Saturday, November 15, 2025

Đầm Cầu Hai

 

Cái Chào Của Niên Trưởng.
MX Phạm Vũ Bằng
Ðầu tháng 3/1975, tôi là y sĩ của Đại Đội Quân Y Lữ Ðoàn 258/TQLC, ngày 18 tháng 3/1975, Lữ Ðoàn được lệnh di chuyển từ Quảng Trị về đèo Phước Tượng, nằm trên QLI, phía Bắc đèo Hải Vân và phía Nam Huế. Tuyến phòng thủ của LĐ258/TQLC trải dài từ phía Bắc sông Truồi đến phía Nam Phú Lộc.
(Hình bản đồ phòng thủ của LĐ258 /TQLC)
Theo Trung Tá Lữ Ðoàn Phó Huỳnh Văn Lượm thì Lữ Ðoàn có nhiệm vụ:
1. Bảo vệ trục giao thông huyết mạch và duy nhất trên QL1, phía Bắc đèo Hải Vân để tiếp tế quân viện cho các đơn vị Tiền Phương QĐI như Lữ Ðoàn 147/TQLC, Sư Ðoàn 1/BB, Liên Ðoàn 14/BÐQ, Trung Ðoàn I Kỵ Binh, Pháo Binh và các đơn vị bạn khác tại mặt trận Quảng Trị, Huế-Thừa Thiên.
2.Trong trường hợp không giữ được Huế-Thừa Thiên thì bảo vệ cho các đơn vị trên rút về Ðà Nẵng theo QL1, và làm thành phần ngăn cản các đơn vị truy kích của quân Cộng Sản sau khi các đơn vị kể trên rút an toàn về Ðà Nẵng.
Từ ngày 18/3/1975 đến 25/3/1975, LÐ 258/TQLC đã giao tranh nhiều lần với các đơn vị lớn của Cộng Quân có đại bác yểm trợ nhưng nhờ sự quyết tâm của quân nhân các cấp nên LÐ258/TQLC vẫn giữ vững vị trí để yểm trợ tiếp tế quân cho đạo quân tiền phương QĐI.
Ngày 23/3/1975, trong khi Phú Lộc đang được TĐ8/TQLC thưộc LĐ258/TQLC giữ vững thì chúng tôi vô cùng ngạc nhiên khi nghe đài VOA và BBC đồng loan tin Phú Lộc đã bị Cộng Quân chiếm giữ! Sau khi kiểm điểm chắc chắn Phú Lộc vẫn nằm trong tay quân ta chúng tôi thầm chê trách mấy anh “ký giả quán café” chỉ dựng chuyện nói bậy… Tuy nhiên họ không nói bậy chút nào vì sáng ngày 25/3/ 1975, theo lệnh của QĐI, Lữ Đoàn 258/TQLC phải rút bỏ đèo Phước Tượng-Phú Lộc để về Đà Nẵng! Lệnh này làm chúng tôi kinh ngạc bởi vì đoạn QL1 chạy qua Đèo Phước Tượng là con đường bộ duy nhất để các đơn vị đang chiến đấu tại Quảng Trị và Huế rút về Ðà Nẵng, bỏ đi có nghĩa là “khai tử” các đơn vị này, hay là thượng cấp đã có kế hoạch khác, cho các đơn vị Tiền Phương QĐI đổi hướng ra biển Ðông chăng? Mà rút cả một đạo quân Tiền Phương QĐI bằng Hải Quân thì làm gì có đủ tầu bè để chở, còn hàng trăm chiến xa, đại bác thì lấy gì để mang về Đà Nẵng?
Tuy kinh ngạc nhưng là thuộc cấp của một đơn vị chuyên môn (QY) nên chúng tôi không có quyền và không có thời gian để thắc mắc, việc trước mắt là thương binh. Tôi được lệnh mang các thương binh về Tổng Y Viện Duy Tân Ðà Nẵng bằng đường bộ vì trực thăng không thể đáp được. Thương binh được chở trên mấy chiếc xe GMC có một Trung Ðội TQLC theo bảo vệ, rời đèo Phước Tượng lúc 6 giờ sáng ngày 25/3/1975, đường đi khó khăn, thêm nữa cầu sông Truồi bị công binh QĐI phá hủy đêm hôm trước cho nên mãi tới 8 giờ chiều chúng tôi mới tới được Ðà Nẵng.
Vì ở ngoài mặt trận lâu ngày không được biết tin tức của hậu phương cho nên tôi vô cùng sững sờ khi thấy Ðà Nẵng trước kia phồn hoa bao nhiêu thì nay tang thương bấy nhiêu! Một thành phố đang chết, vắng bóng người dân, trên vỉa hè, dưới lòng đường, lang thang từng toán 5, 6 quân nhân mặc đủ mọi sắc phục vừa đi vừa hướng mũi súng lên trời bắn từng loạt đạn vu vơ, thỉnh thoảng trên hè phố từng đám người mặc đồ dân sự tụ tập, họ nhìn chúng tôi bằng những cặp mắt quen thuộc, cặp mắt của những tên đặc công VC nhìn khi bị chúng tôi bắt trói, vắng bóng dáng Cảnh Sát và Quân Cảnh, không biết giờ này họ đang ở đâu?
Nhà cháy, xe nhà binh cháy, xe dân sự cháy do chủ nhân tự phá hủy hay bị phá hoại! Trong bóng đêm hiện rõ lên là những cột lửa, thỉnh thoảng có những tiếng nổ bùng phát ra từ những đám cháy đó, có thể là do bình xăng, là chất nổ làm cho những cột lửa phụt bốc cao khiến thành phố đúng là đang giãy chết.
Chúng tôi đến Tổng Y Viện Duy Tân vào lúc 9 giờ tối, cổng chính của tổng y viện tối đen, không một bóng đèn mà cũng chẳng có người gác, tuy nhiên phòng nhận bệnh ở phía sau cổng chính vẫn còn ánh đèn vàng hắt ra, nhìn kỹ tôi thấy có mấy người lính y tá đang cặm cụi săn sóc cho thương binh.
Trong lúc đang điều khiển các y tá và anh em binh sĩ TQLC mang thương binh vào phòng nhận bệnh, tôi thoáng trông thấy một quân nhân dáng người mảnh khảnh trong quân phục Nhảy Dù đứng khuất trong ánh đèn vàng vọt chiếu ra từ phòng nhận bệnh, khi tôi đi tới gần thì anh đứng nghiêm đưa tay chào đúng quân cách, thoạt đầu tôi nghĩ anh là một sĩ quan Nhẩy Dù hay Biệt Động Quân, vả lại đang lúc quá vội vàng gấp rút đưa thương binh vào cấp cứu nên tôi chỉ kịp chào lại và không để ý anh là ai.

( *** Hình Bác Sĩ Lương 1) .
Sau khi nhập viện thương binh xong , từ phòng nhận bệnh quay ra tôi vẫn thấy anh ta còn đứng đó và đưa tay chào tôi một lần nữa, quá ngạc nhiên tôi tiến lại gần và nhận ra anh là Y Sĩ Thiếu Tá Phạm Văn Lương, một niên trưởng nổi tiếng trong giới y sĩ của chúng tôi, anh càng được nhiều người biết đến kể từ khi anh mang lựu đạn ngồi tuyệt thực trước Quốc Hội tại Sài Gòn để phản đối tệ nạn tham nhũng.


(*** Hình Bác Sĩ Lương 2 trong quân phục Nhẩy Dù tuyệt thực trước Quốc Hội chống tham nhũng.)

Tôi đứng nghiêm chào lại vị niên trưởng, anh đưa tay bắt kèm theo nụ cười đầy lo âu. Anh hiện là y sĩ trưởng khu giải phẫu Tổng Y Viện Duy Tân nhưng vì một số các đồng nghiệp tại TYV đã bỏ đi cho nên anh phải đảm nhận thêm công tác nhận bệnh. Khi biết vậy, tôi đề nghị với anh để tôi đem thương binh TQLC về bệnh viện dã chiến của Sư Đoàn TQLC tại Căn Cứ Non Nước, anh buồn rầu cho biết ở đó đã hết chỗ và anh bảo đảm với tôi là anh sẽ săn sóc thương binh TQLC tận tình.
Quá thắc mắc vì anh còn ở lại trong TYV gần như trống này, tôi hỏi anh:
-“Tại sao anh còn ở lại đây, đặc công VC đã đầy trong thành phố, anh có thể bị chúng hại bất cứ lúc nào?”
Y sĩ thiếu tá trưởng khu giải phẫu Tổng Y Viện Duy Tân ngần ngừ như không muốn trả lời, thấy tôi vẫn ngó anh chờ đợi, anh khẽ thở dài:
-“Nếu tôi cũng bỏ đi thì sẽ không đủ bác sĩ để săn sóc thương binh, và chưa bao giờ thương binh lại cần đến các anh em y sĩ chúng ta như lúc này.”
Tôi cho anh biết sơ qua tình hình chiến sự phía Bắc đèo Hải Vân thì anh cũng buồn rầu cho tôi biết tình hình chiến sự phía Nam Ðà Nẵng, phòng tuyến bắt đầu tan rã và thành phố Ðà Nẵng sẽ mất trong một vài ngày tới và chợt thoáng vui, anh tiếp:
-“Thấy TQLC các cậu về Ðà Nẵng, tôi hy vọng và tin tưởng rằng các anh (TQLC) sẽ bảo vệ được thành phố này.”
Nghe anh nói, bỗng nhiên tôi cảm thấy thật buồn và cô đơn! Vì nhìn tổng quát tình hình, tôi có thể tiên đoán một sự sụp đổ hoàn toàn của QKI. Ðà Nẵng, một nơi mà tôi thường mơ ước được trở lại thăm sau những tháng ngày dài hành quân vùng rừng núi tỉnh Quảng Trị, dù cho chỉ vài giờ để thưởng thức ly café nóng và ngắm cảnh phồn hoa đô hội. Nay thì tôi đã về và đang đứng đây, không thưởng thức café nóng mà chỉ là những giọt nước mắt đắng cay chảy xuống môi, nước mắt hòa với máu của thương binh dính trên mặt tôi tạo ra vị mặn làm tê đầu lưỡi thay cho hương vị ngọt ngào của ly café. Cảnh phồn hoa đô hội nay chỉ còn là những khói lửa và kinh hoàng! Thành phố thân yêu này đang chết, mọi thứ sẽ đều chết nếu một mai bị đổi chủ!
Công tác tải thương tạm ổn định, tôi chào anh Lương để trở về đơn vị, nơi có hỏa châu đang chiếu sáng và những tiếng nổ liên tục vọng về, nơi đó các đồng đội của tôi đang chiến đấu…

Khi đến tôi thấy anh Lương đứng cô đơn giữa những thương binh, bây giờ ra đi, bỏ anh lại một mình để tôi về cùng đơn vị thì lại thấy anh càng cô đơn hơn! Nhưng không làm sao khác hơn được, thương binh của tôi đã được anh nhận săn sóc thì tôi phải về cùng đồng đội đang ở phía trước, tại tuyến đầu, nơi đó anh em đang còn chiến đấu và sẽ có thêm tử sĩ và thương binh khác cần săn sóc, chỉ có ở đó tôi mới cảm thấy bình yên và ấm cúng bên cạnh các chiến hữu TQLC, chúng tôi có cùng một quyết tâm bảo vệ Ðà Nẵng đến cùng… Nhưng rồi thì tình hình biến chuyển quá nhanh chóng không đúng như chúng tôi đã nghĩ:
– Ngày 26/3/1975, những tin xấu về QĐI Tiền Phương tại Thừa Thiên-Huế liên tục bay về Đà Nẵng. Sáng ngày 25/3/1975, đạo quân Tiền Phương QĐI được lệnh bỏ chiến cụ nặng như súng cộng đồng, đại bác, xe tăng và lương thực, rút về bãi biển Thuận An để chờ tầu Hải Quân đón về Đà Nẵng, nhưng vì “thời tiết xấu” nên tầu Hải Quân không vào đón được, buổi chiều cùng ngày, đạo quân này bị quân truy kích CS Bắc Việt bao vây và tàn sát….!!!
– Sáng ngày 26/3/1975, có 1 chiếc LCU quân vận liều mạng vào cứu được Bộ Chỉ Huy LĐ147/TQLC cùng khoảng hai ba trăm TQLC, chiếc tầu bị hỏa tiễn VC bắn theo làm Đại Tá Nguyễn Thế Lương, Lữ Đoàn Trưởng LĐ147 bị thương ở chân…
Trưa ngày 26/3/1975 tôi được chỉ định ra bến Thương Cảng Đà Nẵng đón thương binh và tử sĩ trên chiếc tầu này…
Tối ngày 26/3/1975 vì hết đạn, không nước uống và lương thực, nên gần như toàn bộ LĐ147/TQLC và QĐI Tiền Phương tan rã và bị quân CS bắt
– Sáng ngày 28/3/1975, sau một buổi họp của Quân Đoàn I, TQLC chúng tôi được lệnh tử thủ Đà Nẵng.
Trưa ngày 28/3/1975, Tổng Lãnh Sự Mỹ tại Đà Nẵng AL Francis cùng hai người Mỹ khác mặc thường phục nhưng trang bị vũ khí cá nhân đến họp với Tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lệnh QĐI tại căn cứ TQLC Non Nước, buổi họp kéo dài đến chiều cùng ngày và sau đó Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I triệu tập một buỏi họp khẩn cấp với các tư lệnh quân binh chủng QĐI tại căn cứ Hải Quân Tiên Sa…
Tôi được lệnh mang Đại Tá Lương quá giang trực thăng của Thiếu Tướng Bùi Thế Lân, Tư Lệnh TQLC, đến Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải, nơi các Tư Lệnh họp, để tìm tầu đưa ông về Cam Ranh, vì TYV Duy Tân quá tải rồi…
Chúng tôi đến sớm, khoảng 7:00 pm, Đại Tá Lương được khiêng vào một căn hầm nổi xây kiên cố bằng bao cát, căn hầm nổi này là trung tâm chỉ huy của Hải Quân Vùng I Duyên Hải. Đại Tá Lương ngồi bệt trên sàn đất dưới dàn điện thoại. Vì di chuyển nhiều, vết thương vỡ ra, máu thấm ướt cả tấm băng làm tôi phải ngồi xuống điều trị cho ông.
Ngoài chúng tôi ra, trong căn hầm nổi này còn có Trung Tướng Tư Lệnh QĐI Ngô Quang Trưởng, Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Thiếu Tướng Bùi Thế Lân. Tướng Trưởng gọi điện thoại cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu để xin bỏ Đà Nẵng, Tổng Thống Thiệu không chấp nhận và ra lệnh cho Tướng Trưởng phải tử thủ và bằng mọi giá giữ Đà Năng để còn mặc cả với CS Bắc Việt. Tướng Trưởng trả lời:
-“Trình Tổng Thống tôi giải quyết theo tình hình”.
Khi các Tư Lệnh Quân Binh Chủng QĐI đến họp gần đầy đủ, Tướng Trưởng tuyên bố: “Mình rút đêm nay” trước sự kinh ngạc của mọi người, vì lệnh rút quân quá đột ngột cho nên cuộc rút quân của QĐI khỏi Đà Nẵng vào sáng ngày hôm sau, 29/3/1975, đã rất hỗn loạn và đẫm máu!

Các nhân chứng nghe được cuộc điện đàm của Tướng Trưởng và Tổng Thống Thiệu tối ngày 28/3/1975 chỉ còn tôi và Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, có ai thắc mắc về sự khả tín của những điều tôi viết trên đây thì xin hỏi Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại.
Sau khi đi tù về, tôi được tin Y Sĩ Thiếu Tá Phạm Văn Lương đã tuẫn tiết trong trại tù “cải tạo”! Tôi rất phục hành động cao cả của anh, bởi vì với địa vị và quyền hạn đang có trong tay, anh có thể rời Ðà Nẵng bằng nhiều phương tiện để vào Sài Gòn và biết đâu anh đã qua Mỹ trước 30/4/1975 như bao nhiêu cấp chỉ huy khác. Nhưng không, anh Phạm Văn Lương đã lựa chọn cho mình một con đường nghiệt ngã nhưng lại quá hào hùng, anh ở lại với thương binh, anh ở lại với Tổng Y Viện đến giờ phút cuối cùng cho dù biết rằng “định mệnh” tàn bạo sẽ đến với anh và rồi nó đã tàn bạo hơn anh tưởng!
Khi quân Cộng Sản vào thành phố Ðà Nẵng, vào chứ không phải đánh chiếm, vì SÐ/TQLC rút bỏ Ðà Nẵng vào sáng 29 tháng 3 năm 1975, chúng đã bắt và xử tử một số thương binh chống đối và đuổi tất cả thương bệnh binh, dù cho bất cứ vết thương như thế nào, ra khỏi Tổng Y Viện Duy Tân. Riêng các bác sĩ quân y thì bị bắt vào trại tù cải tạo! Chính trong hoàn cảnh tù tội này, anh Lương đã đứng lên phản đối hành động dã man của chúng và sau cùng người anh hùng cô đơn Phạm Văn Lương đã tuẫn tiết để giữ khí tiết của một kẻ sĩ sa cơ!
Những cuộc gặp gỡ trong thời chiến và loạn ly thường bất ngờ và ngắn ngủi nhưng thật đậm đà. Lúc 9 giờ đêm 25/3/1975, trước cửa phòng nhận bệnh của Tổng Y Viện Duy Tân, trong ánh đèn vàng vọt, tôi bất ngờ gặp anh lần đầu và không ngờ đó cũng là lần sau cùng tôi gặp Niên Trưởng Pham Văn Lương.
Ðã hơn 40 năm qua, tôi không quên hình ảnh một y sĩ thiếu tá trong quân phục Nhẩy Dù đứng cô đơn buồn bã dưới ánh đèn vàng vọt của bệnh viện nhưng lại thật hào hùng, hào hùng vì anh là ánh sáng, là niềm tin và là sự sống hiếm hoi còn lại cho tất cả những thương binh đang thoi thóp, nhìn thấy anh, họ như tìm thêm được hơi thở.
Cái chào của vị Niên Trưởng Phạm Văn Lương lúc đó đã làm tăng niềm tin và can đảm cho tôi giữa lúc tôi cũng cô đơn cùng anh em thương binh TQLC trong thành phố Ðà Nẵng thân yêu, Đà Nẵng đang hấp hối! Cái chào của vị niên trưởng làm tôi hãnh diện hơn tất cả những huy chương mà tôi đã nhận, mặc dù tôi biết anh đã chỉ chào bộ quân phục TQLC mà tôi đang mặc trên người cũng như tôi đã nghiêm chỉnh chào vị niên trưởng đáng kính và hành động hào hùng của anh.

California Ngày 4/5/2016.
MX Phạm Vũ Bằng

Thư Ngỏ gửi Thí Sinh trúng tuyển vào TVBQGVN (Khoá 29 SVSQTVBQGVN)


Thư Ngỏ gửi Thí Sinh trúng tuyển vào TVBQGVN (Khoá 29 SVSQTVBQGVN)

VIỆT- NAM CỘNG- HOÀ
BỘ QUỐC- PHÒNG
BỘ TỔNG- THAM - MƯU QLVNCH
TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM.
BỘ - CHỈ- HUY
Số 176/ TVBQGVN / P.T. Th
THƯ NGỎ
Gửi Anh Hà T. T
Thí-sinh trúng tuyển kỳ thi nhập học Khóa 29 SVSQ / Hiện - dịch.
Nhân danh Chỉ - Huy - Trưởng Trường Võ -Bị Quốc - Gia Việt -Nam, tôi nhiệt liệt khen ngợi Anh đã cố gắng và thu hoạch kết -quả tốt đẹp trong kỳ thi tuyển vào khóa 29 SVSQ / HD vừa rồi.
Tôi rất hân hạnh đón nhận Anh dưới mái Trường VBQGVN, nơi quy tụ những người trai Việt ưu tú và hào hùng của thế -hệ, trong ngày nhập học sắp tới.
Để Anh có một ý -niệm khái-quát về chương - trình huấn - luyện văn -hoá và quân -sự, cũng như các tiện-nghi giảng -huấn của Trường VBQGVN, chúng tôi nhận thấy có trách - nhiệm cho Anh biết các chi -tiết sau đây :
I- CHƯƠNG - TRÌNH HUẤN - LUYỆN 4 NĂM :
A - Chương - Trình Quân - Sự :
TỔNG - CỘNG 3.752 G
Chiến - thuật 320 G
Vũ - Khi tác - xạ 288 G
Tổng - quát 571 G
Quân - Binh - Chủng 210 G
Chiến - Tranh Chính - Trị 392 G
Thể - Chất 1.040 G
Khảo -hạch và Sinh - hoạt 931 G
TỔNG - CỘNG 3.752 G
B - Chương - Trình Văn - Hóa :
Toán 409 G 5
Khoa - học 234 G
Kỹ - thuật Điện 292 G 5
Kỹ - thuật Công - Chánh 351 G
Kỹ - thuật Cơ - Khí 409 G 5
Nhân - Văn 409 G 5
Luật, Lãnh - Đạo 409 G 5
Ngoại - ngữ 292 G 5
Thực - Tập và Khảo - hạch 366 G
Kỹ - thuật Quân - Sự 478 G
TỔNG - CỘNG 3.652 Giờ
II- CÁC CƠ - SỞ GIẢNG - HUẤN :
Chắc Anh cũng đã rõ 60% thời lượng của chương - trình giảng -huấn văn - hoá 04 năm tại Trường Võ - Bị Quốc - Gia Việt -Nam dành cho các môn kỹ -thuật và khoa - học trong đó có phần thí -nghiệm chiếm một tỷ - lệ khá quan trọng. Do đó, ngoài việc các phòng thí, nghiệm Vật - Lý , Hoá- Học , Điện - tử, Trường Võ - Bị Quốc - Gia Việt - Nam đã hoàn thành việc xây cất một nhà thí -nghiệm nặng với trang - bị đầy đủ và tối-tân. Ngân khoản dành cho việc xây cất và trang - bị này lên tới 400 triệu đồng - Công - tác Xây cất đã hoàn thành cuối năm 1970 và nhà thí - nghiệm nặng đã bắt đâu hoạt - động từ mùa văn -hóa 1971 .
Như thế Khóa 29 của Anh là Khoá thứ 3 sẽ xữ dụng nhà thí - nghiệm nặng , một công -trình đặc - biệt của Trường Võ -Bị Quốc - Gia Việt -nam mà không một trường Đại - học hay Cao -đẳng Dân - sự nào trong nước có được.
III- SĨ QUAN XUẤT THÂN TẠI TVBQGVN CŨNG NHƯ SVSQ ĐANG THỤ HUẤN SẼ ĐƯỢC LẦN LƯỢT CỮ ĐI DU-HỌC TẠI HOA - KỲ:
Theo kế - hoạch của Trường VBQGVN đã được Bộ Tổng - Tham - Mưu chấp - thuận, thì một số các Sĩ- Quan đậu cao trọng số các Sĩ -Quân xuất thân tại Trường Võ Bị Quốc - Gia Việt- Nam sẽ được lần lượt gửi đi du học tại ngoại- quốc dể lấy bằng Cao học - (Master Degree).
Trong năm 1970, có 1 SVSQ đã được gửi đi du học tại Trường Võ - Bị West Point Hoa -Kỳ.
Trong năm 1971, đã có 20 Sĩ -Quan thuộc Khóa 22B được tuyển chọn du học.
Từ năm 1972 và về sau con số tuyển chọn du học sẽ tăng lên 30 người mỗi năm .
Đến dây chắc Anh đã ý - niệm được phần nào về tầm quan -trọng và giá - trị của Trường Võ -Bị Quốc - Gia Việt - Nam, một trong những quân trường lớn nhất ở Đông -Nam -Á.
Anh được trúng tuyển nhập học Khóa 29/SVSQ /HD của Trường VBQGVN, đó là một vinh hạnh lớn cho Anh vậy. Chúng tôi rất mừng thấy Anh đã biết lựa chọn một hướng đi dể thực hiện hoài bảo cao đẹp và xây dựng tương - lai cho chính minh.
Thân ái chào Anh và hẹn gặp Anh
Trong mùa khai- giảng Khóa 29/SVSQ Hiện dịch.
KBC 4027, ngày 10 tháng 11 năm 1972
Thiếu - Tướng Lâm - Quang - Thơ.
Chỉ -Huy -Trưởng Trường Võ- Bị Quốc - Gia Việt - Nam
(Ký Tên và đóng dấu)
Thiếu Tướng Lâm Quang Thơ
Cảm ơn anh HÀ TT đã giữ được những tài liệu quý giá của TVBQGVN Sau hơn 1/2 thế kỷ!
Anthony Hayward






Friday, November 14, 2025

Pleiku, thơ và thi nhân

Có lẽ không có một thành phố nào như Pleiku được nhắc nhở nhiều đến như vậy trong văn học Việt nam. Những thi văn sĩ, đã sống và thở ở không gian đó, đã trải qua những ngày tháng tao loạn chiến tranh, nên tác phẩm của họ đã biểu hiện sinh động được tâm cảm của những người lính thú hay những nàng chinh phụ của một thời đại chiến tranh.

Với tôi, phố núi Pleiku gợi lại cho tôi rất nhiều vần thơ. Có thể là của riêng tôi mà cũng là của rất nhiều thi sĩ đã gần gũi với thành phố ấy. Thêm vào nữa, Pleiku còn là cả một kho tàng kỷ niệm của riêng tôi..

Ngay ngày đầu tiên đến Pleiku, tôi đã cảm thấy như mình là một dòng sông đang đến một khúc quành.

Năm tôi lên nơi chốn ấy, tôi vừa đến cái tuổi đôi mươi. Hai mươi tuổi, tâm hồn lúc ấy trắng bong, tràn đầy mơ với mộng. Chưa có kinh nghiệm trường đời nên thường phản ứng trước những điều mà mình thấy không vừa lòng. Tuổi trẻ lại hay thích thoải mái không ưa sự gò bó nên dù ở Nha Trang phong cảnh sơn thủy cũng hữu tình lắm nên khoái chuyện giang hồ lang thang. Ở đâu cũng xa nhà nên tôi tình nguyện đi biệt đội Pleiku mút mùa lệ thủy và khi lập không đoàn thì cũng là một trong những sĩ quan thuộc hàng khai sơn phá thạch của đơn vị kỹ thuật ở đây…

Thời gian ở thành phố biên trấn này chỉ hơn hai năm mà sao tràn đầy kỷ niệm. Có những lúc, cơm xấy đồ hộp ngày này qua tháng khác mà vẫn vui. Lãnh lương xong, chỉ một vài ngày là sạch nhẵn, thế mà tối nào cũng lang thang ở phố đến nửa đêm mới mò về phi trường. Ở đây, biết bao nhiêu đứa bạn, buổi sáng còn đùa giỡn chọc ghẹo nhau mà vài tiếng đống hồ sau thân xác đã thành sương khói cho những phi vụ không về. Ở đây có sáng mù sương, thấy đời mỏi mệt như chiếc xe dodge của biệt đội ì ạch leo lên đầu dốc. Dù rằng lúc ấy tôi chỉ vừa hai mươi tuổi…

Pleiku Tháng 9 2011 - Ảnh : Thiên Hương

Cảm giác đầu tiên của tôi khi đến Pleiku thật là lạ lùng.

Ngày đầu tiên khi tôi từ Nha Trang xuống phi trường Cù Hanh là một ngày mưa u ám. Phi cơ trực thăng khi bay qua Khánh Dương bị bắn và tôi hiểu chiến tranh đã đón chào tên lính trẻ làm thân lính thú đồn xa như thế. Mưa sủi bọt trên mặt nhựa phi đạo và bầu trời nặng nề u ám mầu mây đen. Gió ào ạt lồng lộng ngoài kia khiến cho tôi thấy mình quá nhỏ nhoi trong cái buồn mênh mang của đất trời. Lúc ấy, tôi thấy những câu thơ vẩn vơ trong óc. của Kim Tuấn, Vũ Hữu Định, Nguyễn Bắc Sơn,… Thơ tự nhiên thành một phần của một ngày, một tháng, một năm,… của riêng tôi. Thơ để quên đi hiện tại. Những giọt mưa quất vào mặt, buốt rát. Những ngọn gió thốc vào ngực.Nặng tê… Tự nhiên tôi thấy mình thật gần gũi thân thiết với những vần thơ biết là bao nhiêu. Có lúc, tôi nghĩ thi ca là một phần đời sống mình…

Thi sĩ làm thơ cho Pleiku thì rất đông đảo. Và thơ hay cũng nhiều lắm, mỗi bài có ý vị riêng, có phong thái riêng. Tôi bắt đầu với nhà thơ Vũ Hữu Đinh…

Nếu nói bài thơ “Còn Một Chút Gì Để Nhớ” của thi sĩ họ Vũ đã làm cho Pleiku trở thành một nơi chốn cực kỳ lãng mạn và thơ mộng của thi ca Việt Nam thì cũng chắng phải là ngoa ngôn, những câu thơ dễ thương của một vài con phố nhỏ heo hút của vùng cao nguyên, với hình tượng của “Em”, của thời tiết lạnh lạnh để má em thắm để môi em hồng. Có ai hỏi là những nhân dáng này có thật không trong đời sống của người làm thơ không thì nhà thơ họ Vũ đã trả lời rằng đó chỉ là hình tượng tổng hợp từ nhiều hình ảnh trong thực tế để tổng hợp thành một hình tượng tuyệt diệu của tưởng tượng, của hư cấu. Và trong cái không gian của một phố núi nhỏ nhoi, con người thi sĩ và cảnh vật cũng như thiên nhiên ở đây hình như thở chung một nhịp đập của trái tim tràn cảm xúc. Con phố hoang sơ lạnh lùng nhưng dường như có một tâm hồn mà người thơ cảm thông được, hiểu được từ nỗi cô đơn mà trời riêng dành cho người là thơ.

Bài thơ ấy gồm chỉ mười hai câu thơ thôi mà chuyên chở rất nhiều tình, ý. Thơ có thiên nhiên hòa hợp với con người. Thơ làm đời sống có nhiều chất thơ hơn để quên đi những ám ảnh của chiến tranh:

“Phố núi cao phố núi đầy sương
phố núi cây xanh trời thấp thật gần
anh khách lạ đi lên đi xuống
may mà có em đời còn dễ thương
phố núi cao phố núi trời gần
phố xá không xa nên phố tình thân
đi dăm phút đã về chốn cũ
một buổi chiều nao lòng bỗng bâng khuâng
em Pkeiku má đỏ môi hồng
ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông
nên mắt em ướt và tóc em ướt
da em mềm như mây chiều trong
xin cảm ơn thành phố có em
xin cảm ơn một mái tóc mềm
mai xa lắc trên đồn biên giới
còn một chút gì để nhớ để quên.”

Hình như về sau này, khi Cộng sản chiếm miền Nam, thì trong các tuyển tập thơ có trích đăng bài này. Bài thơ này hình như vượt qua được giới tuyến của chiến tranh để trở thành một tài sãn văn hóa của dân tộc…

Bài thơ này được trích đăng hoặc in trong nhiều tuyển tập thơ xuất bản ở trong nước, nhưng không phải là nguyên văn bài thơ. Thí dụ như hai câu thơ cuối thì nguyên bản là “mai xa lắc trên đồn biên giới / Còn một chút gì để nhớ để quên“ Thì sửa lại là “mai xa lắc trên đồi biên giới / Còn một chút gì để nhớ để quên“. Chỉ sửa có một chữ mà ý tưởng đã khác nhau nhiều!

Tôi không rõ Vũ Hữu Định viết bài thơ này trong thời gian nào nhưng theo nhà thơ Luân Hoán một người bạn thân cùng quê với anh đã tả chân dung nhà thơ ấy như sau:

”với chiều cao khoảng một thước sáu nhưng có bề ngang, cộng với dáng đi chữ bát, cộng thêm lối an vận lè phè nhà thơ Vũ Hữu Định trông gần như hơi thấp. Anh không có khuôn mặt đẹp trai nhưng nhìn rất bắt mắt. Nụ cười xuề xòa luôn luôn đi trước giọng nói dí dỏm bộc trực đã thắp sáng khuôn mặt ngả màu nâu sậm của anh thơ miền Trung ra đời vào thập niên 40 này. Năm 1970 năm tôi không may mắn phải giã từ rừng núi và phố chợ Quảng Ngãi để trở về Đà Nẵng tôi đã gặp và quen thân với Vũ Hữu Định. Lúc đó hình như anh đang mặc áo cán bộ xây dựng nông thôn. Địa bàn công tác của anh lòng vòng ven rìa thành phố Đà Nẵng như Thanh Khê, Hà Khê, An Hải, Sôn Trà,.. Anh chợt đi, chợt về. Đặc biệt anh lúc nào cũng có vẻ thong dong giàu có thời giờ phất phơ phố xá. Anh làm thơ nhiều trong giai đoạn này. Thơ của anh hầu hết được đăng trên các tạp chí văn chương tại thủ đô Sài Gòn. Vũ Hữu Định có đời sống vật chất không mấy khả quan, quen biết nhau khá lâu nhưng anh từ chối không thuận cho tôi đến nhà chơi. Cũng không hề đề cập đến gia đình của anh. Biết anh có vô có con nhưng mãi về sau này tôi mới tình cờ được gặp trong một hoàn cảnh thật buồn!

Ông mất năm 1981 ở Đà Nẵng và có nhiều dư luận về cái chết của ông. Như ông đến nhà một người bạn văn chơi ở An Hải và vì nhậu qúa say trong lúc tìm chỗ đi tiểu thì bị té từ căn gác lửng xuống và chết. Một dư luận khác thì nói rằng trong cuộc nhậu ấy, ông bị một vài người cố tình từ trên gác xô xuống và bị ngã chết. Những người bạn ông thì nửa tin nửa ngờ và cũng hiểu rằng ỏ thời thế ấy thì chết vì bị cố tình mưu hại hay vì say mà té ngã cũng đều như thế, chính quyền không quan tâm và chỉ đau xót cho gia đình, bạn bè và những người yêu thơ ông …

Thi sĩ viết về Pleiku như thế thì rất nhiều nhưng tôi cũng muốn nói về một thi sĩ mà tôi rất mê thơ của ông. Đó là Nguyễn Bắc Sơn …

Nguyễn Bắc Sơn, một chứng nhân của cuộc chiến, làm thơ như một cách thế sống, đã coi công việc viết như một phần của đời người. Sống ở Pleiku và viết những bài thơ để gửi Pleiku. Thơ ông, có chút cảm khái ngậm ngùi của thời tao loạn nhưng cũng có những xúc động bềnh bồng của tâm tư lãng mạn hay đùa cợt với cuộc đời. Thơ, phảng phất vóc dáng một chàng cuồng sĩ…

Đọc bài thơ “Hoa Quì Vàng Lạnh Pleiku”, tự nhiên tôi như người trở về thời gian ấy, không gian ấy. Trở về những ngày tuổi trẻ, của những giây phút bốc đồng coi mọi việc như cuộc đùa chơi. Cái lạnh, chưa hẳn là lạnh lẽo mùa đông, mà còn chứa đựng một chút nồng ấm nào đó của mùa hạ. Lạnh ở bên ngoài nhưng rần rần nóng hồi ở tim óc bên trong. Sương mù ban đêm trên đỉnh cao nhìn về phố buồn, tâm thức cũng ào ạt như sóng theo tầm nhìn vời vợi…
“Đứng trên núi thấy hàng đèn thị trấn
Là thấy mình buốt lạnh mấy nghìn năm
Vì đêm nay trời đất lạnh căm căm
Nên chợt nhớ chút lửa hồng bếp cũ
Nên phải nhớ mắt một người thiếu nữ
Đã nhìn mình rất ấm một ngày xưa
Dù mai sau ngày nắng tiếp ngày mưa
nhưng vĩnh cửu chút mơ màng thuở đó…”

Đọc bài thơ dài của Nguyễn Bắc Sơn tôi chỉ thấy có hai câu nói về mầu hoa quì vàng. Thế mà cái mầu sắc hoa man dã ấy chỉ một nét thoáng qua nhưng lại gợi nhiều dư âm. Mầu vàng, có khi là mầu vàng lạnh, nhưng có khi là mầu nóng chói chang của nắng:
“Phố núi kia ơi, một đời phố lạnh.
Lạnh hoa vàng, núi đỏ, thác đèo cao.”

Hoa quì vàng? Một loài hoa có lẽ chỉ có ở Pleiku. Hoa quì vàng, một loài hoa nhỏ, cây từa tựa giống như hoa cúc, tôi đã nhìn thấy miên man mầu vàng khi trên phi cơ nhìn xuống. Mầu vàng, mênh mang trên những ngọn đồi loang lổ mầu xám của đá và mầu đỏ của đất. Hoa quì, lẻ loi một cánh trên tay thú thực cũng chẳng hấp dẫn lắm nhưng nếu bạt ngàn dưới cánh phi cơ, rào rạt trong nắng trong gió sẽ trở thành một ấn tượng khó quên cho cảm xúc. Ơi hoa quì, mầu vàng không phải kiêu sa như mầu hoàng cúc của áo tôn nữ mà có sự gần gũi với tà áo vàng của dân dã, của thiên nhiên. Hèn chi, cũng có nhiều nhà thơ vấn vương với hoa quì vàng, như Nguyễn Xuân Thiệp, như Kim Tuấn,…?

Hoa Dã Quỳ - Pleiku -Ảnh Thiên Hương

Người thơ kể chuyện của mình, một câu chuyện có lẽ rất quen tai của những người lính thú. Cũng đi xuống, đi lên, cũng loay hoay bồn chồn như những chàng gà trống,..
“Đời lang bạt của một người lính thú
Sáng hôm qua tôi là người thiếp ngủ
Đi một mình lên xuống phố mù sương
Phố núi kia ơi, phố có con đường
Lên xuống dốc tìm không ra bạn hữu
Không có bạn tôi làm sao uống rượu
Tôi làm sao sống nổi một ngày đây
Phố núi kia ơi, kẻ lạ đông đầy
Nhìn gã lính không khác gì gã lính…”

Không có bạn tôi làm sao uống rượu. Tôi làm sao sống nổi một ngày đây. Nghe như một câu nói thường ngày, không có chất thơ mà sao nghe tràn đầy thi tứ. Chắc lúc ấy, sự cảm khái của người thơ đã lên cao độ, và, nỗi lạnh lùng thiên cổ như bám vào da vào thịt. Có nỗi nhớ mong, có niềm tiếc nuối. Người em, bây giờ lưu lạc ở đâu?
“… Tôi vận rủi làm một người lãng đãng
ngó mông hoài khuất bóng của người em
sáng hôm nay đời sống thật bình yên
sao phố lại đuổi đi người yểu điệu
vườn đá tảng bàn chân em huyền diệu
in gót hồng lên lớp bụi đời tôi
là từ khi tôi hạnh phúc rong chơi
và quên lãng con thú mù phẫn nộ
Ôi phố núi đêm nay là cổ mộ
Một hàng đèn sáng lạnh cõi bi hoang…”

Nguyễn Bắc Sơn làm thơ với tâm trạng u uất của thời đại trong một cuộc chiến kéo dài suốt gần hai chục năm. Ông có người cha là một cán bộ quân sự cao cấp của Cộng sản nên trong thời kỳ ông đi lính VNCH cũng bị ảnh hưởng. Cơ quan An Ninh Quân Đội bắt ông thuyên chuyển đơn vị và theo dõi. Sau đó ông đào ngũ và bị bắt lính lại và phục vụ tại một đơn vị địa phương quân ở Phan Thiết. Sau năm 1975, người cha trở về và là một viên chức cao cấp sau về hưu và bị chết một cách bất thường vì bị tai nạn giao thông. Có dư luận cho là bị mưu sát…

Đời sống của ông đã tạo cho thơ ông niềm đau xót của những người bị kẹt giữa hai giới tuyến. Thơ của ông hào sảng có nét chân thực thô nhám của đời lính trận có những câu như:

”Mai ta đụng trận may còn sống
Về ghé Sông Mao phá phách chơi
Chia sớt nỗi sầu cùng gái điếm
đốt tiền mua vội một ngày vui…”

Có người phê phán những bài thơ có chất phản đối chiến tranh của Nguyễn Bắc Sơn, nhưng họ phải công nhận ý thơ và tứ thơ mạnh mẽ của ông, một kỹ thuật làm thơ với ngôn ngữ tuy bình dị gần gũi đời thường nhưng đầy chất sáng tạo…

Có một nhà thơ nữ cũng nổi tiếng với một bài thơ được nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành nhạc khúc “Tưởng như còn người yêu”. Đó là nhà thơ Lê Thị Ý và bài thơ “Thương ca 1”.

Trả lời một câu phỏng vấn của Đinh Quang Anh Thái, tác gỉa Lê Thị Ý phát biểu :

“Lúc đó là năm 1970, tôi sống tại Pleiku. Thành phố nhỏ bé này vào giai đoạn chiến tranh khốc liệt chỉ thấy lính, vợ lính, xe tăng, xe jeep; hầu như không thấy gì khác nữa. Nhà tôi ở gần nhà xác của quân đội. Tôi chứng kiến cảnh biết bao các bà đi nhận xác chồng. Tôi thấy đàn bà con nít đến lật cái poncho quấn xác để nhìn rõ mặt người thân, cảnh đó khiến tôi đau đớn không chịu nổi. Rõ ràng nỗi đau của những người có chồng chết trận là nỗi đau của chính mình. Thành thật tôi vô cùng xúc động và chính tôi sống bằng hình ảnh những người vợ lính, vợ sĩ quan khóc bên xác chồng. Nỗi buồn đau đó là nỗi đau của mình.

Khi trả lời câu hỏi khi thơ phổ thành ca khúc thì có người chê là phản chiến, nhà thơ Lê Thị Ý nói :

”Khi tôi làm bài thơ tôi xúc cảm thế nào thì tôi viết ra như thế. Thế thôi. Tôi không nghĩ gì khác cả. Bài thơ được phổ biến cũng là một sự ngẫu nhiên. Một người bạn của anh Vương Đức Lệ tôi đến nhà chơi thấy bài thơ bèn đưa cho cụ Nguyện Đức Quỳnh người trụ trì sinh hoạt Đàm Trường Viễn Kiến ở nhà cụ ỏ Sài Gòn quy tụ rất nhiều văn nghệ sĩ, trí thức, nhà văn, nhà báo – Cụ Quỳnh đọc thấy hay bèn đưa cho ông Phạm Duy phổ nhạc. Cho nên bài thơ của tôi được mọi người thưởng thức hoặc cho là phản chiến thì cũng là việc tình cờ thôi chứ tôi không chú ý trước việc phổ biến bài thơ…

Bài thơ rất cảm động, nguyên văn là ;
“Ngày mai đi nhận xác chồng
say đi để thấy mình không là mình
say đi cho rõ người tình
cuồng si độ ấy hiển linh bây giờ
cao nguyên hoang lạnh ơ hờ
như môi thiếu phụ nhạt mờ dấu son
tình ta không thể vuông tròn
say đi mà tưởng như còn người yêu
phi cơ đáp xuống một chiều
khung mây bàng bạc mang nhiều xót xa
dài hơi hát khúc thương ca
thân côi khép kín trong tà áo đen
chao ơi thèm nụ hôn quen
đêm đêm hẹn sẽ chong đèn chờ nhau
chiếc quan tài phủ cờ màu
hằn lên ba vạch đỏ au phũ phàng
em không thấy được xác chàng
ai thêm lon giữa hai hàng nến chong?
Mùi hương cứ tưởng hơi chồng
Nghĩa trang mà ngỡ như phòng riêng ai”

Nếu hồi trước bản nhạc về phố núi của Phạm Duy phổ nhạc từ thơ Vũ Hữu Định thì về sau này những người yêu thương Pleiku cũng hay ngâm nga hoặc thích lắng nghe bản nhạc Phố Xưa của thi sĩ, nhạc sĩ Hoàng Khai Nhan. Bản nhạc với ca từ như “Chiều mờ trên phố cao / Đưa em về từ khi có nhau / những con đường từ khi có nhau / kết hoa ngày nào / chiều mờ sương thung lũng sâu / quán trong phi trường đèn đêm thắp sao...” đã thành một bài hát đáng yêu của những người lính trấn ải miền ba biên giới.

Bản nhạc thật hay và lãng mạn như trời đất của vùng biên trấn ấy. Nhạc sĩ Hoàng Khai Nhan còn là một thi sĩ và làm khá nhiều thơ về Pleiku.

Anh viết với cảm xúc của người lính, lên đường làm nhiệm vụ của người tuổi trẻ thời chiến tranh. Có một bài thơ anh làm để bắt đầu cho một cuộc lên đường, để làm người lính thú hôm nay. Thơ như chia sẻ với đồng đội của anh những nhiệt thành vào cuộc, với thân phận giống như bầy ngựa chiến đập móng đợi khởi sự vòng đua nhân sinh trong thời đại khói lửa mịt mù trên quê hương.

Đó là một bài lục bát, gửi tặng những người bạn chờ buổi lên đướng lên phố núi;
“một con ngựa đã lên đồi
hai con ngựa đứng bồi hồi ngó theo
ba con ngựa sải qua đèo
bốn con ngựa hí buồn thiu trong tàu
Năm con ngựa nối đuôi nhau
Sáu con ngựa đợi hôm sau lên đường.”

Những cuộc lên đường của những người lính trẻ. Bắt đầu một cuộc đua của những con tuấn mã chạy vòng trong cuộc chiến tranh. Hoàng Khai Nhan đã ví von ông và những đồng đội cùng mặc áo lính thú khởi sự hiểu được những bất toàn của cuộc đời nhưng hùng khí lúc nào cũng hừng hực như thuở đợi lúc lên đường.

Bây giờ là mùa thu nhưng nghe bản nhạc Anh Cho Em Mùa xuân của nhạc sĩ Nguyễn Hiền phổ từ thơ Kim Tuấn thì thấy trời đất vẫn dễ thương vô cùng. Thi sĩ Kim Tuấn cũng là người làm thơ về Pleiku độc đáo và trước năm 1975 đã có một thời cư ngụ lâu dài ở Pleiku. Với Pleiku, anh là một người cố cựu và đã sống đã thở với phố núi này với tâm tình của một người chọn lựa một quê hương thứ hai. Với riêng tôi thì thơ của ông có nhiều nét rất gần gũi với cuộc sống mình cũng đã một thời ở đó.

Chúng ta hãy thử đọc bài thơ “Buổi chiều ở Pleiku“ :

“Buổi chiều ở Pleiku có cà phê và có bạn hiền
Có biển hồ nước trong, có lúc buồn soi mặt
Ôi mặt mình sao bỗng gớm ghê
Ôi đời mình sao nhìn muốn khóc
Ta với ta xa lạ vô cùng
Buổi chiếu ở Pleiku có gì lạ đâu hở em
Có nỗi cô đơn trong cõi sương mù
Có phố buồn hiu có đêm giấu mặt
Có giấc sầu dài trong cõi thiên thu
Có bức tường vôi ghi dấu đạn thù
Có cuộc đời ta chìm trong khói lửa
Kiếp người sao đã lãng du
Buổi chiều ở Pleiku
Buổi chiều nghe mưa bay trên đầu ngọn núi
Buổi chiều như mọi buổi chiều
Tiếng phi cơ, tiếng xe và tiếng súng
Anh còn tiếng nào để nói yêu em.”

Những buổi chiều ở Pleiku,với “tiềng phi cơ, tiếng xe và tiếng súng”, đúng là tình cảnh chúng tôi nhưng khác với thi sĩ là chúng tôi vẫn còn nhiều lời yêu em chứ không phải ”anh còn tiếng nào để nói yêu em”.

Kim Tuấn làm thơ về Pleiku với nhiều nỗi niềm trăn trở quá. Nhưng thơ của “Nụ hoa Vàng Cho Em” phổ nhạc thành “Anh cho em mùa xuân“ hay “Kỷ Niệm” phổ thành “Những bước chân âm thầm” lại có nhiều yêu đương tình tự và lãng mạn của những người cảm thông được với thiên nhiên với thời tiết những vẻ đẹp của đất trời.

Thơ của ông cũng có nhiều bài rất lãng mạn thơ mộng chứ không phải chỉ có trăn trở suy tư. Có khi là thơ của tuổi học trò, của tuổi mười bảy mười tám mộng mơ…

Như bài “Ngày Em Còn Thắt Bím” chẳng hạn:
“tóc bím nghĩa là tóc dễ thương
tóc bâng khuâng lá rụng bên đường
tóc chia đường gió chia thương nhớ
chia nỗi buồn cho ai vấn vương
Tóc bím nghĩa là tóc mộng mơ
Để ai thương nhớ để ai chờ
Để ai ngơ ngẩn giờ tan học
Em vẫn vô tình vẫn giả lơ
Tóc bím nghĩa là tóc ngẩn ngơ
Tình ta xanh biếc mộng ơ hờ
Chiều xanh áo trắng mùa mây trắng
Em ngọt ngào và em ngây thơ.”

Có rất nhiều thi sĩ viết về Pleiku với tâm trạng của những người tham dự một cuộc chiến tranh mà ở đó sự sống chết nhục vinh gần cận nhau đến gần như không biên giới. Những người lính trước khi hành quân còn vui tươi chọc ghẹo nhau nhưng biết đâu chỉ trong giây phút đã thành những người đã rời xa cuộc sống. Hay, thành phố Pleiku này đầy kỷ niệm dễ thương cũng có lúc trở thành địa ngục mà ở đó những người dân và những người lính cuống cuồng trong vòng lửa hun của tàn phá chiến tranh của những ngày tháng ba chẳng thể nào quên của cuộc di tản đẫm máu về phía duyên hải qua con đường số 7 la liệt xác người…

Chiến tranh lại rõ nét hơn với nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp. Bài “Pleiku, tháng ba 1975”. Ba mươi năm trôi qua, nhưng ngày tháng đó vẫn còn sinh động. Thơ, không ghi chép lại nhật ký ngày tháng mà sao đầy dấu viết của một quãng đời. Ngày ấy, lửa cháy đỏ. Ngày ấy, là ngày thành phố cao nguyên quặn mình rồi gục ngã.

Người thi sĩ kể chuyện một mình. Đâu cần ai hiểu, chỉ để nỗi niềm loang vào sương đêm thành nỗi nhớ mịt mùng.
“cầm bút viết, tháng ba rực cháy
hàng dầu cao trong bình minh
cơn sốt của trái chín và cánh đồng
trận gió hung trưa ngày ấy
cầm bút viết, đồi hoa quỳ vàng
tháng ba xuống khu rừng. Bóng quạ
rung những nhánh cây màu tàn lửa
tiếng thét hư không. Chiều rượt qua ngàn…”

Tháng 3 năm 1975, có phải là thời điểm mà cao nguyên di tản và là một nỗi kinh hoàng còn ám ảnh mãi đến bây giờ. Nhà thơ hình như đã mang cả tâm tình của một người yêu Peiku vào thơ qua những hình ảnh thật là đặc biệt.

Những hình ảnh đan vào nhau với những liên tưởng tiếp nối. Ảnh tượng có khi như không liên quan nhau, chỉ là những nét phác sơ lược nhưng lại làm nổi bật được một không gian đầy biến động. Đồi hoa quỳ vàng, khu rừng, bóng quạ, nhánh cây màu tàn lửa, tất cả như chìm đắm trong nỗi bàng hoàng của thế thời. Cơn bão lửa dậy lên từ hoang vu :
“tháng ba, chân trời chớp tía
Những chuyến xe lên đường, cơn mưa chợt đến
Rào qua mái nhà, bàng hoàng. Mưa ngưng bặt
Đêm. Những căn nhà gỗ sáng đèn.
Tháng ba. Trên đồi vông nở
Tôi trở về thị trấn tháng ba
Những sợi dây trời cắt đau trí nhớ
Cườm tay em nhỏ máu hè xưa…”

Thơ như của lời chia biệt, như người đánh mất tất cả. Pleiku cũng như cả nước phải khoác khăn tang. Nhà Thơ Nguyễn Xuân Thiệp như đã viết lời trăn trối của một thành phố miền cao đầy lãng mạn dễ thương. Xa rồi những ngày thơ mộng. Gần lắm rồi những nỗi kinh hoàng. Cái linh cảm của một cuộc địa chấn là cái linh cảm chung của những người như những con chuột đang cuống cuồng trong rọ. Thị trấn sẽ thành biển lửa, nay mai. Sẽ đầy những cuộc chia ly đầy nước mát. Thảm họa xụp xuống, như cơn hồng thủy đến.
“… vò nát chiếc khăn và đừng khóc
chiều nay. Chớp bể mưa nguồn
chia tay nhau. Sương phụ
người đi râu bám bụi đường
tháng ba. Em. Những căn nhà gỗ
ánh đèn khuya. Vệt máu hè xưa
đừng tiếc chiếc khăn tay ngày ấy
sẽ bay trong lửa hoàng hôn
tháng ba. Cơn giông rền mặt đất.”

Đọc xong hai bài thơ, tôi như ngươì hụt hơi. Đời sống, như một hơi khói nhẹ, loãng bay vào hư không. Tự nhiên, thấy lòng mình chùng xuống những kỷ niệm. Những bài thơ. Thuở đã xa. Ngày còn trẻ. Và hoa quì vàng, cái màu vàng loang sắc nắng của buổi nào, bây giờ có còn vương trên núi đồi không? Cái sắc màu hỏa hoàng trong những buổi chiều nhạt nắng ấy sao nhức nhối ký ức…

Lại chiến tranh, và lại chiến tranh. Nhiều tác giả viết về Pleiku khói lửa với tâm cảm của người trong cuộc, của những người đã đổ mồ hôi và đổ máu cho đất tây nguyên. Có một nhà thơ đã viết những câu thơ để đời như:
“Chư Pao ai oán hờn trong gió
Mỗi một khăn tang một tấc đường”

.
Chư pao là một đỉnh núi khống chế con đường tiếp vận quốc lộ 14 từ Pleiku đi Kontum và chính nơi đây cả ngàn tử sĩ của hai bên đã nằm xuống trong những trận chiến ác liệt thời mùa hè đỏ lửa. Người thi sĩ ấy là Lâm Hảo Dũng, một pháo thủ đã có một thời gian chiến đấu ở tây nguyên. Ông làm thơ về tuổi thanh xuân chiến tranh của mình với những địa danh mà ông không thể nào quên trong trí nhớ…

Trong những tập thơ của Lâm Hảo Dũng có nhiều bài thơ ông đã viết về vùng tây nguyên như ”Ngày về Ban Het”, ”Miền Ba Biên giới”, ”Ba năm làm lính về Dakto”… Có một bài thơ mà tôi thích là bài “Chiều Hàm Rồng”. Hàm Rồng là một ngọn búi mà bất cứ ai đã sống ở Pleiku đều biết vì cái hình dạng độc đáo gợi cảm nhớ đến hình dạng của người thiếu nữ. Nhất là các chàng phi công, khi bay từ phía Ban mê Thuật về Pleiku mà nhìn thấy núi Hàm Rồng thì biết là đã gần đến phi trường Cù Hanh rồi. Cái hình dạng giống cái mu rùa ấy sao gợi hình lạ.

Lại những buổi chiều. Hình như cái thời khắc của cuối ngày ấy thường gợi trong lòng những người lính xa nhà những cảm giác bâng khuâng khó quên. Bài thơ ấy chỉ có 3 đoạn mười hai câu:
”con đường ấy vẫn hoen mầu bụi đỏ
Gió lơ thơ nghe nắng mới ngập ngừng
Anh sống thở trong tâm hồn trai trẻ
Nghe nỗi buồn đâu đó đến bâng khuâng
Hoa cúc dại thắm trên đường xa tắp
Và quê hương tha thướt lá xanh trà
Em có thả những chòm mây nhung nhớ
Cho rừng hoang im lắng tiếng chim ca
Đời viễn khách mơ hồ không biết được
Bước chân vang rộn rã buổi quay về
Em mắt biếc hồn nhiên bên cánh cửa
Gửi hương nồng quay quắt bóng người đi.”

Thơ Lâm Hảo Dũng đầy cảm khái. Nhưng hình như ở bên trong người lính vẫn còn hình bóng của cậu học trò mắt biếc với môi tươi…

Thơ ông lãng mạn nhưng vẫn lạc quan:
”nên ta cố sống dù câm điếc
Dù có xuôi tay mắt có mù
Để thấy em ngày vui áo biếc
Để ta buồn suốt một đời thu
Lắm khi gái thượng mà duyên dáng
Đi tắm hò reo đêm sáng trăng
Ta muốn buông mình con thú dữ
Bắt đầu trong suốt kiếp cô đơn
Có không ngày của thanh bình đến
Ta nhớ vườn xưa nhớ mẹ già
Còn hái mồng tơi ngoài dậu cũ
Lệ buồn năm tháng có phôi pha?”

Các nhà thơ Không quân ở Pleiku cũng có nhiều bài thơ độc đáo. Nói về thơ từ Pleiku mà không có những bài thơ này là một điều thiếu sót lớn theo cảm nhận của nhiều người. Nếu gọi tên những thi sĩ KQ thì không thể nhắc đến những tên tuổi như Lê Bá Định, như Hoàng Khai Nhan, như Lê Văn Trước, Võ Ý.

Ông Võ Ý là một phi công, phi đoàn trưởng phi đoàn quan sát 118 Bắc Đẩu. Ông cũng là người đã tình nguyện lên phố núi ”nhận nơi này làm quê hương dẫu cho khó thương” và làm thơ với cả tấm lòng của mình, một người bay ở trên cao để thấy thiên nhiên tươi đẹp biết bao, để thấy cuộc sống vẫn còn nét mơ mộng hào hoa và với ông những nơi chốn những địa danh của phố núi như ngập tràn nỗi nhớ…

Thơ của những người lướt gió đè mây có lúc lãng mạn hào hùng nhưng cũng có lúc thiết tha nhẹ nhàng của những tháng ngày đầy kỷ niệm như bài thơ “Xưa Trên Đó”
“Xưa trên đó sương nhòa hơi thở đượm
dốc cũng vừa ta bước xuống cô đơn
mê cho lắm cho tay dài với mộng
mặt trời lên chiếu rạng tới ưu phiền
mưa thì sình bụi mù thay nắng gió
gặp là vui cam khổ cũng cam đành
vui cho quên đâu bằng xưa trên đó
áo bay bay mờ ảo dấu Phượng Hoàng
quên được thì quên nhớ ai thì nhớ
quên cho rồi quyên gọi quốc từ đây
nhớ đâu đâu lạ lùng trăng đêm đó
tượng đá thần linh sao ta tỉnh say.
Một dạo bay qua nhìn qua trên đó
Đồi như vương cây như vấn chân nàng
Phố cũng xưa và tim thì đau nhói
Quạt nồng đâu qua đó để cơ hàn…”

Có người đọc câu “áo ai bay mờ ảo dấu Phượng Hoàng“ tưởng là chàng phi công nghĩ đến cánh chim thần truyền kỳ nào đó. Nhưng thực tế thì không phải. Phượng Hoàng chỉ là một khiên vũ trường của Pleiku mà các tay chơi mặc quần áo lính “đốt tiền mua vội một ngày vui”…

Với tôi thì một phần đời sống của mình ở đó mà không làm thơ cho được. Ngày lên Pleiku, có một bài thơ tôi đã làm như tiên đoán được cái không gian của biên tái, của những câu thơ như Lương Châu Từ của Vương Hạn thời Thịnh Đường xa xưa. Pleiku có khác nào Lương Châu, cũng là quan ải để trấn giữ biên cương. Ngày xưa thì ngăn giặc Hồ, giặc Mông. Ngày nay, thì canh chừng ba biên giới, với những trận đánh ác liệt mùa khô hàng năm tiếp diễn… Bài thơ ấy, làm vào một đêm trước khi sáng mai lên trực thăng vào phố núi:
“Ừ mai tao lên Pleiku
đêm căm hơi đá ngày mù núi xanh
uống say quên mộng quẩn quanh
về nơi gió cát cũng đành cuộc chơi
Ừ mai cánh vỗ ngang trời
ngóng thiên thu một cõi đời tịnh yên
máu xương mãi chuyện ưu phiền
còn đâu tiếng gọi cho em miệt mài
Ừ mai súng khoác lên vai
Ngẩn ngơ phố núi những ngày đao binh
Chắc đâu rượu uống một mình
Trong thân phiêu bạc nhục vinh nửa vời
Ừ mai thương bóng trăng trôi
Chim quên vẫy mỏi cuối trời chiến tranh
Uống đi mai hát quân hành
Nghe trong hơi bốc long lanh mắt người…”

Tuổi trẻ, ngây thơ và bốc đồng. Tưởng rằng, mình như một hiệp sĩ thời xưa đi vào nơi gió cát. Thơ cũng nghênh ngang kiểu “túy ngọa sa trường quân mạc tiếu, cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Tuổi trẻ, ơi những giấc mơ của ngày chân không chấm đất cật chẳng đến giời. Có phải là giấc mơ chung của những người lính trẻ chúng tôi…

Nguyễn Mạnh Trinh