), các tướng đã hồi hưu
hay giải ngũ thì vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, VNCH có 107 tướng tại
ngũ được liệt kê như sau:
Cần
chú thích thêm là ngoài 29 tướng bị đi cải tạo còn có thêm 9 vị tướng
hồi hưu hay giải ngũ cũng bị cộng sản bắt đi cải tạo, như vậy số tướng
lãnh bị bắt đi cải tạo
là 38 vị.
Ngoài
ra, trong số tướng giải ngũ có một tướng thân cận với Dương Văn Minh đã
bị TT Thiệu cho giải ngũ, nhưng lại là một tên cộng sản nằm vùng, bí
danh là S7, được Dương
Văn Minh cho tái ngũ ngày 28/4/1975 là chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh.
Những
vị tướng tuẫn tiết
1- Thiếu Tướng Phạm Văn Phú,
Tư Lệnh Quân
Đoàn 2, Quân Khu 2, tự sát bằng thuốc độc ngày 29 tháng 4, được gia
đình đưa vào nhà thương Grall và chết vào trưa ngày 30 tháng 4 sau khi
được biết Dương Văn Minh vừa tuyên bố đầu hàng.
2- Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam,
Tư Lệnh
Quân Đoàn 4, Quân Khu 4, tự sát tại Bộ Tư Lệnh QĐ rạng sáng ngày 1
tháng 5 sau khi thăm các chiến hữu thương binh ở Quân Y Viện Phan Thanh
Giản Cần Thơ.
3- Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó
Quân Đoàn 4, Quân Khu 4, tự sát tại Bộ Tư Lệnh QĐ tối ngày 30 tháng 4 sau khi nói lời vĩnh biệt với vợ và con.
4- Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Sư
Đoàn 5 BB, tự sát tại Bô Tư Lệnh ở Lai Khê trưa 30 tháng 4 sau khi dùng bữa cơm cuối cùng với chiến hữu.
5- Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Tư Lệnh Sư
Đoàn 7 BB, tự tử ở Căn cứ Đồng Tâm (Mỹ Tho) chiều ngày 30 tháng 4.
Những
vị tướng di tản
Trong
số 11 vị tướng lãnh trên chỉ có TrT Lữ Lan và Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ
Thoại còn tại thế, 9 vị còn lại đã qua đời (năm mất trong dấu ngoặc)
Từ
ngày 25 đến 30 tháng tư, một số tướng lãnh đã bắt đầu rời Việt Nam,
hoặc nhờ phương tiện của Mỹ, hoặc nhờ tàu và phi cơ của VNCH rời VN đến
Đệ Thất Hạm Đội hay những
căn cứ của Mỹ ở Thái Bình Dương rồi từ đó được di tản đến các trại tiếp
cư trên đất Mỹ, một vài vị sau đó đi Canada hay Pháp, trừ Tổng Thống
Thiệu đi Anh Quốc.
Hai vị tướng rời VN sớm nhất là Tổng Thống Thiệu và Thủ Tướng Khiêm
– Trung Tướng Nguyễn văn Thiệu, Tổng Thống kiêm Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà từ chức ngày 21-4-1975,
– Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm, Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng từ chức vào thượng tuần tháng tư 1975, rời Việt
Nam cùng lúc với TT Nguyễn văn Thiệu.
Danh sách các vị tướng di tản (Chức vụ ghi là chức
vụ sau cùng)
Cấp Đại Tướng
1- Cao văn Viên,
Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH.
2- Trần Thiện Khiêm.
Cấp Trung Tướng
1- Nguyễn Văn Thiệu.
2- Chung Tấn Cang (Phó
Đô Đốc), Tư Lệnh Hải Quân...
3- Phan Trọng Chinh,
Chỉ Huy Trưởng trường Chỉ Huy &Tham Mưu.
4- Trần Văn Đôn,
Phó Thủ Tướng nội các Nguyễn Bá Cẩn, rời VN qua Pháp.
5- Dư Quốc Đống,
Tư Lệnh Quân Đoàn III.
6- Cao Hảo Hớn,
Tổng Trưởng Chương Trình Phát Triển và Bình Định.
7- Lê Nguyên Khang,
Phụ Tá Hành Quân bộ Tổng Tham Mưu.
8- Ðồng văn Khuyên,
Tham Mưu Trưởng bộ Tổng Tham Mưu, Tổng Cục Trưởng Tiếp Vận.
9- Lữ Lan (Lữ Mộng
Lan), Chỉ Huy Trưởng trường Cao Đẳng Quốc Phòng.
10- Hoàng Xuân Lãm,
Phụ Tá Tổng Trưởng Quốc Phòng.
11- Vĩnh Lộc,
nhận chức Tổng Tham Mưu Trưởng lúc 3giờ chiều ngày 29 rồi sáng 30 ra đi cùng với Trung Tướng Trần Văn Trung.
12- Nguyễn Văn Mạnh, TTM
phó đặc trách Địa phương quân và Nghĩa quân.
13- Nguyễn văn Minh, (Minh
đờn vì đờn guitare rất hay), Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Ðô.
14- Trần Văn Minh, (Minh
nhỏ, hay Minh Lục quân, còn Minh lớn là Trung Tướng Dương văn Minh), Cựu Tổng Tham Mưu Trưởng, Đai sứ tại Tunisie, Tchad, sang Nice (Pháp).
15- Trần Văn Minh, (Minh
đen), Tư Lệnh Không Quân.
Chú
thích : VNCH có 4 tướng đều có tên Minh nên để dễ phân biệt, mỗi vị được gọi tên với một “biệt danh”.
16- Ðặng văn Quang, Phụ
Tá An Ninh Quốc Gia Phủ Tổng Thống. Lúc đầu đến Montréal, rồi sau sang Mỹ.
17- Trần Ngọc Tám,
Cựu Đại Sứ VNCH tại Thái Lan.
18- Lâm Quang Thi, Tư
Lệnh Phó Quân Ðoàn 1 & QK 1.
19- Nguyễn Xuân
Thịnh, Tư Lệnh Binh Chủng Pháo Binh.
20- Phạm Quốc Thuần, Chỉ
huy Trưởng Trường Sĩ Quan Đồng Đế, Nha Trang.
21- Nguyễn văn Toàn, Tư
Lệnh Quân Ðoàn 2, rồi Quân Đoàn 3 kiêm Tư Lệnh Binh chủng Thiết Giáp.
22- Trần văn Trung, Tổng
Cục Trưởng Chiến Tranh Chính Trị, đến Mỹ rồi sau sang Pháp.
23- Ngô Quang Trưởng, Tư
Lệnh Quân Ðoàn 1, Quân Khu 1.
24- Ngô Dzu, Trưởng
đoàn Quân Sự 4 bên tại Trại Davis, Tân Sơn Nhứt.
Cấp Thiếu Tướng
1- Nguyễn Cao Kỳ, Cựu
Tư Lệnh Không Quân, Cựu Phó Tổng Thống.
2- Đào Duy Ân, Tư
Lệnh Phó Diện Địa Quân Đoàn III.
3- Nguyễn Khắc Bình, Tư
Lệnh Cảnh Sát kiêm Ðặc Uỷ Trưởng Tình Báo.
4- Võ văn Cảnh, Phụ
Tá Tổng Trưởng Nội Vụ.
5- Bùi Đình Đạm, Tổng
Giám Đốc Tổng Nha Nhân Lực Bộ Quốc Phòng.
6- Nguyễn Duy Hinh, Tư
Lệnh Sư Đoàn 3 BB.
7- Hoàng Văn Lạc, Tư
Lệnh Phó Quân Khu 1.
8- Võ xuân Lành,
Tư Lệnh Phó Không Quân.
9- Bùi Thế Lân,
Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến.
10- Nguyễn Ngọc
Loan, Chánh Thanh Tra Bộ Quốc Phòng.
11- Phan Đình Niệm,
Tư Lệnh Sư Đoàn 22 BB.
12- Lâm Ngươn Tánh (Hải
Hàm Đề Đốc), Phụ Tá Quốc Vụ Khanh đặc trách cứu trợ đồng bào di cư Miền Trung.
13- Lâm Quang Thơ, Chỉ
Huy trưởng trường Võ Bị Đà Lạt.
14- Lê Ngọc Triển, Tham
Mưu Phó Hành Quân, Bộ TTM (4/1975).
15- Chương Dzềnh
Quay, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn IV...
Cấp Chuẩn Tướng
1- Trương Bảy, Phụ
Tá Tư Lệnh Cảnh Sát đặc biệt.
2- Nguyễn Chấn, Cục
Công Binh, Biệt phái Phụ Tá Tổng Trưởng Canh Nông.
3- Nguyễn Thanh
Châu (Phó Đề Đốc), Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân, Nha Trang.
4- Nguyễn Hữu Chí (Phó
Đề Đốc), Phụ tá Tư Lệnh Hành Quân Lưu Động Biển.
5- Nguyễn Văn Chức, Tổng
Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận (4/1975).
6- Vũ Đình Đào (Phó
Đề Đốc), Tư Lệnh Vùng 3 Duyên Hải.
7- Đinh Mạnh Hùng (Phó
Đề Đốc), Phụ Tá Tư Lệnh Hành Quân Lưu Động Sông.
8- Hoàng Cơ Minh (Phó
Đề Đốc), Tư Lệnh Vùng 2 Duyên Hải.
9- Nghiêm Văn Phú (Phó
Đề Đốc), Tư Lệnh Lực Lượng Tuần Thám 212.
10- Đặng Cao Thăng (Phó
Đề Đốc), Tư Lệnh Hải Quân Vùng 4 Sông ngòi.
11- Hồ Văn Kỳ Thoại (Phó
Đề Đốc) Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải.
12- Diệp Quang Thủy (Phó
Đề Đốc), Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Hải Quân.
13- Từ Văn Bê,
Chỉ Huy Trưởng Tiếp vận và Kỹ Thuật KQ.
14- Võ Dinh,
Chỉ Huy Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu KQ.
15- Nguyễn Đức Khánh, Tư
Lệnh Sư Đoàn 1 KQ, định cư ở Montréal.
16 – Đặng Đình Linh, Tham
mưu phó Kỹ Thuật và Tiếp Vận Không Quân.
17- Nguyễn Văn Lượng,
Tư Lệnh Sư Đoàn 2 KQ.
18- Nguyễn Ngọc
Oánh, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện KQ.
19- Nguyễn Hữu Tẩn,
Tư Lệnh Sư Đoàn 4 KQ, được Dương Văn Minh cử quyền Tư Lệnh Không Quân ngày 29/4/1975.
20- Phan Phụng Tiên, Tư
Lệnh Sư Đoàn 5 KQ.
21- Huỳnh Bá Tính, Tư
Lệnh Sư Đoàn 3 KQ.
22- Nguyễn Văn Giàu (Đại
tá BB), biệt phái qua Bộ Nội Vụ thăng cấp Chuẩn Tướng Tư Lệnh Cảnh Lực.
23- Phan Hòa Hiệp,
Trưởng Đoàn LHQS 2 bên.
24- Lê Quang Lưỡng, Tư
Lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù.
25- Vũ Đức Lượng, Cục
Trưởng Cục An Ninh Quân Đội.
26- Ðổ Kiến Nhiễu,
Ðô Trưởng Sài Gòn.
27- Phạm Hữu Nhơn, Trưởng
Phòng 7 Bộ TTM.
28- Trần văn Nhựt, Tư
Lệnh Sư Ðoàn 2 Bộ Binh.
29- Huỳnh Thới Tây, (Đại
tá BB), biệt phái qua Bộ Nội Vụ thăng cấp Chuẩn Tướng Tư Lệnh Đặc Cảnh Trung Ương.
30- Trần Đình Thọ,
Trưởng Phòng 3, Bộ TTM.
31- Trang Sĩ Tấn (đồng
hóa Chuẩn Tướng), Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Đô Thành.
Những
Vị Tướng bị Cộng Sản bắt đi “học tập cải tạo”
Số tướng lãnh bị đi học tập cải tạo gồm các tướng lãnh không muốn đi hay bị kẹt lai.
Một số tướng đã giải ngũ cũng bị đi “cải tạo” (có ghi chữ Cựu).
Một số tướng đã
bị giam trong khám Chí Hòa thời VNCH vì nghi án tham nhũng hay lý do
chính tri bị tiếp tục cải tạo dưới thời cộng sản. Thời gian học tập cải
tạo từ vài năm đến 17 năm. Có 8 vị bị 17 năm (từ số 1 đến số 8). Duy
nhất có Cựu Trung Tướng Nguyễn Văn Vỹ chỉ học
tập có 6 tháng.
Những vị bị cải tạo 17
năm (1975 -1992)
1- Thiếu Tướng Trần
Bá Di, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung.
2- Thiếu Tướng Lê Minh
Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 BB...
3- Thiếu Tướng Đỗ Kế
Giai, Chỉ Huy Trưởng Binh chủng Biệt Động Quân.
4- Chuẩn Tướng Trần
Quang Khôi, Tư Lệnh Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh.
5- Chuẩn Tướng Phạm
Ngoc Sang, Tư Lệnh Không Đoàn 6, bị CS bắt khi thua trận ở Phan Rang cùng với Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi.
6- Chuẩn Tướng Phạm
Duy Tất, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân Quân Khu 2, Chỉ huy cuộc hành quân rút lui bỏ các tỉnh vùng Cao Nguyên tháng 3, 1975.
7- Chuẩn Tướng Lê Văn
Thân, Tư Lệnh phó lãnh thổ Quân khu 2.
8- Chuẩn Tướng Mạch
văn Trường, Tư Lệnh Sư Đoàn 21 BB.
Những vị bị cải tạo
12-13 năm (được thả năm 1987,1988)
9- Trung Tướng Nguyễn
Vĩnh Nghi: Bị tai tiếng tham nhũng ở Quân đoàn 4, ông phải bàn
giao chức vụ cho Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đi nhận chức Chỉ Huy Trường
Bộ Binh Thủ Đức. Cuối tháng 3, 1975, Khi QĐ 2 bị tan rã, TT Thiệu cử
ông làm Tư Lệnh phó QĐ 3 kiêm Tư Lệnh Tiền Phương
QĐ đặc trách giữ phòng tuyến Phan Rang, nhưng sau cùng Phan Rang cũng
bị chiếm và ông bị địch bắt. Ông là tướng lãnh có cấp bậc cao nhất bị
bắt tại chiến trường.
10- Trung Tướng
Nguyễn Hữu Có, đã giải ngũ năm 1967, tuy là cựu thù
với ĐT Dương Văn Minh, nhưng lại tái ngũ ngày 28/4/1975 làm Cố Vấn cho
Tướng DVM. Bị đi cải tạo 12 năm, nhưng khi được thả lại hoạt động cho
Mặt Trận Tổ Quốc, cơ quan ngoại vi của cộng
sản.
11- Trung Tướng
Lâm Văn Phát, cùng thời với các tướng Trần Thiện Khiêm, Dương
văn Đức, Nguyễn Khánh, tham gia đảo chánh 4 lần, bị tước hết cấp bậc, bị
gìải ngũ năm 1965. Ngày 28/4/1075, Dương Văn Minh thăng cấp Trung Tướng
cử ông làm Tư Lệnh Biệt Khu Thủ đô thay tướng
Nguyễn Văn Minh vừa đào nhiệm.
12- Thiếu Tướng
Nguyễn Xuân Trang, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh, sau biệt phái qua Bộ Ngoại Giao Phụ tá Ngoại Trưởng Trần Văn Lắm.
13- Thiếu Tướng
Nguyễn Chấn Á, người Việt gốc Hoa, Thiếu Tướng của quân đội
Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), Gia nhập Quân Lực VNCH, ông được giữ
nguyên chức vụ. Chỉ Huy Trưởng Quân Cảnh, Cố Vấn Tổng Cục Chiến Tranh
Chính Trị.
14- Thiếu Tướng
Văn Thành Cao (Cao Đài) hợp tác với chính phủ Ngô Đình Diệm được phong Thiếu Tướng (1955) Tổng Cục Phó Chiến Tranh Chính Trị.
15- Thiếu Tướng
Đoàn Văn Quảng, Phụ Tá Tổng Tham Mưu Trưởng, chết trong trại giam Nam Hà, Hà Nam Ninh vì bịnh không thuốc men năm 1984.
16- Chuẩn Tướng
Lý tòng Bá, Tư Lệnh Sư Ðoàn 25 Bộ Binh.
17- Chuẩn Tướng
Vũ Văn Giai, bị cách chức Tư Lệnh Sư Đoàn 3 BB hồi tháng 5 năm
1972, bị kết tội 5 năm tù vì thua trận Quảng Trị, bị giam trong Khám Chí
Hoà . Khi CS vào Saigon ông bị đi cải tạo từ Nam ra Bắc đến năm 1987
mới được thả.
18- Chuẩn Tướng
Lê Văn Tư, cựu Tư Lệnh SĐ 25BB, bị tạm giam trong Khám Chí Hòa năm 1974 vì nghi án buôn lậu trong quân đội, bị đi tù từ Nam ra Bắc 13 năm.
19- Chuẩn Tướng
Trần Quốc Lịch, Chánh Thanh Tra QĐ 4, bị giam trong Khám Chí Hòa năm 1974 vì nghi can buôn lậu trong quân đội, bị tù từ Nam ra Bắc 13 năm.
20- Chuẩn Tướng
Hồ Trung Hậu, Binh Chủng Nhảy Dù, Chánh Thanh Tra QĐ 3. Sau khi được thả, ông ở lại VN.
21- Chuẩn Tướng
Trần văn Cẩm, Tư Lệnh Phó, Quân Ðoàn 2, bị CS bắt làm tù binh tại Tuy Hòa.
22- Chuẩn Tướng
Lê Trung Tường, Tham Mưu Trưởng Quân Ðoàn 3, QK3.
23- Chuẩn Tướng
Lê Trung Trực, Phụ Tá Trung Tướng Đặng Văn Quang.
24- Chuẩn Tướng
Lý Bá Hỷ, Phó Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô, 13 năm tù, sau định cư ở Pháp.
25- Chuẩn Tướng
Huỳnh văn Lạc, Tư Lệnh Sư Ðoàn 9 Bộ Binh.
26- Chuẩn Tướng
Chung Tấn Phát, Chánh Văn Phòng Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu.
27- Chuẩn Tướng
Bùi Văn Nhu, Tư Lệnh Phó Cảnh Sát Quốc Gia, chết trong trại giam Nam Hà, Hà Nam Ninh năm 1984 vì bịnh thiếu thuốc men.
Những vị bị cải tạo
dưới 5 năm
28- Thiếu Tướng
Quân Y sĩ Vũ Ngọc Hoàn, bị lưu đày từ Nam ra Bắc đến năm 1980.
29- Chuẩn Tướng
Quân Y sĩ Phạm Hà Thanh, bị cầm tù đến năm 1977.
Những vị cựu tướng
lãnh vẫn bị đi tù
30- Cựu Trung Tướng
Lâm Thành Nguyên (tự Hai Ngoán), chỉ huy Lực Lượng
Hòa Hảo được Bảo Đại thăng cấp Đại Tá, rồi Thiếu Tướng và Ngô Đình Diệm
đồng hóa Trung Tướng khi về hợp tác với chánh phủ VNCH, Năm 1955, ông
được giải ngũ nhưng vẫn là lãnh tụ của giáo
phái Hòa Hảo. Năm 1975, ông bị CS bắt giam tại Khám Chí Hòa và chết tại
đây năm 1977.
31- Cựu Trung Tướng
Dương Văn Đức, được Quốc Trưởng Ngô Đình Diệm thăng Thiếu Tướng
năm 1956, lúc ông mới 31 tuổi là người trẻ tuổi nhất được thăng cấp
tướng. Bất bình với TT Diệm, ông từ chức, sau ông làm Chỉnh Lý với
Nguyễn Khánh, ông được thăng Trung Tướng, được cử
làm Tư lệnh Quân Đoàn IV.
Ông bị buộc giải ngũ năm 1964, mắc bịnh tâm thần luôn nhục mạ cấp lãnh đạo. Bị CS bắt đi cải
tạo từ Nam ra Bắc đến năm 1987, ở lại VN sau khi được thả.
32- Cựu Trung Tướng
Lê Văn Kim, giải ngũ năm 1965 cùng 2 tướng Mai Hữu Xuân và Trần
Văn Đôn lập ra công ty xuất nhập cảng DOXUKI, bị CS bắt đi cải tạo đến
năm 1982.
33- Cựu Trung Tướng
Nguyễn Văn Vỹ, Tổng Trưởng Quốc Phòng, giải ngũ năm 1973. Bị CS
bắt lúc ông bị trọng bịnh và bị quản thúc ở nhà thương St- Paul cho đến
năm 1979, được thả nhờ sự can thiệp của Thứ trưởng Quốc Phòng Pháp. Đó
là thông tin trên Wikipedia.
Nhưng Huy Đức, trong «Bên Thắng Cuộc» viết rõ hơn : «Vừa
được thả về cuối năm 1975, Tướng Vỹ phát biểu: Chúng
tôi ăn cơm ngon hơn bộ đội. Tôi mong những người có thân nhân đi học tập
cải tạo hãy yên lòng và tin tướng cách mạng, đừng tin những lời đồn vô
căn cứ. Tướng Nguyễn Văn Vỹ là người mà ngày
hôm đầu ra trình diện đã phát biểu: Tôi hiểu rõ quân đội trong nầy lắm,
tệ lắm, xấu lắm, và mấy ngày hôm nay thấy rõ bộ đội cách mạng rất kỹ
luật, chững chạc, đàng hoàng. Anh em vào nhà tôi ở cầu Thị Nghè không hề
bị mất mát gì hết. Cách mạng vào yên ổn, thanh
bình ngay, ai cũng yên tâm và sung sướng…» (ngưng
trích). (Bên Thắng Cuộc, q. 1, tr. 41). Có thế nào một Trung Tướng VNCH
tồi tệ như vậy mà Huy Đức căn cứ vào báo Saigon Giải
Phóng để nhục mạ tướng lãnh VN hay thực sự tồi tệ như vậy để được cộng
sản trả ơn cho xuất cảnh sang Pháp năm 1979.?
34- Cựu Thiếu Tướng
(Đề Đốc Hải Quân) Trần Văn Chơn, giải ngũ 1974, là tướng hải quân duy nhất không di tản. Bị giam từ Nam ra Bắc cho đến năm 1987.
35- Cựu Thiếu Tướng
Nguyễn Thanh Sằng, giải ngũ năm 1973, bị cầm tù đến năm 1987.
36- Cựu Thiếu Tướng
Huỳnh Văn Cao, giải ngũ năm 1966 vì Biến Động Miền Trung. Thượng Nghị Sĩ 1967- 1975. Đi cải tạo từ Nam ra Bắc đến 1987.
37- Cựu Chuẩn Tướng
Phan Ðình Thứ (tự Lam Sơn), Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Đặc Biệt,
bị tù năm 1972 vì bắn chết môt trung sĩ người Thượng, bị buộc giải ngũ
năm 1973. Ông trải qua 13 năm tù từ Nam đến Bắc.
38- Cựu Chuẩn Tướng
Phan Xuân Nhuận, Tư Lệnh SĐ 1 BB, bị giáng chức thành Đại Tá và
bị giải ngũ vì Biến Động Miền Trung năm 1966. Bị giam ở Hoàng Liên Sơn
đến năm 1987
Là
Cộng sản nằm vùng mang bí danh S7, lại là thân cận của tướng Dương Văn
Minh, Tổng Thống Thiệu cho ông về hưu tháng 5, 1974 cốt để cắt vây cánh
của ông Minh, lúc ấy ông là Chánh Thanh Tra Quân Đoàn I làm Phụ Tá cho
tân Tổng Tham Mưu Trưởng là tướng Vĩnh Lộc, nhưng hôm sau, tướng Vĩnh
Lộc di tản, ông thay thế Vĩnh Lộc. Chính ông là người ra nhật lệnh yêu
cầu quân đội VNCH buông súng. Vì có công với
Việt Cộng, ông không phải đi cải tạo, nhưng không có chức vụ gì ngoài
việc được cho làm Ủy viên Mặt Trận tổ Quốc VN, sống nghèo khổ ở làng Bến
Tranh (Mỹ Tho) trong một nghĩa địa cho tới ngày mất (29/9/2019).
Lâm
Vĩnh Bình
15/03/2020
15/03/2020
No comments:
Post a Comment