Sunday, May 31, 2020

Thiên Thần Mũ Đỏ Ai Còn Ai Mất


Tôi vẫn nhớ rõ như mới nhìn thấy hôm qua những khuôn mặt, giọng nói tác phong của những anh em Dù đã cùng tôi vào sinh ra tử. Thiếu Tá Thanh Tiểu đoàn 8 mà đồng đội của người Tiểu Đoàn Trưởng nầy thường gọi là Thành Râu. Anh em chúng tôi có Thiếu Tá Châu Lùn Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1, Thiếu Tá Hạnh, Hào Hoa Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2, Thiếu Tá Trang Trĩ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3, Trung Tá Bùi Quyền, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 nổi nóng mặt đỏ gay, Thiếu Tá Lô Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 7, biệt danh là Lô Lọ Rượu. Anh em chúng tôi còn có Cậu Út Biên Hòa hay cậu "Bảy Tình" Mười Lựu Đạn tức Trung Tá Thành, Tiểu Đoàn 6, Trung Tá Trần Đăng Khôi Lữ Đoàn 2 tài đức song toàn.
Thiếu Tá Đường TĐ9, thích làm thơ tình lãng mạn, gọi là Đường Thi Sĩ, anh em chúng tôi có Thiếu tá Hồng Thu, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 16 gọi Cô Thu. Chúng tôi có 2 Ngọc, Ngọc Long Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 và Ngọc Nga, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 4, Làm sao anh em Dù chúng tôi quên được, chúng tôi có 2 người bạn anh hùng, mỗi người chỉ có một mắt. Trung Tá "Bùi Đăng" trong thẻ quân nhân không phải họ "Bùi" cũng chẳng có tên "Đăng", tên anh là Bằng, Anh chỉ có một mắt. Nhưng những chiến sĩ của anh gọi anh một cách âu yếm là Bùi Đăng. Trung Tá Trần Văn Sơn, Lữ Đoàn Phó Lữ Đoàn 2 cũng chỉ có một mắt từ ngày còn là Đại Đội Trưởng Tiểu Đoàn 5, anh em Dù gọi là Hiệp sĩ Mù, tội nghiệp Sơn đã hy sinh trong trận chiến sau cùng tại mặt trận Phan Rang. Chúng tôi có Hiệp sĩ mù của chúng tôi, Hiệp sĩ mù của Thiên thần mũ đỏ không xử dụng cùng một loại vũ khí như Hiệp sĩ mù của phim ảnh và tiểu thuyết. Nhưng oai phong người Hiệp sĩ của Quê Hương ta chẳng thua sút sự hào hiệp của người trong truyện. Chúng tôi có Hiệp sĩ mù, chúng tôi có Bố Già. Làm sao quên Bố Già Lương Ruột Ngựa. Đỉnh Tây Lai, Bố già Đại Tá Lê Văn Phát, người tử thủ Khánh Dương, người lính già có mặt hầu hết những trận lớn của Quê Mẹ? Bố Già Lữ Đoàn 3? Đúng, chúng tôi có Bố Già đó.
Tháng 6/1972, sau trận Bình Long, tôi được trả về Sư Đoàn Dù, ít lau sau SĐ Dù được đưa ra Đà Nẵng để tăng phái cho Quân Đoàn I. Lúc đó tôi là Lữ Đoàn Trưởng LĐ1 Nhảy Dù. Cùng với LĐ1 ra vùng I có LĐ2 và LĐ3. Thời gian nầy, Trung Tướng Dư Quốc Đống là Tư lệnh Sư đoàn Nhảy Dù.
Sự phân phối các đơn vị Dù tại Quân Đoàn I lúc ấy như sau: 2 Lữ Đoàn ở phía Nam Đèo Hải Vân. Tháng 9/1972, tôi được bổ nhiệm làm phụ tá hành quân Tư Lệnh Sư đoàn Nhảy Dù. Vào tháng 8 năm đó, Trung Tướng Dư Quốc Đống bị bệnh, Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu, Tư lệnh phó Sư Đoàn được chỉ định đảm nhận Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh, còn Đại Tá Bảo, Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn thì vừa tử nạn phi cơ, do đó tôi được đảm nhận trách vụ xử lý thường vụ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù một cách không chính thức. Cuối tháng 8, cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu triệu hồi tôi vào Dinh Độc Lập để làm lễ tăng chức Chuẩn Tướng cho tôi, và sau đó tôi được bổ nhiệm Tư Lệnh phó, xử lý thường vụ chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù đóng tại căn cứ Hiệp Khánh, cây số 17 Bắc Huế. Đến tháng 11/1972, tôi chính thức nhận chức Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù, thay thế Trung Tướng Đống từ nhiệm vì lý do sức khỏe. Khoảng thời gian 72 đến 75 ải địa đầu của Tổ Quốc của ta không phải là vùng đất bình lặng, Quảng Trị, Thạch Hãn, Chu Lai, Cố Đô Huế. Những danh xưng đủ nói lên những trời giao động. Những người lính chiến được đồng bào gọi một cách âu yếm là "Thiên Thần Mũ Đỏ". Trong suốt thời gian máu lửa đó đã có mặt khắp cùng trên những vùng đất ải địa đầu, cùng anh em quân nhân thuộc các quân binh chủng khác, mang lại cho đồng bào, tuy không phải sự bình yên tuyệt đối cũng là một tình hình khả quan.
Năm 1975, vào những ngày tháng Lịch Sử, chúng tôi đứng vững vùng I. Đập những nhịp tim tin tưởng, anh em chúng tôi, một mặt nhìn bao quát tình hình chiến trường khắp nước, một mặt theo dõi mọi tiến thoái của các đơn vị đối phương trong vùng, tay cầm súng sẵn, chờ địch quân. Thói quen tiến vào chỗ chết, thói quen chấp nhận trận địa mười thua một ăn mà vẫn chiến đấu oai hùng, làm cho anh em Dù, mặc dù tin tức giao động đến từ bốn phía, vẫn tiếp tục sẵn sàng chiến đấu, tiếp tục cố gắng.
Lệnh của cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu gọi Sư Đoàn Dù về SàiGòn hiện ra với tôi, bởi đó như một chấn động. Tôi chờ đợi mọi thứ trong tư thế sẵn sàng. Đợi đối phương ào ạt vượt sông Thạch Hãn, đợi chiến xa địch đến đây, miền Trung kiêu hãnh từ những vùng rừng rậm Nam Lào. Nhưng tôi không chờ đợi được điều đó. Lệnh di chuyển SĐ Dù về SàiGòn, lệnh không phải chỉ nghe một phía mà từ mọi hướng. Ngày 10.03.1975, Việt Cộng tấn công Ban Mê Thuộc. 11.03.1975 Ban Mê Thuộc thất thủ. Tổng Thống Thiệu gọi Trung Tướng Trưởng vào SàiGòn nhận chỉ thị. Lệnh khủng khiếp, lệnh làm choáng váng, làm tan nát, đó là "Bỏ vùng I". Dường như muốn cho lệnh tổng quát đó được thi hành chính xác, Tổng Thống Thiệu đòi Trung Tướng Trưởng phải tức khắc cho rút Sư Đoàn Dù về SàiGòn ngay. Cho chắc ăn, SàiGòn qua lệnh rút Sư Đoàn Dù về, muốn trói tay Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I. "Trói tay" là một hình ảnh dễ hiểu nhưng có lẽ không đủ nghĩa. SàiGòn đã lấy mất thanh gươm và chặt hết một cánh tay, cánh tay cầm gươm của Tướng Trưởng khi đối phương bắt đầu tiến tới.
Chỉ sau vài chục giờ sau khi lệnh Tướng Trưởng trả Dù về SàiGòn, công điện tối mật của Tổng Tham Mưu do chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ký gởi cho Tư Lệnh Sư Đoàn Dù hạ lệnh toàn bộ Sư Đoàn Dù rời khỏi miền Trung không chậm trễ. Lúc đó tin Thủy Quân Lục Chiến rút khỏi Quân Đoàn I cũng bắt đầu loan ra.
Ngày 17/03/75, sau khi đã thực hiện đầy đủ những giải pháp kỹ thuật cho các anh em Dù rời miền Trung, chuyển vận, tiếp liệu, an toàn khi ra đi v.v...tôi lên gặp Trung Tướng Trưởng để chào từ giã. Tôi nói với Trung Tướng Trưởng về việc Thủy Quân Lục Chiến cũng sẽ ra đi. Tôi cũng nói lên những lời hàm ý chia sẻ ưu tư của Trung Tướng về sự "Trói tay", sự tước bỏ mọi hỗ trợ trước một trận đánh lớn. Khuôn mặt Tướng Ngô Quang Trưởng, vẫn sẵn ưu tư, càng hiện ra ảm đạm. Ông chỉ cầm tay tôi nói:"Cảm ơn anh và các Anh em Nhảy Dù đã giúp tôi rất nhiều trong những năm qua".
Anh em quân nhân Nhảy Dù nghĩ rằng mình được di chuyển toàn bộ về SàiGòn. Các Sĩ quan chỉ huy từ Đại Đội cho đến Lữ Đoàn được loan báo là họ được di chuyển về thủ Đô VNCH. Tướng Trưởng được lệnh "trả Sư Đoàn Dù về SàiGòn". Lệnh tôi nhận được cũng rất rõ rệt: Đưa Sư Đoàn Dù về SàiGòn.
Có thể những sử học trong tương lai cũng tóm tắt sự di chuyển của anh em chúng tôi bằng những dòng chữ "Tướng Thiệu, để chặt tay Tướng Trưởng, để gây cho Dân, Quân miền Trung sự kinh hồn tột độ, mở đầu cho tan rã ồ ạt, hạ lệnh rút Sư Đoàn Dù ra khỏi tuyến đầu".
Sự việc không hoàn toàn đơn giản như thế. Lệnh rút Sư Đoàn Dù về SàiGòn chỉ là một lệnh bề mặt mà chiều sâu là phân tán Sư Đoàn Dù. Ông Thiệu áp dụng kế hoạch "Bẻ bó đũa" làm tan tành một đoàn quân bách chiến, một Binh chủng oai hùng, xô đẩy những Thiên Thần vào hỏa ngục. 12 Tiểu Đoàn Trưởng trên 18 linh hồn của đoan quân Mũ đỏ hoặc gục ngã ở chiến trường sắp đặt, hoặc rơi vào tay địch, có cả một Lữ Đoàn tan thành mây khói, có cả một Lữ Đoàn đánh đoạn hậu bảo vệ cho đồng bào di tản và tới phiên mình quân trải trên một diện tích rộng lớn, chỉ xuống tay được mấy trăm con.
Lệnh tôi nhận được là chia Sư Đoàn Dù ra làm hai nhánh, một đi tàu thủy và một do không vận. Lữ Đoàn 1 và 2 di chuyển bằng phi cơ của Không Lực VNCH. Lữ Đoàn 3 di chuyển bằng tàu HQ-404 của Hải Quân VN. Lữ Đoàn 1 và 2 đến điểm hẹn như ấn định, nhưng Lữ Đoàn 3 không được đưa đến nơi. Khi HQ-404 đến gần Nha Trang thì Hạm Trưởng nhận được lệnh đổ anh em xuống Nha Trang. Tôi chưa kịp ngạc nhiên, nhưng ý tưởng thắc mắc vì sao Tổng Thống Thiệu nói đưa toàn bộ Sư Đoàn Dù về SàiGòn để rồi phân tán một phần đi nơi khác. Dù vậy, không bao giờ tôi quên được khuôn mặt, mắt liếc xéo, nụ cười khoái trá, giọng nói chứa đựng thỏa mãn, toàn bộ khuôn mặt toát ra một sự khoan khoái kỳ lạ. Cựu Tổng Thống nhìn tôi với tia mắt kỳ lạ đó với nụ cười ở cuối môi, ông nói: "Theo anh liệu Trung Tướng Trưởng có giữ nổi Quân Đoàn I khi tôi rút Sư Đoàn Dù về đây không?".
Mặc dù lệnh lạc lung tung, bảo về SàiGòn lại đổ xuống Nha Trang, mặc dù bảo về dưỡng quân lại được ném ra mặt trận, là một quân nhân kỷ luật, ý thức được rằng sức mạnh đến từ kỷ luật sắt thép, anh em Lữ Đoàn 3 xuống Cầu Đá Nha Trang là lên đường đi chiến đấu ngay. Đại Tá Lê Phát, người nắm Lữ Đoàn 3 cũng là người có biệt hiệu "Bố Già" đặt Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn tại Trung Tâm Huấn Luyện Dục Mỹ. Nhiệm vụ của Lữ Đoàn 3 là nút chặn địch ở Khánh Dương giúp cho các Đơn vị của Quân Đoàn II rút lui an toàn. Biết rõ sự oai hùng của các Thiên Thần Mũ Đỏ của QLVNCH, Văn Tiến Dũng tung 2 Sư Đoàn với quân số 6 lần, là những SĐ 320 và SĐ 10 đánh bọc ngang hông. Lữ Đoàn 3 Dù bình tĩnh và oai hùng chiến đấu, quất cho quân địch tổn thất nặng nề. Lữ Đoàn 3 còn ở Khánh Dương, địch không thể đi lên một bước. Ngày 28/03, vì quân số đối phương đông gấp 10 lần, nên không thể ngăn chặn vĩnh viễn, vì lệnh SàiGòn hay vì một lý do nào khác, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đã ra lệnh cho Đại Tá Phát rút Lữ Đoàn 3 từ Nha Trang vào Phan Rang, sau đó lệnh lại được đưa xuống là bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn và các thành phần yểm trợ thì rút về Phan Rang, còn 3 Tiểu Đoàn 2, 5, 6 thì rút lên núi trấn giữ ở đó. Tại sao lại đưa 3 Tiểu Đoàn Dù lên núi? Nghe tin này tôi vội vã bay ra Phan Rang.
Tư Lệnh Nhảy Dù trên nguyên tắc và bởi định nghĩa là người chỉ huy binh chủng Nhảy Dù. Nếu không được tham dự vào việc hoạch thảo chiến lược, thì ít nhất trách nhiệm chiến thuật phải được trọn vẹn. Tôi không được Tổng Tham Mưu hay Phủ Tổng Thống tham khảo một lần nào về chiến lược lui quân, kể từ ngày binh chủng Dù được bốc khỏi Vùng I, quyền chỉ huy, chiến thuật binh chủng Dù, quyền xử dụng anh em quân nhân Dù cũng vượt ra khỏi tầm tay của Tư Lệnh Dù. Anh em binh chủng tôi đặt chặt và giao cho người nầy một mảnh, người kia một miếng. Khi nhìn thấy chiến hữu của tôi bị vất vả cùng cực, tôi chạy ngược chạy xuôi đi can thiệp. Trong những giờ chạy đôn chạy đáo, ý tưởng ghê gớm lóe lên trong tôi, "Phải chăng một ác thần đang làm tê liệt hàng vạn tinh binh trước khi mở ra cuộc hỏa thiêu thành La Mã?".
Tôi bay ra Phan Rang gặp ngay Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi lúc đó là Tư Lệnh Phó Quân Đoàn III, đang chỉ huy Bộ tư Lệnh tiền phương tại đây. Nơi đó tôi cũng gặp Tướng Sang Tư Lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân. Tôi yêu cầu cho trực thăng lên núi bốc 3 Tiểu Đoàn 2, 5, 6 về Phan Rang. Tướng Nghi chấp thuận, chỉ thị Tướng Sang cho Không Quân giúp. Anh em trực thăng đã rất nhiệt tâm và can đảm trong việc bốc hơn 1000 người bỗng nhiên bị ném lên một ngọn núi chơ vơ mà không một lý do chiến lược hay chiến thuật nào giải thích được cả. Lữ Đoàn 3 trong tư thế vững vàng, sẵn sàng chiến đấu nghiêm chỉnh trong vị trí đứng đắn. 30.03.1975, tôi tạm yên tâm, bay về SàiGòn.
Vừa đặt chân đến Thủ Đô, tôi được lệnh Tổng Tham Mưu cho Lữ Đoàn 2 ra Phan Rang thay thế Lữ Đoàn 3, Lữ Đoàn 3 về SàiGòn tái chỉnh trang Đơn vị. Tôi muốn hét to lên: Tăng cường chớ sao lại thay thế? Mặt trận đang nặng, rút một đập ngăn nước lớn đi, đập mới chưa dựng xong, nước sẽ ùa tới mang lụt lội tàn phá tan tành! SĐ 310 và 320 của đối phương đang di chuyển nhanh về vùng 3 chính vào lúc đầu tháng tu nầy. Sư Đoàn 10 của địch càn quét Nha Trang. Mặt Bắc là Sư Đoàn 10, Nam là các SĐ 310 và 320, tăng chúng ào ào, tù nhân thả ra do bàn tay bí mật từ các khám đường, một số quân nhân của một binh chủng bị mất cấp chỉ huy sinh rối loạn, chính trong biển hỗn loạn và tan vỡ đó, người ta ném Lữ Đoàn 2 Dù, những đứa con thân yêu ruột thịt của tôi, những bằng hữu vào sinh ra tử, nằm gai nếm mật của tôi trọn lượng ném vào khoảng trống, viên ngọc quý ném vào đại dương giông bão. 3 Tiểu Đoàn 3, 7, và 11 của Lữ Đoàn 2 chiến đấu như những con cọp bị vây hãm, dường như sợ cái đại dương hỗn loạn đó chưa đủ làm thành một hỏa ngục rực lửa, người ta không ai còn nhớ đến việc tiếp tế cho những Thiên thần Mũ Đỏ từ trời cao đáp thẳng xuống địa ngục A Tỳ. Anh em Lữ Đoàn 2 mặc dù tình hình rối loạn, mặc dù tin tức giao động từ bốn phía, mất Quân Đoàn I, Quy Nhơn thất thủ, Nha Trang thất thủ, anh em vẫn chiến đấu, cho đến viên đạn cuối cùng. Tiểu Đoàn 6 sau những trận oai hùng được lệnh Tổng Tham Mưu rút khỏi Phan Rang, Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân của Đại Tá Biết thay thế. Nhưng Tiểu Đoàn 3 chỉ 100 anh em được trực thăng bốc về Phan Thiết, Tiểu Đoàn 11 mất liên lạc toàn diện. Tôi mất Thiếu Tá Thành, con chim đầu đàn của Tiểu Đoàn 11 và Đại Tá Nguyễn Thu Lương, mà anh em chúng tôi thường gọi một cách thân thương là "Lương Ruột Ngựa", con chim đầu đàn của Lữ Đoàn 2 cũng tại vùng đất lửa này. Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi cũng lọt vào tay địch ở Phan Rang.
Chiếc đũa Lữ Đoàn 2 bị bẻ gãy, chiếc đũa Lữ Đoàn 3 bị ném tại Khánh Dương, bốc về Phan Rang, lửa hỏa lực nung nấu mệt nhừ. Ngày 8.4.1975, viên Trung Úy Không Quân tên Trung ném bom Dinh Độc Lập, về mặt dân sự, một số chính khách đối lập bị bắt giữ. Nhưng phản ứng của Tổng Thống Thiệu là đưa "chiếc đũa Lữ Đoàn 1" chiếc đũa còn nguyên vẹn của bó đũa bị tách rời từng chiếc, ra tăng phái Quân Đoàn III, dưới quyền chỉ huy của Tướng Nguyễn Văn Toàn. Ý tưởng rõ rệt trong tôi, và cả bây giờ là Tổng Thống Thiệu sợ đảo chánh nên phân tán các đơn vị Nhảy Dù ra các nơi. Tôi là Tư Lệnh Nhảy Dù nhưng tay chân hoàn toàn bị chặt hết.
Ý tưởng làm sống dậy hình ảnh, một ngày tại vùng I, ở Cố Đô Huế, tôi nói với Trung Tướng Ngô Quang Trưởng: "Trung Tướng cứ để anh em tôi về SàiGòn làm một chuyến, thử xem sao?" Trung Tướng lắng nghe lặng lẽ. Tôi hiểu Tướng Trưởng cũng như anh em chúng tôi là những người lính đơn thuần, chỉ lấy việc bảo vệ Quê Hương làm quan trọng, không màng gì tới danh vọng và chính trị, chúng tôi không có thói quen chọn lựa những quyết định không liên quan trực tiếp đến chiến trường. Cựu Tổng Thống Thiệu có nghe phong phanh về những toan tính đó không? Trong mọi trường hợp, lúc đó tôi nghĩ là ông phân tán anh em chúng tôi vì nghi ngờ. Bây giờ tôi còn muốn nghĩ như thế. Trừ khi ông muốn bẻ tan bó đũa vì lý do khác - Lý do khủng khiếp - Tôi không muốn nghĩ tới lý do đó. Tôi muốn nghĩ đến một sự nghi ngờ. Như một sự xua đuổi ý nghĩ ghê gớm kia.
Lữ Đoàn I ra Quân Đoàn III trấn giữ Xuân Lộc, tăng phái cho Sư Đoàn 18 do Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo chỉ huy. Nhiệm vụ của Lữ Đoàn là chận đứng bước tiến của VC vào SàiGòn. Anh em Dù của Lữ Đoàn 1 đã oai hùng làm tròn nhiệm vụ, địch quân không tiến thêm được một tấc đất. Đoàn quân viễn chinh của Võ Nguyên Giáp, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Văn Tiến Dũng, tiến như thác đổ, bị khựng lại ở ngay cửa ngõ của SàiGòn. Từng đợt xung phong có chiến xa và pháo binh yểm trợ, tất cả đều bị đánh bật, tiến lên là phải lùi lại, tấc đất đánh được buổi sáng, buổi chiều anh em Dù ngạo nghễ giành lại. Sau nhiều ngày giao tranh, Sư Đoàn 18 được lệnh rút về Biên Hòa, Lữ Đoàn 1 chiến đấu giữ vững trận tuyến, từ đầu tới cuối. Sau chót đến đêm 28 rạng 29/04, Bộ Đội CS tấn công Lữ Đoàn 1 Dù ở Lăng Can, Bà Rịa đánh đến giờ chót, Lữ Đoàn 1 Dù mới rút ra Vũng Tàu. Tôi được lệnh trực tiếp do Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Dù, mà anh em chúng tôi âu yếm gọi là Đỉnh Tây Lai đứng ở dưới bờ bảo vệ cho những đứa con lên tàu. Người chỉ huy Nhảy Dù có thói quen ở với hiểm nguy cho tới phút cuối cùng, dành sự an toàn cho từng đứa con yêu quý. "Đỉnh Tây Lai" là một trong những Thiên Thần lẫm liệt đó.
Về phần Lữ Đoàn 4, từ Đà Nẵng được rút về SàiGòn giữa tháng 02/74, biệt phái Biệt Khu Thủ Đô. Chính Lữ Đoàn 4, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Lê Minh Ngọc, mà anh em Dù chúng tôi âu yếm gọi là "Ngọc Nga", đã chận VC ở cửa ngõ Thủ Đô, ngang Xa Lộ Biên Hòa, trong những giờ khắc SàiGòn bắt đầu rơi vào rối loạn. Lữ Đoàn 3 của Trung Tá Trần Đăng Khôi (Lữ Đoàn Phó mới thay thế Đại Tá Phát trong chức vụ Lữ Đoàn Tưởng Lữ Đoàn 3 Dù, Trung Tá Bùi Quyền Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5, thay thế Khôi trong chức vụ Lữ Đoàn Phó) từ Phan Rang rút về đóng ở Hoàng Hoa Thám, đánh những trận chót ngay trong lòng Thủ Đô, mặc dù trăm nghìn giao động cho tới phút chót. Đến những giây phút cuối cùng, anh em Dù vẫn giữ vững từng tấc đất được giao phó, hoàn thành nhiệm vụ thiêu thân nút chặn để đồng bào ra đi, để được ngã gục trên thân thể của Quê Mẹ nghìn đời.
Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng
Tư Lệnh Nhảy Dù QLVNCH

Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù Trung Tá Bùi Quyền

TĐ5ND do Trung Tá Bùi Quyền TĐT và Thiếu Tá Võ Trọng Em làm TĐP bị Trung Đoàn 28 CSBV vây hảm và tràn ngập. Thiếu Tá Võ Trọng Em đã hướng dẫn được khoảng 200 chiến sĩ lui vào rừng, vượt núi xuyên rừng về Nam, 5 ngày sau toán quân nầy mới được trực thăng giải cứu bốc về Phan Rang, một số quân ND khác tháp tùng Thiết Đoàn M113 về được Dục Mỹ.

Trong tình hình sôi động và trước áp lực nặng của Cộng quân, vào lúc 8 giờ 10 phút ngày 1 tháng 4/1975, Trung Tá Phát trình với Thiếu Tướng Phú là nếu không có tăng viện, không được cấp phát thêm đạn dược và hỏa tiễn TOW chống chiến xa thì tuyến Khánh Dương sẽ bị Cộng quân tràn ngập. Tướng Phú yêu cầu Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù cố gắng để chờ quân của Sư Ðoàn 22 Bộ Binh từ Qui Nhơn rút vào cùng với một Trung Đoàn của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh được tái chỉnh trang.

Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù đã bị địch quân bao vây rất ngặt, đã hạ được 4 chiến xa địch nhưng phòng tuyến đã bị lùi xa lại phía sau. Tướng Lê Quang Lưởng gọi Tướng Phú yêu cầu gởi quân tăng viện cho LĐ3ND. Ông cũng cố gắng liên lạc với các nơi khác tìm cách trợ giúp thêm quân cho LĐ3ND.

Trong ngày nầy Trung Tá Phát gọi xin thêm viện quân khẩn cấp lần thứ năm và được Thiếu Tướng Phú trả lời không còn quân để tăng viện và ra lịnh cho LĐ3ND di chuyển về phía Nam.

Lúc 15.30 giờ, Tướng Phú ra lệnh cho 2 phi tuần khu trục đến yểm trợ mặt trận Khánh Dương để giải tỏa bớt áp lực của địch lên cánh quân Nhảy Dù. Đây là những trái bom cuối cùng được xử dụng trên chiến trường Quân Khu 2.

Đến 4 giờ 10 chiều ngày 1 tháng 4/1975, khi đang bay trên không phận Khánh Dương thì Tướng Phú chỉ liên lạc được với một sĩ quan của Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù. Tướng Phú được báo vắn tắt là Cộng quân đã tràn ngập nhiều vị trí của các đơn vị Nhảy Dù, tuyến phòng thủ đã bị cắt nhỏ. Sau đó cuộc điện đàm đã bị gián đoạn..

Trong khi đó Trung Đoàn 66 CSBV quyết tâm diệt gọn TĐ2ND do Thiếu Tá Trần Công Hạnh làm TĐT và Thiếu Tá Nguyển Văn Phương làm TĐP. TĐ3PBND do Thiếu Tá Nguyển Văn Triệu làm TĐT và ĐĐ3TS do Đại Úy Nguyển Viết Hoạch làm ĐĐT. Các đơn vị nầy đang trấn giữ dọc theo chân đèo Phượng Hoàng thì bị địch quân tấn công tràn ngập. TĐ3PBND được linh phá huỷ một số đại bác 105 ly cơ hửu.

Sau những đợt tấn công biển người liên tục và ác liệt cuả địch, tuyến phòng thủ bị chia cắt ra thành nhiều mảnh nhỏ, lại không được tiếp tế lương thực và đạn dược. LĐT/LĐ3ND phải triệt thoái đơn vị về bải biển dưới chân hòn Son và men theo đường bộ về Phan Rang lập phòng tuyến mới.

Tính đến sáng ngày 1 tháng 4/1975, khu vực trách nhiệm của Quân Khu 2 chỉ còn lại một phần tỉnh Khánh Hòa, tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận, (quân khu 2 có 12 tỉnh). Về quân số, ngoài Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù đang bảo vệ phòng tuyến Khánh Dương, chỉ còn một trung đoàn Bộ Binh và 2 tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân. Tuy nhiên, 2 liên đoàn Địa Phương Quân của hai tiểu khu Ninh Thuận và Bình Thuận cùng một số đại đội biệt lập vẫn còn khả năng tham chiến.

Buổi tối cùng ngày, Trung tá Lê Văn Phát, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 Dù cùng Bộ chỉ huy Lữ đoàn và một phần của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, trên đường rút từ Khánh Dương ra QL1 không còn liên lạc được với BTL QĐ2 nên liên lạc thẳng về Sài Gòn bằng hệ thống GRC106 và được lịnh liên lạc với Tướng Sang để vào phòng thủ Phi Trường Phan Rang. Đến ngày 4/4/1975 LĐ2ND được không vận từ Sài Gòn đến Phan Rang thay thế LĐ3ND và ngày hôm sau LĐ3ND được phi cơ bốc về Saigon bổ sung quân số và sẳn sàng ứng chiến cho Biệt Khu Thủ Đô..

Niên Trưởng Nhảy Dù Bùi Quyền K16 Võ Bị Đà Lạt




1. TỔNG QUÁT

Nhằm đào tạo Sĩ Quan Hiện Dịch cho cả 3 Quân Chủng: Hải, Lục và Không Quân, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã ký Sắc Lệnh số 317/QP/TT ngày 29-7-1959 cải tổ Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt thành Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam (TVBQGVN) với chương trình Văn Hóa và Quân Sư 4 năm. Sinh Viên Sĩ Quan (SVSQ) Khóa 16 được tuyển chọn và huấn luyện theo tinh thần sắc lệnh này. Sau ngày mãn khóa, các tân sĩ quan có trình độ Văn Hóa tương đương năm thứ 2 Đại Học Dân Sự và trình độ Quân Sự vững chắc để chỉ huy đơn vị cấp Trung Đội và Đại Đội trong cuộc chiến tranh mới chống lại ý thức hệ cộng sản. Khóa 16 là khóa đầu tiên đặt nền móng cho chương trình huấn luyện mới, tạo tiền lệ cho các khóa sau, phải trải qua những giai đoạn thanh lọc và thử thách cam go.

 


Khóa Sinh K16 trình diện nhập học tại TVBQGVN cũ.

 

- Nhập Trường: Ngày 23-11-1959.

- Số Khóa Sinh Nhập Trường: 326.

- Thời Gian Thụ Huấn: Từ ngày 23-11-1959 đến ngày 22-12-1962.

- Mãn Khóa: Ngày 22-12-1962.

- Số sĩ quan tốt nghiệp: 226.

- Vị Chủ Tọa Ngày Mãn Khóa: Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

- Tên Khóa: Khóa Ấp Chiến Lược.

- Thủ Khoa: SVSQ Bùi Quyền.



Khóa sinh K16 được các NT K14 tiếp đón tại phi trường Liên Khương


2- KHÓA 16 - THỜI GIAN THỤ HUẤN.

 Năm thứ 1.

- Nhập học tại Trường Cũ, gần Hồ Mê Linh.

- Chỉ Huy Trưởng: Thiếu Tướng Lê Văn Kim.

- Trong 8 tuần sơ khởi, một số khóa sinh bị loại vì lý do sức khỏe và lý lịch.

- Ngày 5-6-1960, TT Ngô Đình Diệm đặt viên đá đầu tiên xây Trường mới trên đồi 1515.




Khởi đầu 8 tuần lễ sơ khởi

 


Chuẩn bị ra bãi tập






SVSQ K14 gắn Alpha cho TKS/K16 sau 8 tuần lễ Sơ Khởi.

 

Tổng Thống Ngô Đình Diệm đặt viên đá đầu tiên
 xây cất TVBQGVN trên đồi 1515, ngày 5-6-1960.
 

Đội hình Liên Đoàn SVSQ đầu tiên tại Trường mới
trên đồi 1515 với 2 khóa 16 và 17.


SVSQ/K16 năm thư 1, quân phục làm việc

Năm thứ 2:

- Chỉ Huy Trưởng: Tr/Tá Trần Ngọc Huyến thay thế Th/Tướng Lê Văn Kim sau biến cố Chỉnh Lý ngày 11-11-1960.
- 52 SVSQ, vì số điểm văn hóa dưới trung bình, mặc dầu điểm quân sự cao, được chuyển về thụ huấn Khóa 2 Trường Hạ Sĩ Quan tại Nha Trang, tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn Úy Hiện Dịch.

- Khóa đầu tiên được tuyển chọn về 2 Quân Chủng Hải Quân và Không Quân từ cuối năm thứ 2. Đại diện BTL/KQ lên Trường chọn 30 SVSQ, và đại diện BTL/HQ chọn 15 SVSQ. Những SVSQ này sau khi mãn khóa sẽ trình diện Quân Chủng liên hệ để theo học chương trình huấn luyện chuyên môn.




SVSQ/K16 năm thứ 2, quân phục dạo phố Mùa Hè.


SVSQ/K16 trong một lớp học Văn Hóa.

 


 


 

Phòng thí nghiệm hóa học


Năm thứ 3:

- Sau ngày Khóa 15 mãn khóa, kể từ ngày 3-6-1961, Khóa 16 đảm trách Hệ Thống Tự Chỉ Huy Liên Đoàn SVSQ/TVBQGVN (LĐ/SVSQ).

- Tháng 8/1961, K16 và K17 được chuyển sang doanh trại Trường Võ Bị mới tại đồi 1515. LĐ/SVSQ gồm 2 khóa.

- Ngày 23/11/1961 Khóa 18 nhập học, K16 đảm trách huấn luyện TKS Khóa 18.    

- Du hành quan sát: Thăm các quân trường (Pháo Binh, Hải Quân, Biệt Động Quân, Công Binh, Truyền Tin). Thăm các BTL/TQLC, SĐ5/BB. Quan sát nhẩy dù biểu diễn tại bãi nhẩy dù Củ Chi.

- Thụ huấn khóa Rừng Núi Sình Lầy nửa tháng tại TTHL/BĐQ Dục Mỹ, Nha Trang.



Doanh trại TVBQGVN trên đồi 1515
 

TVBQGVN chiếm giải Nhất Diễn Hành Quốc Khánh,
ngày 26/10/1961, với 2 khóa 16 và 17 tại Sài Gòn.


 

Huấn luyện TKS/K18


 


 


 

 

Du hành quan sát Lữ Đoàn Dù




Du hành quan sát TTHL/HQ Nha Trang






Năm thứ 4.

- Ngày 21-11-1962 K19 nhập học, LĐ/SVSQ có 4 khóa: 16, 17, 18 và 19.                    

- Hoàn tất chương trình thụ huấn 4 năm thu gọn trong 3 năm 1 tháng theo chỉ thị của TT Ngô Đình Diệm vì tình hình chiến sự.

- Tuyển chọn đơn vị.  Các tân thiếu úy được phân phối:




TT Ngô Đình Diệm và Đại Tướng Lê Văn Tỵ duyệt đội hình SVSQ/K16



  

TT Ngô Đình Diệm và Tr/Tá CHT Trần Ngọc Huyến
gắn cấp bậc Th/Úy cho Thủ Khoa Bùi Quyền




Tân Th/Úy K16 tuyên thệ

 


Tân Th/Úy K16 diễn hành qua khán đài

 

 

Tân Thiếu Úy K16 chụp hình lưu niệm

 


TT Diệm ăn trưa sau Lễ Mẵn Khóa 16


Lục Quân.

- Lưu dụng tại Trường: Vì muốn duy trì các hệ thống chỉ huy và huấn luyện theo tinh thần cải tổ của TVBQGVN, 15 tân sĩ quan K16 được BCH Trường đề nghị, Bộ TTM cho lưu giữ sau khi tốt nghiệp, để đảm nhiệm các chức vụ chỉ huy trong LĐ/SVSQ và huấn luyện viên quân sự. Sau đó, số sĩ quan này đã được thuyên chuyển về các đơn vị. Thời gian sau lại có một số khác từ các đơn vị tác chiến được thuyên chuyển về Trường .

- Nhẩy Dù: 3 tân sĩ quan được tuyển chọn. Sau này  được thuyên chuyển về thêm 2 sĩ quan K16.

- Thủy Quân Lục Chiến: 10 tân sĩ quan được tuyển chọn. 3 SQ/K16 khác cũng đã được thuyên chuyển về Binh Chủng.

- Biệt Động Quân: 13 tân sĩ quan được tuyển chọn.

- Lực Lượng Đặc Biệt: Không ai được tuyển chọn. Về sau, 3 SQ/K16 được thuyên chuyển về.

- Các Sư Đoàn Bộ Binh: 166 tân sĩ quan chọn phục vụ 9 SĐ/BB.

Không Quân:

- 30 tân sĩ quan được chọn, tuy nhiên 2 người vì lý do an ninh nên BTL/KQ chỉ nhận 28. Trong số này có 11 sĩ quan theo khóa hoa tiêu trực thăng và 2 sĩ quan theo khóa hoa tiêu khu trục tại Hoa Kỳ. Số còn lại theo học khóa hoa tiêu trực thăng tại phi trường Tân Sơn Nhất. Gần cuối khóa, 2 sĩ quan qua ngành quan sát. Sau có 1 sĩ quan từ TQLC thuyên chuyển về TTHL/KQ Nha Trang, một thời gian lâu sau lên giữ chức Liên Đoàn Trưởng LĐ/SVSQ/KQ, và một sĩ quan bộ binh được tuyển về KQ phục vụ tại đơn vị phòng thủ căn cứ.

Hải Quân:

15 tân Th/Úy được thực tập trên các chiến hạm trong thời gian chờ nhập học Khóa 13/HQ vào tháng 5-1963. Nhưng vì không đồng ý đeo Alpha trở lại, 8 SQ/K16 xin đổi Quân Chủng được bộ TTM chấp thuận, chỉ còn 7 SQ/K16 nhập học Khóa 13/HQ và tốt nghiệp ngành chỉ huy vào tháng 12-64.

 

3- KHÓA 16 - THÀNH TÍCH TỔNG QUÁT.


Sĩ quan Khóa 16 mang cấp bậc cao nhất: 6 Đại Tá, trong đó 1 Đại Tá tử trận, 1 Đại Tá bị bức tử trong trại tù lao động khổ sai CS tại Hoàng Liên Sơn năm 1976, và  1 Trung Tá tử trận được truy thăng Đại Tá.

SQ đảm nhiệm các chức vụ quân sự tại:

- Trường VBQGVN: Các sĩ quan cán bộ Trung Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng, và Đại Đội Trưởng của Trung Đoàn SVSQ; Trưởng Phòng Điều hành quân sự vụ, và các SQ/HLV các bộ môn quân sự.

- Không Quân: 1 Không Đoàn Trưởng, 1 Không Đoàn Phó, 6 Phi Đoàn Trưởng, 1 Tham Mưu Phó An Phi SĐ, 1 Trưởng Phòng kế hoạch BCH/Liên Đoàn Kiểm Báo, 1 Trưởng Phòng Thống Kê & Huấn Luyện  BCH/HQ/KQ, 1 sĩ quan phòng thủ căn cứ, 1 Liên Đoàn Trưởng LĐ/SVSQ thuộc TTHL/KQ Nha Trang.

- Hải Quân: 3 Hạm Trưởng, 1 CHT của BTL/HQ, 1 CHT/Căn Cứ HQ Nha Trang, 1 sĩ quan Đại Diện HQ tại Bộ TTM, 1 sĩ quan đại diện HQ tại  TT/Phát Triển Khả Năng Tác Chiến.

- Bộ TTM: Trưởng Ban các Phòng, Sở và Tổng Hành Dinh, ĐĐT/ĐĐ1/Quân Cảnh.

- Nhẩy Dù: 2 Lữ Đoàn Trưởng (LĐT), 1 LĐ Phó, 1 Tiểu Đoàn Trưởng.

- Thủy Quân Lục Chiến: 2 LĐT, 2 LĐP, 3 Trưởng Phòng BTL/SĐ/TQLC, 5 TĐT, 1 LĐT và 1 LĐP mất tích, 1 LĐT chết trong trại tù lao động khổ sai của CS tại Bắc Việt.

- Lực Lượng Đặc Biệt: 1 CHT Đoàn Công Tác 11 thuộc Sở Công Tác Nha Kỹ Thuật TTM, 1 Phụ tá B Trưởng KonTum, 1 HLV/LLĐB tại Long Thành, 1 Chỉ Huy Toán.

- Biệt Động Quân: 1 Liên Đoàn Trưởng và một số TĐT.

- Bộ Binh: 7 Tr/Đoàn Trưởng (2 tử trận và 1 bị CS Hà Nội sát hại trong trại giam ở Miền Bắc) và  một số Trưởng Phòng cấp SĐ, Tr/Đoàn Phó, Liên Đoàn Trưởng Địa Phương Quân.

   * Nha Quân Pháp: 1 Giám Đốc Quân Lao, 1 CHT Trại Giam tù phiến cộng.

   * Chức vụ hành chánh: 2 Tỉnh Trưởng, và 27 Quận Trưởng (6 QT đã hy sinh)

      Một số Trưởng ty các Bộ trong chính phủ. BTL Cảnh Sát, và  4QT Cảnh Sát.

- Chức vụ Dân Cử: 3 Nghị Viên.

- Bằng cấp đại học: 3 người, 1 đậu Cao Học Khoa Học vi tính (mất cuối năm 1992), 1 thương binh loại 2 giải ngũ, đậu KS Công Nghệ tại TT/KT Phú Thọ, đậu thêm Cao Học Đông Y tại HK, và 1 đậu bằng cử nhân Luật Công Pháp, năm thứ nhất cao học.

 
4- KHÓA 16 - HY SINH 1, 2 NĂM ĐẦU.
Vì tình hình chiến sự do CSBV gây ra từ đầu thập niên 1960, Bộ TTM/QLVNCH theo lệnh của Tổng Thống, đã cho rút ngắn chương trình huấn luyện, khởi đầu từ Khóa 16, giảm từ 4 xuống 3 năm, và các Khóa 17,18,19,20,21 và nửa Khóa 22 xuống 2 năm. Mấy năm đầu sau khi mãn khóa, các sĩ quan Khóa 16 đã hứng chịu nhiều thương vong. Sau đây là một số hy sinh đáng nhớ:



* Th/Úy NHỮ VĂN HẢI, SĐ21/BB, SQ tử trận đầu tiên của Khóa 16. Đêm 21 tháng 3 năm 1963, Th/Úy Hải, đại đội phó một ĐĐ thuộc Tr/Đoàn 48/SĐ21/BB trú đóng tại đồn Biện Nhị, quận Thới Bình, An Xuyên, bị Tiểu Đoàn U Minh VC bao vây tấn công và tràn ngập, Th/Úy Hải bị trọng thương, bị bắt, nhưng không chịu quy hàng, bị tra tấn cho đến chết, lúc đó mới 23 tuổi. Do gương can đảm cao độ, Tr/Tá CHT Trần Ngọc Huyến, đã đặt tên cho CLB trước cổng Trường là CLB Nhữ Văn Hải.

* Th/Úy LÝ VĂN QUẢNG TĐ8/ND, tử trận tháng 4-1963 lúc 26 tuổi.

* Th/Úy NGUYỄN TẤN MỸ Tr/Đoàn 44/SĐ23/BB tử trận giữa năm 1963.

* Th/Úy HỒ XUÂN QUANG Tr/Đoàn 45/SĐ23/BB tử thương giữa năm 1963.

* Th/Úy NGUYỄN THẾ ĐỨC tử thương ngày 1-4-1963.

* Th/Úy TRẦN THIỆN GÁI, SĐ1/BB, tử trận tháng 5-1963 lúc vừa qua 24 tuổi, tại Căn Cứ A Lưới, phía Tây Thành Phố Huế. Vài năm sau, một con đường trong Thành Nội được đặt tên: Đường TRẦN THIỆN GÁI.

* Th/Úy VŨ CHẤN HÙNG BB, tử trận ngày 25-11-1963.

* Th/Úy TRẦN TRỌNG MINH tử trận ngày 27-10-1963.

* Th/Úy TRỊNH AN THẠCH TĐ1/TQLC, tử trận ngày 6-12-1963, mới 24 tuổi.

* Tr/Úy BÙI THANH TÂM SĐ22/BB, tử trận tại đồi Dương Liễu, Tam Quan, 1965.

* Th/Úy LÊ ĐỨC RIỆP, tử trận ngày 27-7-1964.

* Th/Úy NGUYỄN PHƯƠNG SANH, tử trận tháng 7-1964.

* Th/Úy TRẦN NGỌC SƠN, tử trận ngày 8-4-1964.

* Th/Úy BẢO SUNG và Th/Úy PHAN VĂN TÂN. Cả 2 là phi công trực thăng H-34 bay chung 1 phi vụ hành quân ngày 3-12-1964, Th/Úy Sung là phi công trưởng, Th/Úy Tân phi công phụ. Trực thăng bị hỏa tiễn VC bắn cháy, đã cùng tử trận.

* Tr/Úy NGUYỄN VĂN NHƯỜNG KQ, phi công trực thăng, Phi Đoàn 217 Tải Thương. Trong một phi vụ tải thương tháng 9-1964 tại Bời Lời, vùng Tam Giác Sắt, trực thăng bị đich bắn cháy, Tr/Úy Nhường bị phỏng nặng lúc mới 26 tuổi, mang thương tật suốt đời, mất năm 2014 tại VN, thọ 77 tuổi. 

* Tr/Úy TRẦN NGỌC TOÀN TQLC, ĐĐT/TĐ4/TQLC tham dự trận Bình Giả, Bà Rịa cuối tháng 12-1964, bị trọng thương, mang nhiều thương tích cho đến ngày nay.

* Đ/Úy NGUYỄN BẢO TÙNG KQ, phi công trực thăng H-34 thuộc Biệt Đội Delta, Biệt Đoàn 83 (tiền thân của Phi Đoàn 219). Biệt Đội có nhiệm vụ thả các toán viễn thám Lôi Hổ dọc biên giới Việt-Lào. Ngày 18-10-1965, từ Khâm Đức bay thả toán Biệt Kích của Th/Tá Larry Thorne, trực thăng Tr/Úy Tùng vì mây mù bay lạc và mất tích. Năm 1999, qua nỗ lực tìm kiếm QN mất tích, HK tìm lại được xác chiếc trực thăng và hài cốt của toán Biệt Kích HK. Lễ an táng 4 hài cốt được tổ chức ngày 25-6-2003 tại nghĩa trang Quốc Gia Arlington, VA, Cố Đ/U Nguyễn Bảo Tùng cũng được chôn cất tại đây, tử trận khi vừa 25 tuổi.

* Đ/Úy MAI NGUYÊN HƯNG KQ, phi công khu trục cơ AD-6. Sau một phi vụ Bắc Phạt năm 1965, trên đường bay đêm về căn cứ KQ Biên Hoà, phi cơ của Tr/Úy Hưng, phần vì bị trúng đạn phòng không địch, phần cạn xăng, phải đáp khẩn cấp xuống phi trường Phước Long. Vì phi đạo ngắn, phi cơ lâm nạn, Tr/Úy Mai Nguyên Hưng tử thương. được Truy Thăng Đại Úy, mất ở tuổi 24.

* Thiếu Tá HOÀNG LÊ CƯỜNG.

Trong Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, Th/Tá Hoàng Lê Cường là Quận Trưởng quận Hoài Nhơn, Bồng Sơn, Bình Định. Ngày 18-4-72, Tr/Đoàn 2 và Tr/Đoàn 21/SĐ3/Sao Vàng CS tiến chiếm Hoài Ân.

Từ 24-4-72 đến 1-5-72, địch vây hãm 2 căn cứ Bình Dương. Quận Phù Mỹ và Đệ Đức, Quận Hoài Nhơn, Bình Định. Vì áp lực địch đè nặng lên khu vực trách nhiệm, Th/Tá Cường cùng viên Cố Vấn Hoa Kỳ từ Quận lái xe qua cầu Bồng Sơn đến TĐ/ĐPQ thuộc quyền để duyệt xét tình hình. Sau đó, Th/Tá Cường đến BCH/TĐ2/40 để yêu cầu phối hợp phòng thủ Quận. Th/Tá Cường trở về BCH Chi Khu để chỉ huy lực lượng tại đây đang trong tình trạng nguy hiểm. Khi lái xe qua cầu Bồng Sơn trở về Quận, xe jeep của Th/Tá Cường đã bị VC bắn cháy trên cầu, chỉ cách quận lỵ khoảng 500 thước, Th/Tá Cường hy sinh tại chỗ. Bộ TTM đã đặt tên cho K29/TVBQGVN là: Khóa Hoàng Lê Cường.

 

5- KHÓA 16 - THÀNH QUẢ THEO THỜI GIAN.


Đại Úy TRẦN HỒNG VĨNH.

Thành quả học vấn:

Tốt nghiệp từ Trường Kỹ Sư Công Nghệ, Trung Tâm KT Phú Thọ, Sài Gòn. South Baylor University, School of Oriental Medicine, CA, USA. MS in Acupunctute and Oriental Medicine, 1993.

Đã phát hành:

Sổ Tay Đông Y (bìa mềm) 3 tập. Sổ Tay Đông Y (bìa cứng) 3 tập.

Khí Công. Khí Công Tái Bản (có bổ sung).

Phản Xạ Trị Liêu Phương (Giúp cho Kỹ Thuật Massage)

Dịch Cân Kinh của Đạt Ma Sư Tổ.

Sẽ phát hành:

Dược Thảo. Đông Y Bệnh Lý Lâm Sàng.



Đại Tá NGUYỄN HỮU THÔNG.

Trung Đoàn Trưởng Tr/Đoàn 42 SĐ/22BB.

Tổng Thống  Nguyễn Văn Thiệu (quay lưng) và 3 Trung Đoàn Trưởng SĐ22 thuộc K16 (hàng ngang từ trái qua): Tr/Tá Đinh Văn Mễ Tr/Đ Trưởng Tr/Đ 47, Đ/Tá Nguyễn Hữu Thông Tr/Đ Trưởng Tr/Đ 42, Đ/Tá Nguyễn Thiều  Tr/Đ Trưởng Tr/Đ 41.

Tháng 3-1975, khi Ban Mê Thuột thất thủ, SĐ 22 chỉ còn 3 Tr/Đ để  phòng thủ  Bình Định vì Tr/Đ 40 đã phải tăng phái cho SĐ23 BB tại tuyến bắc Khánh Dương. Tại Bình Định, Tr/Đoàn 47 của Đ/Tá Lê Cầu (K18) được giao khu vực bắc Bình Định, lo trấn giữ Bồng Sơn, cửa ngõ ra vào thung lũng An Lão (Xem tiếp phần Đại tá Nguyễn Thiều, phần sau).

        

Trung Tá NGUYỄN XUÂN PHÚC.

Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2/TQLC - LĐ Phó LĐ147 và LĐ Trưởng LĐ369/TQLC.

Cựu Đại Tá Ngô Văn Định, một NT rất có uy tín trong Binh Chủng TQLC, trên trang mạng "hoiquanphidung.com" đã có những nhận xét như sau:
"Khi tôi về làm TĐT/TĐ2 thay ông Minh tử trận tháng 6-1966 thì ông Chùa làm TĐP, Phúc làm ĐĐT/ĐĐ4. Tôi đề nghị cho ông Chùa về Sư Đoàn để ông Phúc làm TĐ Phó.
Ngay những ngày đầu hành quân ở khu Cồn Thiên Gio Linh Quảng Trị, tôi đã nhận biết được Nguyễn Xuân Phúc TĐ Phó là một SQ gan dạ và là cấp chỉ huy tôi có nhiều cảm tình. Đến năm 67 tôi đề nghị cho anh đi học Chỉ Huy Tham Mưu. Đi học về, vì nhu cầu anh được làm TĐP/TĐ5, đánh trận Rạch Ruông, một trận chiến thắng lớn của TĐ5 năm 1968, sau đó anh được đi nhận chức TĐT/TĐ6 hành quân Mậu Thân ở Gia Định.
Năm 1969, tôi bị thương nặng anh ra lãnh trách nhiệm chỉ huy TĐ2 thay tôi. Năm 1970, TĐ2 do anh chỉ huy trong trận Preveng ở Miên, đã đem vể cho hiệu kỳ TĐ2 một ngành Dương Liễu, và đây là Dương Liễu thứ 8 nên TĐ2 được mang dây biểu chương mầu Tam Hợp.
Năm 1971 anh dẫn Trâu Điên sang Hạ Lào, anh thăng trung tá và vẫn coi TĐ2 cho đến khi đánh vào QT 1972 thì giao TĐ2 cho Thiếu Tá Hợp và đi làm Lữ Đoàn Phó 147...và sau đó làm Lữ Đoàn Trưởng LĐ 369/TQLC.
Anh là một SQ quan giỏi, không bao giờ biết đến đồng xu cắc bạc nào của anh em. Không làm điều gì mất danh dự của Quân Đội và TQLC. Anh mất đi để lại cho tôi niềm luyến tiếc.
".
Tr/Tá Phúc được ghi nhận mất tích sau cuộc triệt thoái của SÐ/TQLC khỏi Ðà Nẵng sáng ngày 29-3-1975.



Trung Tá ĐỖ HỮU TÙNG.

Tiểu Đoàn Trưởng TĐ6/TQLC - Lữ Đoàn Phó LĐ258 và 369/TQLC. Mở đầu bài chiến sử "TĐ6/TQLC - Thần Ưng Xé Xác Xe Tăng Địch 1972", về trận thư hùng giữa TĐ6/TQLC và Trung Đoàn 66 thuộc SĐ304/CSBV tại căn cứ Phượng Hoàng đầu tháng 4-1972, Cựu Đ/T Phạm Văn Chung, LĐT LĐ369/TQLC đã viết:

"Qua đợt đầu Cộng sản Bắc Việt tấn công mãnh liệt, hung hãn, ồ ạt, các căn cứ hỏa lực Carroll (Trung đoàn 56 thuộc Sư đoàn 3 Bộ binh) đầu hàng và Mai Lộc (Lữ đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến) phải cầm cự lui dần, khi căn cứ Pedro trở nên tuyến đầu phòng thủ. Thiếu tá Đỗ Hữu Tùng, Sĩ quan khóa 16 đalat, phong thái trầm tĩnh, luôn như suy nghĩ điều gì, từ từ, thủng thẳng trong mọi biến cố, kinh nghiệm chiến trường, một trong các Tiểu đoàn trưởng cự phách của Thủy Quân Lục Chiến, là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến biết thế nào căn cứ cũng bị chiến xa cùng quân bộ Cộng sản Bắc Việt tấn công kế tiếp, nên anh phối hợp với Lữ đoàn 258 xin đặt mìn chống chiến xa sâu về hướng Tây đường tiến sát đến căn cứ...". TĐ6/TQLC đã xử dụng tối đa mìn chống chiến xa, súng phóng hỏa tiễn chống chiến xa M72 và đại bác không dật 57 ly cơ hữu để tiêu diệt chiến xa địch, bắn cháy và gây tổn thất nặng cho gần 20 chiến xa địch. Th/Tá Đỗ Hữu Tùng được vinh thăng Trung Tá qua chiến thắng này. Ngày 1-10-1972, đảm nhận chức vụ LĐ Phó LĐ258, và ngày 1-7-1974 nhận chức vụ LĐ Phó LĐ369. Sáng ngày 29-3-1975, Tr/Tá Tùng được ghi nhận mất tích sau cuộc triệt thoái của SÐ/TQLC khỏi Ðà Nẵng.



Trung Tá NGUYỄN VĂN CẢNH,

Tiểu Đoàn Trưởng TĐ3 và TĐ14/TQLC.

Tái chiếm Cổ Thành Đinh Công Tráng, Quảng Trị: Đêm 14 rạng ngày 15-9-1972, Tiểu Đoàn 3/TQLC của Thiếu tá Nguyễn Văn Cảnh thuộc LĐ147 cùng với Tiểu Đoàn 6/TQLC của Trung tá Đỗ Hữu Tùng thuộc LĐ258 là 2 đơn vị chủ lực tấn công tái chiếm Cổ thành Quảng Trị. Thiếu Tá Nguyễn Văn Cảnh được vinh thăng Trung Tá sau chiến công hiển hách này. Tháng 1-1975, Tr/Tá Cảnh nhận lệnh thành lập TĐ14/TQLC và chỉ huy đơn vị này cho đến ngày 30-4-1975. Trung Tá Cảnh và gia đình hiện định cư tại TP Houston, TB Texas.



Trung Tá NGUYỄN ĐẰNG TỐNG.

Lữ Đoàn Phó LĐ147 - Lữ Đoàn Trưởng LĐ468/TQLC.                 

Ngày 9-4-72, Thiếu tá Nguyễn Đằng Tống là TĐT/TĐ1/TQLC thuộc LĐ258 đã cùng một Chi đội của Chi đoàn 3/20 chiến xa (M48) tăng viện căn cứ Phượng Hoàng, đã truy kích gây thiệt hại nặng cho Trung đoàn 66 Sư đoàn 304 và bắn cháy 4 chiến xa địch.

Tháng 7-1974, sau khi được thăng cấp, Tr/Tá Nguyễn Đằng Tống được thăng chức LĐ Phó LĐ147 đến cuối tháng 3-1975. Ngày 24-4-1975, Tr/Tá Tống được bổ nhiệm làm LĐ Trưởng LĐ468 thay thế Đại Tá Ngô văn Định, chỉ huy các Tiểu Đoàn TQLC phòng thủ tuyến Biên Hòa. Sau  ngày 30 tháng 4 năm 1975, Tr/Tá Tống bị CS đi tù lao động khổ sai CS ngoài Bắc, và chết tại trại tù Yên Bái năm 1977.



Trung Tá NGUYỄN KIM ĐỄ.

Tiểu Đoàn Trưởng TĐ9/TQLC - Trưởng Phòng 3/SĐTQLC.

Ngày 2-5-72, TĐ9/TQLC được lệnh triệt thoái từ Căn Cứ Barbara phía Tây trên rặng núi Trường Sơn trở ra QL1 bên giòng sông Ô Khê. Rạng sáng ngày 3-5, TĐ9 và TĐ2 chận đứng được lực lượng truy kích của Trung Đoàn 812 thuộc SĐ324/CSBV để cho các đơn vị bạn triệt thoái từ Quảng Trị về phía nam sông Mỹ Chánh. Sau đó khoảng 15g00, TĐ9 theo lệnh, áp dụng trì hoãn chiến lui quân về lập phòng tuyến ở bờ Nam sông Mỹ Chánh. Tuyến phòng thủ Mỹ Chánh với 3 tiểu đoàn: TĐ2, TĐ5 và TĐ9 thuộc LĐ369/TQLC đã chận đứng đà tiến quân của quân CSBV trong âm mưu tấn chiếm Cố Đô Huế. Thiếu tá Nguyễn Kim Đễ được vinh thăng Trung Tá sau chiến tích mang tính cách chiến lược này. Chức vụ sau cùng của Tr/Tá Đễ là Trưởng P3/SĐTQLC.

Trước khi về Sài Gòn thụ huấn Khóa CH/TM Cao Cấp tại Long Bình, ngày 1-10-1974 Tr/Tá Đễ bàn giao P3/SĐ lại cho Tr/Tá Trần Văn Hiển TĐT/TĐ6/TQLC, vị TP3/SĐ cuối cùng của SĐ/TQLC. Cố Tr/Tá Nguyễn Kim Đễ qua đời ngày 9-12-2015 vì bạo bệnh tại TP Portland, TB Oregon, USA, hưởng thọ 76 tuổi.



Đại Tá ĐẶNG PHƯƠNG THÀNH.

Trung Đoàn Trưởng Tr/Đoàn 12 SĐ7BB.

Anh hùng Đặng Phương Thành, nguyên Đ/Tá Tr/Đoàn Trưởng Tr/ Đoàn 12/SĐ7BB QLVNCH là Danh Nhân Quân Sự Việt Nam.
Danh tánh, sự tích của
Đ/Tá Thành được ghi vào Tân U Linh Việt Điện (quyển sách ghi chép sự tích thần kỳ của những người đã lao tâm lao lực cứu nước giữ nước trong lịch sử Việt Nam cận, trung và hiện đại).
Sự tích: Anh hùng Đặng Phương Thành đã tạo chiến thắng lớn trong trận cuối cùng tại Thủ Thừa tiêu diệt một trung đoàn VC trong tháng 4-1975, nhờ đó giữ vững đưọc Quốc Lộ 4 trong thời gian dầu sôi lửa bỏng này.
Khi Đ/Tá Đặng Phương Thành đi tù CS ngoài miền Bắc, nhân lúc ông vượt ngục bất thành và bị bắt lại, hậm hực vì mối nhục thua trận Quốc Lộ 4, bọn cai ngục CS đã treo ông lên và đánh đập tàn nhẫn cho đến chết, ngày 9/9/1976.
 

Trung Tá TRƯƠNG THÀNH TÂM.

Không Đoàn Trưởng KĐ 64 Chiến Thuật, KQ. Là một trong số 30 SVSQ K16 tình nguyện và được tuyển chọn về KQ vào cuối năm thứ 2. Tháng 8-63, Th/U Trương Thành Tâm mãn khóa huấn luyện trực thăng ở Ft Rucker HK, và được bổ nhiệm về Phi Đoàn (PĐ) 217 tân lập. PĐ di chuyển về Cần Thơ gia nhập Không Đoàn (KĐ) 74 Chiến Thuật đầu năm 1964. Năm 1966, trách nhiệm Trưởng Phòng Hành Quân PĐ/217, rồi PĐ Phó và sau khi mãn khóa học Squadron Officer Schơol ở HK năm 1968, về lại PĐ 217 giữ chức vụ PĐ Trưởng tháng 6-1969.
- Tháng 6-1970, tình nguyện bay nhiều phi vụ trực thăng võ trang đầu tiên của KQ/VNCH yểm trợ cho 4 Tiểu Đoàn TQLC/VN tái chiếm thành phố Prey Veng Cam Bốt từ quân CSBV. Sau cuộc hành quân này, PĐ/217 được ân thưởng huy chương Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu.
- Tháng 1-1971 theo học Khóa CHTM Cao Cấp tại Long Bình và giữa năm này được thăng cấp Trung Tá.
- Năm 1972, gởi 2 bạn cùng K16 Trần Châu Rết và Lê Văn Châu đang bay ở PĐ/217 qua nhận lãnh chức vụ PĐ Trưởng PĐ/225 và 227.
- Tháng 5-1973, được chỉ định giữ chức vụ KĐ Phó KĐ/64 CT tân lập. Sau 3 tháng, đảm nhận chức vụ Không Đoàn Trưởng, chỉ huy 3 PĐ 217, 249 và 255, cùng Phi Đội Tải Thương 259 cho đến ngày 30-4-1975. Trung Tá Tâm định cư tại Nam California, qua đời ngày 6 tháng 9 năm 2016, hưởng thọ 77 tuổi.

Trung Tá NGUYỄN VĂN ỨC. KQ.
Không Đoàn Phó KĐ/64 Chiến Thuật, KQ.
- 11-1959: Gia nhập Khoá 16 Trường VBQGVN.
- 2-1962: Khi tốt nghiệp được tuyển về Quân Chủng KQ.
- 4-1963: Học Khóa Hoa Tiêu Trực Thăng tại Hoa Kỳ.
- 5-1964: Tốt nghiệp về phục vụ tại PĐ/217, KĐ/33 CT, sau được chuyển về KĐ/74 CT tại Cần Thơ.
- 10-1969: Sĩ quan liên lạc Không Quân tại Hoa Kỳ.
- 1-1971: Phi Đoàn Trưởng PĐ/221, KĐ43 CT, thuộc SĐ3/KQ tại Biên Hoà, trách nhiệm chỉ huy lực lượng trực thăng, yểm trợ cho mặt trận An Lộc.
- 1-1973: Không Đoàn Phó KĐ/64 CT, thuộc SĐ4/KQ tại Cần Thơ.
- Tham gia các sinh hoạt Cộng Đồng, đặc biệt ở các Hội Đoàn CQN tại TP Orange County, TB California từ tháng 4-1975 cho tới nay.
HQ Trung Tá NGUYỄN NHƯ PHÚ.
Hạm Trương Dương Vận Hạm Quy Nhơn HQ504.
Trong những tháng ngày triệt thoái kinh hoàng của Quân Dân vùng 1 chiến thuật từ tháng 3 & tháng tư, 1975, chiến hạm HQ 504 của ông và nhiều chiến hạm khác đã tham dự trợ giúp, cứu vớt cuộc di tản đầy đau thương nhất trong lịch sử cận đại của hằng vạn Quân Dân từ Huế, Đà Nẵng. Điễn hình nhất là HQ504 đã cứu gíup trên 3000 người từ Đà Nẵng đến Cam Ranh...
Cũng như một số rất đông Quân Dân Miền Nam không có phương tiện ra đi ngày 30 tháng tư năm 1975, hoặc vì lý do này hay lý do khác đã  ở lại, HQ Nguyễn Như Phú đã  phải trả một giá rất đắt: trên 10 năm tù cải tạo. Khi ra tù, ông và con trai đã vươt biên bằng đường biển vào cuối thập niên 1980 và định cư tại Bắc Cali. Vài năm sau, may mắn thay, vợ và các con còn lại của ông  được trùng phùng qua diện Đoàn tụ sau những năm sống lao động cơ cực tại quê nhà. Một lần nữa, họ tái định cư tại Anaheim, Miền Nam Cali tự do.

HQ Trung Tá Nguyễn Như Phú qua đời sau cơn bạo bệnh tại Kaiser Hospital, Anaheim, California ngày 6 tháng 3 năm 2016, hưởng thọ 78 tuổi. (Trích tin trên Net)



Trung Tá LÊ MINH NGỌC, LĐT/LĐ4/ND và
Trung Tá TRẦN ĐĂNG KHÔI, LĐT/LĐ3/ND.
Vào ngày 1-11-1972, Ch/Tướng Lê Quang Lưỡng nhận chức TL/SĐ Nhảy Dù: LĐT/LĐ3 Tr/Tá Trần Đăng Khôi, và LĐT/LĐ4 Tr/Tá Lê Minh Ngọc. Trong Bút Ký Thiên Thần Mũ Đỏ Ai Còn Ai Mất, Ch/Tướng Lê Quang Lưỡng, ở đoạn kết đã viết: "... Về phần Lữ Đoàn 4, từ Đà Nẵng được rút về Sài Gòn giữa tháng 02-74, biệt phái Biệt Khu Thủ Đô. Chính Lữ Đoàn 4, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Lê Minh Ngọc, mà anh em Dù chúng tôi âu yếm gọi là "Ngọc Nga", đã chận VC ở cửa ngõ Thủ Đô, ngang Xa Lộ Biên Hòa, trong những giờ khắc Sài Gòn bắt đầu rơi vào rối loạn. Lữ Đoàn 3 của Trung Tá Trần Đăng Khôi (Lữ Đoàn Phó mới thay thế Đại Tá Phát trong chức vụ Lữ Đoàn Tưởng Lữ Đoàn 3 Dù, Trung Tá Bùi Quyền Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5, thay thế Khôi trong chức vụ Lữ Đoàn Phó) từ Phan Rang rút về đóng ở Hoàng Hoa Thám, đánh những trận chót ngay trong lòng Thủ Đô, mặc dù trăm nghìn giao động cho tới phút chót. Đến những giây phút cuối cùng, anh em Dù vẫn giữ vững từng tấc đất được giao phó, hoàn thành nhiệm vụ thiêu thân nút chặn để đồng bào ra đi, để được ngã gục trên thân thể của Quê Mẹ nghìn đời...".



Trung Tá NGUYỄN PHÚ THỌ.

Trung Đoàn Phó Tr/Đoàn 3 SĐ1/BB.

Tử thủ căn cứ Checkmate: Mùa Hè Đỏ Lửa, trưa ngày 30-3-1972, ngày cộng sản Bắc Việt tấn công vùng địa đầu giới tuyến, Trung đoàn 54 do Tr/Tá Nguyễn Thanh Hạnh trách nhiệm khu vực cận sơn Quận Nam Hòa, phía tây thị xã Huế. Căn cứ Phú Xuân Bastogne do TĐ 2/54 trấn giữ và căn cứ Checkmate, cao điểm 342 ở nam lộ 547 và cách Bastogne khoảng 1 cây số do TĐ1/54 của Th/Tá Nguyễn Phú Thọ trấn giữ. Tr/Đoàn 29 SĐ324B của địch bao vây cũng như pháo kích cả 2 căn cứ từ ngày 2-4-72 và cắt đứt đường tiếp tế … Do đó 2 căn cứ chỉ nhận được tiếp tế từ thả dù của không quân.

Ngày 21-4-72, nhân dịp ra Vùng I CT duyệt xét tình hình quân sự, TT Nguyễn Văn Thiệu đã quyết định thăng đặc cách thực thụ cho mọi quân nhân đang tử thủ tại 2 căn cứ trên. Cặp cấp hiệu Tr/Tá được thả theo dù tiếp tế và được binh sĩ Tiểu đoàn 1/54 thu nhặt mang về. Tr/Tá Thọ đã cười và nói một câu để đời bao hàm nhiều ý nghĩa:

- Tổng Thống thăng cấp cho tao nhưng lon lại do chính lính gắn cho tao.

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, đơn vị được lệnh rút khỏi căn cứ. Lúc 13.00g ngày 30-4-72, trên đường rút lui, TĐ 1/54 bị Tr/Đoàn 29 của địch truy kích. TĐoàn 1/54 đã anh dũng chống trả một cách mãnh liệt.

Sau trận này, Tr/Tá Nguyễn Phú Thọ được bổ nhiệm làm Tr/Đoàn Phó Tr/Đoàn 3/SĐ 1/BB.



Họp Bạn Sau Ngày Rời Trường.




Họp Khóa năm 1965 tại CLB/SQ An Đông, Chợ Lớn.
Đứng: HTrang, NXPhúc, NVLong, TDQuang, NMChánh NDSự, NVBiên, BQPhầu, NVSử
ĐHTùng, TNToàn, PNTỷ, LSĐức, PQDuy, TNLượng, LHCương.
Ngồi: PKĐan, NVKim, ĐQHùng, NXQuang, LTTài, VKSinh, NĐThủy.




Họp mặt tại tuyến đầu Quảng Trị, cuối tháng 12, 1972
Đứng
: MX Tr/tá TVHiển, MĐ Tr/tá BQuyền, MX Tr/tá NVCảnh,
MX Tr/tá NĐTống và Nghị Viên NĐThục áo trắng.
Ngồi: Tr/tá NPThọ SĐ1, Tr/tá MX NXPhúc,
MĐ Tr/tá LMNgọc và Chi Khu Trưởng Th/tá TTChung.




Ba Ông Cọp nhà Nguyễn: Nguyễn Đ. Tống, Nguyễn X. Phúc và Nguyễn K. Đễ



Thầy Trò hội ngộ ĐH/K16, Nam Cali USA, 22/11/2009

Từ trái: CaoYết, BNgô, SQCB LV Lữ, LSĐức, SQCB HB Sơn,
BQuyền, HĐKhuê, PMĐức, NVAn




6- KHÓA 16 - VÀ SÁU (6) VỊ ĐẠI TÁ.

 Đại Tá NGUYỄN VĂN HUY, BĐQ.
Một trong Ngũ Hổ Miền Tâỵ

Sinh ngày 13-3-1938 tại Sài Gòn. Số quân 58A/106.282. Nhập ngũ ngày 20-11-1959. Xuất thân K16 Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt.
- Thăng Thiếu tá tháng 11-1965 (người đầu tiên K16 thăng thiếu tá). Năm 1968 Tr/tá Liên Đoàn Trưởng LĐ1/BĐQ, tái chiêm thị xã Huế, Tết Mậu Thân.
- 1969-1973: Trung Đoàn Trưởng Tr/Đ 12/SĐ7/BB. Tham dự chiến trường Mộc Hóa, Compuchia.
- 1973-1975: Đại tá Tỉnh Trưởng kiêm TKT Kiến Tường.
- Được tưởng thưởng Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, 21 Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, 4 Chiến Thương Bội Tinh và 2 huy chương Hoa Kỳ.
- Sau 1975, bị tù CS hơn 13 năm từ Nam ra Bắc. Hiện định cư tại Nam California, HK từ tháng 11-1991 (Trích từ cuốn "Lược Sử QL/VNCH" của 3 soạn giả: Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân và Lê Đình Thụy, trang 387).



Đại Tá ĐẶNG PHƯƠNG THÀNH, SĐ7/BB. "Sự tích: Anh hùng Đặng Phương Thành đã tạo chiến thắng lớn trong trận cuối cùng tại Thủ Thừa tiêu diệt một trung đoàn VC  trong tháng 4-1975, nhờ đó giữ vững đưọc Quốc Lộ 4 trong thời gian dầu sôi lửa bỏng này.
Khi Anh hùng Đặng Phương Thành đi tù cộng sản ngoài miền Bắc, nhân lúc ông vượt ngục bất thành và bị bắt lại, hậm hực vì mối nhục thua trận Quốc Lộ 4, bọn cai ngục cộng sản đã treo ông lên và đánh đập tàn nhẫn cho đến chết, ngày 9/9/1976..." (Trích từ trang Web của Hội Sử Học Việt Nam).


Đại Tá NGUYỄN THIỀU, SĐ22/BB.
Tr/Đoàn 41 của Đ/Tá Nguyễn Thiều giữ đoạn Quốc lộ 19 từ Bình Khê  đến An Khê trong khi Tr/Đoàn 42 của Đ/Tá Nguyễn Hữu Thông giữ đoạn Quốc lộ 19 phía nam Bình Khê và phần lãnh thổ còn lại của Bình Định.
Ngày 31-3-75, theo lệnh của BTL/QĐ II, Th/Tướng Phan Đình Niệm, TL SĐ22, cho lệnh 3 Tr/Đoàn còn lại của ông rút về phòng thủ thị xã cùng quân cảng Qui Nhơn và chuẩn bị để SĐ 22(-) được hải vận về Nha Trang rồi chuyển lên tăng cường cho mặt trận Khánh Dương. Trong đêm 31-3-75, Tr/Đoàn 41 đã chọc thùng vòng vây của Tr/Đoàn 2 SĐ3 Sao Vàng của địch ở phía nam Bình Khê và trưa ngày 1-4-1975, Tr/Đoàn 41 đã rút về được tuyến sau của Tr/Đoàn 42...(đọc phần kế tiếp)   



Đại Tá NGUYỄN HỮU THÔNG, SĐ22/BB.
Hai Tr/Đoàn được lệnh QĐ II sử dụng đường bộ rút về Tuy Hòa. Khi Tr/Đoàn 41 tới ngang Ấp Phú Tài phía bắc đèo Cù Mông thì được tin Tuy Hòa đã thất thủ,  Đ/Tá TLP/SĐ cho lệnh 2 Tr/Đoàn trở về cảng Quy Nhơn đợi tầu HQ bốc. Khoảng 5g00 chiều ngày 2-4-1975, đơn vị đã lên được tầu HQ. Vì nhiều lý do, có một số quân nhân của SĐ22 ở lại trên bờ, trong đó có Đ/Tá Thông. Sau 30-4-75, một số quân nhân chạy thoát cho biết họ đã nghe nhiều tiếng súng nổ gần quân cảng Qui Nhơn, nơi Đ/Tá Thông đang dừng quân. Dư luận cho là Đ/Tá Nguyễn Hữu Thông đã theo gương danh tướng Võ Tánh cùng mất với Qui Nhơn. Vị Đ/Tá 38 tuổi của K16 đã đi vào huyền thoại từ đấy.



Đại Tá VĨNH DÁC, SĐ3/BB.
Sinh tháng 2-1942 tại Thừa Thiên. Số quân 62A/200.002. Nhập ngũ ngày 23-11-1959. Xuất thân K16 Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Năm 1972 giữ chức vụ Trung Đoàn Trưởng Tr/Đoàn 2/SĐ 1/BB. Năm 74 thăng cấp Đại tá, giữ chức vụ Tr/Đoàn Trưởng Tr/Đoàn 56/SĐ3/BB. Sau năm 1975, bị đì tù CS 13 năm. Hiện định cư tại thành phố Los Angeles, tiểu bạng California.

  

Cố Đại Tá ĐOÀN CƯ, SĐ21/BB. Sinh ngày 16-10-1938 tại Đà Lạt.
Thăng chức Trung Tá năm 1972 giữ chức Trung Đoàn Trưởng Tr/Đoàn 32/SĐ21BB. Trong một cuộc hành quân lớn tại Quận Kiên Hưng, tỉnh Sóc Trăng năm 1972, Trung Tá Đoàn Cư bị tử thương bởi hỏa tiễn pháo kích của quân CS, được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu Truy Thăng Đại Tá.



7- KHÓA 16 - LỜI KẾT.


     Chủ biên xin mượn Tâm Bút của Vị CHT/TVBQGVN khả kính, Cố Đại Tá Trần Ngọc Huyến, gửi cho Khóa 16 trong Cuốn Lưu Niệm, để thay cho Lời Kết:




 

Thân gửi Sĩ Quan Khóa XVI,
     Sáng kiến của các Bạn in thành sách những kỷ niệm trong thời gian thụ huấn tại Trường, sẽ mở đầu cho một truyền thống mới của Trường Võ Bị Quốc Gia.
     Quyển sách này là giây liên lạc kết chặt các Bạn với nhau và cũng là nhịp cầu tưởng nhớ giữa những người đang chiến đấu bốn phương trời với "Mái Trường Mẹ" đã đào luyện nên họ.
     Tuy là Khóa thứ 16 của Trường Sĩ Quan Hiên Dịch, nhưng thật ra Khóa các Bạn là Khóa đầu tiên của Trường Võ Bị Quốc Gia được cải tô" lại, với một hệ thống tổ chức mới, một chương trình huấn luyện mới, những cơ sổ và tiện nghi mới.
     Những cái mới ấy có điều hay nhưng cũng có điều bất lợi cho các Bạn. Một thí dụ cụ thể là trong hơn 3 năm thụ huấn tại Trương, Khóa các Bạn đã phải chuyển hướng chương trình huấn luyện hai lần: lần đầu từ chế độ "Liên Quân" sang chế độ huấn Luyên "Võ Bị Quốc Gia"; lần thứ hai, từ chế độ "thời bình 4 năm" sang chế độ "thời chiến 2 năm".


     Là người nhận trách nhiệm nghiên cứu và thi hành sự chuyển hướng ấy theo những chỉ thị Bên Trên và những nhu cầu thiết thực Bên Ngoài, tôi thông cảm với những sự khó khăn mà Khóa các Bạn đã phải vượt qua.
     Nhưng nhờ sự nhận thức chín chắn, các Bạn đã hết sức hòa nhịp với những sự biến đổi ấy; và qua mỗi đoạn đường, các Bạn đã gặt hái thêm cho mình ít nhiều kinh nghiệm. Một số các Bạn đã là những "công tác viên không ngờ" của Bộ Chỉ Huy Nhà Trường, khi đề nghị sửa đổi một vài phương pháp huấn luyện cho hữu hiệu hôn. Các Bạn ấy đã thể hiện một trong những nguyên tắc đang biến thành truyền thống của Trường Võ Bị Quốc Gia = "Sáng tạo ngay cả đang khi còn thụ huấn".
     Trong những giờ giáo dục tinh thần, chúng ta đã nói nhiều về Con Người tiền Phong. Các Bạn nên hãnh diện, vì dưới mái Trường này, các Bạn đã thể hiện một phần con người lý tưởng ấy, đã đặt những viên đá đầu tiên cho một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của những người Quân Nhân Trí Giả, đã tìm được cho mình một lý do chiến đấu và hoạt đông cao cả hơn mối hy vọng tư, nhiên được khích lệ và khen thưởng.
     Các Bạn còn phải học hỏi nhiều, từ kinh nghiệm chuyên môn của nghiệp chỉ huy trong Quân Đội đến kinh nghiệm thường ngày của cuộc sống.
     Nhưng mỗi lần, các Bạn giở lại những trang giấy này, tôi mong các Bạn hãy lắng tâm hồn giây lát, để so sánh con người Bạn lúc bấy giờ với con người của Bạn trước đó, khi Bạn vừa tốt nghiệp, nóng lòng thực hiện những dự định đẹp đẽ nhất của kiếp người, vì đó là những dự định được thai nghén trong buổi con người còn hăng hái nhất, thành thật nhất, liêm khiết và vị tha nhất.
     Tôi cầu mong rồi đây Thực Tế sẽ là trường thử thách và lò đào luyện các Bạn thêm cứng rắn, và sẽ không là vũng ao tù nước đọng cầm chân những kẻ xưa kia đã từng tự hứa sống hùng sống động, đấu tranh cho một Lý Tưởng và hoạt động cho cả Giống Nòi.

  Ban Biên Tập: Bùi Quyền, Trần Khắc Thuyên, Trần Ngọc Toàn,
Nguyễn Đức Thu, Nguyễn Văn An, Trần Văn Hiển  
Trang Tưởng Niệm CSVSQ Khóa 16 Đã Mãn Phần