Tám
giờ tối 28 tháng tư 1975, sau bữa cơm chiều vội vã ở một câu lạc bộ gần
khu gia binh TSN, tôi trở về ụ đậu phi cơ đầu phi đạo 07 phải nơi tạm
trú ba phi đoàn 524, 534, 548 di tản về từ căn cứ Phan Rang, bước xuống
xe tôi thấy các nhân viên phi đạo đang bận rộn kéo các A37 trang bị đầy
bom đạn từ trong vòm trú ẩn ra đậu hàng ngang dài phía trước cách ụ năm
chục bộ Anh (50 Feet). Tôi bước đến hỏi Trưởng phi đạo tại sao dời phi
cơ ra khỏi ụ? Anh ta trả lời theo lệnh Trung tá Kỹ thuật và Bộ Chỉ Huy
Hành Quân. Tôi vào phòng trong ụ, nhắc điện thoại gọi Trung tâm hành
quân, thì sĩ quan trực cho biết hình như lệnh của Bộ Tư Lệnh KQ hay Bộ
Tổng Tham Mưu gì đó, tôi phát cáu, giũa anh một câu: Anh là Sĩ quan trực
mà không biết lệnh lạc rõ ràng là như thế nào ? Anh có biết hồi chiều
phi đạo 07 bị dội bom không ? Anh ta cầu hòa trả tời: Thưa thiếu tá, em
thấy cũng vô lý thật, nhưng lệnh trên đưa xuống, em phải thi hành, nếu
Thiếu tá muốn bìết rõ thì hỏi Đại tá Ước. Tôi cúp phôn rồi bấm số Đại tá
Ước nhưng không có ở phòng giấy. Tôi ra lại bãi đậu, nói với Trưởng phi
đạo di chuyển phi cơ trở lại vòm trú ẩn, nhưng anh nói: Thiếu tá nói
với xếp em, em mới thi hành được. Tôi gọi điện thoại cũng không ai trả
lời. Đang đứng phân vân suy nghĩ, làm cách nào để liên lạc được môt vị
có thẩm quyền hỏi cho ra lẽ lệnh của ai để yêu cầu di chuyển phi cơ về
vị trí cũ. Sơn "húc" tiếc nuối vừa nói vừa chỉ tay bên kia hàng rào kẽm
gai: “Đêm qua Thiếu tá đừng cản em thì đám CS Võ Đông Giang đã ra người
thiên cổ rồi, còn đâu mà cho kế hoạch để đám thằng Trung mang A37 từ
Phan Rang về bỏ bom TSN hôm nay!”.
Đêm
27 tháng tư tôi tập họp tất cả hoa tiêu 524 ăn tối ở câu lạc bộ gần
trung tâm Truyền Tin điện tử, Sơn lên sân khấu bỏ túi cầm microphone và
đề nghị tôi về lấy phi cơ bỏ bom Camp Davis nơi đồn trú các phe quân sự
bốn bên, thật ra lúc đó chỉ còn độc nhất một bên là CS Bắc Việt mà thôi.
Tôi chạy nhanh lên kéo Sơn xuống vỗ vai nói: “Chuyện đâu còn đó, từ từ
rồi tính!”. Sơn vùng vằng kéo tay tôi ra vừa khóc vừa nói: “Không còn
thì giờ nữa đâu Anh Tư ơi! Sau này Anh sẽ tiếc!”. Bây giờ đứng nhìn một
hàng dài A37 bom đạn xăng nhớt đây đủ im lìm chờ đợi; một ý nghĩ thoáng
qua trong đầu tôi hay là nói Sơn vào lấy nón bay đi số hai cùng tôi cất
cánh hai A37 lên thanh toán mục tiêu Camp Davis xong dọt đi Utapao.
Chuyện
đánh trúng cái barrack đó tôi tin tưởng Sơn và tôi lượm một cách dễ
dàng như những phi vụ bay đêm tự do lượm công voa chở tiếp liệu của Bắc
Việt trên đường mòn phía nam Pleime tháng 9 năm 1972. Tuy nhiên ở địa vị
Trưởng phòng Hành quân tôi có nên làm không? Những trái bom 250 cân Anh
vừa nổ chiều nay trên phi đạo TSN giờ lại nổ cạnh Bộ Tư Lệnh KQ? Sau đó
chúng tôi sẽ dọt đi để lại mấy chục anh em phân vân xáo trộn nằm trực
trong nhà vòm cuối phi đạo! Chưa kể đến ngàn ngàn chiến hữu và gia đình
đang đồn trú trong căn cứ TSN. Tôi gọi Sơn lên xe chạy đi tìm Đại Tá
Thảo và Trung Tá Cả. Hết câu lạc bộ Mây Bốn Phương đến các quán cơm
trong khu gia binh cũng không thấy các vị đó ở đâu. Tôi đành quay trở
lại biệt đội.
Sơn
nhảy nhanh xuống xe chạy vào biệt đội xách hai cái nón bay ra, giục tôi
vào xách dù ra phi cơ. Tôi đứng lặng nhìn Sơn lắc đầu vừa nói: “Không
thể trút bom xuống Camp Davis được! Hành động này chỉ ăn miếng trả miếng
cho hả giận chứ có lợi lộc gì đâu?”. Bước vào phòng hành quân phi đoàn
nhìn thấy anh em tụm năm tụm ba rầm rì những biến cố xảy ra mấy ngày
qua; nào việc di tản bên DAO, những chuyến C130 bên hậu trạm, đám anh em
Đà Nẵng kẹt lại bị thằng Trung ép ngồi ghế trái có phi công Mig ghế mặt
canh chừng oanh kích phi đạo TSN chiều nay. Thấy Trung tá Khôi đang
đứng nói chuyện với Tuấn cuối góc phòng, tôi xáp lại hỏi: “Trung tá có
biết Đại tá Thảo ở đâu không?”. Anh trả lời: “Có lẽ Ông đi ăn tối với Cả
và Thi chưa về”. Tôi hỏi Khôi: “Anh có biết tại sao tất cả phi cơ kéo
ra khỏi ụ không?”. Khôi trả lời, “đâu có biết, chắc phải có lệnh trên,
kỹ thuật mới di chuyển”. Nhưng phi cơ trang bị bom đạn, xăng nhớt đầy đủ
đậu sát cánh nhau như thế có phần không ổn cho lắm. Sơn mang dù xách
nón bay tới: “Sơn đi một mình nghe Anh Tư”. Tôi nực lên quát: “Không thể
được Sơn ơi, có lên thì lên tất cả”. Trung tá Khôi nhìn tôi rồi hỏi:
“Mục tiêu nào vậy?”. Khôi vừa nói vừa vỗ vai Sơn đừng nóng, hiện tình
chưa đủ căng thẳng sao bạn?
Tôi
tự hào trong hàng ngũ phi công khu trục Không Lực Việt Nam Cọng hòa
nhất là Không đoàn 92 có PĐ 524, 534, 548; cho đến giờ phút này 22:18
tối 28 tháng tư 1975 tất cả phi công đều có mặt ứng chiến đầy đủ không
thiếu một ai. Ngoại trừ Thiếu tá Chấn, Thiếu tá Liễn, Trung tá Thi và
Thiếu tá Tứ, bay bốn A37 , hai trang bị bom nổ 500 lbs, hai trang bị
CBU, ra căn cứ Phan Rang phá hủy phi đạo và Bộ Chỉ Huy đang chiếm đóng
hầu tránh CS có thể kế hoạch lần thứ hai oanh kích TSN.
Suốt
đêm tất cả anh em ba phi đoàn chờ đợi điều động cất cánh nhưng tuyệt
nhiên không một tiếng chuông điên thoại reo, không khí oi bức ngột ngạc;
mọi người mệt mỏi suốt ngày bao nhiêu xáo trộn xảy ra, nào đưa gia đình
di tản ngoài hậu trạm, nào phi cơ đám Nguyễn thành Trung mang từ Đà
Nẵng vào Phan Rang lấy nhiên liệu lên bom đạn về oanh kích phi đạo TSN,
không cho các phi cơ có đường bay di tản.
Nửa
đêm tôi lả người thiếp đi lúc nào không hay. Đến khi nghe tiếng còi hụ
báo động liên hồi. Tôi chụp điện thoại hot line phòng hành quân chiến
cuộc được biết có pháo kích; tôi hỏi cần phi tuần khẩn không? Sĩ quan
trực trả lời chưa có tọa độ. Rồi chúng tôi nghe tiếng nổ lớn đàng trước ụ
bên cạnh. Tiếng hét Trung tá Cả: Tất cả ra sau ụ nhanh lên. Trời tờ mờ
sáng, liếc nhìn đồng hồ gần ba giờ sáng 29 tháng tư. Những trái pháo
kích đầu nghe từ phía trái lần lượt gần lại và cuối cùng trúng một phi
cơ, sau đó tiếng nổ ầm ầm liên tục trong màn lửa ngợp một góc phi
trường. Mười mấy năm thả bom đây là lần đầu nghe bom đạn nổ; chát chúa
dây chuyền, phi cơ bốc cháy theo. Sơn khiều vai tôi: “Anh Tư thấy chưa,
chúng nó điều chỉnh pháo kích từ Camp Davis”. Ngồi bịt tai chịu trận
đàng sau bức tường dài cao hơn mười thước Anh. Tôi nôn nóng lom khom đến
cuối bức tường ló mặt ra nhìn phía trước bãi đậu, một cảnh tượng hoang
tàn đang hủy diệt trước mắt, hơn năm chục chiếc A37 đang bốc cháy khói
lửa ngút ngàn. Tôi quay trở lại tựa lưng vào tường sắt lạnh, đầu óc chùn
lại. Những cánh thép A37 là huyết mạch của ba phi đoàn khu trục Phan
Rang. Giờ đây hơn trăm phi công chiến đấu bằng tay không ư? Thế là hết!
Cuộc chiến bên ta đã lâm vào ngõ cụt. Hèn gì cả đêm hôm qua không có một
phi tuần nào được điều động cả. Trung tá Khôi và Cả hỏi Đại tá Thảo:
“Giờ tính sao sư phụ?”. Không đoàn trưởng trả lời: “Đợi sáng hết pháo
kích di chuyển anh em về Bộ Tư Lệnh Không Đoàn 33 rồi tính!”. 5 giờ 40
sáng, vẫn còn những trái pháo kích rớt rãi rác khắp phi trường. Chúng
tôi vẫn ngồi tựa lưng bức tường sau ụ, hướng về phía bắc. Có mấy chiếc
vận tải và U17 cất cánh quẹo trái phía Gò Vấp để lấy hướng tây đi Bình
Thủy hay Utapao? Phòng không xịt lên liên tục. Một chiếc AC119 trúng cao
xạ gãy làm đôi trước mắt chúng tôi. Cảnh tượng thật bàng hoàng, anh em
nhìn thấy lắc đầu bùi ngùi cho số phận những người có mặt trên tàu định
mệnh đó. Sáu giờ mười lăm, mặt trời ló dạng. Đạn pháo thưa dần. Chiếc
pick up và chiếc shuttle bus phòng dù xà tới bên hông phải ụ cuối. Tiếng
Đại tá Thảo: “Mọi người lên xe”, nhanh như chớp tất cả chen lên đầy hai
chiếc van. Trực chỉ Bộ chỉ huy Không đoàn 33. Đến nơi Đại tá Thảo xuống
xe đi vội vào cửa, vài phút sau chạy ra; nhảy lên xe tiếp tục chạy về
Bộ Tư Lệnh. Đến nơi các phòng vắng lặng không còn ai cả. Dọt trở lại sân
cờ Không Đoàn 33 Đại tá Thảo tuyên bố tạm thời tan hàng, anh em rán tìm
lấy phương tiện di tản.
Mọi
người xuống xe nhưng chạy về đâu bây giờ? Tan hàng. Nghe thảm thiết
quá. Một trong những đơn vị chiến đấu kiên cường nhất của Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa, giờ đang bị bó tay, tước đoạt phương tiện duy nhất để
chiến đấu. Lệnh ai sắp hàng ngang trên năm chục chiếc A37 cánh liền
cánh, xăng nhớt, bom đạn trang bị đầy đủ để hủy diệt? Nếu không cho
chúng tôi chiến đấu thì cũng để chúng tôi có phương tiện ra khỏi vòng
đai đang bủa quanh phi trường chứ ?!!! Chúng tôi đâu có nản chí đầu
hàng? Chúng tôi đâu có rã ngũ ? Cho đến sáng 29 tháng tư tất cả phi công
khu trục Không Đoàn 92 đều có mặt, từ Không Đoàn Trưởng trở xuống,
không thiếu một ai! Nếu có ý đồ đào ngũ chúng tôi đã theo lời mời của vị
Đaị úy Trưởng phi cơ C130 của Không Quân Hoa Kỳ hôm 23 tháng tư ngày
tiễn vợ con lên phi cơ di tản. Lúc bước ra khỏi ramp, anh ta nói: “Why
don't you stay with us?”. Tôi cười và trả lời: “Cám ơn đề nghị của anh.
Tôi phải ở lại chiến đấu”. Anh ta lắc đầu và nói cho tôi vừa đủ nghe:
“War is over!”. Tôi vẫy tay chào mọi người rồi lên xe chạy về phòng Hành
quân gần đầu phi đạo 07R. Đang đứng tần ngần chưa biết đi đâu thì Lê
Vàng xà tới chiếc lambretta giục tôi lên xe, vừa chạy Vàng vừa nói cứ
chạy khắp parking thấy tàu nào nổ máy thì nhảy lên đi theo chứ ở đây
chịu trận sao? Chạy ngược chạy xuôi thấy được chiếc C 47 trên đường vội
vã tiến về đầu phi đạo 07, Vàng tống ga đuổi theo nhưng thấy phi cơ taxi
càng nhanh không có vẻ ngừng lại bốc mình, vả lại nhìn qua các khung
cửa nhỏ thấy lúc nhúc chật cả tàu. Vàng quay xe trở lại. Chạy qua bãi
tha ma A37 của chúng tôi, quá thảm não, không muốn nhìn. Camp Davis bên
tay mặt làm tôi sôi máu, giá nghe Sơn đêm qua không chừng tình thế có
thể khá hơn hôm nay? Ít ra cũng hả giận và còn ít phi cơ để anh em get
out! Trong quân ngũ nhiều khi tuân thủ kỷ luật quá cũng không chắc là
đúng mà còn tai hại đến đồng đội. Giây phút suy tư qua lẹ khi Vàng lắc
xe vào bên trong chưởi thề: “Nó muốn cất cánh ngược chiều trên taxi
way”. Tôi đưa tay vẩy vẩy; chiếc L19 cắt ga quay trở lại, Vàng xà xe vào
nhìn lên phi cơ thấy có hai người, phi công ngoắc tay gọi lên. Vàng lắc
đầu nói với tôi: “Cậu lên đi”. Tôi rời yên xe nhảy lên lom khom chung
ghế với người ngồi phía sau. Vàng tống ga dọt mất. Pilot lại cất cánh
cũng trên taxi way nhưng lần này đúng hướng. Tôi khom người trên đầu hoa
tiêu. Phi cơ lên gần cuối phi đạo bắt đầu quẹo trái phía bắc Gò Vấp.
Tôi la lên: “Quẹo mặt, quẹo mặt, quẹo về phía Sài Gòn. Vì sáng nay tôi
chứng kiến phòng không bắn lên từ hướng đó. " May quá Thiếu tá!", Hoa
tiêu trả lời nhưng vẫn quẹo theo ý tôi. Tôi bảo lấy cao độ chui mây
hướng 240 độ. Anh ta nói không biết bay phi cụ. "Anh bay tôi nhìn phi
cụ", tôi trả lời. Lên năm ngàn bộ ánh sáng chan hòa. Hoa tiêu bình phi.
Trời thủ đô hôm nay mây mù phủ kín như báo hiệu một cơn bỉ cực bắt đâu
giáng xuống cho miền Nam thân yêu.
Tôi
hỏi anh định đi đâu. Anh nói: “Không biết nên đi đâu Thiếu tá”. Rồi anh
ta tiếp, anh vừa ra trường bay Nha Trang về phi đoàn chưa được xác định
hành quân, người chung ghế phía sau với Thiếu tá là em ruột của em 16
tuổi. Tôi quay qua nhìn hành khách trẻ xúng xích trong chiếc áo bay quá
cỡ có lẽ của anh đưa cho mặc. Tôi nói có hai nơi chúng ta có thể đến là
Bình Thủy, Sư đòan 4 KQ hay Côn Sơn nơi tập trung di tản bằng đường
thủy. Thiếu tá quyết định đi đâu thì em đến đó. Tôi nghĩ đi Cần Thơ hơn
vì ở đỏ còn ba phi đoàn A37, bên căn cứ Trà Nóc còn có mấy phi đoàn trực
thăng. Tôi nói anh cứ giữ cấp 240 đi Cần Thơ. Mười lăm phút sau Tân An
trước mặt, bầu trời quang đãng không một cụm mây; nguyên miền Nam trải
dài dưới cánh bạc, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ, Sóc Trăng... miền đất trù
phú, ruộng vườn xanh ngát, sông lạch hiền hoà không lẽ rồi đây một sớm
một chiều thay tên đổi họ?
Năm
mươi phút bay, sông Bassat hiện trước mặt tôi nói với hoa tiêu qua tầng
số Bình Thủy xin chỉ thị đáp. Sau khi nhận đầy đủ chi tiết, chàng phi
công vào chiều gió xuôi rồi quẹo phải 180 độ vào cận tiến chỉnh mũi phi
cơ thẳng phi đạo, chiếc L19 từ từ xuống thấp cuối cùng lước nhẹ trên
đường bay. Chạy đến giữa, đài kiểm soát cho lệnh đổi qua tầng số dưới
đất, và được lệnh taxi theo chiếc pick-up xanh Follow Me về bãi đậu gần
cổng vào phi trường. Chúng tôi lần lượt xuống phi cơ; thì một xe jeep
Quân Cảnh chạy tới; người Trung sĩ này ngày trước đóng ở Nha Trang tôi
và anh ta quen nhau; anh chào tôi rồi nói: "Thưa Thiếu tá, lệnh Ông
Tướng tất cả phi cơ các nơi về, đậu tại đây; đổ xăng nhớt đầy đủ và chỉ
được cất cánh khi có phi trình của Hành quân Chiến cuộc". Rồi anh kể cho
tôi nghe sáng nay mấy Ông Khu trục AD5 và AD6 làm náo động cả phi
trường. Tôi hỏi anh ta có xe cho chúng tôi mượn đi ăn trưa, đói bụng
quá. Anh bảo tôi vào trạm gác anh sẽ kiếm cho tôi phương tiện. Năm phút
sau anh chạy đến một chiếc jeep và nói với tôi một tiếng rưởi phải trả
lại xe. Tôi trả lời cám ơn nhiều lắm và hứa về đúng giờ. Tôi hỏi tinh
hình Cần Thơ. Anh nói vẫn còn yên nhưng không nên đi xa quá. Sau khi ra
dấu cho hai bạn đồng hành về từ TSN lên xe, tôi lái ra cổng chạy được
một đoạn đường nhìn thấy có quán ăn hai bên, tôi ngừng lại nhìn quanh có
vẻ tốt. Trong quán một vài bàn có mấy quân nhân trang phục Không quân
ăn trưa trễ đang ngồi nói chuyện. Chúng tôi chọn một bàn góc trái . Sau
khi gọi ba dĩa cơm tấm sườn đặc biệt có hai trứng ốp la và ba ly trà đá
lớn. Tôi nói với chàng pilot L19, Cần Thơ có vẻ còn yên nhưng tình hình
mỗi lúc mỗi thay đổi rất lẹ; tuy nhiên đến đây là tốt rồi. Ăn xong vào
phi trường tôi sẽ bàn với anh chương trình kế tiếp chúng ta sẽ làm gì.
Chúng tôi ngốn ngáo đĩa cơm nóng hổi, hai miếng sườn cốt lét nướng vàng
và trứng gà thơm phức mùi bơ; nốc hết nửa ly trà đá, như chưa bao giờ
được ăn ngon như vậy, có lẽ để quá đói và mấy hôm ở TSN đầu óc căng
thẳng ăn uống bất thường, thêm vào đó cơm tấm sườn nướng Cần Thơ có
tiếng ngon nhất nước.
Xong
bữa ăn trưa chúng tôi trở lại căn cứ. Vào trạm Quân Cảnh trả xe, bắt
tay cám ơn và đưa cho anh bạn Không đoàn 62 ngày trước cây thuốc Salem
đầu lọc tôi hỏi mua lúc trả tiền ở quán nhậu. Anh ta cười và nói: “Thiếu
tá khách sáo quá làm em tổn thọ sớm”. Tôi vỗ vai anh: “Hân hạnh cho ta
có người bạn tốt như anh!”.
Ba
chúng tôi bách bộ về Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn. Qua bãi đậu phi đoàn quan sát;
tôi đứng lại hỏi người phi công L19: “Anh có bản đồ miền Nam không?”.
Anh ta rút trong túi dưới bên mặt ra một tấm tỉ lệ 500000 và nói: “Tấm
này được không Thiếu tá?”. Tôi trải ra trên nền xi măng và nói: “Nếu
chúng ta còn gặp nhau thì không có gì trở ngại; nhưng lỡ không gặp nhau
lại thì anh nhớ là cất cánh Bình Thủy lấy cấp 300 độ trực chỉ Utapao,
trời tháng này tốt; anh cứ ôm theo bờ biển ba tiếng sau sẽ thấy phi đạo
lớn, chính đó Utapao". “Em không nói được tiếng Anh Thiếu tá", viên
Thiếu úy cắt ngang tôi. "Cần gì liên lạc với đài không lưu, anh quan sát
cờ gió hoặc nhìn phi cơ đáp hoặc cất cánh là biết phi đạo đang xử dụng,
xong bay vào trên ngàn bộ lắc cánh, đài sẽ biết vô tuyến hư họ sẽ chớp
đèn xanh cho anh ưu tiên vào đáp". Anh có thắc mắc gì nữa không?, tôi
hỏi . Anh lắc đầu và xếp bản đồ bỏ lại túi. Tôi nói bây giờ chúng ta lên
trình diện Tướng Tần. Anh ta xin phép ghé vào phi đoàn quan sát tìm gặp
mấy người bạn cùng khóa về đây mấy tháng trước. Tôi bắt tay anh nói cám
ơn, hy vọng chúng ta gặp lại.
Bước
vào cửa lớn Bộ Tư Lệnh SĐ4KQ, gặp Nhân PĐ534, anh nói đu theo trực
thăng về đây hồi 11 giờ, cũng có ý định vào trình diện ông Tướng. Hai
chúng tôi đợi chánh văn phòng ba phút thì được Tướng Tần gọi vào gặp.
Ông Tướng hỏi tình hình TSN và Bộ Tư Lệnh KQ xong Người nói: “Hai anh
xuống gặp Đại Tá Ninh và đưa note này cho ông”. Tướng Tần trao tôi tấm
giấy. Chúng tôi chào xong đi về Không Đoàn 74 CT, lúc gần đến nơi thì
gặp Đại Tá Ninh lái xe vào chỗ đậu. Sau thủ tục chào kính tôi đưa note
của Tướng Tần; Đại Tá Ninh hỏi: "Khoẻ không Cửu, lâu lắm mới gặp anh".
Tôi cám ơn và trả lời vẫn bình thường. Nhớ lại mười năm trước, 1965, lúc
đó Đại úy Ninh Biệt đội trưởng Khu trục Phi Hổ ở Pleiku, được giao
trọng trách cùng Đại úy Lạc về Không Đoàn 62 CT thành lập Phi Đoàn Thiên
Lôi 524. Nguyễn Huy Bỗng, Trần Văn Nghĩa, Hoàng Dự và tôi xung phong
rời Cọp Bay 516 về Nha Trang bổ sung quân số. Giờ đây mười năm sau, 29
tháng tư 1975, Đại Tá nói: “Tốt lắm, hai anh vào giúp tôi PĐ A37”; Đại
Tá kéo chúng tôi vào giới thiệu với anh em trẻ 520. Xong ông rời phòng
Hành quân. Các hoa tiêu vây quanh tôi và hỏi tình hình Sài Gòn. Tôi
thuật lại cho họ nghe những biến chuyển xảy ra mấy ngày qua. Anh em nói
cho tôi nghe tâm trạng, bàng hoàng, lo lắng sau mấy hôm khác lạ xảy ra
trong các Phi đoàn, nhất là biến động sáng nay trên bầu trời căn cứ.
Lệnh Tướng Tần truyền xuống để trấn an quân sĩ. Phi trường Bình Thủy đã
xao động càng nghẹt thở thêm. Xe Quân Cảnh tuần tiểu liên miên chạy lòng
vòng các bãi đậu phi cơ. Tôi nhìn lên bảng phi lệnh và hỏi suốt ngày
chưa có phi tuần nào cất cánh hả? Anh em lắc đầu. Vẻ mặt mọi người chán
nản. Không khí có vẻ trầm lặng mang theo sự ngột ngạc nôn nóng. Họ nhìn
nhau như muốn nói ra một điều gì trong tâm trí nhưng ai cũng ngại ngùng
phát biểu. Tôi ngồi xuống ghế và ra dấu cho anh em cũng tìm chỗ an tọa.
Rồi bắt đầu lên tiếng: “Nói cho anh em rõ, Bộ Tư Lệnh KQ đã bỏ ngõ.
Trung tâm Hành Quân KQ cũng không còn hoạt động. Tôi nghĩ giờ này Sài
Gòn đã bị CS tiến chiếm rồi. Bắt đầu bây giờ nếu có phi vụ điều động thì
anh em phụ trách phi tuần nào cứ cất cánh lên target đánh xong đi thẳng
Utapao không quay trở về nữa. Chắc các anh đã biết, từ Binh Thủy đi
Utapao hướng 300 rồi chứ gì? Khoảng 45 phút là đến. Anh em nên lấy bản
đồ ra kiểm soát lại và ghi các chi tiết, tầng số tower... Các bạn trẻ
giờ đây rộn ràng hơn và đi lấy túi check list với bản đồ ra kiểm lại lần
cuối. Nhìn họ, nhìn dấu bút ghi chép khoanh tròn lớn căn cứ Hoa Kỳ bên
Thái Lan tôi biết họ cũng đã sữa soạn kỹ lưỡng đầy đủ từ trước rồi.
Nãy
giờ tôi mãi nói chuyện với các bạn Thần Báo thì Nhân 534 bốc điện thoại
gọi tìm mấy người quen ở Cần Thơ. Lát sau Nhân đến bảo tôi mượn xe chở
anh ta ra phố cho anh gặp người quen. Tôi nói giờ phút này mà bạn còn
luyến tiếc gì nữa. "Anh nói dưới này còn yên ổn lắm, tôi đi nửa tiếng sẽ
trở về liền". Tôi trả lời: “Đại Tá Ninh căn dặn coi giùm anh em A37,
mình đâu bỏ Phi Đoàn đi được?”. Anh đáp ngay: “Tôi đánh cá với bạn đi
tới tối về vẫn không có gì xảy ra đâu, Bộ Tư Lệnh, Bộ Tổng Tham Mưu,
Trung Tâm HQKQ đã im tiếng còn ai để xin phi vụ yểm trợ ? Vả lại mình đi
một chốc thì về chứ có dọt đâu mà lo không hoàn tất trách nhiệm?”. Tôi
nhìn vẻ mặt ra chiều năn nỉ của anh rồi cũng xiêu lòng. Tôi nói với Sĩ
Quan trực mượn chìa khóa xe pick-up đưa Thiếu tá Nhân đi sẽ về ngay. Kéo
hộc lấy chìa khóa, viên Thiếu úy trẻ giao cho tôi và nói: Xe đậu bên
mặt cửa ra vào.
Lên
xe chạy một khoảng đến Phi Trường Trà Nóc, Nhân bảo quẹo vào để anh nhờ
mấy bạn Trực thăng đưa ra phố. Tôi định ngừng xe trước phi đoàn cho
Nhân xuống xong sẽ dọt về ngay thì anh bạn của Nhân chạy Honda tắp vào
và nói: “Mày mới xuống hả, tao vừa gặp Đại tá Thảo, Đại tá Ân, Trung tá
Cả bên văn phòng Đại tá Bá”. Nhân giục tôi: “Mình phải qua trình diện
mấy ông chứ?”. Tôi nhìn Nhân vừa nói vừa tống ga chạy về Bộ Chỉ Huy Căn
cứ: “Trình diện gì nữa, hồi sáng Đại tá Thảo đã tuyên bố tan hàng, tự
tìm phương tiện di tản rồi mà?”. Gặp được cấp chỉ huy thoát khỏi gọng
kềm CS đang siết dần TSN, tôi cũng lấy làm mừng; sẵn dịp cũng nên chào
Đại tá Bá xếp cũ mấy năm trước ở Phan Rang. Một chốc bảo Nhân: “Tôi phải
về Phi đoàn 520, hơn 45 phút rồI”. Nhân gật đầu nói: "Gặp lại sau”.
Bảy
giờ tối, một Thiếu úy thấy tôi ngồi xem truyền hình đến hỏi: “Ăn gì
chưa Thiếu tá?”. Tôi lắc đầu, anh đề nghị chở tôi ra quán nhậu trước
cổng. Tôi nói : Anh đi ăn tối đi, nếu tiện nhờ anh mua giùm ổ bánh mì
gà. Tôi rút ra tờ năm trăm đưa nhưng anh không nhận.
Suốt
đêm 29 rạng sáng 30 mọi người không ngủ, thao thức đợi phi vụ. Thỉnh
thoảng nghe đại bác nổ và nhiều loạt súng nhỏ nhưng tuyệt nhiên phi
trường Bình Thủy vẫn hoạt động bình thường, các ụ parking đèn sáng
trưng, các chuyên viên kỹ thuật vẫn cắm cúi sửa tàu, tiếng động cơ A37
thỉnh thoảng nổ đều theo nhịp test của trưởng phi cơ. Tôi đứng nhìn phi
đạo trong đêm, nghĩ đến các đầu não chiến đấu đã tự tan hàng, chỉ còn
lại vùng bốn lẻ loi chiến đấu được bao lâu? Đạn dược, xăng nhớt, cơ
giới... còn lại đủ chống cự không?
Mười
giờ sáng đài truyền hình phát sóng các Tướng, Bộ trưởng của chính phủ
Big Minh kêu gọi toàn quân bỏ súng rời đơn vị trở về nhà. Hiệu triệu của
Tổng Thống "ba ngày" chỉ thị các Binh đoàn, công sở bàn giao tất cả cho
"Quân Giải Phóng miền Nam".
Thế
là Căn cứ Bình Thủy cũng tự động tan hàng. Chưa qua mười phút, cảnh rã
ngũ xảy ra nhanh đến nổi tôi nhìn ra bãi đậu phi cơ vắng lặng, không còn
quân cảnh, không còn chuyên viên kỹ thuật. Tôi rất thán phục anh em A37
Cần Thơ, có nôn nóng nhưng rất trật tự có thể nói là lịch sự. Tôi lên
tiếng vì nhu cầu tất cả Hoa Tiêu A37 phải rời Việt Nam, anh em bắt cặp
lấy, mỗi phi cơ phải đi được ba người, không dù nón, không hành lý,
ngoại trừ Phi Công bay ngồi ghế trái phải đội helmet để liên lạc và tất
cả phi cơ bay cao độ maximum 12 ngàn bộ không cần dưỡng khí. Tôi là
người đầu tiên quăng cái cặp samsonite đựng nhiều kỷ vật qua hàng rào
kẽm gai. Thế là anh em lần lượt tự động nhảy lên phi cơ. Một Thiếu úy
chạy đến hỏi tôi: “Còn vợ em làm sao Thiếu tá?”. Tôi quay qua đẩy anh ta
và vợ lên chiếc tàu gần ụ bên đã có phi công ngồi ghế trái.Thấy mọi
người đã an vị, không còn ai trên parking, tôi nói với Thiếu tá Danh,
chúng ta cũng lên tàu chứ? Khi ngồi trên ghế mới thấy đa số phi cơ bình
điện yếu không mở máy được. Tôi bảo Danh nhảy xuống giúp tôi đẩy chiếc
APU (Auxiliaire Power Unit) qua cắm vào phi cơ gần nhứt; nhưng loay hoay
hoài cũng không làm sao nổ máy "boost" bình điện được.
Nắng
miền nam bắt đầu nóng, tôi tự giận mình bay mấy ngàn giờ mà không biết
start APU, tệ thật! Kịp lúc đó Thiếu tá Kim, người bạn cùng khóa 63A,
Liên Đoàn Trưởng Kỹ Thuật chạy lambretta đến gọi tôi: "Cửu cho "moi" đi
với!". Tôi mừng quá và chụp tay anh: "Chắc chắn anh phải đi, start APU
dùm coi". Kim đưa hai ngón tay bấm, tiếng nổ dòn APU vang lên, tôi giục
Kim và Danh đẩy máy "boost” đến tất cả phi cơ bình yếu cho phi công mở
máy. Gần chiếc cuối tôi thấy chỉ có hai người ngồi, Tôi nói Kim lên ngồi
ké. Rồi tôi nói với Danh còn chiếc nữa ta có thể lên tàu.
Lúc
trở lại phi cơ, tôi ra dấu cho Danh mang dù nón oxygen đầy đủ vì không
có ai nữa để cho đi. Vả lại chúng tôi phải lên 25 ngàn bộ để liên lạc
trước với Utapao tower. Vừa taxi ra khỏi ụ thì thấy Mậu và một người bạn
chạy vespa gọi: “Cửu, cho "moi" đi với!”. Tôi nhìn thấy còn chiếc A37
đậu ụ cạnh. Tôi chỉ cho Mậu và người bạn lên bay chiếc đó. Bấm
interphone nói với Danh hy vọng họ không cần APU. Dù sao chúng tôi cũng
phải đợi cho họ mở máy taxi ra mới lăn bánh theo.
Khi
phi cơ line up đầu phi đạo, nhìn lại căn cứ lần cuối vắng vẻ không thấy
một bóng người. Tôi mang tâm trạng bùi ngùi, luyến tiếc phải bỏ ra đi
nơi một thời sinh động náo nhìệt. Bao kỷ niệm hiện về, những sáng tinh
sương phi tuần nối đuôi nhau rầm rộ bay vào không gian đi chu toàn nhiệm
vụ Bảo Quốc Trấn Không, những buổi chiều sầu thảm khi hay tin một cánh
chim đã lìa đàn đền nợ nước. Những đêm thức trắng vần vũ trên trời tây
cover cho các bạn trực thăng vào kéo đồng đội lên trong thửa ruộng xanh
phía bắc phố thị Tân An.
Danh
kéo tôi về thực tại: "Cất cánh được chưa Cửu?". Tôi gật đầu ra dấu tống
ga 100%. Danh đưa phi cơ lên thẳng đứng. Cao độ kế quay vùn vụt, mấy
phút sau phi cơ bình phi 25 ngàn bộ, hướng 300. Tôi lắc cần lái đồng
thời qua interphone nói với Danh, tới phiên tôi bay. Danh buông tay để
tôi điều khiển phi cơ. Trên tầng số guard tôi nghe được nhiều phi cơ
trực thăng "may day" với các chiến hạm Hải quân Mỹ xin xác định tọa độ,
hướng bay để vào đáp. Vô tuyến ồn ào như họp chợ. Tôi đưa tay vặn qua
tầng số tour Utapao, thì đã nghe anh em bắt đầu liên lạc nhưng không
nghe được vì họ phải bay thấp và còn quá xa. Tôi xen vào : “Xin các A37
yên lặng!”. Tôi bắt đầu gọi đài Utapao báo cáo trong vòng 25 phút nữa,
khoảng bốn chục phi cơ A37 xin chỉ thị vào đáp. Utapao Tower: "Welcome
Sir, runway 18 headwind 10 miles, vibility 25 miles, altimeter setting
29.92 reporting each flight when ready for landing. Thunder 524 Roger”.
Tôi báo lại chi tiết cho anh em, mọi người bấm nút gọi cho biết nhận rõ.
Đến
Hà Tiên đánh mấy vòng ngắm phố thị, ruộng vườn. Tôi nói với Danh nhìn
quê hương lần cuối đi trước khi qua không phận Cao Miên, chắc phải lâu
lắm mới có dịp được thấy lại. Danh mỉm cười: “Anh đang di tản hay bay du
hành cross country đây?”. Rời không phận Việt Nam, tôi nói Danh cầm cần
lái tiếp tục trực chỉ Utapao.
Đến
căn cứ Thái Lan sát bờ biển Danh xin chỉ thị đài vào đáp. Danh lướt nhẹ
trên phi đạo 18 và để phi cơ chạy đến cuối đường bay thì tower cho tầng
số ground, quẹo mặt đã thấy chiếc pick-up Follow-Me đợi sẵn, taxi theo
họ đến bãi đậu tạm khoảng trăm feet từ runway thì hai airmen nhảy xuống
xe, một ra dấu full stop, tắt máy, một quăng hai khúc gỗ chặn bánh phải.
Xong anh ta đến chào tôi rồi đưa giấy bút yêu cầu điền vào tên họ phi
hành đoàn, số đuôi phi cơ từ đâu đến cùng lúc đó người lính KQ Hoa Kỳ
cầm hộp sơn xì xóa mất lá cờ sau đuôi. Sau đó họ mời chúng tôi xuống tàu
lên xe pick-up để họ đưa vào bàn đón tiếp, họ cũng không quên nhắc nhở
chúng tôi vì điều luật an ninh căn cứ vũ khí và nón bay được để lại sau
thùng xe để chuyển vào kho.
Đến
bàn ghi tên họ lần nữa rồi được phát một cái khăn tắm, hộp xà phòng,
kem bàn chải đánh răng. Bàn bên cạnh có các thức uống, bánh ngọt. Mấy
anh em đến trước đang nhâm nhi cà phê trò chuyện, mỗi người mang một tâm
trạng, trên nét mặt đăm chiêu nhưng có phần thư thả hơn hồi sáng; hết
còn cảnh bồn chồn ngồi đứng không yên. Thời tiết Thái Lan nóng bức như
Cần Thơ mặc dù ở đây sát bờ biển. Thấy vòi nước trên bãi cỏ cạnh văn
phòng tôi tiến tới mở ra đưa hai tay hứng nước vụp vào mặt.
Nhóm
hoa tiêu Bình Thủy thấy tôi vẫy tay chào, vài bạn đưa ngón trỏ lên có ý
nói chúng ta hoàn tất di tản tốt. Một thiếu úy từ Đà Nẵng về Cần Thơ
kéo tôi ra một góc dúi vào tay hai tờ trăm đô la, tôi ngạc nhiên nhìn
rồi đút trở lại túi anh ta; anh phân trần: “Em ở Mỹ mới về một tháng,
còn một ngàn rưởi, Thiếu tá giữ mà xài!”. Tôi nói cám ơn anh, nhưng bây
giờ có nhu cầu gì mà cần đến tiền bạc. Đêm hôm qua anh có nói chuyện,
vừa đổi về SĐ 1 KQ chưa được check out hành quân thì phải chạy. Tôi nói
với anh yên chí, Bình Thủy tương đối yên, phi cơ còn đầy đủ, tất cả
chúng ta sẽ rời Việt Nam an toàn.
Quá
mệt mỏi tôi ngồi bệt xuống sàn xi măng bãi đậu, lấy chiếc khăn tắm vừa
lãnh cuộn tròn làm gối, ngã người đánh một giấc cho đến khi nghe tiếng
phi cơ, tôi choàng tỉnh nhìn lên bầu trời thấy chiếc L19 lắc cánh. Tôi
nghiêng mặ,t chống tay đứng thẳng dậy hướng về đài kiểm soát, “green
light" chớp chớp, tôi tự cười thầm thỏa mãn: “Hai anh em nhà họ rồi chứ
ai vào đây nữa!”. Chiếc phi cơ quan sát tà tà một phần ba runway mới
chạm bánh, đến cuối phi đạo quẹo mặt, taxi theo "Follow-Me" cho đến bãi
đậu chung với các tàu vận tải cách chỗ đứng chúng tôi ba trăm thước. Phi
cơ tắt máy, tôi nhìn hắn ta bước ra rồi đến người em và thêm một vị mặc
áo chùng đen, có lẽ là một linh mục? Lúc họ xuống xe pick-up, đi về bàn
làm giấy tờ theo chỉ dẫn ra dấu của người lính Hoa Kỳ, tôi tiến lại vỗ
vai, hắn ta quay lại thấy tôi mừng quá: “Đúng như Thiếu tá nói, ba tiếng
bay thì nhìn thấy phi trường Utapao, em vào lắc cánh đèn xanh bật cho
vào đáp ngay. Tôi định hỏi vị linh mục đó anh gặp ở đâu nhưng thấy anh
ta loay hoay làm giấy tờ tôi bước về chỗ cũ. Mấy anh em Cần Thơ giục tôi
vào ghi tên cho kịp chuyến bay tới đi Guam.
30
tháng tư 2005, ba mươi năm sau. Nhân ngày họp mặt Khu Trục, tôi ngồi
viết lại "đoạn đường” đã qua này để cám ơn trên đã cho tôi gặp nhiều bạn
tốt, tôi mới hoàn thành được chuyến đi mang nhiều ý nghĩa của đời mình.
Tuổi quá lục tuần, trí nhớ bắt đầu sức mẻ đến nổi tên họ những người
bạn đã gặp cũng đi Utapao). Trong khi gần trăm hai mươi Phi Công Khu
Trục Phan Rang tại TSN từ 20 đến sáng 29 tháng tư không một phi công khu
trục bay khỏi phi trường bằng A37 đi Thái Lan cả, vì tất cả A37 như
phần trên đã viết, “Lệnh ai kéo phi cơ ra khỏi ụ để cho VC pháo kích
rạng sáng 29 tháng tư?”. Nực cười nhất là một số quân nhân phía ta sau
này viết lại tháng tư đen cũng vấp những lỗi lầm y như vậy, có lẽ họ có
đọc "The fall of Saigon" rồi "copy" lại chăng?không còn nhớ. Trong ý
nguyện viết lại khúc chuyện xưa này cũng mong ước được hội ngộ với anh
em ngày trước. Những Anh em đã từng cùng nhau vì lý tưởng tự do, vẩy
vùng trên Không Gian đất Việt. Thời trai trẻ mang sứ mạng được Tổ Quốc
quê hương giao phó, chúng tôi đã hãnh diện chiến đấu đến cùng, luận
thành bại ngoài tầm tay quân đội. Cũng bài viết này xin nhắc lại cho ký
giả "salon" David Butler, mấy tuần cuối tháng tư 75, quanh quẩn trong
các bar, hộp đêm Mỹ gom góp tin tức chiến sự từ các cọng sự viên tòa đại
sứ, DAO,... kể lại để dựng đứng những tin thất thiệt trong cuốn "The
fall of Saigon": Trang 380, David viết, “April 29, 04:00 tại TSN tất cả
các Phi Đoàn A37 đã cất cánh di tản.
Written by Thiên Lôi 524
No comments:
Post a Comment