TÌNH
TRẠNG RÁC
Tình
trạng vệ sinh trên đảo lúc nào cũng là mối
ưu tư lớn cho Ban Điều Hành trại tỵ nạn
Pulau Bidong. Lúc đầu đảo tỵ nạn PB
được Cao ủy LHQ bảo trợ, chỉ dự
trù thâu nhận 4. 500 thuyền nhân mà thôi. Không ngờ đến
cuối năm 1978 con số thuyền nhân tăng lên gấp
ba lần. và kể từ tháng 4 năm 1979, với số
tàu vượt biển ồ ạt tới đảo, dân số
càng lúc càng cao, có khi tăng vọt trên 46. 000 người. Diện
tích để ở thì nhỏ, người đến
đảo mỗi lúc mỗi đông, mang theo càng nhiều
rác rến. Không có đủ phương tiện để
nhanh chóng giải quyết, rác từ trong nhà cứ vì vậy
tuôn ra bên ngoài mỗi lúc mỗi nhiều, đưa đến
tình trạng vệ sinh tổng quát trên đảo càng ngày
càng kém, rác rến tràn ngập khắp nơi, gây ô nhiễm
môi trường. Thanh niên trên các tàu đến đảo
còn đông, nhiệt tình, thích hoạt động, nhưng
không có phương tiện cơ giới nặng để
cho họ đào hầm chôn rác, hay tàu bè để chuyên chở
rác ra bỏ ngoài khơi xa …
Chính
quyền Mã Lai không hài lòng về vấn đề này, họ
cho biết là so với các trại tị nạn khác trên
đất Mã Lai thì trại tỵ nạn Pulau Bidong là dơ
nhất, các phái đoàn Ngoại quốc đến đảo
làm việc giúp người tị nạn cảm thấy
khó chịu vì những đống rác khổng lồ, hôi hám
to bằng căn nhà, trên bờ biển khu G được
xem như mặt tiền của đảo, trên đường
mòn khu A, khu E. lại thêm nạn chuột ban đêm quấy
nhiễu. Chuột từ các triền đồi đổ
xuống, chuột từ dưới lỗ ngách chui lên, chạy
rần rật khắp nơi, kêu la chí chóe, đào hang, cào
vách, cắn rách quần áo bệnh nhân, ngay cả sách vở
của cô Lady Burton, Quản lý nhà thương (xem
chương kế tiếp về chuột trên đảo
Bidong).
Cao
ủy Gentiloni, cao ủy John Moore, cao ủy Lee không vừa ý.
Cơ quan Hồng thập tự Mã Lai MRCS ra lệnh
ngưng các chuyến đi định cư vô hạn định,
đến khi nào tình trạng vệ sinh các khu và bờ biển
được khả quan hơn, các công trình thoát thủy
được hoàn tất, các lòng mương được
vét, và các đống rác khổng lồ được dẹp
đi. Cao ủy trưởng Ali Mohamed cũng đồng
ý, không cho tàu Black Gold cập bến đưa người
được phép đi định cư sang đất
liền. Vì vậy tàu Black Gold từ hải cảng
Terengganu xa xôi đến đảo phải trở về
không. Đồng bào nóng lòng ngồi nhịn đói, phơi
nắng suốt ngày trên cầu tàu, nhưng cuối cùng phải
lục tục khăn gói trở về nhà. Chính quyền Mã
Lai ra thông cáo rõ ràng, cương quyết và cứng rắn:
“Không giữ sạch đảo, không được
đi định cư. Đảo P. Bidong không nhận
thêm người tỵ nạn. Tàu vượt biển đến
Mã Lai sẽ bị kéo ra khơi”.
Vấn
đề rác đã đến hồi căng thẳng gây trở
ngại lớn cho việc định cư ở nước
thứ ba của tất cả thuyền nhân trên đảo.
Có
nhiều đồng bào đến bàn bạc với BĐH
trại. Chúng tôi thẳng thắn trao đổi quan điểm
cùng nhau. Từ chối Cộng Sản, vượt biển
nguy nan đến đây để tìm Tự Do, tất cả
thuyền nhân trên đảo đều giống như nhau.
Chúng ta đã cố gắng tổ chức để cùng
chung sống, hòa hợp và nâng đỡ lẫn nhau. BĐH
trại do đồng bào bầu lên cũng chỉ là những
người tự nguyện, đã cố gắng làm trách
nhiệm của mình, nhưng nay đứng trước
hoàn cảnh khó khăn, sống chết, theo như thông cáo của
Chính quyền Mã Lai, BĐH cảm thấy bất lực nếu
không có được sự tiếp tay chặt chẽ, nhiệt
tình của tất cả đồng bào để tìm cách giải
quyết vấn đề vệ sinh cho thỏa đáng. Đoạn
đường chúng ta đang đi có chiều hướng
tốt, nhưng chưa kết thúc suôn sẻ, mà còn có thể
gặp nhiều khó khăn bất ngờ, nếu chúng ta sai
lầm trong nhận định. Đến khi nào sang định
cư được ở một Đệ tam Quốc gia
thì mới thật sự yên tâm. Chớ giờ phút nào còn
trên đảo nhỏ này, chung quanh chỉ có nước biển
bao vây và lính Đặc nhiệm canh giữ, thì chúng ta
cũng giống như những người tù bị giam lỏng.
Hoàn cảnh đáng buồn nhưng cần phải can
đảm nhìn sự thật, để xác định rõ
ràng vị trí của mình, và để cùng nhau giải quyết
những vấn đề khó khăn …
Cao
ủy LHQ bảo trợ cho trại tị nạn, dù có lòng
ưu ái, muốn giúp thuyền nhân đến cùng, nhưng họ
cũng chỉ là những người khách quí mà thôi. Chính
quyền Mã Lai mới thật sự là người chủ
nhà, có quyền quyết định tối hậu, muốn
cho ở thì ở, muốn cho đi thì đi.. Tôi nhắc lại
tình trạng một chiếc tàu vượt biển đến
được đất liền Terengganu vào tháng 3 năm
1979, nhưng liền bị kéo ngược ra khơi, gặp
sóng to đánh chìm ngoài cửa sông, không còn người nào sống
sót.
Tôi
cũng từng được xem một tài liệu mật
của bộ Nội vụ Mã Lai để biết thêm Mã
Lai là một Quốc gia chống Cộng sản triệt
để, còn VN bây giờ là một nước Cộng Sản,
tàu vượt biển chở thuyền nhân từ VN sang
đây ít nhiều đều có thành phần CS trà trộn
đi theo, làm tập thể người tị nạn chân
chính bị nghi ngờ oan uổng. Chưa kể có nhiều
người đã vội quên đi giai đoạn khó
khăn lúc tàu bị lạc hướng, lênh đênh nhiều
ngày trên biển động mênh mông, sóng gió, đói khát triền
miên. Vừa được danh sách đi định
cư, đã để cho con em quăng những lon đồ
hộp dư thừa do cao ủy trợ cấp vào đống
lửa đang cháy làm pháo nổ chơi, không biết rằng
dân nghèo Mã Lai cũng đói khổ, thèm thuồng có
được những lon thực phẩm ngon miệng,
đắt tiền như vậy cho gia đình …
(Theo
một tài liệu mật của bộ nội vụ mã Lai
do ông De Silva* qua đảo cho biết, thì chính quyền Mã
Lai muốn đuổi hết thuyền nhân VN ra biển, vì
cho rằng thuyền nhân xuất phát từ một nước
Cộng Sản trong khi Mã Lai là một nước chống
Cộng triệt để), vì vậy thuyền nhân cần
phải hợp sức lại để tạo dựng uy
tín, tạo dựng cảm tình tốt đối với dân
chúng Mã Lai ngõ hầu Chính quyền Mã Lai từ bỏ ý định
xô đuổi thuyền nhân ra khỏi Bidong. )
*
Ông De Silva phó chủ tịch hội MRCS tức Hội
trăng lưỡi liềm đỏ - Hội Hồng thập
tự Mã Lai có một thời gian làm Đại diện cho
Mã Lai tại VN. Ông quen khá thân với BS Phan Quang Đán, Phỏ
Thủ Tướng VNCH và Thượng nghị sĩ Nguyễn
văn Ngãi, Tổng trưởng Bộ Nông nghiệp. Biết
tôi có thời gian làm việc với BS Đán và DB Ngài trong Quốc
hội lập hiến, ông có cảm tình nên có chuyện gì
liên quan đến thuyền nhân trên đảo Bidong, ông
đều cho tôi biết.
Dù
sao cho đến giờ phút này, Chính quyền Mã lai vẫn
còn nhân đạo, cho chúng ta tá túc và cho Cao ủy tị nạn
LHQ từ đất liền đến đảo để
giúp cho thuyền nhân đi định cư. Tuy nhiên vì uy
tín và thể diện của Quốc gia đối với
Quốc tế, khi có phái đoàn Ngoại quốc đến
thăm viếng đảo, họ muốn chúng ta giữ
gìn đảo cho sạch. Ký giả Ngoại quốc đã
chê bai người tị nạn không biết giữ vệ
sinh, có thể sống trong đống rác. Nhận xét này có
hơi quá đáng, phần đông chúng ta cũng ý thức
được vấn đề kém vệ sinh ảnh
hưởng đến sức khoẻ và đời sống
như thế nào, nhưng vì không có phương tiện
cơ giới để giải quyết tận gốc vấn
đề rác mà thôi
Về
phần chúng ta, kế hoạch chúng ta có sẵn. Phương
tiện tuy có thiếu, nhưng nếu chúng ta khéo léo động
viên, sử dụng khối nhân lực hiện có, chúng ta có
thể cải thiện điều kiện vệ sinh trên
toàn đảo trong một thời gian ngắn.. Điều
chính yếu là chúng ta phải có ý chí mạnh và có quyết
tâm cao, phải có sự cố gắng đóng góp của mọi
người, của mọi gia đình, cũng nghĩ đến
thể diện và danh dự chung của người tỵ
nạn Việt Nam, ngõ hầu có được sự yểm
trợ của Chính quyền mã Lai. Chúng ta phải chung sức,
động viên lẫn nhau, nhiệt tình trong công tác làm sạch
đảo và xem đó như một quyền lợi chung
trong hiện tại của chúng ta, đồng thời là một
bổn phận của chúng ta để giúp đỡ
người còn đến sau nữa. Thấy tình trạng
đảo khả quan, có thể Chính quyền Mã Lai sẽ
tiếp tục cho thuyền nhân đến đảo.
Được
sự hỗ trợ mạnh mẽ của mọi người,
sau một phiên họp rộng rãi gồm các khu, các khối,
các ban, BĐH trại tung ra một chiến dịch” :Giải
quyết rác, làm sạch đảo”, kêu gọi mọi gia
đình lo vệ sinh trong nhà mình và tiếp tay lối xóm làm vệ
sinh trong khu vực. Khối thanh niên tăng cường
nhân lực làm công tác trọn ngày thay vì nửa ngày như
trước đây. Bảy
khu
tập trung cuốc xẻng, chuẩn bị thêm giỏ
đựng rác, trung tâm sinh ngữ và các trường tổ
chức giáo dục thanh niên từ 8 đến 14 tuổi
tham gia công tác vệ sinh chung. Khối Trật tự phối
hợp với 7 khu thành lập bản kiểm soát và đôn
đốc có lịch trình.
Trong
thời gian làm Phó trưởng trại cho Linh mục Triêu,
tôi có dịp hướng dẫn phái đoàn Ngoại quốc
đến thăm đảo, đứng gần những
đống rác khu G, để nói chuyện về vệ
sinh và có lúc tôi đã khôi hài đề nghị dùng rác để
làm đường nối liền đảo với đất
liền, cho người đi định cư, nếu
không có phương tiện xe ủi đất để
đào hố sâu lấp rác hay tàu nhỏ để mỗi
ngày chở rác ra đổ ngoài khơi. Không biết có phải
nhờ sự trình bày này hay không mà sau đó, cuối cùng
đảo nhận được một sà lan bằng sắt
khá lớn, dùng để vận chuyển rác ra đổ
ngoài biển.
Khối
thông tin giữ vai trò đầu não, đã làm việc nhiệt
tình, liên tục từ sáng đến chiều tối, vừa
phổ biến nhạc vui theo lời yêu cầu của dân
chúng, vừa nhắc nhở làm vệ sinh trong nhà, trong khu vực,
quét dọn sạch sẽ, gom rác, lon thực phẩm đập
dẹp, các chất phóng uế hàng ngày bỏ trong bao nylon riêng
được cấp phát đầy đủ cho từng
gia đình. Mỗi sáng sớm, mọi người đem
rác của mình xuống chất đống trong những khoảnh
đất dành riêng cho từng khu gần cầu Jetty để
được ban vệ sinh sau đó chuyển xuống sà
lan kéo ra khơi trước khi mặt trời mọc.
Còn
những núi rác ứ đọng trên bờ biển khu G, tôi
kêu gọi thanh niên trong ban Nhân lực đóng cọc gỗ
ra xa bờ, cào rác ra trộn với cát làm sân vận động
bóng chuyền và sân vũ cầu.
Toàn
thể đồng bào trên đảo nô nức làm việc
có tổ chức, có kỷ luật, với sự đóng
góp nhiệt thành của các em thiếu niên học sinh hồn
nhiên, xuống đường tiếp tay với người
lớn, vừa lượm rác rến, lon, chén muỗng, nĩa,
bỏ vào giỏ, vừa nhảy múa theo nhịp trống kích
động, điêu luyện của đoàn múa lân gia
đình bác Lộc, vừa ca bài “Ta hốt rác”. Thanh niên tập
trung đào mương thoát thủy khu G-E-C-A, gần hai chiếc
tàu sắt. Phụ nữ thì lo làm sạch sẽ nhà
thương, tiếp tế thức ăn, nước uống
cho bệnh nhân, cho các em học sinh và cho những người
đang lao động ngoài đường. Đồ hộp
còn dư của những gia đình sắp rời đảo
được gom hết lại trong một nhà kho, để
dành cho những người mới đến đảo
ban đêm.
Sau
một tuần lễ tận lực làm việc, vệ sinh
tổng quan trong 7 khu ABCDEFG rất khả quan, nhất là khu
vực bờ biển, cầu tàu, phi trường trực
thăng, đồi tôn giáo, chợ chồm hổm, chung
quanh nhà thương. Thông tin vẫn thường xuyên liên lạc
với các khu, các khối để tường trình kết
quả cho đồng bào. Những gia đình đã có giấy
đi định cư mà đã hết lòng tham dự vào
công tác làm vệ sinh, được loan tin trên đài, với
lời cảm ơn của BĐH trại và của cao ủy
tị nạn. Nhiều người khác, thanh niên, thanh nữ,
học sinh, các gia đình gương mẫu cũng
được tuyên dương, khuyến khích.
Ngày
9 tháng Giêng năm 1980, phái đoàn Úc Đại Lợi do Thủ
tướng Peter Falconer cầm đầu đến đảo
với ông W. J. Gibbons; đồng thời có phái đoàn của
Tổng thống Hoa Kỳ Carter, do Đặc sứ Victor
Palmier hướng dẫn, cũng đến với ông
Chatman, phối hợp viên và các ông Swiers, Schoeffer, Hancock, Brown.
Có phóng viên báo chí chụp hình.. Các phái đoàn đã đi một
vòng thăm đảo trước khi nhóm họp ở Hội
trường. Tối đến, dưới cơn mưa
dông, phái đoàn cũng lên khu D, khu F để xem đời
sống chen chúc khổ cực của đồng bào. Nhiều
gia đình đông người sống chịu đựng
cả năm trời trên những tấm phản nhỏ bằng
ván ép, cột nhà bằng cây rừng ọp ẹp, nóc lợp
bao đường. Nhà không cửa nẻo, gió luồng,
mưa tạt.
Trong
buổi họp, có nhiều vấn đề quan trọng
được nêu lên, liên quan đến thời gian đi
định cư của thuyền nhân. Để chuẩn
bị cho cuộc sống trên đảo được
thích hợp, vấn đề chuột bọ, bệnh tật.
Nếu có thêm người tị nạn, phải dự trù
vật liệu, xây cất thêm nhà tiền chế. Phái
đoàn Hoa Kỳ cũng cho biết về chính sách định
cư, sẽ chuyển bớt thuyền nhân tị nạn
quá đông trên đảo Bidong sang trại tạm cư LHQ
bên Phi Luật Tân. Ngày giờ chưa quyết định. Có
thể vào khoảng cuối tháng Giêng này.
Những
ngày kế tiếp có phái đoàn 52 Nghị sĩ và Dân biểu
Mã Lai đến bằng trực thăng, họp tại Hội
trường. Ông Chỉ huy trưởng Lực lượng
Đặc nhiệm giới thiệu quan khách, tôi thuyết
trình về tổ chức, về đời sống của
thuyền nhân trên đảo. Tôi cám ơn Quốc hội và
Chánh quyền Mã Lai. Thấy tấm bảng tròn, biểu
tượng của thuyền nhân P. Bidong màu xanh da trời,
hình tay lái, bốn phương tám hướng có tạc bản
đồ nước VN hình chữ S, với chiếc tàu
vượt biển nhỏ ở giữa, phái đoàn muốn
xin làm vật lưu niệm. Có những mẫu nhỏ do
Gia đình bác Hoàng văn Lộc thực hiện sẵn,
BĐH ký tặng.
Tướng
Mansor, Chỉ huy trưởng Task Force Mã Lai bất thần
đến thăm trại bằng tàu gắn máy nhỏ, ông
cũng thấy có nhiều tiến bộ trên phương
diện an ninh và vệ sinh toàn đảo, từ bờ biển
lên đến phi trường, đồi tôn giáo khu C, nhà
thương, trường học.
Ông
J. Hart, Quản trị viên Hành chánh, đi một vòng đảo
gặp tôi trước cửa nhà thương Sick Bay
cũng gật đầu cười vừa ý về sự
sạch sẽ của đảo. Ông Hart là người
nghiện thuốc nặng, tuần rồi ông ra đứng
ở đầu cầu Jetty quăng ống điếu
cũ xuống biển, tuyên bố sẽ từ bỏ không
hút thuốc nữa, nhưng có lẽ mùi thơm của thuốc
đã làm cho ông ghiền không chịu nổi, và ông khoe với
tôi là ông đã sang Kuala Lumpur tìm mua ống điếu mới.
Ông có vẽ vui khi thấy sự ngăn nắp trật tự
trên đảo đã ổn định.
Tàu
Black Gold đến đảo vào lúc 9 giờ tối, cập
sát vào sà lan, và lần này chở những người đã
được giấy đi định cư. Như
thường lệ, tôi xuống tận bến tàu
đưa tiễn và cầu chúc thượng lộ bình an. Đồng
bào mặc thêm bên ngoài áo phao màu cam. Trên cầu Jetty và trên sà
lan, người tiễn đưa đông nghẹt.
Tàu
rời bến đã xa. Tôi nhìn theo vẫn còn thấy những
bàn tay giơ lên cao như vẫy chào hòn đảo nhỏ
thân thương đã in sâu vào tâm khảm họ biết bao
nhiêu kỷ niệm vui buồn. Đó cũng là nơi dừng
chân đầu tiên trên bước đường đi tìm
tự do, dầu có gian nan khổ cực nhưng họ vẫn
sống có niềm tin hơn là ở lại với chế
độ CS tù đày tăm tối.
Trên bãi cát
hoang vu, một thuyền nhân đang âm thầm làm
lại cuộc
đời từ những gì đổ
nát...
CHUỘT
TRÊN ĐẢO BIDONG
Chuột
bụng vàng, bụng trắng, đuôi ngắn, đuôi dài
Sau
Tết Canh thân 1980, BĐH trại tổ chức tiếp
đón phái đoàn Y Tế Mã Lai đến đảo nghiên
cứu về các bệnh truyền nhiễm.
Khối
Thông tin kêu gọi trên loa những người bị lên
cơn ớn lạnh bất thường hãy đến
phòng ngoại chẩn bệnh viện để được
khám bệnh, thử máu vì nghi ngờ bị Sốt rét. Một
phòng khám bệnh khác cũng được thiết lập
để giúp những người bị lao phổi, ho ra
đờm ra máu. Đến phần thuyết trình hấp
dẫn của bác sĩ, về nạn chuột hay quấy
phá, có vài ký giả cũng muốn được chụp
hình chuột ban đêm, nhưng đến khi nghe nói đến
trường hợp một bệnh nhân cùi tê bại, bị
chuột gặm mất một ngón chân trong cơn mê ngủ,
thì họ rụt cổ e ngại. .
Vào
đầu tháng ba năm 1980, tổ chức Y Tế Quốc
tế gởi một chuyên gia phụ trách loài gặm nhấm
đến Bidong, nghiên cứu về tình trạng chuột
trên đảo.
Theo
bác sĩ Lim Boo Liat, chuột sanh sản từ 6 đến
8 lần trong một năm và mỗi lần chuột mẹ
sanh từ 4 đến 8 con. Như vậy tính bổ đồng
trung bình, một cặp chuột có thể sanh sản 2. 100.
000 con sau một năm.
Chuột thích ăn
ngon, thích ăn thịt quay, thịt nướng!.
Bác
sĩ Lim Boo Liat đúng là một tay nhà nghề. Bác sĩ
cân đo cẩn thận con chuột chết từ đầu
chí đuôi, kể cả lỗ tai, cẳng chân nhỏ xíu, gắp
từng con bọ chét trong mình chuột, để dành thử
nghiệm bệnh ban Sốt (Scrub typhus), nghiên cứu từ
hòn dái con chuột đực, đếm từng bào thai nhỏ
trong tử cung con chuột cái.
Theo
phúc trình của Bác sĩ Lim, trên Bidong có ba loại chuột:
A-
Có 90% thuộc loại chuột nhà, dễ nhận ra với
cái ức màu vàng và cái đuôi dài hơn thân mình. Đuôi dài
giúp cho chuột giữ được thăng bằng khi
trèo trên các vách bằng “cạc tông”. Loại chuột này tìm
thấy ở Sài Gòn và ở trên đất liền
Terengganu, khiến người ta không biết xuất xứ
thật sự của chuột trên đảo Bidong, là chuột
đã trốn chạy Cộng Sản Việt Nam theo tàu
vượt biển sang đây, hay là chuột trên đất
liền Terengganu đã theo tàu chở vật liệu, thực
phẩm từ Terengganu sang đảo cho người tị
nạn, hoặc giả cả hai!. Mặc dù chuột nhà
Bidong có kích thước chiều dài bằng chuột Sài Gòn
hay chuột Terengganu, nhưng sức nặng của chúng lại
gấp đôi. Bác sĩ Lim vừa nói, vừa lật bụng
con chuột lên chỉ vào lớp mỡ bọc chung quanh tim
con chuột và ông kết luận: “Đây là vấn đề
chính yếu của chuột Bidong, thường bị bệnh
đau tim do béo phệ mà ra”.
B-
Có 8% chuột ở Bidong là chuột bản xứ, thuộc
loại chuột đồng, chuột rừng với đặc
điểm bụng trắng, đuôi ngắn hơn thân mình.
C-
Còn lại 2% có tên là chuột Hải cảng, chuột Na uy
(gọi là Rattus Norvegicus). Giống chuột di trú này đã
theo tàu Norwegian đi định cư trên mười thế
kỷ nay. Chuột Hải cảng có thân mình dài hơn chuột
nhà và chuột rừng nhưng vì có cái đuôi ngắn
hơn thân mình, nên chuột Hải cảng không thể trèo
cao mà chỉ chạy lủi nhủi trên mặt đất.
Trên mình chuột Bidong cũng ít thấy có dấu sẹo,
chứng tỏ chúng ít khi tranh chấp, cấu xé nhau và Bác
sĩ Lim đã nhướng chân mày cười, khẳng
định: “Ở trên đảo Bidong, thức ăn có
đầy đủ dư thừa!”. Tôi đã góp ý cùng ông:
“Chỗ nào người ta có dư ăn thì chuột mới
mập tròn được như vậy, còn chuột trong
các trại tù sĩ quan cải tạo bắt được
chỉ còn có da và xương”. Mấy anh em tù nhìn nhau thông cảm
nhớ lại thời gian đau khổ này. Đồng
bào các nơi cũng tích cực đóng góp, đưa sáng kiến
về cách lập bẫy, đặt máy bắt chuột.
Một
ban chấm thi được thành lập gồm có Cao ủy
Niels, Kỹ sư Paul và ông Jim Hart-Quản trị viên đảo.
Chiến dịch diệt chuột bắt đầu từ
8 tháng 2 và chấm dứt ngày 28 tháng 2 năm 1980, kéo dài
hơn 2 tuần lễ. Kết quả, tổng cộng bắt
và diệt được gần 15. 000 con chuột lớn
nhỏ, trong toàn 7 khu A-B-C-D-E-F-G. Giải thưởng
được Cao ủy trao tặng cho hai em trai và một
em gái đã đóng góp, diệt được trên 700 con chuột.
Chuột
trên đảo Bidong quá nhiều. Mặt trời vừa lặn,
là đã thấy chuột không biết từ đâu xuất
hiện, chạy nhảy khắp nơi, trên những con
đường mòn đầy rác rến, lủi nhủi
ngoài sân, đào hang, khoét vách, vô cả trong nhà thương, cắn
phá, rượt nhau kêu la chí chóe.
Khối
Y Tế lo ngại vấn đề bệnh truyền nhiễm
do chuột. Chỉ cần có một con bọ chét nhỏ li ti
mang vi trùng Dịch hạch trong bao tử chuột chết,
là toàn thể chuột trên đảo sẽ chết hàng loạt
và bệnh truyền nhiễm Dịch hạch sẽ tràn lan
nhanh chóng qua người. Số dân sống chen chúc 40. 000
trên đảo nhỏ không thấm thía vào đâu. Trong quá khứ
vào thời kỳ sơ khai trên thế giới, nạn Dịch
đen đã giết hàng bao nhiêu triệu người từ
Á sang Âu. Cũng may là kết quả thử nghiệm của
Bác sĩ Lim Boo bình thường, không có gì đáng lo ngại.
Chỉ lo tìm cách diệt bớt chuột thôi.
Tôi
nhớ lại thời gian ở trên tỉnh Phước
Long-Bà Rá, vào năm 1968, có lần đi khám bệnh cho đồng
bào trong ấp thượng Bunard, trên đường đi
Đồng Xoài, bị Dịch hạch, vừa bước
vào căn nhà sàn, dài, thấp, tối om, tôi phải vội
vã bước lui, vạt áo blouse trắng của tôi đang
mặc vụt đổi màu, dính đầy những con bọ
chét nhỏ như những hạt mè đen …
SÂN
BAY TRỰC THĂNG TRÊN ĐỒI KHU F
Bán
đảo Mã Lai và miền Nam Việt Nam có nhiều điểm
giống nhau về thời tiết: Từ tháng 9, tháng 10 trở
đi, gặp gió mùa Đông Bắc, biển bắt đầu
có những lượn sóng to. Tháng 12 trở đi,
được thật sự xem như trong mùa biển
động, sức gió thổi mạnh có khi lên đến
120-130 cây số một giờ, thập phần nguy hiểm
cho tàu bè loại nhỏ
Dự
trù cho những ngày biển động, không sử dụng tàu
để chở bệnh nhân cấp cứu từ Bidong qua
Terengganu, xa trên 30 cây số, chúng tôi có ý nghĩ thành lập một
sân bay trực thăng dã chiến trên đảo.
Được
sự thỏa thuận của ban Quản trị, chúng tôi bắt
tay làm việc. Địa điểm được chọn
là đỉnh đồi khu F, lý tưởng vì không cao lắm
và lại gần trung tâm, nằm phía trên nghĩa trang của
những người đến đảo đầu tiên.
Cơ giới nặng không có, vật liệu làm đường
cũng không, nhưng với ý chí cương quyết thực
hiện cho bằng được sân bay trực thăng
để di chuyển bệnh nhân khi cần, với
mươi cái cuốc, cái xẻng thô sơ, nhóm thanh niên thiện
chí đã nỗ lực làm việc bất kể trời
mưa gió. Cuối cùng đã biến đổi thành một
sân nhỏ bằng phẳng, diện tích xấp xỉ một
sân đánh bóng rổ.
Tàu
Black Gold chở vỉ sắt PSP có đục lỗ, ngang 50
phân, dài trên 2 thước đến cầu Jetty. Thanh niên
khỏe mạnh được huy động nhiều
hơn, chia nhau từng toán 6-8 người. Mỗi toán
khiêng một tấm vỉ sắt, đi theo con đường
đất gồ ghề đầy hang lỗ, từ bến
tàu đến khu D, lên đồi khu F, qua những chiếc
cầu bằng cây rừng nhỏ hẹp. Đường
dài, lên dốc khó khăn. Nhóm thanh niên khiêng nặng nề
đi chậm chạp giống như những đàn kiến
tha lá cây trong rừng Phi Châu. Trời mưa trơn trợt,
vấn đề chuyển vận càng khó khăn, phải mất
nhiều ngày mới khiêng hết những tấm vĩ sắt
lên chất đống trên đồi. Việc khiêng những
vỉ sắt nặng lên đồi đã khó, mà việc sắp
xếp ráp nối những vĩ sắt lại với nhau
cho ăn khớp để lót cho ngay ngắn trên mặt
đất lại còn khó khăn hơn. Tôi không khiêng vỉ
sắt nhưng đi theo dưới cơn mưa để
yểm trợ tinh thần. Trước kia, trong trại tù
Trảng Lớn, mới vô đầu, anh em sĩ quan
cũng bị bắt đi khiêng những vĩ sắt nặng
nề như vầy về làm hội trường. Vì
ăn uống thiếu thốn, cơ thể suy nhược,
đi đứng không vững, trợt chân sụp lỗ,
vài người đã bị vỉ sắt cọ quẹt,
đè lên người bị thương.
Sau
hơn một tuần lễ cực nhọc, việc làm
hoàn tất mỹ mãn. Các vĩ sắt được ráp nối
thẳng thớm, bằng phẳng. Tuy không làm lễ khánh
thành cũng không cắt băng khai mạc. Nhưng phi
trường vừa xong, đã có nhiều chiếc trực
thăng đưa phái đoàn Ngoại quốc đến
thăm đảo. Phi cơ không dùng sân bay trên chiếc tàu
cũ kỹ của đệ nhị thế chiến Black
Gold biến cải mà đáp nhẹ nhàng xuống phi đạo
giữa tiếng vỗ tay chào đón vang dậy của
đồng bào trên đảo. Mọi người cảm
thấy hả lòng với kỳ công này
Ban
Trật tự phải làm việc nhiều vì vừa canh gác
phi trường vừa đi theo mở đường, hộ
tống phái đoàn, xuống hội trường, chờ
đợi phái đoàn thăm viếng xong lại
đưa tiễn trở lên phi trường.
Trong
thời gian thành lập sân bay thì tàu lle de Lumière của BS
không biên giới Bernard Kouchner đã tiếp tục ra đi
tìm vớt người trên biển Đông. Tuy nhiên nhờ
có nhà thương Sick Bay đã hoàn tất tốt, và với
những dụng cụ y khoa đầy đủ do BS
Kouchner để lại, và của đoàn Y tế Đức,
các bác sĩ chuyên môn đã hoạt động đều
đặn, khả quan. Bệnh nhân được chăm
sóc tại chỗ. Việc chuyển bệnh nhân sang đất
liền Terengganu giảm đi rất nhiều. Dân chúng tị
nạn trên đảo viết thơ cho BĐH trại với
lời khen tặng. Viện Đại học Manila
cũng gởi lời hỏi thăm BS Nguyễn Ngọc
Giao trưởng khối Y Tế. BĐH trại cũng nhận
được thơ của BS Phan Quang Đán gởi từ
đảo Virgin Hoa Kỳ cho biết có thể Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị (John Paul II) sẽ viếng
thăm các trại tỵ nạn Phi Luật Tân, Thái Lan, Mã
Lai, Nam Dương và Hồng Kong. Hội bảo trợ trẻ
em của Thụy Điển cũng sẽ đến
thăm đảo.
Lúc
đầu việc thành lập phi trường trực
thăng dã chiến được dự liệu để
di tản bệnh nhân, nhưng suốt thời gian tôi ở
trên đảo, chỉ thấy phi trường được
dùng cho các phái đoàn đến
thăm đảo được thuận tiện hơn .
Nguyễn Duy Cung
(Còn tiếp)