Wednesday, December 7, 2022

Đại Tá Bùi Dzinh

Bùi Dzinh (sinh 1929), nguyên là một sĩ quan Bộ binh cao cấp của Quân đội Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Đại tá. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên tại trường Võ bị Quốc gia sau khi trường di chuyển từ Huế về nam cao nguyên Trung phần. Ra trường, ông được chọn phục vụ đơn vị Bộ binh. Ông đã đảm trách từ chức vụ nhỏ nhất là sĩ quan chỉ huy cấp Trung đội. Tuần tự theo hệ thống chỉ huy, ông đã lên đến Tư lệnh cấp Sư đoàn Bộ binh. Là một sĩ quan trung thành với Chính thể Đệ nhất Cộng hòa, nên sau cuộc Đảo chính lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm, ông phải ra trước Hội đồng Kỷ luật Quân đội và bị cách chức. Hai năm sau, ông tham gia cuộc Đảo chính (ngày 19/2/1965) do tướng Lâm Văn Phát cầm đầu. Lần này ông bị Tòa án Mặt trận kết tội và cuộc đời binh nghiệp của ông chính thức khép lại từ đây.

Tiểu sử và Binh nghiệp

Ông ấy sinh vào tháng 9 năm 1929 tại làng Xuân Hòa, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, miền Trung Việt Nam, trong một gia đình trung nông Nho giáo. Thiếu thời, ông học Tiểu học tại Đồng Hới. Khi lên Trung học, ông được gia đình cho về Huế học ở trường Quốc học. Năm 1950, ông tốt nghiệp Phổ thông Trung học với văn bằng Tú tài bán phần (Part I).

Quân đội Quốc gia Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 9 năm 1950, thi hành lệnh động viên, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia.[2] Ông được theo học khóa 3 Trần Hưng Đạo tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt,[3] khai giảng ngày 1 tháng 10 năm 1950.[4] Ngày 25 tháng 6 năm 1951, mãn khóa tốt nghiệp Thủ khoa với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Ra trường ông được điều động phục vụ tại Liên đoàn Lưu động số 21[5] với chức vụ Trung đội trưởng.

Giữa năm 1952, sau khi Quân đội Quốc gia thành lập Bộ Tổng Tham mưu, ông được cử đi học lớp Tham mưu trung cấp tại trường Tham mưu ở Paris (École Militaire Paris), Pháp. Đầu năm 1953, mãn khóa học từ Pháp về nước, ông được thăng cấp Trung úy chuyển vào Nam phục vụ tại Phòng 3 Đệ nhất Quân khu, dưới quyền Đại tá Lê Văn Tỵ.[6] Năm 1954, sau ngày ký Hiệp định Genève (20/7/1954), ông được thăng cấp Đại úy tại nhiệm.

Quân đội Việt Nam Cộng hòa

Đầu tháng 11 năm 1955, chuyển biên chế sang phục vụ Quân đội Việt Nam Cộng hòa (được cải danh từ Quân đội Quốc gia), ông được cử làm Tiểu khu trưởng Tiểu khu Nam-Ngãi.[7] Ông đã thành công trong việc kêu gọi hai ông Nguyễn Đình Thiệp Chỉ huy quân sự và Phạm Thái là Chính trị viên của Lực lượng vũ trang Việt Nam Quốc dân Đảng cùng các chiến sĩ thuộc các đơn vị này đang trú đóng trong vùng nộp vũ khí về với Chính phủ của Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Giữa năm 1956, ông được cử đi học lớp "Chiến tranh chống Du kích" tại Manilla, Philippines trong thời gian 3 tháng. Ngày 26 tháng 10 cùng năm, sau khi mãn khóa học ở Philippines về nước, ông được thăng cấp Thiếu tá.

Ngày Quốc khánh Đệ nhất Cộng hòa 26 tháng 10 năm 1958, ông được thăng cấp Trung tá, sau đó ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 15 Khinh chiến (Bản doanh được đặt tại Dục Mỹ, Ninh Hòa, Khánh Hòa) thay thế Trung tá Nguyễn Văn Vĩnh[8] Tháng 4 năm 1959, Sư đoàn 15 Khinh chiến hợp cùng với Sư đoàn 16 Khinh chiến để thành lập Sư đoàn 23 Bộ binh, ông trở thành Tư lệnh đầu tiên của Sư đoàn 23 Bộ binh tân lập.[9] Cuối năm 1959, bàn giao Sư đoàn 23 lại cho Trung tá Trần Thanh Phong. Đầu năm 1960 ông được cử đi học lớp Tham mưu cao cấp (khóa 1960 - 1, thụ huấn 16 tuần) tại Học viện Chỉ huy và Tham mưu (US Army Command aGenerGeneeral Staff Collge) Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ[10].

Đầu tháng 5 năm 1960, mãn khóa học từ Mỹ về nước, ông được cử làm Tư lệnh phó Sư đoàn 21 Bộ binh, do Đại tá Trần Thiện Khiêm làm Tư lệnh. Ông đã cùng Đại tá Khiêm đưa Sư đoàn 21 từ miền Tây về Sài Gòn ứng cứu Tổng thống Ngô Đình Diệm, chống lại nhóm sĩ quan do Đại tá Nguyễn Chánh Thi (Chỉ huy trưởng Lữ đoàn Nhảy dù) cầm đầu cuộc Đảo chính ngày 11/11/1960.[11] Đầu tháng 6 năm 1961, ông được thuyên chuyển về vùng 3 chiến thuật để nhận chức vụ Tư lệnh phó Sư đoàn 5 Bộ binh (Bộ Tư lệnh đặt tại căn cứ Phú Lợi, Bình Dương), dưới quyền Tư lệnh của Thiếu tướng Trần Ngọc Tám (5/1961-10/1961). Hơn 4 tháng sau, tướng Trần Ngọc Tám rời Sư đoàn để về phục vụ ở Trung ương, Đại tá Nguyễn Đức Thắng (10/1961-12/1962) Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh từ Vùng 1 Chiến thuật chuyển về thay thế chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 5. Ngày Quốc khánh 26 tháng 10, ông được thăng cấp Đại tá tại nhiệm.

Đầu năm 1962, ông được thuyên chuyển ra miền Trung để nhận chức vụ Tư lệnh đầu tiên của Sư đoàn 9 Bộ binh tân lập.[12] Đến ngày 20 tháng 9 năm 1963, sau khi Sư đoàn đã được huấn luyện và bổ sung hoàn chỉnh cấp số. Ông chỉ huy Sư đoàn 9 hành quân di chuyển vào Nam, đặt Bộ Tư lệnh tại Thị xã Sa Đéc thuộc Khu 42 chiến thuật. Tại đây ông kiêm luôn chức vụ Tư lệnh Khu 42 chiến thuật.

  • Thời điểm Đại tá Bùi Dzinh tư lệnh Sư đoàn 9 Bộ binh, nhân sự trong Bộ Tư lệnh Sư đoàn và chỉ huy các Trung đoàn được phân bổ trách nhiệm như sau:
    -Tư lệnh - Đại tá Bùi Dzinh
    -Tham mưu trưởng - Trung tá Tôn Thất Đông[13]
    -Trung đoàn 13[14] Thiếu tá Nguyễn Cả [15] -Trung đoàn 14 - Thiếu tá Chương Dzềnh Quay
    - Thiếu tá Chương dzềnh Quay chức vụ cuối cùng là chuẩn tướng Tham mưu trưởng Quân Đoàn 4 -Trung đoàn 15 -Thiếu tá Phan Minh Thọ (Đại tá, Quân lực VNCH) Thiếu tá Phan Minh Thọ sau này là trung tá Tỉnh trưởng tỉnh Bình-Định.

Kỷ luật và xuất ngũ[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 1 tháng 11 năm 1963, ông đã không tán thành cuộc đảo chính của nhóm quân nhân do Trung tướng Dương Văn Minh lãnh đạo. Sáng sớm ngày 02 tháng 11, mặc dù đang hành quân tại Thị xã Trúc Giang (tỉnh lỵ tỉnh Kiến Hòa), ông đã đưa Sư đoàn 9 Bộ binh về Sài Gòn với ý định giải cứu Tổng thống Diệm lần thứ hai. Tuy nhiên lần này ông đã bị Đại tá Nguyễn Hữu Có (người vừa thay thế Đại tá Bùi Đình Đạm giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh), đem quân chặn ở ngã ba Trung Lương và khu vực bến phà Mỹ Thuận ở sông Tiền. Các đơn vị thuộc Sư đoàn 7 đã rút hết những chiếc phà ở bờ nam thuộc tỉnh Vĩnh Long về hết bờ bắc thuộc tỉnh Định Tường, đồng thời phong tỏa luôn bến phà Rạch Miễu giữa Thị xã Mỹ Tho (Tỉnh lỵ tỉnh Định Tường) và Thị xã Trúc Giang, không cho quân Sư đoàn 9 Bộ binh vượt sông Tiền Giang. Sứ mạng không thành và kết quả là ngày 6 tháng 11, nhận lệnh bàn giao Sư đoàn 9 Bộ binh lại cho cấp phó là Trung tá Đoàn Văn Quảng để về trình diện gấp Hội đồng quân nhân cách mạng, sau đó phải ra trước Hội đồng Kỷ luật Quân đội, bị cách chức và "nghỉ dài hạn không lương", tạm thời không còn được tham gia bất cứ một việc gì trong quân đội nữa (hình thức sa thải khỏi quân đội).

Ngày 19 tháng 2 năm 1965, mặc dù đang ở trong tình trạng "nghỉ dài hạn không lương" và bị cách chức, ông đã cùng với Thiếu tướng Lâm Văn Phát, Đại tá Phạm Ngọc Thảo và một số sĩ quan tham gia cuộc chỉnh lý lật đổ Quốc trưởng Nguyễn Khánh. Chính ông đã vạch ra kế hoạch và cùng Trung tá Lê Hoàng Thao[16] đưa Lực lượng Địa phương quân từ tỉnh Long An về chiếm Bộ Tư lệnh Biệt Khu Thủ đô (trại Lê văn Duyệt) trong vòng 48 giờ. Cuộc chỉnh lý thất bại vì không được người Mỹ cũng như đa số sĩ quan cao cấp trong Quân đội Việt Nam Cộng hòa ủng hộ, ông đã tẩu thoát ngay sau ngày 20 tháng 2. Ông bị Tòa án Quân sự vùng 3 chiến thuật kết án "tử hình khiếm diện". Cuối tháng 5, ông bị bắt tại một Giáo xứ ở vùng Xóm Mới, quận Gò Vấp thuộc tỉnh Gia Định, ngoại ô Thành phố Sài Gòn. Tòa án Quân sự Mặt trận điều chỉnh lại bản án "tử hình khiếm diện" và kết án ông bị tù chung thân, giam ông tại Đề lao Chí Hòa với hai tội danh: Chuyên viên đảo chính và sử dụng quân đội bất hợp pháp, đồng thời Hội đồng Kỷ luật Quân đội chính thức cho ông giải ngũ vĩnh viễn. Năm 1967, ông được trả tự do nhân ngày Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ban hành Hiến pháp của nền Đệ nhị Cộng hòa (1 tháng 7 năm 1967).

1975

Sau ngày 30 tháng 4, ông trình diện Chính quyền Quân quản Cách mạng và bị đưa đi tù lưu đày từ Nam ra Bắc, ông bị chấn thương sọ não trong khi đang đốn cây bồ đề cho lâm trường vào ngày 13/12/1976 tại trại cài tạo Yên Bái tai nạn này khiến ông bị loà một mắt,mãi cho đến cuối năm 1980 ông mới được trả tự do. Sau khi được ra khỏi tù, ông và gia đình bị đưa đi lập nghiệp tại một vùng kinh tế mới thuộc một tỉnh ở miền đông Nam phần.

Giữa năm 1981, ông cùng 2 người con vượt biên bằng đường biển đến Trại tị nạn Ở Thái Lan. Tại đây ông và các con xin được đi định cư ở Pháp. Sau đó ông đã bảo lãnh những thành viên còn lại của gia đình cùng sang Pháp đoàn tụ.

Chú thích

  1. ^ Sư đoàn 15 Khinh chiến là tiền thân của Sư đoàn 23 Bộ binh sau này.
  2. ^ Thời điểm này Quân đội Quốc gia vẫn còn là thành phần trong Quân đội Liên hiệp Pháp. Tháng 12 năm 1950 mới chính thức được thành lập.
  3. ^ Năm 1959 trường Võ bị Liên quân được đổi tên thành trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt.
  4. ^ Trong thời gian thụ huấn, Khóa sinh Sĩ quan Bùi Dzinh được cử làm khóa sinh Đại diện trưởng cho toàn khóa học.
  5. ^ Liên đoàn Lưu động số 21, về sau được lấy làm nòng cốt để thành lập Sư đoàn 21 Bộ binh, rồi cải danh thành Sư đoàn Dã chiến số 21. Đầu tháng 12 năm 1958, đổi tên lần cuối trở thành Sư đoàn 1 Bộ binh, là đơn vị chủ lực trực thuộc Quân đoàn I và Vùng 1 Chiến thuật.
  6. ^ Đệ nhất Quân khu được thành lập ngày 1 tháng 7 năm 1952, bản doanh đặt tại Sài Gòn. Tư lệnh đầu tiên là Đại tá Lê Văn Tỵ. Ngày 1 tháng 3 năm 1959 cải danh thành Quân đoàn III và Vùng 3 chiến thuật do Trung tướng Thái Quang Hoàng làm Tư lệnh đầu tiên.
  7. ^ Tiểu khu Nam-Ngãi gồm 2 tỉnh thuộc Nam Trung phần Việt Nam là Quảng Nam và Quảng Ngãi.
  8. ^ Trung tá Nguyễn Văn Vĩnh, tốt nghiệp khóa 5 Võ bị Đà Lạt, là Tư lệnh thứ hai của Sư đoàn 15 Khinh chiến (sau Trung tá Nguyễn Thế Như). Về sau giải ngũ ở cấp Đại tá.
    (Trung tá Nguyễn Thế Như, tốt nghiệp khóa 1 Võ bị Liên quân Viễn Đông Đà Lạt. Giải ngũ ở cấp Đại tá).
  9. ^ Cuối năm 1960, Sư đoàn 23 Bộ binh thay đổi địa bàn hoạt động, di chuyển lên Cao nguyên, đặt Bộ Tư lệnh tại Thị xã Ban Mê Thuột (Thủ phủ của vùng Cao nguyên Trung phần).
  10. ^ Tu nghiệp khóa 1960 - 1 Đại học Quân sự Hoa Kỳ cùng với Trung tá Bùi Dinh còn có: Thiếu tướng Hồ Văn Tố, Đại tá Trần Thiện Khiêm
    -Trung tá Trần Văn Thường (Giải ngũ ở cấp Đại tá).
    -Thiếu tá Nguyễn Đức Xích (Tốt nghiệp khóa 2 Sĩ quan Thủ Đức, nguyên Thiếu tá Tỉnh trưởng Gia Định (1962-1963), năm 1964 giải ngũ ở cấp Trung tá).
  11. ^ Đại tá Bùi Dzinh có 2 lần đưa quân về ứng cứu Tổng thống Ngô Đình Diệm. Lần thứ nhất thành công với Sư đoàn 21 Bộ binh ở cuộc Đảo chính ngày 11/11/1960. Lần thứ hai với Sư đoàn 9 Bộ binh không thành công ở cuộc Đảo chính ngày 1/11/1963.
  12. ^ Sư đoàn 9 Bộ binh được thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1962 tại Bình Định.
  13. ^ Trung tá Tôn Thất Đông sinh năm 1925 tại Huế, tốt nghiệp khóa 3 Võ bị Liên quân Đà Lạt. Năm 1968, Đại tá Tỉnh trưởng Vĩnh Bình, năm 1971 giải ngũ sau khi đắc cử Dân biểu Quốc hội Ha nghị Viện
  14. ^ Trung đoàn 13 về sau cải danh thành Trung đoàn 16
  15. ^ Thiếu tá Nguyễn Cả sinh năm 1915 tại Bình Định, tốt nghiệp khóa 7 Võ bị Liên quân Đà Lạt. Sau cùng là Đại tá Phụ tá An ninh tại Phủ Tổng thống. Giải ngũ năm 1967
  16. ^ Trung tá Lê Hoàng Thao, đương nhiệm Tỉnh trưởng Long An (nguyên Chỉ huy Trung đoàn 49 thuộc Sư đoàn 25 Bộ binh 1961-1963, nguyên Tỉnh trưởng Kiến Hòa 1959-1961), giải ngũ năm 1965. 

Tuesday, December 6, 2022

Đại Tá Nguyễn Thành Chuẩn


 Đại Tá Nguyễn Thành Chuẩn

Niên-Trưởng Nguyễn-Thành-Chuẩn sanh ngày 12-9-1930 tại Tĩnh Vĩnh-Long. Đậu Tú-Tài toàn-phần chương-trình Pháp. Tốt-nghiệp Khóa 6 Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam/Đà-Lạt. Tháng 10-1952 ra trường được bổ-nhiệm về Binh-Chủng Nhảy Dù. Năm 1959 theo Thiếu-Tá Phan-Trọng-Chinh Chỉ-Huy-Trưởng Biệt-Động-Quân về thành-lập Bộ Chỉ-Huy Biệt-Động-Quân và Huy-Hiệu Con Cọp mang bên vai trái của Binh-Chủng Biệt-Động-Quân là do Niên-Trưởng Nguyễn-Thành-Chuẩn vẽ.

Năm 1963 Niên-Trưởng Nguyễn-Thành-Chuẩn thuyên-chuyển về Lực-Lượng Đặc-Biệt Vùng IV điều-hành các Trại Biên-Phòng, sau đó về làm Chỉ-Huy-Trưởng C3 của Lực-Lượng Đặc-Biệt. Khi Lực-Lượng Đặc-Biệt sáp-nhập vào Biệt-Động-Quân Ông được bổ-nhiệm làm Chỉ-Huy-Trưởng Biệt-Động-Quân Vùng III.

Ngày 1-4-1974 Niên-Trưởng Nguyễn-Thành-Chuẩn được chính-thức bổ-nhiệm giử chức-vụ Tư-Lệnh Sư-Đoàn 101 Biệt-Động-Quân.

Sau khi bị tù VC 13 năm, Niên-Trưởng Nguyễn-thành-Chuẩn định-cư tại thành-phố San Francisco Hoa-Kỳ theo diện HO năm 1991, làm Tỗng-Hội-Trưởng Biệt-Động-Quân nhiệm-kỳ 1993-1995 & 2005-2007 & 2007-2009.

Niên-Trưởng Nguyễn-Thành-Chuẩn từ-trần ngày 21-10-2008 tại Champigny-sur-Marne ngoại-ô Paris, France .
Ông là người đã vẽ phù hiệu “Beo Đen” nổi tiếng của Biệt Động Quân. Để vẽ ra phù hiệu này, ông đã phải nghiên cứu huy hiệu của tất cả những đơn vị ở trên thế giới có nhiệm vụ tương tự như Biệt Động Quân, đọc sách National Geographic để có tài liệu về những động vật có khả năng tương tự như nhiệm vụ mà lính Biệt Động Quân phải thi hành. Cuối cùng, ông đã chọn con Beo Đen làm biểu tượng cho BĐQ.

Beo rất nhanh nhẹn, luôn luôn ở thế sẵn sàng. Khi vồ mồi hoặc tấn công địch thủ, beo rình mò một thời gian rồi đến khi thời cơ thuận tiện, nhẩy ra tấn công thật dũng mãnh. Biệt Động Quân cũng vậy! Lính Biệt Động trang bị nhẹ, được huấn luyện thành thục chiến thuật truy lùng và tấn công bất ngờ. Sở Trường của Biệt Động là dùng trực thăng vận để điều quân tới chiến trường một cách bất ngờ để tấn công bọn VC.
Để có tác dụng trấn áp địch quân, ông dùng mầu đen cho con beo và mầu đỏ cho cặp mắt và miệng của nó.
Được hỏi: “Tại sao con beo lại có . . . 13 cái răng?” ĐTá Chuẩn đã cười mà trả lời:
“Ai cũng cho con sồ 13 là số xui. Biệt Động Quân dùng nó là con số hên. Việt Cộng đụng tới BĐQ, nó mới là kẻ bị xui xẻo. Do đó, tôi mới vẽ con beo có 13 răng để trấn áp địch quân. Một lý do nữa là để cho . . . cân bằng cái miệng con beo mà thôi.
Ông cũng cùng một lượt vẽ ra huy hiệu “Căn Bản BĐQ” và huy hiệu “Thần Tiễn” gắn trên mũ nâu BĐQ.
Khi đang biệt phái cho Biệt Động Quân thì xẩy ra vụ đảo chánh Tổng Thổng Diệm vào ngày 11 11 1960, ông và các anh em Nhẩy Dù khác đã tham gia vào cuộc đảo chánh này. Rủi thay, cuộc đảo chánh thất bại, ông bị bắt đưa ra tòa án Quân Sự và bị đi đầy ở Côn Đảo. May mắn thay, vào ngày 01 11 1963, cuộc đảo chánh thứ hai đã thành công, Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đã cho tầu ra Côn Sơn đón ông và các chiến hữu khác trở về. Ông được phục hồi binh quyền và cấp bậc cũ. Nhân lúc Lực Lượng Đặc Biệt đang cần bổ xung sĩ quan, ông đã tình nguyện gia nhập binh chủng này.
Cuối năm 1970, Lực Lượng Đặc Biệt được giải tán và chuyển qua Biệt Động Quân, ông đã trở lại phục vụ chính thức cho binh chủng này và trở thành Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân Quân Khu III. Th Tá Hòa lúc đó giữ chức vụ Chánh Văn Phòng cho CHT BĐQ/QK III cho ĐTá Chuẩn.





Đến năm 1972, ông được chỉ định kiêm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Chiến Trường An Lộc. Vào tháng 3 1975, do tình hình chiến trường, Trung Tường Toàn ra lệnh cho ông rút về bảo vệ Quận Chơn Thành, phía bắc căn cứ Lai Khê. Con đường di chuyển từ An Lộc tới Lai Khê dầy đặc những chốt và pháo binh của VC, nhưng nhờ lòng can đảm và sự chiến đấu anh dũng của anh em BĐQ, các Liên Đoàn đã di chuyển an toàn về vị trí mới. Hai ngày sau, VC đã bắt đầu vận dụng tối đa hỏa lực pháo binh cũng như bộ binh để tấn công tới tấp vào phòng tuyến của BĐQ. Qua 10 ngày tấn công, bọn VC đã bỏ cuộc. Nhưng lúc đó cũng là lúc mà Quân Đoàn III không còn lực lượng trự bị nào nữa, do đó, Tướng Toàn lại ra lệnh cho ông rút về Lai Khê. ĐTá Chuẩn đã cho cả lực lượng BĐQ hành quân triệt thoái bất ngờ vào ban đêm và về tới Lai Khê an toàn. Tới đây, lực lượng BĐQ đã bị phân tán mỏng để tăng phái cho những lực lượng khác: Liên Đoàn 32 được điều động về mặt trận Tây Ninh, Liên Đoàn 31 được bổ xung cho các lực lượng chung quanh vùng III. Liên Đoàn 33 cũng bị tách rời từng tiểu đoàn đi tăng viện cho mọi nơi. Bộ Chỉ Huy BĐQ Quân Đoàn không còn quân lính trong tay, dời về đóng ở Biên Hòa. Lúc đó cũng là vào những ngày cuối cùng của tháng Tư rồi.
Khi được tập san Biệt Động Quân phỏng vấn vào năm 2004:
-Lúc đó, tình hình đã rối bung lên rồi, rất nhiều người bỏ đi, sao Niên Trưởng không đi?
Ông đã trợn mắt hỏi lại:
-Đi đâu?
-Thì . . . đi Mỹ đó, NT!
-Đâu có được!
Mặc dù BCH của tôi lúc đó không còn nhiệm vụ gì nữa, nhưng tôi vẫn còn phải có trách nhiệm theo dõi các hoạt động của những đơn vị trực thuộc chứ!

Trưa ngày 29 tháng 4 năm 1975, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn gọi tôi vào Quân Đoàn trình diện, nói rằng
”Anh bây giờ ở đây cũng dư rồi, các đứa con của anh đã mỗi đứa một nơi rồi, tôi trả anh về BCH/BĐQ/Trung Ương để Tướng Đỗ Kế Giai tùy nghi quyết định điều động nhiệm vụ mới cho anh”
Tôi về trình diện Tướng Giai, ông cũng nói:
“Anh ở đây cũng không giúp gì được cho hiện trạng, anh hãy qua Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô mà tăng cường cho họ.
Tôi ở BKTĐ củng với Thiếu Tướng Lâm Văn Phát lo củng cố vòng đai thủ đô.
Trứoc đó ít ngày, Tướng Giai có hỏi tôi:
“Mình có hai sư đoàn BĐQ: Sư Đoàn 101 và 106, anh Chuẩn muốn chọn sư đoàn này để làm Tư Lệnh?”

Sư Đoàn 101 Biệt Động Quân.

Tôi thấy con số 101 có vẻ . . . ngon ngon, có vẻ có tiếng tăm giống như Sư Đoàn Không Kỵ 101 của Hoa Kỳ, nên tôi lựa Sư Đoàn này.
Đến sáng ngày 30 tháng Tư 1975, trong khi tôi đang điều động các Liên Đoàn 7. 8 và 9 đánh những trận chiến quyết tử với VC tại Bình Chánh, Bà Hom, Kinh Xáng. Trong khi tiếng súng hai bên đang nổ rền thì Tướng Nguyễn Hữu Hạnh – vửa được Tổng Thống Dương Văn Minh cử giữ chức Tham Mưu Trưởng Liên Quân – đã gọi điện thoại xuống:
“Tất cả cái đơn vị quân đội ngưng bắn, giá súng, đợi lệnh của Tổng Thồng để chuẩn bị bàn gioa cho phía bên kia”
Tôi nhìn ra ngoài sân, chiếc trực thăng của tôi còn đậu đó. Nhưng chung quanh tôi, còn bao nhiêu là các cấp chỉ huy dưới quyền. Nơi này hỏi phải làm sao? Chỗ kia gọi về xin cho quyết định.
Lòng tôi cảm thấy bồi hồi. Nhìn lại chung quanh, các đồng đội, các thuộc cấp đang loay hoay bên cạnh, mọi người nhìn mình như là một cái phao cuối cùng, sao tôi đành quay lưng bỏ đi?
Với trách nhiệm của một cấp chỉ huy, tôi không thể bỏ anh em ỏ lại vào lúc này, mặc dù Tổng Thống Minh đã ra lệnh đầu hàng, tôi không còn trách nhiệm gì nữa.
Đại Tá Chuẩn đã không bỏ anh em lính chiến để tìm yên lành riêng cho mình, để rồi ông bị tù trung trong trại cải tạo trở của bọn VC đúng 13 năm.
Nhưng con số 13 vẫn là con số hên đối với ông, vì sau 13 năm đầy đọa, ông vẫn sống hiên ngang với đời, vẫn sống với tình “Huynh Đệ Chi Binh” trong cảnh tù đầy.
Huynh Trưởng Hòa kể cho tôi:
“Trong thời gian đầu của cuộc đời tù tội, tôi đã được bọn VC đưa tới trại Suối Máu cùng với ĐTá Chuẩn. Một ngày nọ, trong khi tập trung đi lao động, tôi đã gặp lại ĐTá Chuẩn, hai người chào nhau rồi mạnh ai làm việc nấy. Cuối ngày, khi đi ngang tôi, ĐTá Chuẩn đã dúi vào tay tôi một cái gì đó. Tôi vội cât ngay vào túi vải, về lán mới mở ra xem: Ông đã cho tôi một hũ chao.
Tôi cả đời chưa ăn qua món ăn này, nhưng hôm đó, tôi đã ăn rất ngon miệng.
Trong thời gian học tập cải tại, đồ ăn thức uống là những gì thật quý giá, ĐTá Chuẩn có hai hũ, thay vì ông cất để dành ăn một mình, ông đã chia cho tôi một nửa gia tài của ông. Tôi không bao giờ quên hủ chao này.
Đến năm 1985, tôi được bọn VC cho về, vợ tôi vội vàng lo chuyện vượt biên cho tôi. May mắn thay, tôi đã vượt thoát ngay trong lần đầu tiên vượt biên này, rồi bảo lãnh cả gia đình qua đoàn tụ với tôi ở Úc.
ĐTá Chuẩn bị bọn VC giữ ở trại cải tạo suốt 13 năm trời, tới năm 1988 mới trả ông về. Ông sống ở San Francisco từ ngày rời Việt Nam.
Năm 1995, tôi đã liên lạc được với ĐTá Chuẩn và qua Mỹ thăm ông. Tại đây, tôi đã tặng ông bản sao của ấm hình này. Ông mửng quá, nói sẽ phóng lớn để treo trong nhà”.
Trong buổi lễ kỷ niệm 45 năm Binh Chủng Biệt Động Quân, vào tháng 7 năm 2005, cũng là cuộc họp bầu tổng hội trưởng cho Tổng Hội Biệt Động Quân, ĐTá Chuẩn đã được đề cử giữ chức vụ này. Ông giữ chức vụ Tổng Hội Trưởng từ năm 2005 cho đến nay.


Đại Tá Nguyễn Thành Chuẩn, trong buổi lễ nhậm chức Tổng Hội Trưởng Tổng Hội Biệt Động Quân, 2005.

Xin thắp cho Đại Tá Nguyễn Thành Chuẩn một nén nhang. Ông là một cấp chỉ huy xứng đáng với đầy đủ kinh nghiệm chỉ huy qua các binh chủng Nhẩy Dù, Lực Lượng Đặc Biệt, Biệt Động Quân. Ông cũng là một cấp chỉ huy có phong thái chỉ huy, được lòng các cấp chỉ huy cũng như được sự kính nể của thuộc cấp.

VỊ TỰ LỆNH SƯ ĐOÀN 101 BIỆT ĐỘNG QUÂN CỦA TÔI, LÀ THẾ ĐẤY.

NGUYỄN KHẮP NƠI.