Trong
binh chủng Thủy Quân Lục Chiến, khi nói đến các Tiểu đoàn, chúng ta
thường hình dung một địa danh gắn liền như Tiểu đoàn 1 với Đầm Dơi,
Tiểu đoàn 2 với Tam Quan-Bồng Sơn, Tiểu đoàn 3 với Ba Gia, Tiểu đoàn
4 với Bình Giả... Cũng như trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, khi
nhắc đến binh chủng Mũ Xanh oai hùng Thủy Quân Lục Chiến thì từ quân
đội cho đến dân chúng, ai cũng nghĩ đến chiến thắng Quảng Trị. Bởi
vì ở những địa danh ấy, các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến đã để lại
những chiến tích lừng lẫy. Tuy nhiên họ cũng gởi lại nơi đó những kỷ
niệm anh dũng có, thương đau có, kèm theo những mất mát không thể
tránh được khi giao tranh đụng độ giữa lằn tên mũi đạn.
Cuộc đời binh
nghiệp của tôi cũng vậy, gắn liền với 2 đơn vị: Tiểu đoàn 4 Kình Ngư
và Tiểu đoàn 5 Hắc Long. ở Tiểu đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến, tôi từ
một thư sinh tốt nghiệp Sĩ quan Đà Lạt bước vào đời lính ở đó. Tiểu
đoàn 4 như một bà mẹ, đã dẫn dắt tôi, hướng dẫn tôi từng bước một,
từ Trung đội trưởng, Đại đội phó, rồi Đại đội trưởng với những kinh
nghiệm thực tiễn. Sau 8 năm sương gió, tôi rời Tiểu đoàn 4 với lòng
tự tin của một kẻ trưởng thành, về làm Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 5 Hắc
Long để hướng dẫn các Đại đội đối đầu với địch trong một trận chiến
ngày càng khốc liệt, gian nan và nguy hiểm hơn. Đã từng một thời gắn
liền với Tiểu đoàn 4 nên tôi không thể nào quên được trận chiến Bình
Giả, nơi các chiến sĩ Kình Ngư đã phải đổ bao mồ hôi, máu và nước
mắt để đem lại chiến thắng vang danh này.
Chúng tôi gồm:
Võ Thành Kháng Thiếu úy Thủ khoa khóa 19 Đà Lạt, Nguyễn Văn Hùng tự
Hùng Râu, Hồ Ngọc Hoàng, Thái Bông, Đỗ Hữu Ái, và Trần Vệ là 6 sĩ
quan Đà Lạt về trình diện Lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến tại Bộ Tư lệnh
Lê Thánh Tôn vào một buổi sáng tháng 12 năm 1964. Với dáng điệu lính
mới tò te, chúng tôi súng sính trong bộ quân phục kaki vàng, đứng
chờ trình diện Trung tá Bùi Thế Lân, Tham Mưu trưởng Lữ đoàn Thủy
Quân Lục Chiến.
Bước vào phòng
Tham mưu, Võ Thành Kháng trả bài đúng cơ bản thao diễn Đà Lạt, hô
nghiêm nghỉ rồi chào Trung tá Tham mưu trưởng rất oai phong. Trung
tá Lân gật gật đầu có vẻ hài lòng, sau khi điểm qua từng người, hỏi
thăm và dặn dò, ông nói tiếp:
- Các anh được
chuyển về Tiểu đoàn 4, hậu cứ đóng ở Vũng Tàu, nhưng Tiểu đoàn đang
hành quân ở Dĩ An, Biên Hòa. Phòng 4 sẽ có phương tiện đưa thẳng các
anh về trình diện Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn Hành quân.
Rời khỏi Bộ Tư
Lệnh Lữ đoàn ở trại Lê Thánh Tôn, chúng tôi đến Bộ chỉ huy Tiểu đoàn
Hành quân thì thấy không khí ở đây có vẻ xôn xao. Thì ra Tiểu đoàn
đang chuẩn bị để ngày mai chuyển quân. Lúc bấy giờ Tiểu đoàn trưởng
là Thiếu tá Nguyễn Văn Nho, người gầy cao, và Tiểu đoàn phó là Đại
úy Hoán, dáng to lớn, mặt đỏ au. Y sĩ trưởng là Bác sĩ Trương Bá
Hân. Đại đội trưởng Đại đội 1 là Trung úy Trần Ngọc Toàn, Đại đội
trưởng Đại đội 2 là Trung úy Đỗ Hữu Tùng, Đại đội trưởng Đại đội 3
là Thiếu úy Trịnh Văn Huệ, Đại đội trưởng Đại đội 4 là Trung úy
Nguyễn Đằng Tống.
Hùng râu và Võ
Thành Kháng về Đại đội 2, Hồ Ngọc Hoàng và Đỗ Hữu Ái về Đại đội 1,
Thái Bông về Đại đội 4 và tôi về Đại đội 3. Trịnh Văn Huệ là sĩ quan
Đà Lạt khóa 17, là khóa đã huấn luyện khóa 19 chúng tôi ở trong
trường Võ bị cho nên khi thấy tôi nghiêm chào, ông cười và nói:
- Thôi được, ở
đây khỏi chào với cổ 3 ngấn. Sao đi phép có vui vẻ không, và sẵn
sàng hành quân chưa ?
- Dạ thưa
Thiếu úy, đi phép được 1 tháng. Sáng nay trình diện Bộ Tư lệnh xong
là được đưa ngay xuống đây. - Tiểu đoàn sắp di
chuyển vào ngày mai, lệnh cấm trại 1OO% cậu thay quần áo, lấy đồ cần
dùng, còn tất cả gửi ở Hậu trạm, khi nào Tiểu đoàn về hậu cứ hãy
lấy.
Quay qua một
sĩ quan đang ngồi ở bàn bên, có lẽ đang phát lương cho lính, Trịnh
Văn Huệ kêu:
- Ê, Lịch có
sĩ quan mới về, qua đây tôi giới thiệu.
Tôi bắt tay và
được biết Hồ Quang Lịch là sĩ quan khóa 12 Thủ Đức đang mang cấp bậc
Thiếu úy. Sau này chúng tôi gắn bó với nhau rất thân thiết, cho nên
khi Lịch giữ chức Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 Hắc Long, anh cố xin
cho tôi về làm Tiểu đoàn phó là vì vậy. Lúc đó có một sĩ quan bước
vào, Huệ giới thiệu với tôi Thiếu úy Phạm Hữu Hoàng Sơn, khoá 9 Thủ
Đức, là Đại đội phó. Thiếu uý Sơn mới đi phép về, anh thân mật bắt
tay tôi. Một sĩ quan khác dáng nhỏ nhưng nhanh nhẹn, sau khi lãnh
lương chạy lại bên Sơn nói:
- Thiếu úy đi
phép về có quà gì không ?
Phạm Hữu Hoàng
Sơn cười hề hề:
- Quà cái con
khỉ mốc, tao vừa dứt phép định về Vũng Tàu lấy một mớ đồ nhưng Bộ tư
lệnh không cho, bảo phải ra Tiểu đoàn hành quân ngay, cho nên có kịp
làm gì đâu.
Sơn quay qua
giới thiệu với tôi:
- Đây là Chuẩn
úy Lâm Xuân, Trung đội trưởng Trung đội 3.
Tôi với Lâm
Xuân sau này trở thành cặp bài trùng ở Đại đội 3 cho đến ngày tôi đi
du học Hoa Kỳ năm 1968. Ngày hôm sau, Tiểu đoàn ra lệnh các Đại đội
sẵn sàng tại chỗ, phát lương khô 5 ngày, đợi xe đến là di chuyển. Hồ
Quang Lịch từ Bộ chỉ huy Tiểu đoàn về hí hửng cầm tờ giấy phép và
nói:
- Tao đi phép
đây, mới gặp mày, chưa kịp nhậu 1 chầu... Thôi để về Vũng Tàu tao sẽ
khao mày.
Được biết Hồ
Quang Lịch là 1 tay nhậu hũ chìm, uống rượu như uống nước lã, chả
bao giờ say. Tôi cũng có máu rượu trong người nên về sau anh khoái
tôi ở chổ đó.
Đại đội trưởng
đi họp ở Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn về họp các sĩ quan Đại đội phó và
Trung đội trưởng để ban lệnh hành quân. Bây giờ tôi mới biết thêm
Chuẩn úy Nguyễn Văn Nư, Trung đội trưởng Trung đội 1 và Trung sĩ I
Thạch Biên xử lý thường vụ Trung đội 2. Trịnh Văn Huệ chỉ vào bản đồ
giải thích:
- Tiểu đoàn
mình sẽ di chuyển bằng xe về Phước Tuy, sau đó di chuyển bộ đến Bình
Giả, cách Bà Rịa 5 cây số về phía Tây. ở đây Biệt Động Quân đang
đụng địch, ta có bổn phận vào tiếp ứng cho bạn.
Sau khi ban
lệnh hành quân, Đại đội trưởng quay qua hỏi Đại đội phó Hoàng Sơn:
- Đại đội đã
sẵn sàng chưa, cho tôi xem bản quân số.
Hoàng Sơn tay
đưa bản quân số cho Huệ và nói:
- Dạ thưa
Thiếu úy xong, à còn Thiếu úy Trần Vệ, Thiếu úy định cho ra Trung
đội nào ?”
ở trong quân
đội rất có tôn ti trật tự, mặc dù cùng một cấp bậc nhưng chức vụ cao
và thâm niên hơn vẫn nhiều quyền hơn. Lúc đó tôi vì tốt nghiệp
trường Võ bị Quốc Gia nên mang cấp bậc Thiếu úy thực thụ, còn Hoàng
Sơn vừa từ Chuẩn úy lên nên còn mang Thiếu úy tạm thời. Do đó Đại
đội trưởng cũng phân vân trong sự sắp xếp, dù sao Thiếu úy Sơn cũng
ở Đại đội lâu năm, còn tôi mới tò te ra trường. Sau một lúc đắn đo,
Trịnh Văn Huệ nói:
- Thôi anh Vệ
mới đến Đại đội, nên đi theo tôi để tôi hướng dẫn phương thức chiến
đấu và chỉ huy.
Mới ra trường,
chưa có kinh nghiệm chiến đấu, được theo Đại đội trưởng để học hỏi,
thật là một sự may mắn cho tôi. Năm người bạn kia của tôi phải ra
cầm Trung đội ngay, lại gặp một trận đánh khốc liệt cho nên ai cũng
lãnh ngay một thương tích.
Đoàn xe dừng
lại ở Bộ chỉ huy Tiểu khu để Tiểu đoàn trưởng và phó vào tham khảo
với Trung tá Tiểu khu trưởng trước khi xuất quân. Khi Thiếu tá Nho
và Đại úy Hoán ra khỏi Tiểu khu tôi thấy vẻ mặt của họ có vẻ căng
thẳng. Đại úy Hoán mặt đỏ ửng, nói câu gì đó mà tôi không nghe rõ
trong khi Thiếu tá Nho im lặng đi bên cạnh. Sau này tôi được biết
tình hình địch không đúng như sự đánh giá của phòng 2 Tiểu khu, mà
theo báo cáo của Biệt Động Quân thì địch có lẻ đang tập trung đông
hơn. Cho nên Đại úy Hoán đề nghị với Thiếu tá Nho nên từ từ để lấy
thêm tin tức, trong khi lệnh của Tiểu khu bắt Tiểu đoàn 4 Thủy Quân
Lục Chiến tăng phái cho Tiểu khu Bà Rịa phải vào ngay. Với cương vị
Tiểu đoàn trưởng, Thiếu tá Nho không cách nào hơn là tuân lệnh tiếp
tục di chuyển đến tuyến xuất phát.
Sau khi đổ
quân, đoàn xe vừa quay bánh trở về Bộ chỉ huy Tiểu khu thì Tiểu đoàn
4 Thủy Quân Lục Chiến dàn quân vượt tuyến xuất phát. Đây là một đồn
điền cao su của Pháp để lại, với những hàng cây cao su to lớn, cao
vòi vọi. Chúng tôi đi dưới mà không thấy ánh mặt trời. Địa thế cách
Bà Rịa 5 cây số về phía Tây, có 2 làng Bình Giả và Xuyên Mộc, giao
thông chỉ có một con đường đất đỏ xuyên thẳng từ Bà Rịa qua Bình
Giả, Xuyên Mộc đến Long Thành. Dân chúng ở đây sống bằng canh tác
cây cao su, mật độ thưa thớt. Dân Bình Giả được quy tụ lại thành ấp
chiến lược, có hàng rào tre chung quanh kiên cố, có canh gác cẩn
thận và đặc biệt ở đây có một nhà thờ mà cha xứ đã tổ chức thanh
niên thành đội ngũ dân quân nên Việt cộng không thể xâm nhập được.
Trong khi đó Xuyên Mộc ở sâu hơn chưa được bình định, Việt cộng
thường xuyên về tập trung dân để dọa dẫm, bắt đàn ông thanh niên đi
dân công. Địa phương quân thỉnh thoảng có hành quân vào ban ngày rồi
rút về nên Việt cộng dễ bề thao túng.
Với một địa
bàn như thế, địch luôn luôn dựa vào Xuyên Mộc để tấn công Bình Giả,
cho nên dân chúng Bình Giả luôn luôn ở tư thế sẵn sàng. Tiểu đoàn
vượt qua tuyến xuất phát độ 2 cây số thì gặp Biệt Động Quân đang tải
thương, Đại đội 1 dẫn đầu, được lệnh tiến lên vượt qua cánh Biệt
Động Quân để án quân canh phòng phía trước. Đại đội 2 và 3 bảo vệ
hai bên hông, trong khi Bộ chỉ huy Tiểu đoàn và Đại đội 4 bố trí cho
đơn vị Biệt Động Quân tải thương và rút toàn bộ về phía sau.
Được biết từ
mờ sáng, một Đại đội Biệt Động Quân tăng phái đã đụng địch khoảng
giữa Bà Rịa và Xuyên Mộc, hạ được 1O tên tại chỗ và tịch thu một số
vũ khí, trong đó có cả đại liên, chứng tỏ địch ở cấp Tiểu đoàn trong
khi phòng 2 Tiểu khu cho hay chừng một đơn vị nhỏ, thường xuất hiện
ở Xuyên Mộc để khuấy phá Bình Giả. Được thể, Đại đội Biệt Động Quân
tiến lên để tiêu diệt nốt thì chạm địch dữ dội. Chúng tấn công nhiều
đợt cấp Tiểu đoàn, do đó Biệt Động Quân phải dừng quân cầm cự và
điện về Tiểu khu xin tiếp viện
Sau khi Biệt
Động Quân đã rút hẵn, Tiểu đoàn cho dàn quân lục soát thêm 2 cây số
nữa nhưng không thấy gì. Tình hình có vẻ yên tĩnh, trời cũng bắt đầu
xế chiều, vì rừng cao su nên trời tối rất mau. Tiểu đoàn trưởng cho
Tiểu đoàn rút về ấp chiến lược Bình Giả để đóng quân đêm. Hàng rào
ấp chiến lược bằng cây cao quá đầu người, rất kiên cố. Khi chúng tôi
đến, dân quân canh gác báo cho ấp và cha xứ để họ cho người đón vào.
Chúng tôi phải đi hàng dọc vì các nơi đều gài lựu đạn để chống Việt
cộng xâm nhập. Trời tối nhưng nhà dân đều tắt đèn, tình hình có vẻ
khẩn cấp, dân chúng đang trong tình trạng báo động. Chúng tôi im
lặng bố trí, Tiểu đoàn phòng thủ chu vi chung quanh ấp chiến lược.
Trong khi chúng tôi đang ăn cơm thì nghe phía Đại đội 1 có tiếng
súng nổ. Vì ở chung với Đại đội trưởng nên tôi nghe qua máy truyền
tin, Đại đội 1 báo có bóng người thấp thoáng nên lính gác nổ súng.
Tiểu đoàn xin Tiểu khu soi sáng phía Xuyên Mộc, đồng thời xin Pháo
binh bắn những điểm nghi ngờ.
Tiếng chó sủa
nổi lên từng nơi, từng lúc. Dân quân Bình Giả cho hay đêm nào du
kích Việt cộng cũng đến dò la, có lúc đạp nhằm lựu đạn bên ta gài.
Có lẽ ban chiều chúng thấy cánh quân Thủy Quân Lục Chiến kéo đến nên
trinh sát địch tìm tới dò tình hình. Pháo binh bắn gần có lúc cành
lá cao su văng vào phòng tuyến đóng quân của ta. Đêm đó tuy có nổ
súng nhưng tình hình yên tĩnh, tôi và Đại đội trưởng Huệ nằm bên
nhau ôn chuyện Võ bị Đà Lạt, nhắc đến những vui buồn ở quân trường,
kể tên những em Bùi Thị Xuân vẫn thường vào Câu lạc bộ Sinh viên sĩ
quan để đón chàng ra phố... Chuyện trò miên man đưa tôi vào giấc ngủ
lúc nào không hay, giấc ngủ đầu tiên ngoài mặt trận, trong đời lính
của tôi...
Trời tờ mờ
sáng, tôi giật mình thức dậy đã thấy Đại đội trưởng nai nịt sẵn
sàng, ngồi xem bản đồ, tay cầm ly cà phê. Anh quay lại tôi cười dễ
dãi:
- Sao chàng Võ
bị, đêm qua ngủ ngon không? Có mơ thấy em nào không?
Tôi bẽn lẽn vì
dậy muộn:
- Chào Thiếu
úy, có lẽ hôm qua đi bộ hơi mệt nên ngủ ngon quá. Tình hình có gì
không Thiếu úy ?
Huệ vươn vai
đứng dậy:
- Đêm qua yên
tĩnh thôi, có lẽ nó đang dọ dẫm mình. Thôi ăn sáng đi, độ một tiếng
nữa thì Tiểu đoàn sẽ xuất phát đó.
Đúng 7 giờ
sáng, Tiểu đoàn di chuyển ra khỏi ấp chiến lược. Đại đội trưởng cho
tôi hay hôm nay Đại đội 2 của Trung uý Đỗ Hữu Tùng dẫn đầu. Trước
khi di chuyển, Tiểu đoàn đã xin Tiểu khu yểm trợ. Hai chiếc khu trục
của Không quân oanh tạc từng đợt phía trước. Tiếng bom nổ và đại
liên từ máy bay làm yên lòng quân ta, Tiểu đoàn di chuyển chậm, Đại
đội 3 đi sau nên chúng tôi thấy toàn bộ phía trước. Rừng cao su rộng
bao la với những hàng cây thẳng tắp , mỗi cây cách nhau 2 mét nên
rất khó che dấu, ngụy trang. Di chuyển được gần 2 cây số thì đằng
trước có tiếng súng nổ, Đại đội 2 báo cáo về, đứa con đầu phát hiện
có bóng địch. Tôi đến sát máy truyền tin nghe ngóng. Tiểu đoàn
trưởng ra lệnh cho Đại đội 2 truy kích địch. Trung úy Đỗ Hữu Tùng
tuân lệnh, cho 2 Trung đội dàn hàng ngang tiến lên. Tiếng súng đủ
loại nổ dòn, có súng địch bắn trả. Trung úy Tùng cho hay địch chạy
qua chạy lại ở các hàng cây, lúc ẩn lúc hiện rất khó quan sát nên
xin Tiểu đoàn cho máy bay quan sát và khu trục yểm trợ tiếp. Tôi
nghe rõ giọng Thiếu tá Nho trong máy:
- Yên chí,
Tango cứ cho bố trí, quan sát. Moa sẽ kêu ông già L.19 lên quan sát.
Một lát sau có
tiếng ù ù đến gần, chiếc L.19 bay vòng vòng, độ 2 vòng nó xẹt xuống
ném một trái nổ để đánh dấu. Lập tức 2 chiếc khu trục không biết từ
đâu ào tới dội bom liên tiếp. Tiếng Đại đội trưởng Đại đội 2 la
trong máy:
- Đúng rồi,
rất đẹp Đại bàng ơi !
- O.K. Moa sẽ
cho ông già chơi tiếp.
Hai chiếc khu
trục đánh xong vừa vòng về thì có tiếng trực thăng từ xa vọng đến.
Tôi nhìn lên bầu trời thấy chiếc trực thăng đang bay trên đầu địch,
có lúc lượn sát ngọn cây cao su. Và rồi chúng tôi không còn nghe
tiếng máy bay nữa, không hiểu nó đã bay về hay đáp xuống đâu đó...
Bỗng nhiên tôi nghe tiếng Tiểu đoàn trưởng từ máy truyền tin:
- Cho tôi gặp
Thẩm quyền 2.
- Thưa Đại
bàng có tôi.
- Ông anh cả
(Tiểu khu) báo: con chuồn chuồn đi ăn sương vừa gãy cánh, cách ta 1
cây số về phía Bắc, anh cho con cái lên bố trí để vớt nó lên ngay.
Đại đội trưởng
Đại đội 2 điều động đơn vị tiến về hướng Bắc. Lúc đó khoảng 12 giờ
trưa nhưng ở trong rừng cao su âm u nên tôi tưởng đã về chiều, những
tia nắng chiếu xuyên từng vạt không đủ soi sáng bóng cây che. Độ nửa
tiếng sau, tôi nghe súng đủ loại nổ rất gắt, chứng tỏ Đại đội 2 đang
đụng mạnh. Trung úy Tùng báo cáo trong máy:
- Thưa Đại
bàng, tôi đã bắt được con chuồn chuồn, nó bị gãy cánh mà chuột (Việt
cộng) nhiều quá, tôi đang thanh toán chúng đây.
Súng vẫn nổ
mạnh, thỉnh thoảng chen vào tiếng ầm ầm của B.4O địch hoặc phóng lựu
của bên ta. Thiếu úy Huệ đến bên tôi bảo thầm:
- Đại đội 2 bị
địch bao vây, có lẽ cả Tiểu đoàn, nhưng ông Tùng vững lắm.
Một lát sau
ông Huệ lại tiếp sau khi theo dõi ở máy truyền tin:
- Đại đội 2
thu được 3 B.4O, 5 AK, hạ 7 tên tại chỗ.
Tôi cũng đến
gần máy truyền tin nghe ngóng. Tiếng Trung úy Tùng la trong máy, lần
này ông nói luôn bạch văn:
- Trình Đại
bàng, chuột tràn lên đông quá, chúng cho dân đi đầu để làm bia đỡ
đạn. Con cái tôi chơi xả láng.
Thiếu tá Nho
cũng la to trong máy truyền tin:
- Tango cố
gắng, tôi sẽ cho gà cồ gáy tiếp.
Phi pháo lại
tiếp tục yểm trợ, tiếng súng chợt ngưng hẳn. Có lẽ địch dạt về phiá
sau ẩn náu chờ dứt bom mới tấn công tiếp. Đại đội 2 lui về phía sau
để cho khu trục và pháo binh làm việc. Đồng hồ tay tôi chỉ 2 giờ,
các Đại đội được lệnh di chuyển sau khi dứt đợt phi pháo cuối cùng.
Tôi đang loay hoay sửa lại thắt lưng đạn thì Thiếu úy Huệ đến bên
tôi nói:
- Này Vệ,
thằng Kháng và Hùng Râu chết rồi!
Tôi uả lên một
tiếng và đứng trân người nhìn Huệ, ông lắc đầu không nói thêm gì
nữa. “Kháng ơi ! Hùng ơi ! Sao tụi mày đi nhanh quá, không lẽ đời
lính là thế sao ? 6 đứa mình hẹn nhau sẽ về hậu cứ làm một chầu khao
quân mà 2 đứa mày đã bỏ đi trước”. Tôi đang suy nghĩ miên man thì
chợt nghe tiếng hô “Di chuyển, di chuyển”. Đại đội 1 của Trung uý
Trần Ngọc Toàn và Đại đội 3 chúng tôi được lệnh vượt qua Bộ chỉ huy
Tiểu đoàn tiến lên bọc bên trái và bên phải Đại đội 2. Tôi nóng lòng
vì Võ Thành Kháng và Hùng Râu nên xin Thiếu úy Huệ cho đi cùng với
Trung đội đầu, nhưng Thiếu úy Huệ chậm rải nói:
- Cứ từ từ,
rồi Đại đội cũng lên tới đó, cậu sẽ gặp và vuốt mắt chúng nó.
Bộ chỉ huy
Tiểu đoàn nối theo chúng tôi và Đại đội 4 bọc hậu. Khi lên đến nơi,
tôi gặp Trung úy Tùng, ông chỉ tay về phía trước bảo tôi:
- Hai ông bạn
của cậu đó, mới trận đầu nhưng chúng nó chơi đẹp lắm.
Tôi bước vội
về phía ông Tùng chỉ, xác Kháng và Hùng Râu nằm co quắp bên chiếc
trực thăng gãy cánh, cạnh đó là xác 2 phi công Mỹ. Võ Thành Kháng bị
một viên ở mang tai và ở ngực, còn ngực Hùng Râu lãnh nguyên một
tràng. Tôi vuốt vội mắt cho hai bạn rồi bước theo Đại đội. Lúc đó là
3 giờ chiều, Bộ chỉ huy Tiểu đoàn cũng vừa ào lên. Các Đại đội được
lệnh bố trí chung quanh máy bay trực thăng để chuẩn bị tải thương.
Bỗng có tiếng súng nổ ở phía trái chúng tôi, tức vị trí Đại đội 1
của Trung úy Toàn. Ông Toàn báo cáo trong máy:
- Địch xuất
hiện, dàn hàng ngang, đông lắm!
Tiếng súng
chát chúa, nổ rất gần, có lúc xẹt qua phía chúng tôi. Thiếu úy Huệ
đang nói chuyện trong máy với Thiếu tá Nho thì âm thoại viên Đại đội
báo cáo Trung đội 3 phát hiện có địch. Chưa dứt lời thì tiếng súng
đã nổ vang rền phía Trung đội 3 của Lâm Xuân. Khoảng 5 phút sau thì
súng nổ khắp nơi: Đại đội 1 bên hông trái, Đại đội 3 bên hông phải
và cả mặt sau Đại đội 4 của ông Tống. Như vậy là địch đã tập trung
bao vây Tiểu đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến trong khi chúng tôi vừa mới
bố trí, chưa kịp đào hầm hố gì cả. Bên ta cũng như địch, chỉ lấy gốc
cao su để che chắn. Cả 3 Trung đội của Đại đội 3 đều khai hỏa.
Địch thấp
thoáng sau hàng cao su, ta bắn như bắn bia, nhưng bóng người vẫn lao
lên. Tôi nghe có cả tiếng kèn thúc quân và hình như tiếng ngựa hí
đâu đây.(Về sau tôi nghe kể lại có cả Tướng Việt cộng Dương Văn Nhựt
em của Tướng Dương Văn Minh cầm quân trong trận này). Như thế quân
số địch lên tới cả Trung đoàn, và đây là lần đầu tiên chúng tập
trung với một số quân đông đảo cho một trận chiến. Tai tôi như ù đi
vì tiếng súng không dứt. Trung đội 2 do Thượng sĩ I Kim Tâm chỉ huy
báo cáo địch sắp sửa tấn công đợt 2, xin tăng cường đại liên. Thiếu
úy Huệ ngoắc tổ đại liên chỉ về phía Trung đội 2 và ông cũng chạy
lên theo. Tôi nghe rõ tiếng Kim Tâm la:
- Đại liên,
bắn, bắn, chúng lên đó !
Thế là đại
liên nổ dòn, Thiếu uý Huệ lăn vào một gốc cao su và chỉ tôi gốc cây
bên cạnh. Ông quơ tay chỉ cho Kim Tâm bảo con cái tác xạ về hướng
trái, có khoảng 1O bóng địch vừa xuất hiện và tác xạ về phía chúng
tôi. Địch bắn một tràng về phía ông Huệ, tên đệ tử của tôi vội la
lên:
- Chết, Đại
đội trưởng bị thương rồi!
Tôi bàng hoàng
quay phắt về nhìn Thiếu úy Huệ và thấy ông đang ôm bụng, máu thấm
ướt cả áo trận. Tôi phóng vội về phía ông vì khoảng cách giữa 2 gốc
cây khoảng 4 mét. Thiếu úy Huệ nấc lên rồi thều thào:
- Tôi bị
thương nặng lắm, nếu có gì cậu cùng thằng Sơn bảo toàn Đại đội. Địch
còn tấn công nữa, không chịu được cứ rút về hướng này.
Giọng ông đứt
quãng, đưa tay chỉ hướng cho tôi rồi ngoắc bảo tôi trở về vị trí cũ.
Tôi vừa lăn mình về chỗ cũ thì một tràng trung liên địch nổ dòn vào
Thiếu úy Huệ, ông bật người lên rồi ngã xuống chết ngay. Tính mạng
tôi cũng ra đi trong gang tấc nếu sau khi nhận bản đồ và địa bàn từ
tay ông mà còn nấn ná chưa chịu đi. Hai âm thoại viên mang máy Đại
đội và Tiểu đoàn chạy về phía tôi lắp bắp:
- Thiếu úy,
Đại đội phó Hoàng Sơn bên cánh Trung đội 3 cũng bị thương rồi !
Thế là cả Đại
đội trưởng lẫn phó cùng bị một lúc, tôi ngây người ra trong chốc
lát. Làm sao đây, xử trí cách nào đây ! Tự nhiên tôi thấy mình tỉnh
táo hẳn: tôi ra lệnh cho âm thoại viên Đại đội bảo các Trung đội báo
cáo tình hình. Đồng thời chỉ thỉ cho âm thoại viên mang máy Tiểu
đoàn báo cho Tiểu đoàn biết Đại đội trưởng Huệ đã chết.
Trung đội 1 và
2 báo cáo có bị thương và chết nhưng số còn lại vẫn bám chặt, cầm
cự. Riêng Trung đội 3 không liên lạc được, về sau tôi mới rõ là
Trung đội 3 phòng thủ sát với Đại đội 1, bị tấn công mạnh quá nên đã
dạt về phía sau và mất liên lạc sau khi báo cáo Đại đội phó bị
thương. Chợt trước mắt tôi có bóng người thấp thoáng, tôi phóng về
phía xạ thủ đại liên vỗ vai hắn:
- Có địch, bắn
về phía kia kìa.
Hắn quạt một
tràng đại liên dòn tan, 3, 4 tên ngã xuống. Xạ thủ viên quay về phía
tôi toét miệng cười:
- Ông thầy mới
về Đại đội hả ?
- Ừ, mới về,
mày bắn khá lắm.
Hắn bô bô:
- Ông thầy
chưa nghe tiếng Sáu Đại Liên hả?
(Từ ngày đầu
quân vào Thủy Quân Lục Chiến, Sáu xin thủ cây Đại liên. Mỗi lần hành
quân hắn chỉ vác khẩu đại liên và 2 dây đạn quanh mình, không mang
theo gì nữa, quanh năm chỉ có một bộ đồ. Hễ hắn nổ đạn là có người
ngã, đánh giặc chì lắm, nghe tiếng súng là nhào tới ngay cho nên ông
Huệ cưng lắm.)
Tôi la lên:
- Bắn ! Bắn !
Nó kìa !
- Ông thầy để
em.
Rồi hắn bấm
cò, tôi thấy rõ ràng 4 tên ngã xuống cách tuyến chỉ độ 3 mét mà
thôi. Thấy cấn cái bên hông, tôi quay lại hỏi:
- Thằng nào
đây ?
Sáu Đại Liên
trả lời:
- Thằng Minh
rỗ, phụ xạ thủ cho em đấy ông thầy. Nó vừa lãnh 2 viên, tội nghiệp
vừa mới lấy con vợ bán hột vịt lộn ở đầu chợ Vũng Tàu được 2 tháng.
Nghe Sáu đại
liên nói, tự nhiên tôi thấy buồn và nói với nó:
- Đ.M thằng
Việt cộng, sau này cầm quân, tao chơi xả láng.
Sáu Đại Liên
ngẩn người rồi lại toét miệng cười:
- Chà, ông
thầy ngon dữ, em xin theo ông thầy.
Phía Đại đội
1, súng nổ vang rền lẫn tiếng hô xung phong nhưng không rõ của bên
nào. Cả phía Bộ chỉ huy Tiểu đoàn nữa, vì gần lắm. Thằng mang máy
Tiểu đoàn ghé vai tôi nói nhỏ:
- Hình như
Trung úy Toàn Đại đội trưởng Đại đội 1 cũng vừa bị thương.
Tôi giật mình
không ngờ tình hình căng dữ, các Đại đội trưởng đều theo nhau cả.
Lát sau tiếng súng thưa dần và im hẳn, tôi nhìn đồng hồ thấy 8 giờ
tối, ham chiến đấu không ngờ thời giờ qua mau. Bóng đêm đã tràn ngập
cánh rừng, chỉ thấy lờ mờ nhờ vào bầu trời đầy sao. Tôi cố liên lạc
với Tiểu đoàn nhưng không được. Tứ bề im lặng, thỉnh thoảng có tiếng
rên của một vài người lính bị thương. Bỗng nhiên máy truyền tin Tiểu
đoàn có tiếng kêu, tôi vội chụp ống liên hợp:
- Ai đó ? Đây
là Đống đa 3.
- Đây Thẩm
quyền Đống đa 4, Đại bàng Non nước zulu rồi. Đống đa 3 cho kiểm soát
con cái rồi trở về mái nhà xưa đêm qua.
Tôi đoán đó là
Trung úy Nguyễn Đằng Tống, Đại đội trưởng Đại đội 4 cho nên trả lời
tuân lệnh và cúp máy. Tôi lom khom đi theo tuyến để kiểm lính. Vừa
được mấy bước thì Sáu đại liên chạy lại bên tôi:
- Ông thầy cho
em đi theo nhé.
Tôi nghĩ trong
tình thế này, mình cũng cần một tay súng bên cạnh nên gật đầu:
- Ừ, mày theo
sát sau lưng tao, nếu có gì mày nhả đạn ngay.
Sáu dạ một
tiếng rồi quay lại chỗ Minh rỗ chết, lấy thêm 2 dây đạn vắt lên vai
và chạy theo tôi. Tôi đếm được khoảng 32 người, riêng Trung đội 3
chỉ còn 5. Đang kiểm kê thì thấy một bóng đen to lớn, mặt mày đen
thui đang lui hui bên cạnh, tôi hỏi người âm thoại viên:
- Ai đó ?
- Dạ thằng
Trung sĩ Mỹ đen, hồi sáng Tiểu đoàn gởi theo mình để lên lấy xác phi
công đó ông thầy.
Tôi gật đầu
nắm tay Trung sĩ Mỹ nói “Follow me! O.K!”. Anh ta gật gật nói O.K,
O.K khoe hàm răng trắng toát. Tôi dặn chuyền chuẩn bị di chuyển
trong im lặng rồi tự mình lên dẫn đầu, Sáu đại liên theo sau, rồi 2
thằng mang máy, anh Mỹ đen và đoàn lính. Chúng tôi bước nhẹ nhẹ,
nghe ngóng và đi dần dần ra khỏi khu rừng. Đi được hơn 5O mét thì
tôi nghe một tiếng “bịch” ở trên trời, rồi một trái sáng lóe lên
chiếu sáng một góc trời. Tôi hô nằm xuống, cả đoàn dạt qua một bên
nằm im lặng. Thấy mình di chuyển khi có ánh sáng rất bất lợi vì bị
địch quan sát dễ dàng, chúng quạt cho một tràng thì chết cả lũ, cho
nên khi trái sáng dứt thì chúng tôi đi. Trái khác bắn lên thì ngừng
lại quan sát địa thế để sau đó đi tiếp. Có lẽ Tiểu khu đã soi sáng
cho chúng tôi di chuyển nên trái sáng được bắn lên liên tiếp trên
bầu trời. Hơn nưả giờ di chuyển tôi nghe được tiếng lọc cọc bên tay
trái và ra hiệu cho đoàn quân dừng lại im lặng nghe ngóng. Có khoảng
1O chiếc xe bò đi lọc cọc lẫn tiếng người nói chuyện lao xao. (Về
đến Bình Giả được dân quân cho hay là Việt cộng đã dùng xe bò của
dân để chuyển xác đồng bọn sau khi đụng độ với Tiểu đoàn 4 Thủy Quân
Lục Chiến). Sáu dợm mình định quạt vài tràng đại liên, tôi kéo nó
lại:
- Thôi kệ nó,
mình đang rút quân, đánh đấm gì bây giờ nữa.
- Em nhịn
không được, muốn chơi một cú...
- Thôi, ráng
đi, lần khác tao cho mày thả dàn.
Chúng tôi đi
cả giờ đồng hồ mà chưa ra khỏi rừng cao su. Cứ đi một đoạn lại nghe
tiếng người lao xao, thì ra tụi Việt cộng cũng rút quân và di chuyển
thương binh. Vì thế chúng tôi di chuyển rất chậm, có lần suýt đụng
địch. Chúng tôi cứ tiếp tục đi độ nửa tiếng nữa thì trái sáng chấm
dứt. Trời tối om như mực, tôi nhìn đồng hồ đã 11 giờ 3O khuya. Tôi
nghĩ nên để sáng mai đi tiện hơn vì đêm tối không thể định hướng
được vả lại nguy hiểm vì địch tứ phía... Nên tôi quyết định cho dừng
quân, gom lại thành một vòng tròn và cứ thế ngả lưng vào gốc cây cho
qua đêm. Tôi đang ngồi suy nghĩ thì tên đệ tử khều tôi:
- Ông thầy
uống chút nước, có ổ bánh mì đây, ông thầy ăn đi kẻo đói.
Bây giờ tôi
mới nhớ là từ trưa đến giờ chưa ăn uống gì cả mà vẫn không đói. Tôi
cắn một miếng bánh mì, hớp một hớp nước rồi trả lại cho đệ tử và
tiếp tục dòng tư tưởng: thằng Kháng và Hùng chết rồi, không rõ mấy
thằng Ái, Hoàng và Thái Bông ra sao. Đại đội 1 cũng đụng mạnh lắm,
hy vọng Ái và Hoàng không bị gì, chúng đã về ấp Bình Giả chưa... Và
tôi nghĩ đến đời lính của mình đã mở màn bằng một trận đánh thần
sầu, đêm đầu tiên ngủ bờ ngủ bụi như thế này...Và cứ thế tôi ngủ lúc
nào không hay cho đến khi có tiếng gọi bên tai:
- Thiếu úy,
Thiếu úy, trời sáng rồi.
Tôi giật mình,
ngồi dậy dụi mắt. Trời đã sáng rõ, đám lính đang loay hoay sửa soạn
ba lô. Đồng hồ chỉ 7 giờ, tôi lấy bản đồ định vị trí, đo phương giác
từ để định hướng rồi cho đoàn quân di chuyển. Có hai người lính, một
trẻ một già chạy lại phía tôi:
- Thưa Thiếu
úy, em thuộc Đại đội 2 lạc qua đây. Đêm qua tụi nó tấn công dữ, ông
Toàn chì lắm, dứt tụi nó tơi bời, cuối cùng còn cho xung phong nên
ổng bị thương nặng đó Thiếu úy.
- Ông Toàn là
đàn anh tôi đó, thôi cứ theo đây rồi về Tiểu đoàn hẵng hay.
Chúng tôi di
chuyển theo hướng Nam về ấp Bình Giả, đang đi thì có tiếng L.19 quần
trên trời. Chúng tôi phải ẩn nấp sau hàng cây để di chuyển vì sợ máy
bay tưởng lầm địch thì nguy. Bỗng tiếng loa từ trên máy bay vọng
xuống: “Thưa đồng bào, dân quân 2 làng Bình Giả và Xuyên Mộc, Việt
cộng đã tập trung 2 Trung đoàn chủ lực định đánh chiếm ấp chiến lược
Bình Giả nhưng đã bị Tiểu đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến đánh tan tành.
Hiện chúng đang rút từng toán theo hướng Xuyên Mộc về Rừng Lá. Xin
đồng bào đừng chứa chấp lũ giặc Cộng gian ác, và quân ta đang trên
đường truy kích địch.”
Đến trưa thì
chúng tôi thấy ấp Bình Giả trước mặt, tất cả đều vui mừng hớn hở. Về
đến đầu làng thì thấy hai bên đường dân làng ra đón, họ đem thức ăn,
xôi, gà ra để dọc đường và chạy theo tiếp tế cho chúng tôi. Sự tiếp
đón niềm nở của dân chúng đã làm cho chúng tôi cảm động và quên đi
bao mệt nhọc gian khổ. Sẵn đói bụng, anh em chúng tôi ăn uống rất
ngon lành. Vào đến Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn tôi gặp Trung úy Nguyễn Đằng
Tống, ông ôm chầm lấy tôi nghẹn ngào.
- Sao, Thiếu
úy Huệ chết rồi hả ?
Tôi im lặng
không nói, chỉ gật đầu. Ông biết tôi buồn nên không hỏi nữa, kéo tôi
vào Bộ chỉ huy và cho tôi biết qua tình hình của Tiểu đoàn. Sau các
đợt tấn công, địch đã xâm nhập vào tận Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn nên
Thiếu tá Nho, Đại úy Hoán và Y sĩ trưởng đã tử trận. Theo báo cáo
của dân quân thì địch chết và bị thương rất nhiều, chúng rút chạy
suốt đêm qua. Trung úy Nguyễn Đằng Tống, Đại đội trưởng Đại đội 4
tạm xử lý Tiểu đoàn trưởng. Tôi hỏi về các bạn của mình thì ông Tống
cho hay Đỗ Hữu Ái và Hồ Ngọc Hoàng cũng bị thương đã được chuyển về
Vũng Tàu. Chỉ Thái Bông còn nguyên xi.
Tôi vội quay
về Đại đội mình để kiểm kê lại, vì có lệnh chuẩn bị để vào tải
thương các binh sĩ chết và bị thương chưa đem ra được. Đại đội 3 còn
46 người vừa sĩ quan và binh sĩ. Một số lính của các Đại đội bị tản
mác cũng đang lần hồi về ấp Bình Giả trình diện. Khoảng 12 giờ trưa
thì được lệnh di chuyển vào tản thương, chúng tôi có thêm 1 Tiểu
đoàn Nhảy Dù đến yểm trợ. Trên đường đi tôi gặp Nguyễn Văn Lệ và
Nguyễn Văn Thành tự Thành Râu khóa 19 đang dàn Trung đội Dù hai bên
đường để bảo vệ chúng tôi. Lệ và Thành kéo tôi lại hỏi thăm tình
hình bạn bè. Tôi cho hay Kháng và Hùng Râu đã chết, Ái và Hoàng bị
thương, chỉ còn Thái Bông và tôi. Sau đó tôi lại gặp toán Dù khác,
Bùi Dương Thanh và Nguyễn văn Nhỏ cùng khóa 19, xông ra hỏi thăm ráo
riết. Tình đồng đội, huynh đệ chi binh là thế, sau mấy năm ở quân
trường, giờ đây mỗi người một ngả, cứ hỏi thăm nghe ngóng tin tức
của nhau.
Đến 6 giờ
chiều thì chúng tôi đưa được thương binh và tử sĩ về ấp Bình Giả để
trực thăng đưa đi. Đêm ấy Tiểu đoàn nghỉ đêm tại Bình Giả, các Tiểu
đoàn Dù trấn đóng bên ngoài. Tình hình rất yên tĩnh vì Việt Cộng đã
thấm đòn, không còn khả năng đánh chiếm làng Bình Giả nữa.
Ngày hôm sau
chúng tôi được di chuyển bằng xe về Vũng Tàu, đây là lần đầu tiên
tôi thấy hậu cứ của Tiểu đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến. Đoàn xe vừa về
đến cổng Tiểu đoàn thì Hồ Quang Lịch chạy ra la lớn:
- Thằng Vệ đâu
? ĐM tao tưởng mày theo ông Huệ rồi chớ !
Tôi cười bắt
tay Lịch:
- Số tôi còn
lớn lắm, chưa chết đâu ông anh.
Lại gặp cả Lâm
Xuân ở đây nữa, ngay từ đầu tôi đã nhận thấy anh chàng này nhanh
nhẹn, thì quả nhiên Lâm Xuân đã dẫn Trung đội dọt về Bà Rịa và được
Tiểu khu cấp xe về hậu cứ luôn.
Ngày hôm sau,
Tiểu đoàn họp trước sân cờ để trình diện Tiểu đoàn trưởng mới là Đại
uý Nguyễn Thành Trí, Tiểu đoàn phó là Đại úy Nguyễn Hữu Nhơn, và Y
sĩ trưởng là Bác sĩ Nguyễn Văn Thế. Đại đội 3 cũng có Đại đội trưởng
mới là Thiếu úy Huỳnh Ngọc Liên. Tiểu đoàn được tuyên dương công
trạng đã bẻ gãy âm mưu của Việt cộng trong chiến dịch lấn chiếm Bình
Giả.
Tôi được
thưởng Anh dũng Bội tinh với nhành dương liễu. Tôi cũng đề nghị Anh
dũng Bội tinh với ngôi sao đồng cho Sáu Đại liên. Trong khi chờ gắn
huy chương, đứng cạnh tôi trong hàng quân, Sáu Đại liên gọn gàng
trong bộ quân phục rằn ri, tay áo xắn cao, tóc tai gọn ghẽ. Nó ghé
tai tôi nói thầm:
- Ông thầy,
hồi nãy em đến đây, gặp 2 con nhỏ bán chè xôi nước ở ngã tư, tụi nó
cứ trố mắt nhìn em rồi hỏi sao giờ em đẹp trai quá vậy ? rồi còn
cười em nữa.
- Ừ, tao cũng
thấy mày ngon lành lắm, thôi đứa nào mày chọn một đứa đi.
- Dạ chưa được
đâu ông thầy, còn đi hành quân mà sao lấy vợ được. Để hôm nào em dẫn
ông thầy ra ăn chè xôi nước, ngon lắm!
- Chè ngon hay
nó ngon mày ?
Sáu Đại liên
toét miệng cười:
- Cả hai, ông
thầy ơi !
Trong phần
diễn từ của Tân Tiểu đoàn trưởng, ông nhắc đến những sĩ quan và binh
sĩ đã tử trận vì chính nghĩa quốc gia. Tôi thấy bùi ngùi trong lòng
và tự nhủ: “Hai võ sĩ lên đài thì thế nào cũng có trầy môi, sứt
trán, chưa kể người nặng kí kẻ nhẹ hơn. Trong trận này bên ta chỉ có
một Tiểu đoàn mà phải chống trả với 2 Trung đoàn địch và vẫn giữ
được ưu thế thì phải biết các chiến sĩ của Tiểu đoàn 4 TQLC can
trường đến thế nào. Chúng ta đau đớn vì mất đi một số bạn bè, chiến
hữu nhưng chúng ta cũng tự hào về tinh thần chiến đấu và lòng yêu
nước của những người đã nằm xuống cũng như đang còn lại. Chúng ta đã
làm rạng danh Tiểu đoàn 4 TQLC với Bình Giả.
Sau này Tiểu
đoàn 4 TQLC có lập một Đài Tử Sĩ ở Bà Rịa để ghi công các chiến hữu
đã bỏ mình tại đây.
Hôm nay, tôi
viết bài này cũng có thêm mục đích tưởng nhớ tới các đơn vị trưởng
như Thiếu tá Nguyễn Văn Nho, Đại úy Hoán, Bác sĩ Trương Bá Hân,
Thiếu úy Trịnh Văn Huệ, các bạn Võ Thành Kháng, Nguyễn Văn Hùng và
những người đã vĩnh viễn ra đi khác. Chúng tôi những kẻ còn lại luôn
luôn giữ vững ý chí sống còn cho Tự do, cho dân tộc Việt Nam. Và
ngày nay dù lưu vong nơi xứ người, chúng tôi vẫn là những người
lính, sẵn sàng hy sinh những ngày còn lại nếu cần.
No comments:
Post a Comment