Vài lời của người dịch.
Tôi
được một bạn trẻ Không Quân giới thiệu và Tiến Sỹ Lewis Sorley liên lạc
gửi cho tôi bài diễn văn ông đã đọc tại Đại Học Kỹ Thuật Texas TTU về
đề tài Reassessing ARVN. Ông có ý muốn nhờ tôi phiên dịch bài này ra để
phổ biến rộng rãi trong cộng đồng Mỹ gốc Việt. Tôi đã đọc kỹ bài thuyết
trình giài 32 trang, nhận thấy rất bổ ích về phương diện sử liệu và nhân
bản và đã chấp thuận đề nghị.
Trong
bài thuyết trình Tiến Sỹ Sorley đã dùng nhãn quan của một quân nhân và
một trí thức khoa bảng để thẳng thắn bênh vực quân đội Việt Nam trong
một thời kỳ chiến đấu cam go gian khổ nhất của nước nhà. Ông đã dầy công
nghiên cứu các tài liệu đã bạch hóa hầu đưa ra những nhận xét rất xác
đáng về khả năng, lòng quả cảm và sự chịu đựng tột cùng của các chiến sỹ
chiến đấu cho một nước Việt Nam tự do trước những búa rìu bất công của
các lực lượng phản chiến và thiên tả Mỹ Quốc. Những tên tuổi lớn ông đưa
ra như Đại Sứ Ellsworth Bunker, Đại Tướng Creighton Abrams, Thiếu Tướng
James L. Collins, Đại Tướng Tham Mưu Trưởng Lục Quân Harolk K.
Johnson,
Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara, trùm CIA William Colby, Sir
Thompson, Tướng John Paul Vann, Tướng Tiếp Vận Việt Nam Đồng Văn Khuyên,
Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Cao Văn Viên, Trung Tướng Ngô Quang
Trưởng Tướng Cộng Sản Võ Nguyên Giáp, Lê Trọng Tấn vv là những nhân vật
và dẫn chứng lịch sử trong giai đoạn nhiễu nhương và đau đớn ê chề cho
đất nước và tất cả chúng ta.
Nói
về chiến dịch Hạ Lào Lam Sơn 719 ông đã đưa ra những con số cho thấy
địch quân đã bị thiệt hại nặng nề và quân ta tuy không thắng trận nhưng
đã không thất bại như bọn chủ bại bên Mỹ đã rêu rao. Tôi được biết viên
Trung Tướng cộng sản chỉ huy chiến dịch là Trung Tướng Phạm Hồng Sơn,
tên thật là Phạm Thành Chính là một sinh viên luật cùng thời với tôi và
cùng ở Đại Học Xá Bạch Mai. Anh ta là anh em đồng hao với Võ Nguyên
Giáp, cùng là con rể nhà học giả Đặng Thái Mai, lấy con út ông Mai là
nhà văn và nhà giáo Đặng Anh Đào. Hiện tại Tướng Phạm Hồng Sơn đã 84
tuổi, đã lãng trí và cũng đã ra rìa như Giáp tuy được cấp một biệt thự
lớn ở
đường
Lý
Nam Đế Hà Nội.
Có
cả năm trang dành cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Trước hết tôi phải
nói rằng tôi cũng như nhiều đồng hương đã không mấy có thiện cảm với ông
Thiệu. Riêng tôi lại có một điều hận trong lòng khi ông ta cho tôi là
đàn em của Nguyễn Cao Kỳ. Năm 1948 khi tôi vào Sài Gòn với mấy bạn Đại
Việt Nguyễn Tất Ứng, Nguyễn Đình Tú tôi đã được đưa đến thăm ông Nguyễn
Văn Kiểu là anh lớn của ông Thiệu ở đường Kitchener. Ông Kiểu là một
đảng viên Đại Việt miền Nam, người rất hiền hậu và trung thực làm chủ
một cửa hàng bán nước mắm ở đó và chúng tôi đã trở thành khá thân thiết.
Hồi tôi nhận chức Thứ Ủy Tổng Cuộc Trưởng Tiếp Tế trong chính phủ
Nguyễn
Cao Kỳ mà không có nhân viên phòng sở thì tôi đã được tạm dùng bàn giấy
của ông Kiểu ở Trụ Sở Liên Minh Á Châu Chống Cộng số 122 trên đường
Hồng Thập Tự. Sau khi tôi rời TCTT, lúc ông Thiệu lên làm Tổng Thống thì
ông Kiểu đã đưa ý kiến cho chú em là “Tám, tại sao không dùng anh Cung”
thì được một câu trả lời lạnh lùng, “Cung là tay chân đao búa của
Nguyễn Cao Kỳ”. Nghe vậy tôi cho là một sỉ nhục. Vì coi tôi như là một
lũ điếu đóm xun xoe mạt chược, nhậu nhẹt, ăn tục nói phét xung quanh ông
Kỳ thì hơi quá!
Trong
phần dành cho ông Thiệu tôi thấy thương ông ta khổ tâm nhiều trong thời
kỳ mười năm nắm vận mệnh quốc gia, đương đầu với Mỹ, với đe dọa đảo
chính và với tình hình đa đoan của nước nhà. Được đọc bài phỏng vấn cựu
Phụ Tá thân cận Nguyễn Văn Ngân của Trần Phong Vũ tôi càng nhìn rõ sự cô
đơn của một lãnh tụ thông minh, mưu trí nhưng sinh bất phùng thời. Và
tôi càng thông cảm nỗi bất hạnh của ông để đặt câu hỏi “một người khác
nắm quyền có khá hơn không hay là chúng ta lại phải trải qua một bất
hạnh lớn hơn không”?
Trần Đỗ Cung (Prunedale, tháng 10, 2006)
XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ QUÂN LỰC VNCH
Trong
một cuộc chiến dai dẳng và khó khăn không một ai có thể nhìn rõ khả
năng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Hôm nay tôi trình bày vấn đề này
dưới nhiều khía cạnh trong tám mục chính và hai phụ khoản.
Chính
Phủ Việt Nam cấp các huy chương tham chiến cho quân nhân Mỹ. Đặc biệt
thấy gắn trên băng biểu chương một thẻ kim khí khắc “1960…” Người ta đã
không ghi niên điểm cuối cùng bởi lý do dễ hiểu; tuy nhiên ta có thể xem
1960 là khởi điểm vì đó là mốc đánh dấu sự gia tăng tham chiến của Mỹ
cho đến ngày quân đội Mỹ lên cực điểm. Trong giai đoạn này chúng ta có
môt cái nhìn tổng thể về thành tích của quân đội Việt Nam từ 1960 cho
đến 1975.
Vài
năm trước đây tôi đã viết một bài nhan đề “Dũng cảm và xương máu” để
phân tích thành quả quân đội Việt Nam trong vụ tấn công tháng Tư 1972.
Bài đã được đăng trong báo Parameters của trường Đại Học Quân Sự. Hồi
còn sinh thời ông Douglas Pike đã bình luận trong một ấn bản Indochina
Chronology như sau: “Đã có cố gắng chậm chạp nhưng liên tục điều chỉnh
và cứu vãn danh dự của ngưới quân nhân Việt Nam từng bị nhục mạ bởi bọn
phóng viên truyền hình thương mại ngu dốt và cánh trí thức thiên tả. Bài
của ông Sorley đã xét lại lịch sử và ông ta lập luận vững vàng trong
lãnh vực này”
Tôi
vẫn tri ân lời khuyến khích ấy và ước gì Giáo Sư Pike còn hiện diện để
thấy các tài liệu lịch sử hiện hữu chứng minh sự dũng cảm đưa đến trưởng
thành và thành tựu của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Chỉ vì nước chúng ta
không thực thi cam kết cho Nam Việt trong khi phe cộng sản vẫn tiếp tục
và đều đặn gia tăng yểm trợ Bắc Việt nên đồng minh bất hạnh của chúng
ta mới bị tràn ngập và thua trận.
Cho
đến nay chưa bao giờ có một cố gắng định mức toàn diện sự tiến triển và
thành tích của quân đội Việt Nam trong những năm bành trướng. Trong
thời giờ hạn hẹp ở đây tôi chỉ mong điều chỉnh phần nào sự khiếm khuyết,
bất công và nhiều lúc sai lạc mỗi khi bàn đến QLVNCH tuy đó là một thái
độ khôn ngoan cho đến nay.
Chúng
ta rất thiếu hiểu biết về cuộc chiến Việt Nam mặc dầu nó đã kết thúc ba
mươi năm qua. Là vì những người phản chiến hoặc ít nhất chống sự tham
dự của chính mình đã mô tả mọi khía cạnh qua một lăng kính xấu và nhiều
khi đã nói sai sự thật. Ông James Webb vạch mặt giới truyền thông, trí
thức và Hollywood là những nhóm đã “có lợi khi làm cho cuộc chiến bị xem
là không cần thiết hay không thắng được”. Và vì họ điều khiển dư luận
nên họ đưa ra những lập luận sai lầm ngay cả khi chiến tranh kết thúc đã
ba mươi năm. Những lập luận thật sai lạc, đi từ thóa mạ người lính Việt
trong một quá trình chiến đấu cam khổ cho đến Jane Fonda hạ nhục
những
tù binh Mỹ là bọn láo khoét hoặc đạo đức giả khi nói rằng họ đã bị tra
tấn hay hành hạ trong lúc bị giam cầm. Đã đến lúc ta phải bỏ thái độ
tiêu cực, lắm khi mạt sát và cố tình dùng chính trị để đổ lỗi cho quân
đội Việt Nam trong hầu hết các tranh luận.
PHẦN 1 : QUÂN ĐỘI VIỆT NAM LÚC ĐẦU
Đây
là giai đoạn mà chúng ta chủ động trong khi Việt Nam bị đẩy ra ngoài lề
với nhiệm vụ bình định (mà đây chính cũng là một khía cạnh của chiến
tranh và bộ chỉ huy Mỹ đã quên lãng). Bởi vậy họ không được cấp những vũ
khí mới cũng như được trợ chiến cần thiết.
Phần
đông chúng ta và ngay cả một số người Mỹ phục vụ tại chỗ đều chỉ trích
quân đội Việt Nam trong thời kỳ ấy. Họ đã không lưu ý đến một số yếu tố
ảnh hưởng nặng nề lên tình trạng đó. Quân cụ Mỹ cung cấp đều là những
thứ lỗi thời từ Thế Chiến II, nhất là các súng trường M-1 vừa nặng vừa
cồng kềnh với tầm vóc người Việt. Trong khi đó thì kẻ thù đã được
Nga-Tầu trang bị đầy đủ súng AK-47.
Thiếu
Tướng James L. Collins đã trình bầy về tình hình quân đội Việt Nam như
sau, “Năm 1964 địch quân đã bắt đầu xử dụng AK-47, một loại súng tân
tiến, tự động và rất bén nhậy. Trái lại lực lượng bạn vẫn dùng loại khí
cụ phế thải của Thế Chiến II…” Rồi từ năm 1965 khi quân Mỹ lần hồi gia
tăng nhập cuộc thì nhu cầu chiến tranh về phía bạn lại càng bị đẩy lui
vào hậu trường”.
Do
đó các đơn vị Việt luôn luôn bị địch quân áp đảo trong thế đánh không
cân xứng. Đại Tướng Fred Weyand khi thuyết trình mãn nhiệm chỉ huy Đệ
Nhị Lộ Quân đã nói rõ, “Sự chậm trễ cung cấp khí giới và quân cụ mới cho
Việt Nam, ít nhất ngang với sự yểm trợ của Nga Tầu cho quân địch làm
cho quân bạn yếu kém”.
Chỉ
từ khi Đại Tướng Creighton Abrams nhận chức Tư Lệnh Phó Quân Lực Mỹ vào
hồi tháng Năm 1967 người ta mới bắt đầu chú ý đến quân Nam Việt. Tướng
Abrams điện ngay cho Đại Tướng Tham Mưu Trưởng Harold K. Johnson như
sau. “Tôi thấy ngay là quân lực Mỹ tại đây cũng như bên chính quốc chỉ
nghĩ trước tiên đến hành quân Mỹ và yểm trợ các đơn vị Mỹ. Do đó chương
trình cung cấp chiến cụ cho Việt Nam đã ít ỏi mà lại còn không được thi
hành một cách tích cực và cấp tốc như đối với quân Mỹ. Rõ ràng chúng ta
có trách nhiệm lớn với quân bạn. Công việc phải làm ngay và tôi đang bắt
tay cấp kỳ vào việc”!
Ngay
khi nhậm chức, Tướng Abrams liền gia tăng lực lượng Việt Nam, nhất là
cung cấp các súng M-16. Trong trận tấn công Tết Mậu Thân 1968 ông đã đưa
được M-16 vào tay Nhẩy Dù và các đơn vị tiền tiến khác. Tuy nhiên phần
đông vẫn bị lép vế đối với công sản. Trung Tướng Chỉ Huy Tiếp Vận Đồng
Văn Khuyên nhắc lại rằng, “Trong Vụ Tềt Mậu Thân người ta nghe rõ tiếng
sắc bén liên hồi của AK-47 trong Sài Gòn cũng như các thị trấn khác, như
là một diễu cợt khôi hài cho các phát súng lẻ tẻ Garant và Carbine
trong tay hoảng hốt của quân ta”!
Tuy vậy quân Việt vẫn đẩy lui
địch quân một cách bất ngờ và dũng cảm. Báo Time đã viết: “Nhiều người
Mỹ đã ngạc
nhiên
và Công Sản đã đau đớn sửng sốt thấy quân đội Việt Nam đã tức tốc đương
đầu và chiến đấu ngang tàng can đảm khác hẳn dự đoán”. Nhưng không thấy
ai đề cập đến sự chênh lệch khí giới của đôi bên.
Tháng
Hai 1968 Tướng hồi hưu Bruce C. Clarke đi thăm Việt Nam và viết một tờ
nhận định được Đại Tướng Early Wheeler chuyển đến tay Tổng Thống
Johnson. Tướng Clarke nói “các đơn vị Việt còn bị chi phối bởi một
chương trình quân viện nghèo nàn, kể cả khí giới cá nhân. Điều này ảnh
hưởng lớn đến tinh thần và thành quả của binh sĩ. Quân sỹ cảm nhận rõ
khi họ không được trang bị đầy đủ”!
Tổng
Thống Johnson liền mời Tướng Clarke đến văn phòng đàm luận thêm. Và sau
đó ít ngày “viên phụ tá Tổng Thống điện thoại báo cho tôi là Tổng Thống
Johnson đã ra lệnh gửi ngay 100,000 súng M-16 cho quân VNCH”. Tổng
Thống đã nhấn mạnh trong bài diễn văn lịch sử ngày 31 tháng Ba 1968,
“Chúng ta sẽ nhanh chóng tăng viện cho quân đội Việt Nam để đáp ứng sự
gia tăng hỏa lực của địch quân”.Thật là kịp thời.
Tướng
Clarke trở lại Việt Nam vào tháng Tám 1969 để thấy “lực lượng VNCH đã
có 713,000 khẩu M-16 cùng với các khí giới khác và họ đã tiến bộ nhiều
kể từ Tết Mậu Thân”. Hiện nay họ và các lực lượng diện địa đều đã có
súng cá nhân tối tân luôn cả phóng lựu M-79, súng máy M-60 và các đài vô
tuyến AN/PRC-25 như quân đội Hoa Kỳ.
Các
sư đoàn Mỹ được trang bị tối tân và nhiều hơn phía Việt Nam nên khả
năng tác chiến cũng gấp bội. Tùy viên của Tướng Abrams đã nhấn mạnh là
Đại Tướng đã nghiên cứu so sánh khả năng tác chiến giữa sư đoàn Mỹ và
Việt Nam để thấy chênh lệch hỏa lực 16 lần. Tướng Abrams dùng dữ kiện
này để tìm cách tăng viện cho các sư đoàn VNCH. Phía VN còn bị kém hơn
nữa vì lúc đầu các yểm trợ chiến trường đều ưu tiên cho quân Mỹ, như
oanh tạc B-52, xử dụng trực thăng, chiến đấu cơ cận chiến và chuyển quân
giữa chiến địa.
Tướng
Abrams nói thêm là trong lần tấn công thứ ba vào tháng Tám và Chín 1968
quân VN đã hạ được nhiều địch quân hơn cả tổng số của Đồng Minh. Họ
cũng chịu nhiều tổn thất nhân mạng hơn theo số kiểm chứng cũng như theo
ước tính với phân số ta và địch tử vong. Ông nói với Tướng Wheeler rằng
đó là vì thật sự quân đội VN không được yểm trợ như quân đội Mỹ cả về
phẩm lẫn lượng (trọng pháo, không tập chiến thuật, không pháo và trực
thăng vận). Bởi vậy việc chỉ trích quân đội VN trong thời kỳ đầu thiếu
khách quan. Thiếu khí giới cần thiết trước một địch quân hùng hậu hơn
lại còn bị đẩy xuống vai trò thứ yếu trong nhiều năm đã không cho họ
cơ
hội tăng tiến kinh nghiệm chiến đấu.
Về
sau ông Robert McNamara từng là Bộ Trưởng Quốc Phòng và chủ động chiến
tranh đã viết một cách hời hợt về phía Việt Nam. Ông đã bị William Colby
sửa lưng như sau, “Ông không có quyền nói xấu những người Việt đã đem
xương máu chống cộng sản trong khi đại cường Mỹ đã phủi tay chỉ vì lỗi
lầm của McNamara. Mục đích hết sức cao đẹp nhưng Hoa Kỳ đã thua với
McNamara và phần lớn là vì hắn”!
PHẦN 2.- TẾT 1968
Chiến
trận xẩy ra khắp nơi hồi Tết 1968 là một thử thách lớn cho Quân Đội
VNCH. Nhiều người đã sửng sốt chứng kiến một thành tích vượt bực. Khi đi
nhận giải Thayer tại trường Westpoint Đại Sứ Ellsworth Bunker lên diễn
đàn ca ngợi chiến tích ấy. “Mặc dầu Quân Đội VN ít hơn nhưng họ đã chiến
đấu vượt bực. Đại Tướng Abrams đã nói họ chiến đấu ngoài sức tưởng
tượng của họ. Đã không có nổi dậy, không có đào ngũ và chính quyền vẫn
nguyên vẹn. Trái lại họ phản ứng cấp kỳ, mạnh mẽ và đích đáng; họ chiến
đấu với tối đa sức mạnh”.
Thành
tích vượt bực của quân đội VNCH trong trận Tết Mậu Thân 1968 rất cần
thiết cho tương lai Việt Nam. Đại Sứ Bunker nói tiếp :”Kết quả là cả một
chuỗi diễn tiến làm cho chính phủ Việt Nam vững mạnh, dân chúng tin
tưởng hơn khả năng đương đầu với địch và chính quyền thấy sẵn sàng gánh
vác vai trò chiến đấu hơn”.
Ông
John Paul Vann cũng đồng ý nói trong năm 1972 rằng “Tết Mậu Thân đã làm
cho chính phủ Nam Việt gia tăng kiểm soát lãnh thổ, tổng động viên nhân
lực để có đủ quân số trám vào khi quân Mỹ rút lui và gia tăng lực lượng
địa phương bảo dảm sự hiện diện chính quyền trung ương tại các vùng
thôn quê”.
Lúc
Đại Tướng Abrams nhận chức chỉ huy lực lượng Mỹ tại Việt Nam thì xẩy ra
vụ tấn công thứ ba của cộng sản vào mùa Thu 1968. Ông điện cho Đại
Tướng Earle Wheeler và Đô Đốc John McCain, “Tôi phải kết luận rằng việc
quân Việt Nam đã giết nhiều địch trong vòng sáu tuần lễ hơn cả quân Đồng
Minh chứng tỏ tiến bộ lãnh đạo và tinh thần xung kích của họ. Họ phải
trả một giá rất cao về tử vong vá tôi cho phần lớn là vì không được yểm
trợ đúng mức. Do đó cần phải nhanh chóng tăng viện khí giới cho họ”.
Trong
cuộc họp thượng đỉnh ở Midway vào tháng Sáu 1969 chưong trình nghị sự
chú tâm đến bành trướng và tăng quân viện cho quân lực Việt Nam. Quân số
tăng lên 820,000 rồi lại đưa lên đến 1.1 triệu người đã được ký kết.
Ngoài ra, theo ghi nhận của Thiếu Tướng Trần Đình Thọ, còn thỏa thuận
trang bị thêm M-16, đại liên M-60 và hỏa tiễn LAW. Vậy thấy rằng ngay
lúc ấy mà còn bàn đến M-16 thì quân Việt đã phải chiến đấu từ lâu ở thế
kém với một địch quân hùng hậu.
PHỤ ĐÍNH .- VÀI SO SÁNH
*Đã
có 50 người đào ngũ mỗi ngày dưới sự chỉ huy trực tiếp của Tổng Tư
Lệnh. Đó là trường hợp Đại Tướng George Washington ở Valley Forge trong
mùa Đông 1777-1778.
*Đã
phải đưa đại pháo ra đường dẹp phiến loạn chống động viên. Đó là lúc
Tổng Thống Abraham Lincoln đã phải quyết định ở Nữu Ước hòi tháng Tư năm
1865 trong cuôc nội chiến Nam Bắc.
*Trong
trận chiến cuối cùng đã chỉ có nửa quân số tham dự vì tệ nạn đào ngũ.
Đó là trường hợp Đại Quân Potomac của Tướng George Meade ở Gettysburg.
“Ông ta hy vọng có 160,000 binh sĩ nhưng chỉ vỏn vẹn được 85,000 vì
75,000 lính đã đào ngũ. Trong cuộc Nội Chiến Mỹ, tỷ lệ đào binh của Liên
Quân là 33% trong khi bên kia còn hơn nữa ở mức 40 phần trăm”.
*Trong
cuộc tổng xung kích một nửa số binh sĩ trong các sư đoàn đã kháng lệnh.
Đó là trường hợp Quân Đội Pháp năm 1917 làm cho tòa án binh đã phải kết
tử hình 554 quân nhân trong số ấy 49 người đã bị hành quyết.
*Đặc
biệt có trường hợp một số đơn vị đã tháo chạy; đó là trong Thế Chiến II
khi Đại Đội K thuộc Sư Doàn 25 Mỹ đã bỏ chạy toán loạn. Sử gia Geoffrey
Perret ghi, “Hiếm thấy một Sư Đoàn Mỹ nào không có tình trạng Đại Đội
bỏ ngũ như vậy”.
*Nói
đến một đơn vị mà Tư Lệnh Sư Đoàn bị cách chức, bốn phụ tá chính bị
loại, hai Tiểu Đoàn Trưởng bị bắt sống và chin Tiểu Đoàn Trưởng khác bị
thay thế. Đó là Sư Đoàn Mỹ 36 tại Salermo trong Thế Chiến II.
*Luôn luôn pháo kích, ám sát, bắt cóc và áp đảo thường dân vô tội là việc làm của công sản trong suốt cuộc chiến.
*Giết hại thường dân vô tội như trong trường hợp Thủy Bồ và Mỹ Lai là thành tích xấu xa của quân Mỹ trong những năm 1967-1968.
Ta
có thể kể ra nhiều trường hợp tương tự. Điểm nên nhớ là nếu đem so sánh
với các lực lượng đương thời hoặc theo lịch sử ghi nhận thì QLVNCH đã
chiến đấu ngang tàng và xứng đáng trong suốt cuộc chiến. Đó là một điểm
son không bao giờ được nhắc tới.
Có
rất nhiều tài liệu ghi sự dũng cảm và thiện chiến của QLVNCH, tuy nhiên
các nhà viết sử không chú ý đến và các phóng viên báo chí thì lờ đi.
Trong Văn Khố Quôc Gia có hàng ngàn huy chưong Hoa Kỳ cấp cho quân sỹ
Việt Nam vì thành tích phục vụ quả cảm.
Quá
trình đẹp đẽ ấy lại càng đáng nể hơn nếu ta nghĩ rằng người lính Việt
đã tham chiến từng nhiều thập niên và phần đông đã hy sinh cả quãng đời
thanh niên của họ. Một người Mỹ đã nói rất chí tình, “Quân nhân Việt
không có DEROS (ngày được trở về) như lính Mỹ chỉ phục vụ một năm ở Việt
Nam. Họ chiến đấu không ngừng nghỉ năm này qua năm khác với một sức
chịu đựng và lòng nhiệt thành không tưởng tượng được. Ngay sau khi cộng
sản thắng trận phần đông lại còn chịu giam cầm hàng chục năm trong các
trại lao cải nghiệt ngã”.
PHẦN BA.- ĐỊA PHƯƠNG QUÂN
Sau
vụ Tết Mậu Thân 1968 Bộ Tư Lệnh Mỹ thay đổi. Đại Tướng Creighton Abrams
lên thay Đại Tướng Westmoreland và đổi quan niệm về cuộc chiến và
phương pháp hành xử. Tướng Abrams nhấn mạnh “chiến tranh toàn diện” gồm
cả hành quân, bình định và gia tăng khả năng QLVNCH theo một quy trình
cấp bách ngang với chiến trận.
Chiến
thuật cũng thay đổi từ quan niệm “truy và diệt” qua “bình định và giữ
đất”. Có nghĩa là khi địch bị đẩy ra khỏi vùng có dân thì quân đội phải
đóng lại chớ không rút đi cho địch trở lại. Do đó Địa Phương Quân được
phát triển tối đa để phụ trách an ninh và bình định lãnh thổ.
Trung
Tướng Nguyễn Duy Hinh cho sự phát triển và nâng cao các lực lượng địa
phương là việc làm quan trọng nhất của Mỹ. Đại Tướng Ngô Quang Trưởng
nhận định rằng kết quả bình định xã ấp, gia tăng số dân sống dưới chính
quyền và an toàn giao thông là công của lực lượng địa phưong quân và
nghĩa quân.
Tháng
Năm 1967 khi Đại Tướng Abrams đến Việt Nam thì quân lực VN gồm có Lục
Quân, Hải Quân, Thủy Quân Lục Chiến và Không Quân. Ngoài ra còn có những
lực lượng diện địa bao gồm Địa Phương Quân và Nghĩa Quân phụ trách an
ninh lãnh thổ. Tỉnh Trưởng chỉ huy Địa Phương Quân còn Nghĩa Quân đặt
dưới quyền Quận Trưởng. Các lực lượng này trú đóng tại địa phưong của họ
và thực hiện mục tiêu “càn quét và giữ đất”. Vào năm 1970 đã có 550,000
quân số, nghĩa là một nửa QLVNCH.
Một
trùng hợp, đêm hôm trước Bing West và một nhân vật nữa đã lên kênh PBS
“Giờ tin tức với Jim Lehrer” để thảo luận về tình hình Iraq. Một người
đã nói đến quan niệm “càn quét và giữ vững” của Condoleza Rice. Nếu ta
tìm nguồn gốc quan niệm này thì hẳn phải kể Lực Lượng Diện Địa Nam Việt,
Đại Tướng Abrams, Đại Tướng Harold K. Johnson và bản nghiên cứu PROVN
(chương trình bình định và phát triển Nam Viêt) của Đại Tá Jasper
Wilson.
Ngay
từ tháng Mười 1968 ông William Colby làm phụ tá Bính Định cho Tướng
Abrams đã giải thích tầm quan trọng của các lực lượng ấy. “Để bảo vệ an
ninh lãnh thổ chúng ta chú trọng đến tăng tiến Địa Phưong và Nghĩa Quân,
lên ngót một nửa toàn thể quân số. Chúng ta đã bắt đầu ngay từ tháng
Mười vừa qua. Trong một buổi thuyết trình Đại Tướng Abrams đã nhấn mạnh
ba mươi điều phải làm trong đó có việc cử các toán nhỏ cố vấn quân sự
đến các Đại Đội Địa Phương Quân và các Trung Đội Nghĩa Quân. Ta đã có
250 toán năm người rải rác khắp mọi nơi”.
Ba
tháng sau ông Colby đã thấy sự tăng tiến nhanh chóng huấn luyện và vũ
khí cho các đơn vị ĐPQ cũng như NQ. “Dã có 91,000 binh sỹ nhiều hơn năm
ngoái. Khoảng 100,000 người đã được trang bị súng M-16 và 350 toán cố
vấn đã sống và làm việc với các đơn vị ĐPQ và NQ”. Ngay khi lãnh chức Tư
Lệnh Đại Tướng Abrams đã thẳng thừng chuyển các súng mới cho họ. Ông
nói trong bài thuyết trình tháng Tám 1968, “Trong một năm ĐPQ và NQ được
ưu tiên hàng đầu và nhận súng M-16 trước cả Lục Quân. Cũng như mọi
việc, tôi đã bỏ vào quỹ-tiết-kiệm-lính với lãi xuất 10 phân. Trời Đất
ơi, chúng ta đã đầu tư vào đây và đó là việc phải làm, ưu tiên tối đa
trên tất cả mọi
thứ”!
ĐPQ
và NQ gia tăng khả năng và thành tích của họ và phải được ghi công đầu.
Trong buổi thuyết trình WIEU (dự đoán tình báo hàng tuần) cho quan
khách Tướng Abrams nói, “Điều tôi quan tâm nhất là vai trò của ĐPQ và NQ
trong chiến cuộc luôn bị quên lãng. Người ta chỉ thường nói đến QLVNCH
trong khi đã lâu nay ĐPQ và NQ gánh chịu nhiều tổn thất và đã giáng cho
quân địch nhiều đòn chí tử. Tôi nói thẳng, nếu ta muốn nói đến an ninh
cho dân thì đây mới là phần việc lớn”!
Cùng
một lúc, ông nói rõ ràng về thành tích của các đơn vị này. “Tôi không
biết có nên trang bị thêm các đại đội Lục Quân không. Nếu có thêm nhân
số thì tôi nghĩ đem đầu tư vào các lực lượng diện địa này có lợi hơn”.
Cuối
năm 1969, khi nhìn biểu đồ tình hình trong ba tháng vừa qua ghi rõ ai
đã đem lại nhiều thành quả nhất về khí giới, tử vong, Tướng Abrams đã
nói: “Thật rõ ràng và đúng. Số địch bị giết, khí giới thu được, hầm bí
mật phát hiện, vv, thì QĐVNCH vẫn giữ nguyên tỷ lệ 27/28% trong khi tỷ
lệ của Đồng Minh sút giảm. Sự chênh lệch là do các lực lượng địa phương
và đã xẩy ra từ tháng Tám vừa qua”.
Một người trong cừ tọa nói lớn, “Đó là tính chất của cuộc chiến”!.
Tướng
Abrams trả lời ngay, “Đúng lắm! Tôi luôn luôn hỏi lợi nhuận thu được từ
100,000 súng M-16 như thế nào? Như vậy hả? Vâng ta đã bắt đầu thấy kết
quả”!
Ông
Bill Colby cũng nhận xét rằng trong tháng Bẩy 1970 lực lượng địa phương
cũng bảo vệ được súng của mình. Tỷ lệ khí giới mất đối chiếu với vũ khí
thu được là một trên ba, khác hẳn tình trạng năm năm trước đây.
Tướng
Abrams nói thêm: “Các Lực Lượng Địa Phưong, các con sóc ấy tiến tới rất
vững vàng. Một tình trạng đã được duy trì lâu nay là ĐPQ và NQ đã gánh
chịu phần lớn trách nhiệm chiến tranh”.
Các
sỹ quan cao cấp Việt Nam cũng nhìn nhận như Trung Tướng Ngô Quang
Trưởng, “Các ĐPQ và NQ đã lần hồi gỡ bỏ mặc cảm của một phụ lực quân để
trở thành các binh sỹ chính quy và là một bộ phận chính của bộ máy chiến
tranh”! ĐPQ tăng tiến về phẩm cũng như lượng đã được các nhân vật bình
luận khắt khe như Tướng Julian Ewell khen tặng, “Họ là mũi nhọn trên
chiến trường”!
PHẦN 4 .- NHỮNG VẤN ĐỀ NHỨC NHỐI
Có
ba vấn đề luôn luôn khó khăn cho QLVNCH trong suốt chiến tranh là,
thiếu cán bộ lãnh đạo giỏi, tình trạng tham nhũng lan rộng và đào ngũ.
Có
lãnh đạo với đầy đủ khả năng chỉ huy là một vấn nạn cho QLVNCH trong
suốt cuôc chiến. Với sự gia tăng quân số đến 1.1 triệu người tình trạng
lại càng trầm trọng hơn. Sự thất thoát cấp chỉ huy của các đon vị nhỏ
lại càng làm cho vấn đề tệ hại khi quân số gia tăng.
Công
việc huấn luyện và các kế sách tuyển mộ các chỉ huy mới rồi đôn họ lên
theo chiến tích thật là nhọc nhằn và khó khăn. Sau chiến dịch Lam Son
719, Đại Tướng Abrams tham dự một cuộc duyệt binh tại Huế đã nói, “Thật
là một việc đáng ghi. Họ đôn quân, HSQ được thăng lên, HSQ lên thành
Chuẩn Úy, Chuẩn Úy lên Thiếu Úy. Tổng Thống Thiệu tuyên bố rằng đó là
việc nhỏ với 5,000 thăng cấp, mà thăng cấp mặt trận”.
Tướng
Abrams rất thích: “Đó là chuyện đã xẩy ra ở Lào. Không có cách gì tốt
hơn trong quân đội là đi vào hàng ngũ lựa chọn những phần tử chiến tích
thích đáng mà đôn lên”. (Cũng như vậy đối với các viên chức tại Trung
Tâm Huấn Luyện Vũng Tàu hầu giúp họ tăng tiến khả năng quản trị và lãnh
đạo trong công việc).
Vài
vị chỉ huy Việt Nam đã không ngớt chỉ trích khả năng lãnh đạo của mình.
Đại Tướng Cao Văn Viên đã viết trong cuốn sách của ông như sau, “Trong
thời gian tôi phục vụ ở cương vị Tộng Tham Mưu Trưởng tôi đã chứng kiến
sự thành công cũng như thất bại của khả năng lãnh đạo của chúng ta. Mặc
dầu chúng ta đã cố gắng tối đa nhưng vẫn không đủ trong hoàn cảnh khó
khăn của đất nước”.
Sự
đào ngũ trong các sư đoàn là một căn bệnh trầm trọng của QLVNCH. Tuy
nhiên không phải đào ngũ theo phe đich nhưng phần lớn là để tránh ra
trận hay để về nhà. Đó là một việc khác hẳn phía địch khi phần đông
những đào binh quay về hàng ngũ quân ta. Trái lại đào binh ta thường trở
lại ngũ tại địa phương. Theo Anthony Joes đó là sự hoán chuyển từ quân
đội chính quy về địa phưong quân mà tỷ lệ đào ngũ gần như không có mặc
dầu số tử vong cao hơn quân chính quy.
Tham
nhũng là một nhược điểm nữa không bao giờ gột tẩy được mặc dầu ảnh
hưởng lên chiến cuộc không mấy quan trọng như ngưới ta thường kêu la.
Tuy nhiên Đại Tướng Cao Văn Viên đã kết luận như sau. “tham nhũng không
phải yếu tố đưa đến sự xụp đổ của chế độ nhưng chắc chắn nó gây ảnh
hưởng tệ hại đến trình độ binh nghiệp và như vậy làm suy nhược khả năng
chiến đấu”.
Ông
Tom Polgar của CIA nhận định xác đáng rằng tham nhũng không thể lật đổ
một quốc gia cũng như trường hợp Phi Luật Tân, Nam Hàn hay Thái Lan.
“Nước nào mà không trả công tương xứng cho viên chức đều có tham nhũng,
đó là một quy luật. Tuy nhiên tham nhũng bòn rút hết tiêm lực quốc gia
khi có ngoại xâm”.
Đại
Tá William LeGro đã ở lại đến những ngày cuối cùng với DAO (Cơ Quan Tùy
Viên Quốc Phòng) đồng ý. Ông nói: “Tham nhũng không làm cho sụp đổ. Sự
giảm thiểu viện trợ Hoa Kỳ đến con số không là đáp số”. Ông ta nói thêm:
“Chúng ta đã đối xử một cách xấu xa bỉ ổi với bạn Việt Nam của chúng
ta”.
PHỤ ĐÍNH .- NGUYỄN VĂN THIỆU.
Phần này bàn về cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Tư Lệnh Tối Cao QLVNCH.
Tổng
Thống Thiệu lãnh đạo quốc gia trong một thời kỳ ngặt nghèo nhất. Trong
khi chiến đấu chống ngoại xâm và nội loạn được Nga Tầu yểm trợ tối đa,
ông đã đặt các cơ cấu dân cử từ trung ương cho đến hạ tầng xã ấp. Ông đã
gia tăng quân đội và với sự trợ giúp của Hoa Kỳ, ông đã tăng tiến phẩm
chất quân lực để thay thế quân Mỹ. Ông trực tiếp lãnh đạo chương trình
bình định nông thôn và phá vỡ hệ thống khủng bố đe dọa dân quê. Ông thực
thi một chính sách cải cách ruộng đất đáng khen, phân phát cho 400,000
nông dân 2 triệu rưỡi mẫu ruộng, và tổ chức bốn triệu dân thành một lực
lượng dân vệ với 600,000 khẩu súng.
Trong
sáu năm phục vụ Đại Sứ Ellsworth Bunker thường xuyên tiếp xúc với Tổng
Thống Thiệu và đã nhận xét xác đáng về con người cùng khả năng của ông
ấy. Đại Sứ Bunker nói: “Ông ta đối phó với tình hình một cách khôn ngoan
và khéo léo. Ông ta là một con người trí thức đầy khả năng. Thoạt đầu
ông đã cai trị theo hiến pháp chớ không theo một lũ Tướng Tá chỉ muốn
ông hành động theo ý họ. Càng ngày ông càng hành xử như một chính trị
gia (đây là một lời khen của Bunker), đi về vùng quê, thanh tra bình
định, chuyện trò với dân xem họ muốn gì”. Ông Bunker khen ngợi ông Thiệu
và có khi coi ông ta như một đối thủ chính trị có bản lãnh. Bunker nói:
‘Tôi nghĩ
Thiệu
là
một người khôn ngoan và chín chắn”.
Ông
Thiệu cũng hết sức thực tế khi phàn nàn với Bunker rằng, “Thật là khổ
cho chúng tôi đã không có mấy vị Tướng đủ khả năng chỉ huy hơn một sư
đoàn”! Khi nói vậy ông ám chỉ cả chính ông một cách khiêm nhượng và rất
đúng.
Vì
quân đội cung cấp phần lớn khả năng hành chính cũng như chính trị nên
ông Thiệu bị giới hạn một cách đau thương trong việc thay thế các phần
tử thiếu khả năng hay bất xứng. Lại nữa ông ta cũng cần phải lưu giữ
những người đáng tin cậy mặc dầu yếu kém. Trong thời đầu nhiệm kỳ ông đã
cắt nghĩa cho một nhân viên Mỹ cao cấp như sau: “Hoàn toàn thanh lọc
cấp chỉ huy trong quân đội là một việc bất khả thi. Mỗi sự thay thế một
vị tư lệnh đều phải sắp đặt và thi hành hết sức cẩn trọng. Không thể kéo
quân đội ra khỏi chính trị trong một sớm một chiều. Tổ chức quân đội
vẫn là thế đứng duy nhất của tôi và hơn nữa là một cơ chế vững vàng
nhất
để bảo đảm thống nhất quốc gia”.
Đại
Sứ Bunker cũng như Đại Tướng Abrams hiểu rõ vấn đề nên tỏ ra rất kiên
tâm và thông cảm. Nhưng họ cũng đưa ra những đề nghị chính xác liên quan
đến các cấp chỉ huy cao thiếu khả năng. Thường thì được nghe theo tuy
phải mất thời giờ trong khi sắp xếp chính trị. Trong một thời gian đã có
những thay đổi lớn trong cấp lãnh đạo quân cũng như chính, có khi do áp
lực khủng hoảng chiến trường. Tuy nhiên chưa bao giờ có việc thanh
trừng rộng rãi là vì không những để tránh xáo trộn mà lại còn không có
đủ người xứng đáng thay thế. Đào tạo nhiều cấp chỉ huy tốn quá nhiều thì
giờ.
Giới
cao cấp Hoa Kỳ nhận thấy sự quan trọng của Thiệu trong việc bình dịnh.
Tướng Abrams bảo rằng ông Thiệu hiểu nhiều hơn bất cứ ai về công tác
bình định và William Colby gọi ông là “con người bình định số một”. Lịch
sử Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Mỹ đã nhận định “Thiệu là một yếu tố quan
trọng. Ông ta nhận định rõ ràng sự quan trọng của chương trình bình định
và thiết lập các cơ cấu hành chính cấp địa phương”.
Nhiều
dịp Tổng Thống Thiệu mời Đại Sứ Bunker cùng đi kinh lý thôn xã. Ông
Bunker đã nghe ông Thiệu nhấn mạnh sự thiết lập cơ chế hành chính địa
phương, tổ chức bầu cử xã ấp, huấn luyện các viên chức địa phương và cải
cách ruộng đất. Tại Trung Tâm huấn luyện Vũng Tầu 1,400 xã trưởng nghĩa
là ba phần tư làng xã Nam Việt đã theo học trong chin tháng đầu năm
1969. Tổng Thống Thiệu đi thăm mọi lớp và cho các học viên khi trở về
làng có thể hãnh diện nói với dân là “Tổng Thống đã khuyên nhủ tôi thế
này thế nọ”. Cuối năm 1969 tình hình đã tiến bộ rõ rệt khiến cho ông
John Paul Vann, một nhân vật hàng đầu trong chương trình bình định đã
nói trước cử
tọa
tại Princeton rằng, “Hoa Kỳ đã thắng trên trận địa và nay đang thắng
chính trị với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu”.
Hồi
tháng Tư 1968, trái với ý kiến của hầu hết các cố vấn, Tổng Thống Thiệu
đã thiết lập các lực lượng Nhân Dân Tự Vệ. Ông Thiệu lập luận rằng,
“chính quyền căn bản trên dân. Bởi vậy chính quyền không có nền móng nếu
không dám đưa khí giới cho dân”. Do đó khoảng bốn triệu người, trong số
những người quá trẻ hoặc quá già để nhập ngũ, đều xung vào Dân Vệ và
được trang bị 600,000 súng cá nhân. Lập luận xác đáng là chính phủ Thiệu
được dân ủng hộ, Dân Vệ đã dùng súng chống lại sự đô hộ cộng sản chớ
không phải chống chính phủ.
Về
sau qua bao nhiêu tài liệu người ta thấy rõ rằng cộng sản đã nhiều lần
kêu gọi tổng nổi dậy nhưng không bao giờ dân đã nổi dậy theo chúng. Theo
con mắt khách quan của nhiều quan sát viên thì không lạ gì mà sau bao
nhiêu năm ám sát, bắt cóc, khủng bố, ức chế và pháo kích bừa bãi các khu
dân cư trong toàn Nam Việt mà cộng sản đã không chinh phục được lòng
dân.
Tháng
Mười năm 1971 trong tình hình chiến tranh dữ dội Tổng Thống Thiệu đã
thắng cử không có đối thủ. Nhiều người đã chỉ trích ông cho rằng sự
thắng cử của ông không xứng đáng vì không có đối lập.. Tuy nhiên mặc dầu
địch đe dọa và kêu gọi tẩy chay đầu phiếu đã có 87.7 phần trăm cử tri
hợp lệ đến phòng phiếu và 91.5 phần trăm đà bỏ phiếu cho ông Thiệu. Đó
là một tỷ lệ cao nhất của Việt Nam. Nếu không hay ho vì không có đối thủ
hay dân không bằng lòng sự lãnh đạo của ông thì tại sao họ lại đi bỏ
phiếu đông như vậy mặc dầu có thể nguy hiểm đến tính mạng? Người ta thấy
rằng, mặc dầu có nhiều chỉ trích, phần đông dân chúng muốn ông
tiếp
tục lãnh đạo xứ sở.
Ông
John Paul Vann tuyên bố hồi tháng Giêng 1972 rằng “yếu tố căn bản không
chối cãi được là khoảng 95 phần trăm dân chúng muốn có chính phủ Việt
Nam hiện hữu hơn là chính phủ cộng sản hay một chính phủ do phía bên kia
đưa ra”.
Thật
là buồn khi nhiều người Việt đã chỉ trích ông Thiệu. Tôi đã nói chuyện
với nhiều bạn Việt hiện sinh sống ở đây. Mới đây một người bạn học thức
và thông minh đã nói với tôi một cách phũ phàng rằng Tổng Thống Thiệu đã
nói dối. Tôi hỏi lại như thế nào thì được trả lời ngay: “Thiệu biết rõ
là người Mỹ sẽ bỏ rơi mà không nói cho chúng tôi biết”.
Tôi
cho đó là một lời buộc tội quá nặng và cần bàn lại. Đại Sứ Bunker nhớ
đã tự tay đưa cho Tổng Thống Thiệu ba bức thư cam kết của Tổng Thống
Nixon giúp Việt Nam nếu cộng sản vi phạm trắng trợn hiệp định. Nhưng ông
Bunker nói, “Quốc Hội bó tay chúng ta và kết quả là nước Mỹ đã bội
phản”. Ông Bunker giải thích rõ ràng, “tôi không thể hình dung được làm
sao Tổng Thống Thiệu có thể biết trước cung cách và hành động điếm nhục
ấy của Hoa Kỳ”!
Ông
Thiệu đã từ chức vài ngày trước khi Sài Gòn thất thủ hầu mong có dàn
xếp ổn thỏa. Trong bài giã từ ông đã làm đúng khi giận dữ chua chắt về
một cuộc tranh đấu cam go trong nhiều năm. Nó đã cho thấy rằng ông cũng
đã sửng sốt như bất cứ ai khi người đồng minh một thời đã quay lưng lại
một người bạn trong lúc hoạn nạn (và phản bội cả những người Mỹ đã hy
sinh tại Việt Nam).
Theo
tôi thì Nguyễn Văn Thiệu đã thi hành nhiệm vụ một cách can dảm trong
nhiều năm chiến tranh để xứng đáng được kính nể và biết ơn của những ai
vẫn muốn thấy miền Nam Việt Nam tốt đẹp (còn có nể trọng hay không là
tùy trường hợp).
PHẦN 5 .- LAM SON 719
Rõ
ràng người ta đã cho rằng chiến dịch Lam Son 719 vào Hạ Lào là một thảm
bại cho Nam Việt. Tuy nhiên sự thật khác hẳn, vì hiện nay với băng ghi
Abrams và các nguồn tin khác đã cho biết là quân Bắc Việt thiệt hại nặng
khiến cho chúng mất trớn tổng tấn công miền Nam để ta có thì giờ kiện
toàn Việt-Nam-Hóa-Chiến-Tranh.
Trong
tài liệu WIEU (cập nhật hằng tuần tình báo) ngày 30 tháng Giêng ta thấy
địch quân biết đôi chút về hành quân vượt biên giới của ta. Tám ngày
trước khi cuộc hành quân khởi diễn, COMINT (tình báo vô tuyến) nhận thấy
địch quan tâm đến các hoạt động phía ta tại vùng 1 và những khu vực lân
cận Hạ Lào. Đã phát hiện các truyền tin của địch từ ngày 24 tháng Giêng
để ý đến “quân ta có thể đánh qua biên giới phá trục tiếp vận của
chúng”. Cũng có tin tức là địch hết sức lo cuộc đổ bộ vào Bắc Việt và sư
xâm nhập Lào từ những chiến hạm ngoài khơi, vv.
Ngày
8 tháng Hai các đơn vị QLVNCH vượt biên vào Lào trên trục lộ 9 với
thiết giáp, nhẩy dù, biệt động, thủy quân lục chiến và lục quân. Tổng số
10,000 quân đã nhập đất Lào vào cuối tuần. Cùng lúc, 10,600 quân tiến
vào Cao Mên.
Khi
Đô Đốc McCain Tư Lệnh Thái Bình Dương (CINPAC) dự thuyết trình ngày 19
tháng Hai thì được biết các đụng độ khá cao ở cấp Đại Đội và nhiều trận
lẻ tẻ đã diễn ra trên khắp chiến trường. MACV theo rõi sáu tiểu đoàn
địch đương đầu QĐVN tại Lào. Quân Đội Mỹ không được phép tham dự nhưng
sư yểm trợ của không lực Mỹ đã mất 21 trực thăng trong 7,000 phi xuất
(tổng số thất thoát trong chiến dịch là 108 nghĩa là 21 cho 100,000 phi
xuất).
Trung
Tướng William E. Potts của MCV J-2 đã tóm lược cho Đô Đốc McCain như
sau: “Điểm đáng ghi nhận là trong chiến dịch Lam Son, địch quân đã đua
ra tất cả những gì chúng hiện có hoặc đang gửi đến ngoại trừ Sư Đoàn 325
và Tiểu Đoàn 9 thuộc Sư Đoàn 304. Vậy nếu chúng bị thiệt hại thì chúng
sẽ tụt hậu trong một thời gian khá lâu”. Tướng Abrams nói thêm, “Lẽ cố
nhiên chúng ta mong đón tất cả bọn chúng với toàn thể sức mạnh của chúng
ta”. .
Dầu
vậy, đến ngày 20 tháng Hai, nghĩa là gần hai tuần sau chỉ có sáu Trung
Đoàn địch hiện diện trong chiến dịch Lam Sơn. Thuyết trình viên nói
trong buổi họp chỉ huy WIEU (dự đoán tình báo hàng tuần) ngày hôm ấy là,
“thật vậy sự phản công mạnh mẽ của địch đã xẩy ra đêm 18 tháng Hai.
Phía ta có một lực lượng tương đương với 18 tiểu đoàn vẩn tiếp tục tìm
địch thanh toán”.
Đại
Tướng Abrams nhấn mạnh với ban Tham Mưu và các cấp chỉ huy của ông là
phải cho quân Việt Nam mọi phương tiện cần thiết để họ chiến thắng trong
trận hệ trọng này. “Đây là một dịp dể giáng cho địch một vố ta chưa bao
giờ làm được”. Ông nhấn mạnh hết sức ý nghĩa khi Hoa Thịnh Đốn đưa ra
một vài chỉ trích: “Ai cũng biết cái rủi ro từ lúc đầu nhưng ta thấy là
đã đến lúc phải chấp nhận rủi ro”. Khi qua Hoa Thịnh Đốn Đại Sứ Bunker
đã trình bầy tất cả các khía cạnh tương quan.
Cho
đến ngày 24 tháng Hai MACV vẫn theo dõi sáu Trung đoàn địch (tăng lên
thành bẩy ba ngày sau) trong chiến dịch Hạ Lào. Trong tường trình cho
Tướng Abrams, thuyết trình viên đã nói rằng bốn tiểu đoàn trong số 18
cung cấp cho Trung Đoàn địch hình như đã bị tê liệt. Cũng trong ngày ấy
số tử thương của địch quân được ước lượng là 2,191 người trong khi quân
bạn mất 276 mạng.
Đến
dây thì một khó khăn lớn xẩy ra là thiếu hụt trực thăng. Mà Quốc Lộ 9,
con đường chính Đông Tây có nhiều đoạn bị đào sâu lên đến cả sáu thước
khiến cho việc xử dụng con lộ này hầu như bị gián đoạn. Nhất là loại bồn
chở xăng không thể đi qua được. Bởi vậy phải tiếp tế bằng phi cơ, ảnh
hưởng nặng nề lên đội ngũ trực thăng. Sự tính toán điều hành và sửa chữa
cấp bách đã xoay lại tình thế. Cho nên khi Tướng Julian Ewell, một nhân
vật không mấy thiện cảm với chiến dịch, đi thanh tra ông đã nói, “tỷ lệ
sẵn sàng hành quân (operational readiness) ngày Chủ Nhật khi tôi đến
thăm là 79%, một con số vượt bực”.
Cùng
lúc địch tung ra một trận tấn công lớn với thiếp giáp và tràn ngập cứ
điểm 31 là nơi trú quân của Tiểu Đoàn Bộ Đệ Nhất Sư Đoàn VNCH. Người ta
đã ghi nhận địch có 350 quân bị giết và 15 thiết giáp bị phá hủy đối lại
13 quân bạn chết, 39 bị thương và ba thiết vận xa bị hư hại.
Người
ta nhận thấy ngày mồng 1 tháng Ba một Trung Đoàn địch nữa đã tham chiến
nâng tổng số lên tám đơn vị (trong 24 tiểu đoàn có sáu đã bị tê liệt).
Đại Tướng Abrams nói, “thật là một trận khủng khiếp”. Trong buổi thuyết
trình cập nhật ngày 4 tháng Ba thuyết trình viên đã nhắc lại rằng ngày
11 tháng Hai đã thấy dấu hiệu địch chuyển sang thế tấn công. Tuy nhiên
sự việc chỉ xẩy ra ngày 18. Ta có thể nói là địch đã mất quân số vào
khoảng bẩy tiểu đoàn chủ động, còn số thiết giáp của họ vào khoảng 100
chiếc lúc đầu thì nay chỉ còn từ 65 đén 70 chiếc mà thôi. Ở thời điểm
này ta ước lượng địch quân có tại hiện trường 15,000 chiến binh cộng
với
từ 8,000 đến 10,000 quân hậu cần trong khi bên ta huy động mười sáu
tiểu đoàn chủ động.
Khi
một tù binh thuộc Trung Đoàn 24-B khai rõ sự tộn thất nặng nề trên
đường 92 về phía Bắc Bản Đông thì phòng J-2 MACV giảm hiệu lực của địch
đi hai Tiểu Đoàn, nghĩa là trong số 30 Tiểu Đoàn địch thuộc 10 Trung
Đoàn tung ra trên chiến trường đương đầu với quân VN thì chúng đã mất
hẳn 10 Tiểu Đoàn. Tướng Abrams nói, “Tôi càng tin chắc rằng đây có thể
là trận quyết định chiến cuộc”. Tướng Potts nói thêm, “Họ mất một nửa
chiến xa, một nửa đại bác phòng không và 10 trên 30 Tiểo Đoàn”.
Trong
một buổi cập nhật tình báo hàng tuần (WIEU) ngày 20 tháng Ba Đại Sứ
Bunker nói Chiến Dịch Lam Sơn đang chấm dứt là một cuộc hành quân rất
thích ứng. Tướng Abrams bèn trả lời: “Thật là một trận đánh cam go. Tuy
nhiên ảnh hưởng lên phần cuối năm nay hết sức to lớn. Chúng đã tung
nhiều lực vào Lam Son và đã bị thua đậm”
Ngày
23 tháng Ba khi địch quân tung vào thêm Trung Đoàn thứ mười ba, thuyết
trình viên trình bầy rằng chín trong số mười một Trung Đoàn đã bị thiệt
hại nặng nghĩa là họ chỉ còn khoảng 17 Tiểu Đoàn chủ động trong số 33
đem ra. Ngoài ra họ lại còn mất khoảng 3,500 đơn vị hậu cần. Khi các yếu
tố dược trình bầy trong kỳ WIEU thì Tướng Potts nói thêm, “Không phải
các Tiểu Đoàn ấy bị sút kém nhưng chúng đã bị hoàn toàn tiêu diệt”.
Quân
đội VNCH cũng chịu nhiều tổn thất, 1,416 bị giết và 714 mất tích. Nhiều
khí cụ đã bị phá hủy hay bỏ lại khi vội vã rút lui. Khi xét lại kết
quả, Đại Tướng Sutherland nhận định như sau: “Khuyết điểm từ lâu là Bộ
Tham Mưu VN không có đủ khả năng thiết kế và phối hợp Không Lực cũng như
phối hợp yểm trợ không địa. Tuy nhiên họ dã học hỏi nhiều trong chiến
dịch này”.
Quần
chúng hết sức ủng hộ trận Lam Sơn. Khi Đức Ông Thompson tới viếng thăm
hồi cuối tháng Ba người ta đã trình bầy với ông kết quả cuộc thăm dò dư
luận trong 36 tỉnh. Kết quả cho thấy 92% đồng ý với các chiến dịch như
Lam Sơn 719, 3% chống đối và phần còn lại không có ý kiến. Kết quả cho
thấy một phân xuất rất cao so với bất cứ lần thăm dò về bất cứ một vấn
đề gì trước đây.
QLVNCH
đã chiến đấu trong 42 ngày liền tại Lào. MACV trình bầy khiêm tốn cho
Bộ Trưởng Lục Quân Stanley Resor là Chiến Dịch Hạ Lào đã “thử thách
QLVNCH trước một địch quân quyết tâm trong trận địa xuyên biên giới.
Chắc chắn là đã phá được đường tiếp vận của họ”. Ở Hoa Kỳ người ta kêu
đó là một thảm bại của quân Việt. Lẽ cố nhiên bộ máy tuyên truyền Hà Nội
vội vã túm lấy cơ hội.
Tuy
nhiên Tướng Abrams nhận định là chiến dịch nhất định có lợi cho QLVNCH.
“Từ trước ta cứ tưởng rằng Bắc Việt có thể chiến thắng họ. Chiến tranh
chưa chấm dứt nhưng Bắc Việt bắt đầu thấy là họ phải đương đầu với một
công việc khó hơn nhiều”.
PHẦN 6 .- MỘT CUỘC CHIẾN THẮNG LỢI
Phương
pháp áp dụng trong giai đoạn Abrams đã có kết quả tốt mặc dầu nhiều
người không tin như vậy. Quân Mỹ đã lần hồi rút nên quân Việt đạt nhiều
thành quả hơn. Vì chiếm được nhiều đất hơn nên đã thấy nhiều lính địch
quy thuận hơn. Trong năm 1969 có 47,000 hàng binh cọng thêm 37,000 hồi
chánh năm 1970. Mỗi Sư Đoàn Bắc Quân có 8,689 quân số. Như vậy thì số
đào ngũ của họ trong hai năm bằng chín Sư Đoàn. Đã đến chiến thắng mặc
dầu vẫn phải đánh nhau là vì Nam Việt đã đủ khả năng giữ vững chủ quyền
và tự lực hành động với lời hứa yểm trợ của Hoa Kỳ như họ vẫn làm cho
đồng minh tại Tây Đức và Nam Hàn.
Ngay
từ cuối năm 1969 John Paul Vann, một nhân vật chính của chương trình
bình định đã viết cho cựu Đại Sứ Henri Cabot Lodge như sau: “Tôi không
cần thăm Hoa Thịnh Đốn hay Ba Lê như trước để tìm cách thay đổi chính
sách Việt Nam. Tôi hài lòng với chính sách hiện hữu. Tôi nghĩ rằng chúng
ta đã đạt mục tiêu bỏ được số Mỹ tử vong sau 1972 và chiến phí (cuộc
chiến sẽ còn kéo giài mãi) sẽ giảm hẳn vì được người Việt lo liệu với sự
trợ giúp tiếp vận và tài chính của chúng ta”.
Ngoài
trách nhiệm chiến đấu thay vào quân Mỹ rút đi, Nam Việt còn phải đương
đầu với nhiều thay đổi chính sách. Đại Tướng Abrams nói rõ là họ phải
vượt qua các trở ngại mỗi ngày một khó hơn. Ông nhắc lại, “Chúng ta đã
bắt đầu từ năm 1968,. Mục tiêu của chúng ta là đến 1974 họ phải quất
nặng bọn VC để sau nữa sẽ đập cả bọn Việt Cộng lẫn quân Bắc Cộng tại
miền Nam. Rồi họ phải nén chặt chúng lại, nén ba bốn lần. Như vậy chúng
ta bắt đầu; trong một thời gian dài – ông ra dấu bằng tay – và phải kết
thúc trong thời gian ngắn hơn nhiều”.
“Và
nếu cần truy cản Việt Cộng, Bắc Cộng hay giúp Cao Mên chẳng hạn thì
chúng ta cũng giúp tay vào. Tuy nhiên chúng ta cần hết sức cẩn thận
không có sẽ bị trật đường rầy. Ta tránh làm như vậy vì nó sẽ làm cho ta
điên lên”. Sự thay đổi đường lối quan trọng nhất là loại bỏ dự tính giữ
lại một lực lượng Mỹ lâu dài tại chỗ như thể ở Tây Âu hay Nam Hàn.
Ông
Thomas J. Barnes trở lại Việt Nam sau ba năm vắng mặt để làm việc trong
chương trình bình định vào mùa Thu 1971. Ông nói với Tướng Fred Weyand
là “tôi đã ngạc nhiên với ba tiến bộ chính, sự phồn thịnh của nông thôn,
Địa Phương và Nghĩa Quân giữ vững vị trí và phát triển sự tự trị chính
trị kinh tế làng xã. Ta đã giúp làng xã lấy lại tính cách độc lập và tự
lực theo tập tục Việt Nam. Đó là việc tham gia quan trọng nhất của chúng
ta trong công việc bình định”.
Ngay
từ giữa tháng Ba 1971 quân đội Việt Nam đã gánh vác chiến đấu. Thuyết
trình viên đã nói với Đại Tướng Ewell rằng sự chú trọng của Tướng Abrams
vào công tác bình định nay đã hầu như thành tựu 100% với các kế hoạch
tương quan. Quân Mỹ đã gần như rời khỏi việc hành quân”.
Những
tin tức từ phía địch đã xác nhận thành quả. Trong một cuốn sách in bởi
nhà Xuất Bản Thế Giới Hà Nôi, hai tác giả Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Võ
đã viết, “cuối năm 1968 trong Nam Bộ các Ấp Chiến Đấu và những vùng xôi
đậu đã bị quân đội Sài Gòn chiếm lại. Cuối 1968 chúng ta đã bị tổn thất
nặng. Địch dồn lực lượng vào công tác bình định thôn quê gây cho chúng
ta nhiều khó khăn trong hai năm 1969-1970. Từ khi quân Mỹ vào Việt Nam
chúng ta chưa bao giờ gập nhiều vấn nạn như trong hai năm ấy. Các căn cứ
của ta ở thôn quê bị suy nhược và vị trí co thắt lại. Quân ta bị tiêu
diệt, không còn đất bám và phải qua đồn trú tại Cao Mên. Chúng ta trải
qua một
thời
kỳ hết sức khó khăn trong những năm 1969-1970-1971. Kể từ giữa năm 1968
địch đã tập trung đánh phá các vùng giải phóng để tiêu diệt và đẩy
chúng ta ra khỏi cứ địa”.
Tháng
Giêng 1972 Vann nói rằng “chưa bao giờ chúng ta phải tham chiến ít như
bây giờ. Ngày nay thấy rõ các vùng quê phồn thịnh, đường xá khai thông,
cầu kỳ mở lại và bạn có nhiều rủi ro hơn với cả đống Honda và Lambretta
ngược xuôi. Chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh đã có kết quả ngoài
tưởng tượng”. Đó là công đầu của Việt Nam Cộng Hòa.
PHẦN 7 .- TỔNG TẤN CÔNG PHỤC SINH 1972
Thành
quả Việt-Nam-Hóa-Chiến-Tranh và việc bình định nông thôn khiến cho đối
phương phải tìm một phương án khác. Đó là cuộc tấn công Phục Sinh.
Douglass Pike viết: “Không còn là một cuôc chiến cách mạng nữa, và theo
quan niệm của Võ Nguyên Giáp thì phải qua giai đoạn chiến tranh quy ước
nhỏ giống như ở Triều Tiên”.
Trong
vài ngày về Mỹ John Paul Vann đã trình bầy hiện tình Việt Nam trước một
cử tọa giáo sư chọn lọc. “Họ dựa vào các giới chức dân cử xã ấp khi
kinh tế tăng trưởng, an ninh tiến bộ và chiến tranh đã chuyển sang Cao
Mên và Lào. Sự thực là 95% dân chúng muốn lưu giữ chính quyền hiện tại
hơn là một chính phủ cộng sản hay một cơ cấu do bên kia đưa ra”.
Theo
lịch sử ghi chép của Quân Đội Nhân Dân thì kế hoạch tấn công 1972 được
chấp thuận bởi Ban Quân Ủy Trung Ương từ tháng Sáu 1971. Mục tiêu là
chiến thắng vào năm 1972 làm cho quân Mỹ xâm lược phải thưong thảo trong
thế yếu. Ông Pike diễn giải, “đó là một cuộc tấn công toàn diện với
nhân lực, khí giới và tiếp vận quy mô. Vào giữa mùa Hè tất cả 14 Sư Đoàn
Bắc Quân rời khỏi Bắc Việt. Chúng xử dụng nhiều thiếp giáp và đại pháo
nặng hơn QLVNCH và đạn dược cũng không giới hạn”.
Cuối
tháng Ba 1972 địch tiến hành một cuộc xâm lăng cổ điển với 20 Sư Doàn
và một trận chiến tàn bạo sắt máu đã xẩy ra. Ông Douglas Pike viết,
“Cuộc tấn công được sửa soạn công phu đã bị bẻ gẫy vì không yểm làm cho
chúng không tập hợp được và vì sư chống trả dũng cảm và kiên trì của
quân Nam Việt. Bắc Quân và hệ thống giao thông của chúng đã bị triệt hạ
nặng. Nhưng chính yếu là QLVNCH và cả Địa Phương Quân đã hiên ngang
chống trả như chưa từng thấy”.
Bắc
Quân tổn hại 100,000 người trong số 200,000 xung trận và có lẽ 40,000
đã bị giết. Họ đã mất già nửa thiết giáp và đại pháo. Sẽ cần ba năm để
hồi phục trước khi tấn công lại và Tướng Võ Nguyên Giáp bay khỏi chức
Tổng Tư Lệnh. Trái lại Nam Quân mất 8,000 tử vong, gần ba lần thương
binh và vào khoảng 3,500 mất tích. Tướng Giáp đã tính sai và phải trả
một giá đắt cho lỗi lầm ấy. Ông Pike kết luận: “Giáp đã ước sai lòng
quyết tâm và sự chống trả mãnh liệt của Quân Nam Việt. Hắn sai lầm về
sức đề kháng của QLVNCH”.
Về
sau nhiều người chỉ trích nói rằng Nam Quân đã đẩy lui được Bắc Quân
nhờ có không yểm của Mỹ. Tướng Abrams đã phản ứng mạnh mẽ và nói với các
cấp chỉ huy của ông rằng, “Tôi không tin là không có không trợ mọi việc
đã giữ vững được. Tuy nhiên phải có những người Việt Nam đúng thẳng
chiến đấu. Nếu họ không dũng cảm làm như vậy thì đến mười lần không quân
cũng không chận đứng được bọn cộng sản”.
Bọn
chỉ trích cũng triệt hạ QLVNCH cho rằng họ sống sót được là nhờ Quân
Mỹ. Không một ai nhớ rằng 300,000 Quân Mỹ phải đóng ở Tây Đức là vì
người Đức không thể chống lại Nga Xô Viết hay nhóm Liên Minh Warsaw nếu
không có Quân Mỹ. Họ cũng quên là 50,000 Quân Mỹ phải lưu lại Nam Hàn để
giúp trong trường hợp bọn Bắc tấn công. Và không ai đã nghĩ rằng vì
Quân Mỹ hiện diện nên phải chê bai và chế riễu Quân Đội Tây Đức cũng như
Nam Hàn. Chỉ có Nam Việt bị tách rời ra để bôi nhọ một cách bất công và
ác độc mặc dầu chỉ được không trợ chớ không được Quân Lực Mỹ hỗ trợ như
Đức hay Cao Ly.
Quân
Nam Việt đã thực sự đánh bại cuộc tấn công Phục Sinh 1972 với xương máu
và lòng quả cảm. Đại Tướng Abrams nói với Tổng Thống Thiệu rằng “nhờ
khả năng bén nhậy của các cấp chỉ huy nên đã gặt hái thành quả và họ đã
chứng tỏ đủ bản lĩnh đương đầu với cuộc thử thách. Những anh hùng bảo
quốc Nam Việt đã giáng cho quân xâm lăng một đòn chí tử khiến cho chúng
cần ba năm nữa mới có thể mở lại một cuộc tấn công quy mô”. Tuy nhiên
trong khi ấy bao nhiêu thay đổi hệ trọng đã xẩy ra trên một bình diện
rộng lớn hơn.
QLVNCH
đã trở thành một lá chắn thiện nghệ, nhanh nhẹn và quyết tâm cho xứ sở
của họ. Tuy nhiên họ đã bị bôi nhọ bởi những luận điệu tiêu cực gồm cả
vu khống của bọn phản đối Hoa Kỳ tham gia cuộc chiến hay ít nhất chính
sự tham gia của cá nhân họ hay bọn thân cộng. Trái lại đã có bao nhiêu
thành tích rõ ràng trên trân địa hồi cuối Xuân và trong mùa Hè 1972.
PHẦN 8 .- BỎ RƠI
Phần
này bàn về tình hình sau khi Hiệp Định Paris được ký kết vào tháng
Giêng 1973. Để dụ Việt Nam thỏa thuận điều mà họ cho là quá sai lầm khi
cho Bắc Việt được để lại miền Nam một lực lượng lớn, Tổng Thống Nixon đã
hứa với Tổng Thống Thiệu rằng nếu Bắc Việt bội ước và lại tấn công Nam
Việt thì Hoa Kỳ sẽ can thiệp mạnh mẽ để trừng phạt chúng. Và Nixon nói
thêm, nếu chiến tranh trở lại, nước Mỹ cam kết thay thế các chiến cụ
trên căn bản một đổi một theo như điều khoàn của Hiệp định Paris (chiến
xa, trọng pháo vv). Sau nữa Hoa Kỳ sẽ tiếp tục viện trợ kinh tế tài
chánh cho Việt Nam. Thật ra, Hoa Kỳ đã bội ước tất cả các khoản kể
ra.
Trong
khi ấy thì Bắc Viễt đã nhận viện trợ không tiền khoáng hậu của các quan
thầy. Theo một cuốn sử xuất bản tại Hà Nội năm 1994 thì trong vòng chin
tháng sau khi ký kết Hiệp Định Paris, từ tháng Giêng đến tháng Chín
1973, Bắc Việt đã gửi tiếp tế vào Nam bằng bốn lần năm vừa qua. Dầu vậy
con số còn nhỏ nhoi so với lượng chúng đưa vào Nam từ đầu 1974 cho đến
ngày chấm dứt cuộc chiến năm 1975. Trong vòng mười sáu tháng, theo tài
liệu cộng sản, thì bằng 1.6 lần quân viện trong cả mười ba năm.
Nếu
chính phủ Nam Việt không ký Hiệp Định thì không những Hoa Kỳ sẽ đơn
phương tính với bên kia mà Quốc Hội Mỹ cũng nhanh chóng cắt hết viện
trợ. Mặt khác nếu Việt Nam chấp thuận Hiệp Định với hy vọng sẽ tiếp tục
nhận viện trợ Mỹ thì họ bắt buộc phải chấp nhận tình trạng Bắc Quân sẽ
trú đóng một cách nguy hiểm trên lãnh thổ. Nam Việt đã quyết định phương
án thứ nhì, một tiên liệu quyết tử để thấy một cách đau đớn là phải
chấp nhận cả hai việc tồi nhất, quân Bắc Việt trong lãnh thổ và viện trợ
Mỹ chấm dứt.
Nguyên
Tổng Trưởng Quốc Phòng Melvin Laird giải thích hệ quả như sau. “Trong
hai năm sau Hiệp Định, Nam Việt đã can đảm chống lại một cách đáng nể
một địch quân được yểm trợ tối đa. Hoà đàm Bắc Nam vẫn tiếp tục cho đến
ngày mà Quốc Hội cắt hẳn viện trợ vào năm 1975. Và Nam Việt nhanh chóng
bị tràn ngập. Chúng ta đã tiết kiệm được khoảng 257 triệu mỗi năm và làm
cho Nam Việt xụp đổ sau khi đã chiến đấu dũng mãnh từ năm 1973 không có
sư giúp đỡ của quân Mỹ.
Nhiều
người Mỹ không thích nghe rằng bọn độc tài Nga Xô và Trung Hoa đã tỏ ra
đáng tin cậy hơn là nước Mỹ Dân Chủ. Nhưng đó là sự thật phũ phàng.
Phóng viên William Tuohy đã nhiều năm phúc trình cuộc chiến cho
Washington Post viết, “một chuyện không tin được và không tha thứ được
là một đại cường quốc đã bỏ rơi đồng minh yếu kém vào tay bọn Bắc Cộng.
Nhưng chúng ta đã làm như vậy”.
Binh
sỹ Nam Việt can đảm chiến đấu cho đến khi viện trợ bị cắt dần dần rồi
ngưng hẳn. Trong vòng hai năm sau khi ký Hiệp Định Paris Nam Việt đã mất
59,000 quân tức là nhiều hơn số quân Mỹ tử trận trong mười năm. Nếu
nghĩ rằng dân số Nam Việt chỉ bằng một phần mười Mỹ Quốc thì ta thấy
rằng sư thiệt hại hết sức thảm khốc và cường độ trận chiến đã cao như
thế nào.
Bà
Merle Pribbenow nhấn mạnh rắng sự ghi nhận của Bắc Việt cho thấy trong
55 ngày cuối cùng họ đã phải đương đầu với một chiến cuộc hết sức gay
go. Đó là một chiến tích đáng ghi cho Nam Việt khi họ biết là kết cục sẽ
chắc chắn như thế nào. Đại Tướng Bắc Quân Lê Trọng Tấn đã ghi, “Trong
giai đoạn cuối cùng Quân Y của chúng ta đã phải di tản và chữa chạy cho
quá nhiều thương binh, 15 lần nhiều hơn trong trận chiến biên giới, 1.5
lần hơn trận Diện Biên Phủ và 2.5 lần nhiều hơn trong trận Hạ Lào”. Bà
Pribbenow chiết tính là “Quân Đội Nhân Dân đã chịu tối thiểu từ 40,000
đến 50,000 thương binh và có thể còn nhiều hơn nữa, nghĩa là còn cao hơn
tổng số
tổn
thất lúc QLVNCH xụp đổ theo nhận xét của các sử gia”.
Đại
Tá William LeGro đã ở lại DAO đến phút chót đã có một cái nhìn chính
xác về sự việc. Ông nói: “Sự gỉảm quân viện Mỹ cho đến gần số không là
lý do đưa đến sự xụp đổ cuối cùng”. Ông nói thêm, “Chúng ta đã làm một
việc hết sức quái gở với người bạn Việt Nam”.
Gần
đến ngày cuối, ông Tom Polgar đứng đầu CIA Sài Gòn gửi một điện văn
ngắn ngủi: “Kết quả quá rõ ràng vì Nam Việt không thể sống sót nếu không
có quân viện Mỹ trong khi khả năng chiến tranh của Bắc Việt vẫn giữ
nguyên với sự trợ lực của Nga Xô Viết và Trung Cộng”.
Sau
chiến tranh tình hình trở nên quá đen tối như người ta sợ. Phóng viên
Seith Adams của New York Times viết về hoàn cảnh Đông Nam Á một cách xác
đáng và cảm động như sau. “Hơn một triệu người Nam Việt bỏ xứ. Khoảng
400,000 người bị đầy vào các trại cải tạo, một ít trong thời gian ngắn
nhưng nhiều người đã bị giam giữ đến mười bẩy năm. Một triệu rưởi dân bị
cưỡng bách đi các vùng ‘kinh tế mới là những nơi hoang dã trong hoàn
cảnh đói kém và bệnh tật”.
Cựu
Đại Tá Việt Cộng Phạm Xuân Ẩn mô tả sự vỡ mộng của y với kết quả chiến
thắng của cộng sản đã áp đặt như thế nào lên xứ sở. Ông ta phàn nàn,
“tất cả các lý luận về ‘giải phóng’ trong hai mưoi, ba mươi hay bốn mươi
năm qua đã gây ra một xứ sở nghèo nàn và rách nát lãnh đạo bởi một lũ
ác độc, một bọn lý thuyết gia ít học và chuyên chế”.
Đại
Tá Bắc Quân Bùi Tín cũng thẳng thắn nói về hậu quả cho cả những người
chiến thắng: “Thật là quá chậm cho thế hệ tôi, một thế hệ của chiến
tranh, của chiến thắng và bội phản. Chúng tôi đã thắng nhưng chúng tôi
cũng đã thua”.
Sư
cố gắng của những người miền Nam trong một cuộc tranh đấu dai dẳng cuối
cùng là một thảm trạng. Quân đội đã mất 275,000 người chết trong khi
chiến đấu. 450,000 dân bi hy sinh, phần đông do khủng bố cộng sản hoặc
bị chết trong những cuộc pháo kích bừa bãi vào các đô thị và thêm
935,000 người nữa bị thương.
Trong
số cả triệu người trở thành thuyền nhân một số có thể rất cao đã bỏ
mạng trên biển cả. Có lẽ 65,000 người đã bị hành quyết bởi bọn tự xưng
là giải phóng. Khoảng 250,000 hay hơn nữa đã chết trong các trại tù “cải
tạo” man rợ. Hai triệu người bị đẩy ra khỏi quê cha đất tổ để trở thành
một diaspora Việt Nam.
Ta
không thể hoàn toàn xác định giá trị của QLVNCH mà không nói đến các
cựu chiến binh bị đầy khỏi xứ với các gia đình của họ hầu lập nghiệp lại
trên đất Mỹ. Đó chính là một câu chuyện khác về sự can đảm, quyết tâm
và thành quả. Đã biết quá rõ tính chất của bọn mạo danh là “giải phóng”,
một băng đảng luôn luôn giết hại, gây thương tích, bắt cóc và ức chế
hang ngàn dân vô tội, nên họ bỏ chạy hàng loạt khi sự chống đỡ tan rã.
May
thay nhiều người đã thoát được đến bờ bến tự do làm lại đời mới. Mỹ
Quốc may mắn đón nhận một triệu di dân Việt Nam là một tăng tiến cho văn
hóa và một đóng góp đáng kể vào phúc lợi của chúng ta. Với một quyết
tâm và cần cù không tưởng tượng được, những người Mỹ mới này đã dậy dỗ
con cái, nuôi sống gia đình và lợi dụng các cơ hội mà xứ sở này đã dành
cho bất cứ ai tham gia vào xã hội. Đó chính là những người đã bao năm
đem xương máu ra chiến đấu cho quê hương cũ trong hang ngũ QLVNCH. Chúng
ta dã bỏ rơi họ và những hy sinh của họ đã thành vô nghĩa. Tuy nhiên
cưu mang họ trên đất này đã cho chúng ta đền tội đôi phần.
KẾT LUẬN
Để
kết luận, tôi chỉ xin nói rằng cuộc chiến Việt Nam là một cuộc chiến
giá trị, bởi người Nam Việt và các đồng minh của họ bảo vệ một mục đích
cao đẹp. Tất cả các chiến binh đều đã tham chiến với một tấm long vô
biên và họ đã gần như đạt được mục đích bảo đảm cho NamViệt có tự do như
một quốc gia độc lập. Có lần một phóng viên đã nhận xét rằng Đại Tướng
Creighton Abrams phải được chỉ huy một cuộc chiến hay hơn. Tôi đã nói
câu ấy cho trưởng nam của Tướng Abrahms và được phản hồi ngay; “Cha tôi
không nhìn như vậy. Ông nghĩ rằng người Nam Việt rất xứng đáng”. Và tôi
đồng ý.
Tóm
lại, đối chiếu biểu của QLVNCH bao gồm cà địa phương và nghĩa quân
trong năm 1970 rất tích cực. Rốt cục chúng ta đã không thắng trận, tuy
nhiên tinh thần, sự tận tâm, can đảm và lòng quyết chí của tất cả các
chiến binh đã nẩy nở thăng hoa trên đất nước này. Chúng ta đều cùng tiến
tới.
NÓI VỀ TÁC GIẢ
Ông
Lewis Sorley đã phục vụ tại Việt Nam chỉ huy một Tiểu Đoàn Thiết Giáp
trên Tây Nguyên. Ông thuộc thế hệ thứ ba trong gia đình tốt nghiệp Đại
Học Quân Sự Hoa Kỳ. Ông cũng đậu bằng Tiến Sỹ của Đại Học John Hopkins.
Trong hai thập niên binh nghiệp ông chỉ huy thiết giáp và nhiều dơn vị
thiết kị tại Mỹ, Đức cũng như Việt Nam. Ông cũng đã phục vụ tại Bộ Lục
Quân, văn phòng Tham Mưu Trưởng Bộ Binh và là giảng viên tại West Point
và Đại Học Chiến Tranh Bộ Binh.
Ông
là tác giả của hai cuốn sách, Thunderbolt, General Creighton Abrams and
the Army of His Times và General Harold K. Johnson and the Ethics of
Command. Ông đã viết quân sử nhan đề, A Better War; the Unexamined
Victory and Final Tragedy of America’s Last Year in Vietnam. Ông cũng
ghi chép và nhuận chính Vietnam Chronicles: the Abrams Tapes 1968-1972”.
Trần Đổ Cung
Tài liệu tham chiếu:
1. “Bibliography Periodicals” của Douglas Pike.
2. “History Proves Vietnam Victors Wrong” của James Webb.
3. “The Development of the South Vietnamese Army” của Thiếu Tướng James Lawton Collins Jr.
4. “Senior Officer Debriefing Report, CG II Field Force, Vietnam, 29-3-1966 của Đại Tướng Fred C. Weyand.
5. “Message Abrams to Johnson, MAC 5307, 04950Z 6-1967.
6. “Lt-General Dong Van Khuyen, RVNAF Logistics”.
7. “Time, 19 April 1968”
8. “Letter, General Bruce C. Clarke to General Hal C. Pattison”
9. “The History of the Joint Chief of Staff: The Joint Chief of Staff and the War in Vietnam, 1960-1968”
10. “Brigadier Geberal Zeb B. Bradford Jr. Interview, 12 October 1989”
11. “Message, Abrams to Wheeler and McCain, October 1968”
12. “William Colby, ‘Vietnam after McNamara’, The Wahington Post 27-4-1995”.
13. “Ambassador Ellsworth Bunker, Thayer Award Address”.
14. “John Paul Vann, Remarks, Lexington, Kentucky, 1972”.
15. “Brigadier General Tran Dinh Tho, The Cambodian Incursion”.
16. “Geoffrey Perret, There’s a War to be Won”.
17. “Message, Cliff Snyder, National Archives to Sorley”.
18.
“An example of LCol Cau Lê 47 Regiment Commander, 12 years in combat
and 13 years prisoner of the communist, awarded Silver Star and Bronze
Star for valorous combat leadership. Le and his family established a new
life in America after his wife Kieu Van had worked as a nurse to
support their five children until her husband was released from
captivity. See Robert F. Dorr and Fred L. Borch, ‘US Medals’”.
19. “General Cao Van Vien et al, the US Advisor”.
20. ”Lt General Ngo Quang Truong, Territorial Forces”.
21. ”General Creighton Abrams at WIEU, 18 April 1973”
22. “Thomas Polgar as quoted in J. Edward Lee and Toby Haynsworth”
23. “Colonel LeGro as quoted in L. Edward Lê and Toby Haynsworth”
24. “Ambassador Ellsworth Bunker, Oral History Interview”
25. “Quoted in Jeffrey J. Clarke, Advice and Support”
26. “As reported by Major General George J. Forsythe, following a 20 January 1968 meeting with President Thieu”
27. “Joint Chiefs of Staff, the History of the Joint Chiefs of Staff”
28. “Notes by Vicent Davis on telecom during which Vann described his 15 December 1969 Presentation at Princeton”
29. “Lester A, Sobel, ed,. South Vietnam. US Communist Confrontation in Southeast Asia.
30. “Remarks, Lexington, Kentucky 1972, Vann papers”
31. “Ellsworth Bunker Interview, Duke University, Living History Project”
32. “WIEU, 30 January 1973, in Sorley, Vietnam Chronicles”
33. “COMUS Update, 16 February 1971”
34. “Briefing with Admiral McCain, 19 February 1971”
35. “Commanders Weekly Intelligence Update, 20 February 1971”
36. “Message, LtGeneral James W. Sutherland to Abrams, March 1971, Special Abrams Papers Collection”
37. “COMUS with Sir Robert Thompson, 25 March 1971”
38. “Secretary of the Army Brief, 26 April 1971”
39. “Major General Nguyen Duy Hinh, Lam Son 719”
40. “Military Institute of Vietnam, Victory in Vietnam (University Press of Kansas)”
41. “John Paul Vann, Letter to Henry Cabot Lodge, 9 December 1969, Vann Papers”
42. “Message, Barnes to Weyand, March 1972, MHI files”
43. “Lưu Van Loi and Nguyen Anh Vu (Le Duc Tho and Kissinger Negociation in Paris”
44. “Remarks, Lexington, Kentucky 8 January 1972, Vann Papers”
45. “Douglas Pike, ‘A Look Back at the Vietnam War: the View from Hanoi’”
46. “Douglas Pike, PAVN, People’s Army of Vietnam”
47. “Message, Abrams to Laird, May 1972”
48. “Melvin R. Laird, “Iraq: Learning the Lesson of Vietnam”
49. “The Washington Post (28 December 1968)”
50. “James L. Buckley, ‘Vietnam and its Aftermath’ in Anthony T. Bouscaren, ed.”
51. “Merle L. Pribbenow, Message to Sorley, 1 May 2002”
52. “Seth Mydams, ‘A War Story Missing Pages’, The New York Times 24 April 2000”
53. “Vietnam Magazine Auguat 1990”
54. “The Boston Globe, 20 April 2000”
55. “Colonel Stuart Herrington, Fall of Saigon, Discovery Channel, 1 May 1995”
56.
“Australian Minister for Immigration Michael McKeller was quoted as
saying that ‘about half the boat people perished at sea’. Thus he said
in 1979, ‘We are looking at a death rate of between 100,000 and 200,000
in the last four years’. The Age Newspaper, The Boat People: an Age
Investigation”