Thursday, February 6, 2025

Thiếu Sinh Quân - QLVNCH


Tết Ất Tỵ ngày 1 tháng 2 /2025

NHỮNG HOA MỘNG CỦA MỘT THỜI ĐƯỢC NHÌN THẤY LẠI NƠI QUÊ NGƯỜI

( Viết cho HẬU DUỆ THIẾU SINH QUÂN QLVNCH)

Một trang đời đã lật qua,một bến bờ bỏ lại,nơi bỏ lại đó khắc ghi sâu đậm vào lòng người viễn xứ những kỷ niệm vàng son vĩnh viễn không nhạt phai.

50 năm,nưả thế kỷ của một đời người mà sao như mới hôm qua ,như tuần trước . Sự hụt hẫng mất mát tưởng chừng không thể nào có đươc nhưng đã thật sự xãy ra cho những con người đã sống,đã gầy dựng, phát triễn một nền văn hoá, văn học hoàn hảo nếu không muốn nói đền tuyệt vời của miền nam Việt Nam trong suớt thời gian dài mãi cho đến ngày bị BỨC TỬ vào 30 tháng 4,1975 . Một miền Nam Viêt Nam từng được thế giới xưng tụng là hòn ngọc viễn đông mà lá cờ Vàng là biểu tượng đã bị cộng quân xoá bỏ nhưng khí hùng bất tử cho nên lá cờ Vàng vẫn mãi tung bay đến giờ

Qua bao gian nan,khổ nhọc, những người liều chết bỏ quê hương ra đi chỉ bởi không thể đội trời chung với quân cướp Việt Nam đến từ sau vĩTiyến 17 dưới sự tiếp tay của Tàu Cộng và Cộng đãng Nga Sô đãnh cướp lấy miền Nam Việt Nam .Cho dù thất trận nhưnh hình ảnh quả cãm của các quân 
nhân quân của các quân binh chủng QLVNCH vẫn được sử sách ghi dấu và ghi công. Sự tuẫn tiết theo vân nước của các vị tướng lãnh,của các sĩ quan cũng như binh sĩ ,những người cầm súng gìn giũ cho miền Nam Việt Nam được gọi chung trong tiếng gọi thân thương là LÍNH  mà mọi người ngợi ca về sự hy sinh lòng nhiệt huyết cũng như dũng cảm đươc ghi lại trên từng nhạc khúc vàng của một thời liệt oanh khong mờ phai.

Tết năm nay 2025 trong ngày DIỄN HÀNH trên đại lộ BOLSA. Đồng hương VN tị nạn của chúng ta bắt gặp lại được một hình ảnh của nhửng người LÍNH NHỎ trong quân Phục. Họ là ai, Đó chính là con, là cháu của các cựu chiến binh QLVNCH đã được cha mẹ Ông Bà  của các em ,các cháu hướng dẫn để biết quay đầu về dân tộc Việt nam uống cụm nước đầu nguồn với giòng sữa mẹ và câu ca dao mà nhân,nghĩa,lễ,trí tín đứng đầu. Các em đã hãnh diện khoát
lên người bộ quân phục của THIẾU SINH QUÂN QLVNCH , Nơi đã đào tạo tạo ra những sĩ quan,hạ sĩ quan và binh sĩ ưu tú của quân lực VNCH.

Nơi có ngôi trướng thâu nhận các con em sống trọn cuộc đời cho binh nghiệp tuổi từ 12 cho đến khi xong trung học ở tuồi 17 hay 18 .Khi tốt nghiệp sẽ được thyên chuyễn đến các đơn vị khác nhau trong nhiếu quân binh chũng. và một điều quan trọng hơn cả là vào ngày cuối của tháng tư 1975 khi cộng
quân đã tiến chiếm các cứ điểm và phố thị của miền nam đã bỏ ngỏ thì các Thiếu Sinh Quân, những người Lính trẻ vẫn kiên trì khoá kín cỗng trường chiến đấu cho đến ngày hôm sau 30 tháng 4 /1975. Những ngưới Lính năm xưa đó chỉ ở vào tuổi từ 12 đến 14 hoặc 15 cũng đã thể hiện lòng quả cãm, gương anh hùng.

Trong muôn vạn sắc hoa và màu áo, đồng hương và những người đi xem Diễn hành đã không khỏi ngạc nhiên khi được mục kíck hình ảnh của gần 50 em với quân phục Đại lễ của trường Thiếu sinh quân QLVNCH. Những tràng pháo tay, những lời khen ngợi nồng nhiệt của qúi đồng hương trong lần gặp mặt hôm diễn hành Tét Ất Tỵ nầy là một niềm khích lệ lớn lao cho tất cả phụ huynh đã cho phép con em mình tham dự để khoát lên mình bộ quân phục của THIẾU SINH QUÂN QLVNCH, và cũng chính là niềm khích lệ vô biên cho người Lình Thiếu sinh quân năm xưa ở tuổi 14 đã ở lại trường chiến đấu chống cộng quân cho đến những giây phút cuối cùng  Cũng chính anh đã bỏ công sức, tiền bạc cũng như thời gian để kết nối, sữa soạn giao tiếp anh chị em bằng hữu để đưa đến sự hình thành nây.Ngưới đó không ai khác hơn là TSQ Phan Thanh Liêm, nhân đây cựu TSQ Phan T.Liêm cũng không quên nhắc đến sự hổ trợ và tiếp tay của AT Nhiệm của AT Nam của niên trưởng Biệt Kích Ngô Văn Quy đã tận lòng hộ trợ cho việc hình thành đòan Hậu Duệ TSQ trong lần diễn hành lầ này.

Khi được hỏi về ý do khiến anh thành lập hội Hậu duệ TSQ /QLVNCH thì Liêm cho biết trong tất cả cãm xúc bồi hồi. " Bởi nhận thấy sự đào thải của thời gian, bởi nhận thấy tinh thân gìn giũ màu cờ sắc áo của QLVNCH bị phôi phai bởi lòng người và bởi còn thương màu áo và lá cờ vàng cho nên tôi không ngại khó khăn Tôi vẫn muốn thế hệ tiếp nối hiểu và gìn giữ nó khi lớp người đi trước đã không còn nưã    

Năm nay chúng ta phải nhìn nhân rằng nhờ có thêm đưọc hình ảnh của các em nhỏ trong quân phục Đaị lễ của  TSQ QLVNCH mà diễn hành trông đẹp mắt và vui hơn .Chỉ tiếc là ban tổ chức không nhìn thấy cái hay, cái đẹp để cho các em đi vào cuối cùng của cuộc diễn hành .. 
 
 








Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu – Trận đánh cuối cùng 30/4/1975

Hãy xem đây như bài tường thuật rất THẬT mà tôi đang hồi tưởng về những ngày hỗn loạn của Tháng Tư đen tối tại Trường Thiếu Sinh Quân-Vũng Tàu (TSQ_VT). Vì không thể tránh khỏi những định kiến và chủ quan của mỗi cá nhân TSQ (trong nhóm Tự Chỉ Huy), hơn nữa chính lúc đó chúng tôi phải tiếp cận nhiều hoàn cảnh nguy cấp khác nhau trong chiến đấu, nên sự nhầm lẫn có thể có (dù ít) là điều tất yếu. Vậy rất mong mọi người thông cảm chỉ giáo hoặc có thể phản biện lại nội dung bài nầy theo địa chỉ của tác giả. Xin cảm tạ!

Như chúng ta đã biết sau Hiệp Định Genève 1954, Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đã chia địa giới quân sự ở Miền Nam Việt Nam (MNVN) ra thành 4 vùng chiến thuật mà sau này gọi là 4 quân khu (QK) gồm:

QK I: Từ Nam sông Bến Hải thuộc Tỉnh Quảng Trị (còn gọi là địa đầu giới tuyến) đến Tỉnh Quảng Ngãi.
QK II: Từ Quy Nhơn đến Phan Thiết + hai Tỉnh cao nguyên trung phần là Pleiku và Buôn Ma Thuột.
QK III: Cao nguyên Nam phần + các Tỉnh phía Nam Phan Thiết đến Bắc Cần Thơ và Quân Khu thủ đô Sài Gòn (SG)
QK IV: Từ Cần Thơ đến Cà Mau + đảo Phú Quốc (là điểm tận cùng Tổ Quốc VNCH)

Đặc khu Vũng Tàu là Thị Xã của Tỉnh Phước Tuy (cũ), thuộc vùng III duyên hải, cách SG 105Km về hướng Đông.
Trở về thời gian trước, khi Cộng Sản Bắc Việt vi phạm Hiệp Định Paris 1973, đưa quân đội và khí tài ào ạt vào MNVN cưỡng chiếm nhiều vùng miền, và đến những ngày đầu tháng 4/1975 thì Vùng I & Vùng II Chiến Thuật lần lượt rơi vào tay Cộng quân, từ đó làn sóng tị nạn Cộng Sản (CS) bằng nhiều cách và nhiều phương tiện đã tháo chạy vào miền Nam định cư (đặc biệt đường thủy) mà điểm đến đầu tiên là mảnh đất Vũng Tàu.

Trước năm 1975 muốn vào Vũng Tàu, chỉ có đường lớn (độc đạo) và thuận tiện nhất là từ Ngả Tư Giếng Nước chạy trực diện đến trước cổng trường TSQ (Quốc lộ 15), rẻ trái rồi vào trung tâm Thị Xã (và cũng chính tại vị trí chiến lược nầy, mà cuộc ác chiến đã nổ ra vào sáng 30/4/1975 giữa TSQ và Cộng quân Bắc Việt là điều không thể tránh khỏi).

Vũng Tàu là một trong những thành phố an ninh bậc nhất của MNVN lúc bấy giờ, nên có nhiều hậu cứ Quân Binh Chủng, trung tâm huấn luyện, quân trường … trú đóng trải rộng khắp Thị Xã Vũng Tàu (TXVT) và vùng ven Bà Rịa (BR). Trường TSQ cũng không ngoại lệ, nhưng đặc thù hơn vì có hạ tầng xây dựng kiên cố, to lớn (do người Pháp xây dựng vào những năm đầu Thế kỷ XX) mà lại nằm tại điểm chiến lược như sẽ nói …

Mặt trước là thị xã Vũng Tàu + Bến Đình (BĐ), mặt sau trường được tựa lưng vào Núi Lớn như một bức tường vững chải (một bức tường mà chỉ vài ngày sau, đã giúp TSQ chúng tôi chống trả với Cộng quân cách ngoan cường … vì lẽ không còn đường lui nữa!)

Lúc nầy mọi xáo trộn ở Trường TSQ là không lớn, nhưng tình hình ngày một bất ổn hơn. Càng gần đến ngày 30/4/1975 tôi lại có trực giác chính quyền tại TXVT đang mất dần khả năng kiểm soát và trị an.

Mặc dù thế, toàn Liên Đoàn (LĐ) TSQ vẫn sinh hoạt bình thường hay nói đúng hơn là rất quân kỷ, nghĩa là chúng tôi phải tập họp đi học mỗi sáng, tự học về đêm tại khu Văn Hóa rồi học võ thuật mỗi buổi chiều, và tập luyện quân sự sáng Thứ Năm theo lịch định.

Mọi thứ không gì thay đổi cho đến ngày 28/4/1975 … Vì chúng tôi là những TSQ lớn và uy tín, lại thâm niên nhất, như là “niên trưởng” của cả Liên Đoàn khóa sinh vậy! (mặc dù danh xưng nầy chúng tôi không dùng đến) Được lệnh từ Thiếu tá Liên Đoàn Trưởng (LĐT) Nguyễn Hồng Hoàng đặc cách 10 người trong chúng tôi nhận 10 khẩu carbine M1 để tự vệ và chỉ huy khi cần thiết … tôi liền nghĩ “bắt đầu sẽ có thay đổi lớn và nguy cấp đây !”.

Không ngoài dự đoán, sau bữa cơm chiều Trung tá Ngô văn Dzoanh (quyền Chỉ Huy Trưởng thay Đại Tá Hồ Nhật Quang đã vắng mặt) an ủi toàn thể TSQ và hứa sẽ có kế hoạch di tản tất cả trong những ngày sắp tới.

Vào buổi sáng ngày 29/4/1975, tình hình trở nên tồi tệ hơn, quân số cán bộ cơ hữu và sỉ số TSQ giảm đi rõ rệt. Vì phần TSQ cư trú tại Vùng III & Vùng IV Chiến Thuật được đặc cách cho về với gia đình (> 800 khóa sinh). Lúc nầy chỉ còn tại Trường những TSQ ở Vùng I & Vùng II + một ít TSQ thuộc miền Nam chưa về kịp. Tổng số TSQ lúc nầy vào khoảng 600 (TSQ có quân số > 1400 người).

Đến 7h30 (29/4) chúng tôi nghe từ loa phóng thanh (ở Khu Giải Trí Liên Đoàn) do Thiếu tá Hoàng (LĐT) thông báo:
– Tất cả TSQ chuẩn bị tập họp, cuộc di tản bằng trực thăng đi Hạm Đội 7 sẽ bắt đầu, hành lý lên máy bay chỉ được 2kg/người và tuyệt đối không mang theo Quân trang hay Quân dụng gì.

Sau khi nhận lệnh, chúng tôi khẩn cấp tập họp 4 Tiểu đoàn TSQ khắp bốn chung quanh sân banh (sân bóng đá) trước Kỳ Đài “NHÂN -TRÍ – DŨNG” (là bục xi-măng khá rộng, cao 0, 5m với 3 cột cờ và phù hiệu lớn “NHÂN -TRÍ – DŨNG” thật trang trọng). Ngoài 4 Tiểu đoàn (TĐ) TSQ được chia từ lớn đến nhỏ (gồm : TĐ I :Hùng Vương, TĐ II :Lê Lợi, TĐ III :Ngô Quyền, TĐ IV:Quang Trung ) còn thêm quân nhân cơ hữu của trường và gia đình họ, tổng cộng chừng 800 người.

Khoảng 8h00, một chiếc trực thăng UH1_A (vẫn còn màu sơn chữ ICCS, tức loại trực thăng trước đây vài năm, chuyên để phục vụ cho “phái đoàn quân sự 4 bên” đàm phán về Hiệp Định Paris) đáp xuống chở 07 TSQ nhỏ nhất thuộc TĐ IV:Quang Trung và gia đình một cán bộ chỉ huy + Chuẩn úy Hà Văn Cúc (an ninh quân đội) bay đi làm tiền trạm.

Lúc chiếc UH1_A bay lên là như có dấu hiệu cho 2 chiếc trực thăng vận tải cỡ lớn -mà chúng tôi thường gọi đùa là “sâu róm”- lượn vòng trên Núi Lớn (còn gọi là núi Tao Phùng) chuẩn bị đáp xuống … và bất ngờ quanh bãi đáp bị pháo kích dữ dội, rõ nét nhất là một trái rơi phía sau Trường, một trái nữa dội trúng sườn Núi Lớn, bụi mù tung tóe.

Lập tức, Đại úy Lê Viết Đắc TĐ trưởng (TĐI:Hùng Vương) ra lệnh tan hàng tìm nơi ẩn nấp … bên trên 2 chiếc “sau róm” không dám hạ độ cao, liền quay đầu và chuyển hướng mất dạng. Sau khi bị pháo kích, chúng tôi lại tập trung đội hình quanh sân banh, dù ít chỉnh tề hơn nhưng vẫn chờ đợi … gần đến 10h chúng tôi được lệnh mới:

– Kế hoạch không vận bị hủy bỏ, chuyển sang hải vận ở Hải cảng Cát Lở.

Cuộc không vận bất thành, trong tình thế hoang mang nầy, tất cả TSQ bỏ lại mọi thứ (ở tại Trường) và lên đường …
Thiếu tá Hoàng LĐT lệnh cho các TSQ có vũ khí như chúng tôi hướng dẫn tất cả 4 Tiểu đoàn di hành ra Hải cảng. Anh em TSQ di chuyển thành toán dài trật tự. Cát Lở cách Trường TSQ khoảng 5km (đây là căn cứ Hải Quân, nơi trú đóng của Bộ Tư Lệnh Hải Quân vùng III Duyên Hải).

Nhưng gần đến nơi thì đoàn quân bổng dừng lại … khoảng 15 phút sau chúng tôi được lệnh: “đàng sau … QUAY !” rồi đột ngột, tất cả lại trở về nơi xuất phát.

Từ Cát Lở, trên đường lui binh tôi được biết, các đơn vị của nhiều binh chủng (như đã nói), trang bị vũ khí, giành giật nhau bãi đổ của Chiến hạm … mà nổi bật là binh lính của TĐ 4: Kình Ngư TQLC (Thủy Quân Lục Chiến) quyết ngăn cản TSQ chúng tôi không cho vào đợi Tàu Hải Quân di tản. Và cuối cùng, cũng chẳng có đơn vị nào may mắn hơn vì không một Chiến hạm nào cập bến cả!

Đầu giờ chiều 29/4/1975, TSQ chúng tôi lầm lũi quay lại Trường trong thất vọng:

– Kế hoạch Hải vận nầy thất bại.

Trên đường quay về từ Cát Lở, TSQ chúng tôi thật ngỡ ngàng khi chứng kiến các phòng ngủ của từng Trung đội bị xới tung và trộm đi nhiều thứ … vài nơi ở TĐ IV: Quang Trung còn bùng ra nhiều đám cháy. Hậu quả do tất cả TSQ rời đi Cát Lở di tản, để lại ngôi Trường vô chủ trống vắng, nên kẻ trộm nhiều thành phần tràn vào “hôi của” là điều dễ hiểu.

Và không lâu sau đó, chiếc xe Jeep chở Trung tá Ngô Văn Dzoanh cùng nhiều quân nhân cơ hữu của Trường rút chạy ra khỏi cổng, đồng thời một cán bộ thay mặt ban chỉ huy tuyên bố:

– Từ bây giờ, chúng tôi (cán bộ cơ hữu Liên Đoàn) không còn trách nhiệm gì với TSQ nữa, các em phải tự lo lấy bản thân …

Thế là hết! Trong ngày 29/4/1975 nầy, TSQ chúng tôi phải chịu 3 dấu ấn não nề … sáng nay Không vận chẳng được, chiều đến Hải vận không xong và giờ đây trước mặt chúng tôi là sự rút chạy, đào ngũ của Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn … TSQ chúng tôi lúc nầy đang bị bỏ rơi! Tôi đang miên man suy nghĩ, bất chợt ý niệm “Sự Sống … Gạo… sắp lâm trận …“ làm tôi sực tỉnh và vùng lên lao vào nhà bàn, là nơi có kho gạo của Trường. Với khẩu M1 trên tay dĩ nhiên đủ thị uy bọn trộm cướp … nhưng hỡi ôi! Chậm mất rồi, chẳng còn gì ngoài 01 bao gạo 50kg, tôi đành chuyển cho các em đem đi “thổi cơm” … và chia nhau vì trời sắp tối.

Cũng nên nói thêm, gạo thì vừa có dù không đủ nhưng thức ăn thì sao? Tôi tự hỏi và nghĩ đến đàn bò, là tài sản “nổi” của Trường được nuôi trên dưới 10 con (nhằm hằng năm phục vụ cho liên hoan mừng lễ mãn khóa TSQ cũ và khai giảng, tuyên thệ cho TSQ mới), nên tôi lại bổ nhào xuống chuồng bò gần ban Quân xa kiểm tra … chuồng trống không ! Lại mất trộm tất cả, chỉ còn lại con bò đực to lớn, hung dữ (có lẽ vì thế nên chưa bị bắt mất) không lâu sau tôi bắt gặp nó đang lang thang giữa sân Tenis và lầu Chỉ Huy … “vậy là các em TSQ có thức ăn đêm nay rồi!” … tôi nghĩ thế và liền bắn hạ.

Cũng đã hơn 17h (29/4/1975). Về phần mình lúc nầy tôi không thấy đói, có lẽ vì cũng chẳng có gì để ăn … uống vài ngụm nước ở nhà bàn, tôi vội lên Liên Đoàn tìm chọn một số TSQ nhỏ nhất (vì các em nầy không thể tác chiến, ngược lại có thể thương vong hoặc vướng bận khi lâm trận). Tôi đưa các em theo ngả tường rào Nhà Thờ ở Khu Văn Hóa ra đến TXVT, gửi gắm cho những nhà quen biết trước đây.

Tôi vòng quanh ở TXVT không lâu, và chứng khiến toàn cảnh thật hãi hùng … Vì Bãi Trước Vũng Tàu không có cầu cảng nên tàu chở người tị nạn CS ở miền Trung vào phải bỏ neo khá xa bờ, chờ đợi chuyển tiếp lên đất liền … họ lại bệnh tật, đói khát khi lên đênh trên biển vào Nam, rồi chết và bị ném xuống biển … những đợt sóng cứ vô tình lùa đưa xác người bồng bền vào ghềnh đá (dưới chân bên nầy hòn Núi Lớn mà bên kia là Trường TSQ), nhiều lắm !Lúc nầy hoàng hôn xuống dần và tôi cố nhìn mà không thể phân biệt đâu là đá tảng và đâu là xác người.
Các đoàn thể dân sự bác ái, Hội Hồng Thập Tự, tất cả đều thiện nguyện luân phiên chở nước uống + thực phẩm và dùng “ca-nô” tiếp cận người tị nạn trên tàu, họ cứu trợ rồi chuyển người lên bờ vào Sân Vận Động (SVĐ) Lam Sơn (cách Bãi Trước không xa) để phân loại và làm thủ tục đưa đến Trung Tâm huấn luyện Vạn Kiếp cách TXVT 10Km (thuộc Rừng Sát_Chí Linh) tạm trú, hoặc khẩn cấp hơn thì được chuyển ngay vào Bệnh Viện (BV) Lê Lợi Vũng Tàu cấp cứu, điều trị (BV Lê Lợi và SVĐ Lam Sơn cách nhau chừng chục mét).

Trời sắp tối, lúc leo rào trở lại Trường, thình lình tôi nghe … “Đoành” … một phát súng chát chúa phát ra từ Kho Súng, chưa biết chuyện gì, tôi vội băng ngang Khu Văn Hóa đến Kho Súng ở Khu Liên Đoàn … thì ra TSQ Nguyễn Ngọc Loan là tác giả vụ nổ súng phá Kho nầy, và đang mở toang cửa để các TSQ ùa vào giành lấy vũ khí tự vệ cho riêng mình, trước mắt tôi cảnh tượng hiện ra thật khó tả … các em TSQ khẩn cấp chuyền tay nhau đủ loại súng lấy từ kho, nào là : Carbine M1 & M2, Garant, Thompson, AR15, XM16E1, Trung Liên BAR, Đại Liên30, M79 (phóng lựu), M72 (chống Tank), một vài loại Cối và một ít lựu đạn … tôi thật sự ngớ người một lúc trong tâm trạng vui vui khi thấy các em TSQ rất “hăng” và quá “DŨNG”, nhưng cũng chẳng kém phần lo lắng vì lúc này trời đã tối, mà mỗi em TSQ lại tự trang bị cho mình loại vũ khí mình thích thì thật nguy hiểm – thích không có nghĩa là biết vận hành – tôi liền nẩy ý định sẽ tập trung tất cả vũ khí lại, chia loại rồi phân phát hợp lý theo khả năng sử dụng cho từng TSQ, từ đó anh em TSQ mới phát huy tối đa hỏa lực mình có (dù điều nầy tôi chưa thực hiện được).

Các TSQ được lựa chọn đi hoặc ở nên giờ đây (cỡ 20h ngày 29/4/1975) quân số TSQ dưới 200 khóa sinh, không còn phân biệt lớn nhỏ, đang tụ lại từng nhóm, rút gọn về tập trung ở một số phòng ngủ của Trung đội thuộc TĐ II:Lê Lợi … ánh đèn vàng hắt ra không đủ sáng đến tận sân banh, tôi đi một vòng ngoài hành lang trong ánh sáng mờ tỏ nhìn vào từng Trung đội … một số TSQ lớn tự bằng lòng với loại vũ khí mình có và biết sử dụng, lại trầm ngâm chăm chú lau chùi để chuẩn bị cho trận đánh sắp tới. Còn các em TSQ nhỏ hơn trong khi chuyển tải súng đạn, nếu có được vài khẩu tiểu liên khoát lên người thì nét mặt rạng rỡ và như hãnh diện lắm! ( mặc dù có thể các em chưa học cách sử dụng) … nhìn thấy cảnh nầy khiến tôi chạnh lòng: _ Các em vô tư quá! Đâu biết tai họa sắp đổ xuống _ Trong đêm tối, tôi vừa đi vừa suy tính nhiều thứ … phải nhanh chóng tìm cách ổn định tinh thần các em TSQ để hệ thống Tự Chỉ Huy chúng tôi đạt hiệu quả tối đa khi lâm trận. Và cũng chính điều nầy, tôi liền phá tung phòng vật tư Thể Thao Liên Đoàn lấy quần áo thể thao chia làm 2 đội và thông báo:

– Sáng ngày mai các em sẽ ra sân đá giao hữu giữa các đội, không phân biệt Tiểu Đoàn lớn nhỏ, chỉ phân chia 2 phe theo thể lực hợp lý là “Ok”… (và mãi mãi đây chỉ là lời hứa như cách trấn an, chứ trận giao hữu nầy không bao giờ xảy ra nữa! ). Thế là các em vui vẻ hẳn lên như luồng gió lạc quan thổi qua làm các TSQ hiếu động nầy trở nên bình tĩnh và tự tin hơn.

Mỗi TSQ tụ hội ở đây dĩ nhiên xuất phát điểm khác nhau, nhưng giờ đây như cùng số phận với những cảnh ngộ nghiệt ngã đã buộc chặt chúng tôi làm một để sẻ chia những hiểm họa và bi thương sắp đến… Thời gian trôi nhanh quá! Gần 01h sáng tôi vẫn chưa chợp mắt … đúng hơn là không thể ngủ được. Lúc nầy đã bước qua ngày mới _30/4/1975_ Một ngày định mệnh của dân tộc Việt Nam, vì từ đây sự Dối Trá của bọn người Hiểm Ác sẽ lên ngôi. (hay nói theo tục ngữ VN: bọn mặt người dạ thú).

Dưới ánh đèn vàng vọt, tôi vừa lau chùi khẩu Carbine M1 vừa ưu tư về cảnh đời TSQ sẽ đối mặt … mọi gia đình TSQ đều ở Vùng I & II Chiến Thuật, hơn một tháng trước đã bị Cộng quân cưỡng chiếm, không biết còn mất, sống chết ra sao … rồi đến sáng ngày 21/4/75 Tổng Thống (TT) Nguyễn Văn Thiệu từ chức, Phó TT Trần Văn Hương lên thay nhưng đến 28/4/75 cụ lại từ chức, Đại Tướng Dương Văn Minh lên kế vị, liên tiếp chỉ hơn một tuần lễ mà có tới 3 vị TT ở MNVN _ điềm chẳng lành!!! _ Chính thể VNCH sắp sụp đổ chăng ? Tôi tự hỏi mà chẳng có câu trả lời…đến thời điểm nầy là (2h sáng, 30/4/1975) tôi nghĩ còn đủ thời gian cho các em TSQ nhỏ nhất “trốn Trường” (hay gọi là bỏ Ngũ) để tránh thương vong khi giao chiến, mà thực tế lúc nầy tổng số TSQ chỉ còn trên 150 em … nhiều TSQ đang ngủ, một vài em phát ra tiếng ngáy vô tư như chẳng quan tâm đến hiểm nguy đang rình rập.
Bất giác tôi ngước lên nhìn Đàm Văn Hưng (một TSQ đằm tính dân tộc Nùng cùng Tiểu Đoàn với tôi, là người tác xạ M79 tuyệt vời sau nầy) và hỏi:

– Vì sao các em TSQ cứ tụ tập ở đây (tại ngôi Trường này), không chịu “dọt” ? Còn kịp mà … Khi “choảng” nhau, tụi mình là TSQ lớn “ăn chịu”được nhưng còn các em thì “vướng” lắm! Mầy biết không ?
– Đành vậy, chứ các em biết đi đâu bây giờ ? Chỉ còn ngôi Trường Mẹ nầy thôi! …với lại các em còn nói: “ở đây có các anh, tới đâu hay đấy đàng nào cũng có thể chết, không vì đạn thì cũng chết vì đói, đánh thì đánh, sợ gì ”

Tôi đành thừa nhận, chỉ bật cười và tự nhủ “đúng là TSQ kiêu dũng: rất LÌ vì LIỀU và cũng có lúc rất LIỀU vì LÌ, âu biết đâu như thế cũng hay !”

Cuối cùng tôi cũng thấy rõ thực tại nầy: tất cả TSQ đang bơ vơ không nơi nương tựa vì gia đình biệt vô âm tín, mà Chính thể VNCH thì gần diệt vong … lại thêm tình trạng lương thực là con số “0” (như đã nóí, dù chỉ một ngày), súng đạn thì rất ít và hạn chế so với Cộng quân (vì không có nguồn chi viện, chỉ đủ để thực tập những bài học quân sự tại Trường), vậy chúng tôi sẽ chiến đấu cho ai và vì cái gì ? Chúng tôi lấy gì để cầm cự, để tiếp tục chiến đấu đây ?… từ đó tôi hiểu ra: vài giờ nữa, nếu lâm trận thì cầm chắc TSQ phải thất bại, nếu nổ súng “choảng” nhau thì khác gì chúng tôi “tự sát” tập thể … nhưng ngược lại vì truyền thống TSQ mà chúng tôi không cho rằng: đã biết thất bại mà vẫn chiến đấu là hành động mù quáng, biết phân tích thế “được thua” mà không chịu hạ vũ khí đầu hàng là ngoan cố. Trong hoàn cảnh tuyệt vọng, đường cùng nầy tôi đồng ý dù buông súng hoặc đào ngũ thì chưa hẵn là “hèn nhát”, nhưng chắc chắn hành động nầy cũng không thể gọi là “thức thời”, vì TSQ chúng tôi luôn tâm niệm : mọi hành động “thức thời” của kẻ SĨ phải gắn liền với Danh Dự và lòng Tự Trọng. Khi lợi dụng hoàn cảnh “thức thời” để ngụy biện hay bào chữa cho hành vi VÔ ƠN thì không phải là việc làm của người quân tử. TSQ_VT là “những người lính trẻ” hậu duệ của Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản thì lại càng không thể đánh mất Danh Dự và lòng Tự Trọng vì đã quên ƠN dưỡng dục của QLVNCH bao năm qua … thế nên điều gì đến phải đến, TSQ chúng tôi phải chiến đấu (dù một trận cuối) như một nghĩa cử sau cùng để đền đáp công ơn nuôi dạy của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa.

Tóm lại TSQ không thể VÔ ƠN để đánh mất chữ NHÂN, chúng tôi không thể chối bỏ Danh Dự và lòng Tự Trọng để đánh mất chữ TRÍ, cuối cùng vì chữ DŨNG mà TSQ phải chiến đấu, dù biết rõ sẽ thất bại hoặc sẽ “tự sát” tập thể … tinh thần TSQ_VT chính là tinh thần NHÂN_TRÍ_DŨNG vậy!

Có lẽ vì căng thẳng rã rời, tôi thếp đi … một loạt tiếng sấm vang rền trên bầu trời làm tôi choàng tỉnh, bật dậy định thần một lúc, tôi liền một tay vớ lấy khẩu M1, mắt nhìn ra khoảng không _ trời đen tối đang mưa, không lớn lắm_ và liếc nhìn đồng hồ, vậy mà đã hơn 4h, mặc gấp chiếc poncho lính, tay còn lại chụp vội chiếc nón sắt lên đầu rồi băng qua sân banh hướng đến cổng Trường (chạy với tôi lúc nầy là TSQ Đàm Văn Hưng, xạ thủ M79) …

Lại nói thêm về cổng chính trường TSQ, (vì đây là nơi diễn ra cuộc đấu súng ác liệt nhất) nó được xây với hai cổng sắt dày kiên cố + tường rào cao sừng sững gần như phân cách giữa hai thế giới của cùng một Thị Xã Vũng Tàu, và một cổng phụ kề bên luôn có Điếm Trưởng (ĐT) kiểm soát (văn phòng ĐT này đặt tại tầng trệt lầu Chỉ Huy). Nhìn từ trong ra, bên trái cổng Trường là lầu Chỉ Huy (1 tầng) mà đối diện là đường Lê Lợi và Trại gia binh Cô Giang, bên phải là lầu Quân số (kiến trúc như lầu Chỉ Huy) lại có khách sạn (KS) International đối diện, đây là một dãy nhà hai tầng + nhiều phòng khá vững chắc, lại có ưu thế vì cao hơn và nằm gần sát lầu Quân số (chỉ cách bên kia đường) rất dễ khống chế mọi công sự phòng thủ của chúng tôi cạnh tường rào. Khi chạy đến cổng Trường, dừng lại và quan sát, tôi cùng Đàm Văn Hưng nhanh chóng quyết định phải tiến chiếm KS nầy trước bởi nó như một “lô-cốt” lợi hại khi giao tranh xảy ra … tôi nghĩ cần phải vô hiệu hóa ngay!

Không biết hậu quả thế nào ? Nhưng đã suy tính là chúng tôi liền hành động, lúc nầy chia làm 2 toán nhỏ: Toán thứ 1 từ cổng Trường rẻ trái tiến thẳng Bến Đình gồm: Hạ sĩ nhất Hoành (nick name: Hoành heo, cán bộ Hỏa đầu vụ), TSQ Đinh Kê (nick name: Gà đạp đinh) và 1 TSQ (đã quên tên). Toán thứ 2 từ cổng Trường tiến thẳng hướng trước mặt là Quốc lộ 15 gồm: TSQ Đàm Văn Hưng, 4 TSQ và tôi. Cả 2 toán đều xuất phát cùng lúc, toán 2 đi trước, toán 1 đi sau.

Trong toán 2 ngoài Hưng ra, với số anh em (bốn TSQ tôi đã quên tên) tiến ra hai hàng từ cổng bên, với mục đích phải chiếm KS International trước Cộng quân, mưa nhẹ hạt nhưng trời vẫn tối đen, tôi dẫn đầu khom người tiến thẳng phía trước và căng mắt nhìn bốn chung quanh, gần đến cổng KS … từ phía trước bổng vang lên tiếng thét :

– Ai ? Đứng lại !

Trời tối, chẳng rõ tiếng thét từ đâu, không định vị được đối phương nên TSQ chúng tôi không khai hỏa … một ý thoáng qua “tụi mình bị phục kích” và tôi thì thầm với anh em:

– Đừng bắn, ”dọt” về Trường!

Anh em TSQ quay ngoắc 180 độ, như tên bắn phóng nhanh vào Trường, tất cả đều bình an … chỉ mình tôi là người sau cùng, vừa chạy tôi tự nhủ :không thấy mục tiêu thì bắn làm gì, ”dọt” lẹ là thượng sách! Nhưng chỉ lao qua cổng Trường chừng 2 bước chân … tôi thấy mình như được nhấc bổng và bị ném vào gầm bàn của Điếm Trưởng trực nhật (khi hồi tưởng khoảng thời gian chớp nhoáng nầy, tôi không nhớ mình đã nghe tiếng nổ ra sao nhưng vẫn còn tỉnh táo để cảm nhận sức công phá hất tung tôi vào bàn ĐT … một trái B40 nổ tung, xé thủng cổng sắt sau lưng tôi khi đang lao vào Trường), vài giây sau tôi nếm được vị mặn của máu từ đầu và tai nhỏ xuống, lồm cồm bò ra khỏi đống bàn ghế gãy nát từ phòng ĐT, lúc nầy tôi mới chắc mình còn sống (mặc dù tai chỉ còn nghe được một bên), tự băng vội vết thương và như “say máu” (mà thực sự máu vừa đổ) tôi quay ngược đến lổ châu mai hướng ra đường bắn trả, nhưng chỉ một phát thì kẹt đạn_quá tệ !_Tôi nghĩ vậy và miệng lẩm bẩm khá “tếu”: “Xui tận mạng ! Tụi mầy tưởng tao là xe tăng à? ” Rồi đão mắt một vòng như cầu cứu “cho anh đổi một khẩu, súng gì cũng được !”, lập tức một em TSQ_TĐ3: Ngô Quyền liền trao khẩu AR 15 cho tôi rồi đột ngột “phóng” đi cũng như nhanh chóng “xẹt” đến vậy. Dù chẳng “ăn” mảnh đạn nào nhưng đầu tôi nhức như búa bổ, hơi loạn choạng và bắt đầu sưng tấy một bên tai. Lúc nầy quá 5h ngày 30/4 /1975, ngoài khẩu AR 15 và khẩu M72 chống Tank trên vai tôi thấy mình như “giàu” thêm và tràn đầy nghị lực …!

Lại nói về toán 1 đi hướng Bến Đình (theo lời kể của Đinh Kê), anh em đội mưa mang súng tiến xuống gần nửa đường liền vấp phải Cộng quân, lúc nầy trời vẫn còn tối, chính Hạ sỹ nhất Hoành (heo) nhanh mắt phát hiện và gào lên:

– Việt…Cộng!

Tất cả chạy thục mạng ngược lại vào Trường, (có lẽ 2 toán dù đi hai hướng khác nhau nhưng lại gặp “rắc rối” cùng lúc, nên anh em cũng không nổ phát súng nào!) Lúc nầy TSQ Lê Quang Nghĩa có nick name: Đại Hàn đã nghe tiếng gào, lập tức khai hỏa bằng Đại liên từ lầu Chỉ Huy, lập tức ở lầu Quân Số các khẩu Đại liên 30, Trung liên BAR, Tiểu liên các loại cũng tham gia bắn xối xả cứu nguy cho đồng đội rút vào. Vậy là hai Toán (1 & 2) chúng tôi rút lui an toàn, bên ngoài Cộng quân gia tăng sức ép cố đánh lấy cứ điểm khó nuốt này. Cuộc tấn công của Cộng quân lần 1 mang tính chất “thăm dò” bắt đầu …

Lại nói, đây là lúc hỏa lực của TSQ tại Trường còn mạnh, bố trí khá bài bản, lại thêm có tường dày và rào cao như một phòng tuyến tự nhiên của Trường TSQ (lợi thế cho phòng thủ mà Cộng quân lại khó tấn công), phòng tuyến nầy trải dài từ Lầu Chỉ Huy, ban Quân số đến Khu Giải Trí LĐ và cuối cùng là Kho Súng. Đối diện với chúng tôi, phía bên kia đường Lê Lợi. Cộng quân cũng tập trung khoảng trên 1 Tiểu Đoàn từ KS International đến Quân Y Viện Tê Liệt_VT. Vì đây là cuộc chạm trán mở màn, có lẽ Cộng quân chưa từng đối đầu với một đơn vị tác chiến nào”quái chiêu” như vậy … “quái chiêu” vì toàn các TSQ “miệng còn hôi sữa” mà quá “lì”!

Lúc nầy trời đã sáng tỏ, kể từ sau loạt đạn Đại liên và tiếng nổ B40 là lúc hai bên giằng co tìm mục tiêu triệt hạ nhau, tôi chạy dọc tuyến phòng bị trong Trường, quan sát và tìm điểm xạ thủ thích hợp để phân công bắn trả, vì chúng tôi đã rút hết vào Trường nên không thể dùng chiến thuật “chia cắt-đâm sâu-đánh vu hồi” được nữa, kể từ giờ phút này từ lầu Chỉ Huy và lầu Quân Số, TSQ “vãi” đạn liên tục vào những nơi nghi ngờ và có chuyển động bất thường … đến nỗi TSQ Hoàng Văn Mạ (xạ thủ Đại liên trên lầu Quân số) gào lên:

– Bắn vừa thôi, nhắm chính xác. . . coi chừng hết đạn.

Nghe lời khuyến cáo hợp lý, hỏa lực trong Trường bắn ra giảm hẳn, chỉ cầm chừng vài loạt rời rạc và bây giờ như cuộc hoãn binh “không giao kết”, TSQ nhanh chóng củng cố đội hình, chỉnh sửa vũ khí và công sự, kiểm điểm quân số chờ đợi những đợt tấn công mới. Cỡ 3 phút yên lặng đáng sợ nầy, tôi đủ thời gian phóng tầm mắt nhìn quanh ra khỏi Trường, không có gì đặc biệt ngoài mùi thuốc súng và tia nhìn bổng dừng lại trước cổng KS: 5 hay 7 chiếc nón cối nằm lăn lóc bên lề QL 15 (trước cổng KS International) … tôi sực nhớ chính đây là nơi mà chúng tôi đã nghe tiếng thét “Ai? Đứng lại !” lúc trời sắp sáng và tôi tự nghĩ _hành quân từ Bắc vào Nam cả ngàn cây số và đánh như “chẻ tre” thế mà giờ đây mới gặp“kiến lửa”, cái giá phải trả của sự khinh địch (cái giá của ít nhất 6 mạng người)!

Trận chiến mở màn nầy đã làm một phần thành phố Vũng Tàu (VT) + Bến Đình (BĐ) giật mình tỉnh thức, như đã nói: các đơn vị quân đội và dân chính có vũ trang của VNCH trú đóng tại VT + Bà Rịa rất đông, nhưng thật ngạc nhiên khi Cộng quân tràn đến lại không một tiếng súng nào cầm cự để báo động, tất cả im lặng như đồng lõa và đúng hơn sự ngạc nhiên của mọi người không phải vì VT im lặng mà vì sự quyết chiến của TSQ, súng nổ dồn dập liên tục, khói súng có lúc đã làm mờ không gian đối diện … TSQ chiến đấu như thể lần đầu được “phát mãi” súng đạn của Trường, lúc nầy tinh thần NHÂN_TRÍ_DŨNG của chúng tôi mới phát huy tác dụng: TSQ đánh để Cộng sản Hà Nội biết Vũng Tàu là có chủ, đánh vổ mặt và tới tấp để Cộng quân không kịp vuốt mặt, đánh cho đối phương biết thế nào là “khinh địch” và cuối cùng, TSQ_VT đánh để (vô hình trung) cho các đơn vị quân đội VNCH biết sự “thức thời” đồng nghĩa với yếu hèn.

Sau nầy tôi được biết, (lúc đó) tất cả dân quân VT đều lo lắng cho anh em TSQ đang “vùng vẫy” tại Trường. Thậm chí họ còn lập luận (có thể tóm gọn):

– Trời đất, bây giờ mà đánh nhau làm gì! Tụi “nhóc” chưa một lần ra trận, chẳng có kinh nghiệm chiến trường lại có ưu điểm nhỏ bé mà trà trộn vào dân để “dông” có hơn không?

– TSQ có lý tưởng của các em, chỉ sợ thương vong nhiều quá thôi! (lời anh Chu Văn Hải, cựu Thiếu tá LĐT_TSQ)…

Lúc nầy tôi thấm mệt, thấy đói và theo thói quen xuống nhà bàn nhưng chẳng có gì, tôi lục tìm tứ phía … may mắn còn một ít cơm khô chẳng đủ thiếu gì (nhưng đói là ngon!), và vắt một nắm vừa nhai ngấu nghiến vừa đi về hướng TĐ II: Lê Lợi.

Lúc nầy là 9h sáng 30/4/1975, lời kêu gọi buông súng đầu hàng vô điều kiện của Tổng Thống Dương Văn Minh vừa phát ra … quá phẩn uất, không biết hận cái gì tôi liền ném nắm cơm xuống đất và “lia” một băng chỉ thiên, rồi chạy ra cổng Trường tiếp tục tham gia chiến đấu. Tại đây tôi bắt gặp chiếc máy truyền tin PRC25 (đến gần nghe “rè … rè”) nhấc lên và áp ống liên hợp vào tai (dĩ nhiên tôi chỉ nghe một bên nên tiếng được tiếng mất), “… Cởi bỏ áo Vàng! Cởi bỏ áo Vàng! Xin nhắc lại: Cởi bỏ áo Vàng …”, tôi tự hỏi như vậy là sao ?. . . À! Nó khuyến cáo mình đầu hàng đây mà! Nhưng“nó” là ai ? Tôi chẳng rõ. Chỉ biết bực bội xoay qua chiếc PRC25 và chụp ống nghe lên … nhưng nó đã hết Pin, tôi thầm nghĩ “cũng may mà hết Pin nếu không là ăn đạn nát máy rồi” !

Ngoài cổng Trường, bổng phát ra từ KS International giọng lơ lớ tiếng Bắc: “Tổng Thống chúng mày lệnh buông súng sao không chịu hạ vũ khí đầu hàng? … đáp lại giọng “loa rè lơ lớ” thật khó chịu, lập tức một loạt Đại liên ở lầu Chỉ huy đáp trả rồi dồn dập 1 tới 2 loạt nữa từ lầu Quân số liên tục nã vào KS, Trung liên, Tiểu liên các loại thi nhau dồn đối phương vào các tầng lầu KS. Bây giờ hai bên quan sát động tĩnh của nhau rõ từng chi tiết, vài loạt đạn chấm phá như “cầm canh” … khi Cộng quân đã chiếm được KS và trưng dụng các phòng để bố trí hỏa lực và tấn công thì sự chống trả của TSQ thất thế yếu đi rõ rệt.

Như đã dự đoán, tôi thu lượm đạn M79 loại trực xạ bỏ vào bao cát (bao đựng cát làm công sự dã chiến) và nhìn Đàm Văn Hưng, cả hai như hiểu ý không ai bảo ai chạy về phòng ngủ LĐ, lên tầng 1 (TĐ II: Lê Lợi) _thấp quá, chưa tác xạ được_Leo lên tầng 2 (TĐ I: Hùng Vương)_ tầm nhìn còn bị vướng. Cả hai chạy lên trần áp chót có những cửa sổ nhỏ gọi là “chuồng cu”, mở ra tức thì chúng tôi nhìn rõ các phòng của KS International … không chậm trễ, TSQ Hưng trực xạ còn tôi lúc nầy vừa phụ xạ thủ (chuyền đạn) vừa “đề-lô”, sau khi quan sát chớp nhoáng tôi chỉ cần hô :

– Một … 5, tức thì “ẦM” lầu một phòng số 5 lãnh trọn một quả M79. Hai …6 lại “ẦM”, phòng số 6 lầu hai “ăn”đạn, cứ thế lần lượt không sót một phòng nào.

Các phòng của KS International đối diện tung tóe tan hoang, vài đám lửa đang âm ỉ cháy. Cộng quân không còn hỏa lực từ lầu KS yểm trợ, chúng rút sâu vào sau (KS) tránh đợt phản kích của TSQ. Chúng tôi hết đạn M79 và chạy vội xuống phòng tuyến ở tường rào để hòa nhập cùng anh em chiến đấu, vừa chạy tôi vừa nghĩ “Chắc TSQ Đàm Văn Hưng có khả năng bẩm sinh nên mới bắn M79 chính xác như vậy !”, lúc nầy quả M72 (chống Tank) chưa dùng đến (mà cũng là quả M72 cuối cùng của anh em TSQ) tôi liền đặt trên tường rào hướng đầu súng về phía KS nhấn cò … “ẦM”, ánh chớp và tiếng nổ làm tôi như “bay tóc trán”, vì mục tiêu chỉ bên kia đường Lê Lợi, quá gần và cũng quá “liều”! Không rõ thương vong phía Cộng quân thế nào nhưng chắc chắn tinh thần đối phương phải suy yếu (mà trong chiến đấu đây là điều chúng tôi cần). Ngay lập tức hỏa lực địch ở KS bị vô hiệu và cũng chính là lúc các khẩu Đại liên và Trung liên ở hai lầu Chỉ huy và Quân số của Trường TSQ tái củng cố và sẵn sàng tham chiến. Vậy là cuộc tấn công lần 2 (của Cộng quân) vào Trường TSQ bị bẻ gãy, dù đợt này Cộng quân phản kích qui mô và “quỷ quyệt” hơn.

Ở lần bị tấn công này, có thể vì lầu Quân số không còn chỗ tác xạ nên TSQ Lâm A Sáng ( Nick name: Sáng Nhón) với khẩu Trung liên Bar cồng kềnh chưa kịp định vị chỗ chiến đấu thì bạn đã lãnh một viên đạn (cũng có thể một mảnh đạn) vào chân trái tại cầu thang Ban Quân số, từ lầu Chỉ huy nhìn sang tôi thấy Sáng “Nhón” trúng thương, vết thương không trầm trọng nhưng phải rời khỏi “cuộc chơi”, lập tức nhờ sự băng bó và dìu dắt của TSQ Lê Văn Tánh và Phạm Ngọc Trình đã đưa được “Sáng Nhón” đi BV Lê Lợi _VT … sau này khi trên đường trốn chạy về BR với TSQ Trần Kim Tân (nick name:Tân Cời, sq :55/4567) tôi được biết TSQ Nguyễn Anh Dũng cũng “hứng” một số mảnh đạn vào đầu + đùi khá nặng được 2 TSQ Nguyễn Văn Minh (nick name: xe be, và một TSQ nữa tôi quên tên) đặt Dũng vào tấm drap chuyển đi, TSQ Lê Văn Tánh sau khi băng vết thương cho Sáng “Nhón” cũng “bỏ cuộc” vì lãnh một viên vào đùi (rất nặng), tất cả được tải thương theo hướng Nhà Thờ ở Khu Văn Hóa ra BV_Lê Lợi.

Tình hình trong Trường quá bi đát, TSQ bị thương ngày càng nhiều (chưa có tử vong), đạn dần cạn kiệt, tay chân rã rời vì đói … bây giờ đã trên 10h (ngày 30/4/1975). Tất cả TSQ bắt loa kêu gọi ngừng chiến với điều kiện: phải để TSQ làm lễ hạ Quốc Kỳ (cờ Vàng Ba Sọc Đỏ), ngược lại phía Cộng quân tiến vào tiếp quản Trường TSQ mà không bị nổ súng chống trả… mọi điều diễn ra đúng với thỏa hiệp, Quốc Kỳ VNCH vừa hạ xuống, như ong vỡ tổ tất cả TSQ lớn nhỏ hủy bỏ mọi thứ: áo quần, súng đạn rồi tẩu thoát theo cách “truyền thống”: Trốn Trường! (về điểm nầy tôi nghĩ không ai hơn TSQ được!)

Trong cuộc chiến chóng vánh nầy chúng tôi đã thất bại (như dự tính) nhưng không một TSQ nào mặc cảm hoặc buồn tủi vì chúng tôi đã làm hết sức mình (kể cả đổ máu) để không hổ thẹn với Tổ Tiên và các thế hệ mai sau.


Tóm tắt sơ lượt trong trận chiến nầy:
– Tham chiến: TSQ = > 100, Cộng quân = >1 Tiểu đoàn (tức >500 người)
– Vũ khí: TSQ = Thiếu hụt, Cộng quân = Đầy đủ.
– Lương thực: TSQ = 0, Cộng quân = Dồi dào.

Kết quả: TSQ = < 10 bị thương, Cộng quân = 6 tử vong.

Với bảng “Tóm tắt sơ lượt” nầy chính là kết quả tàn cuộc và sẽ phản ánh ít nhiều cho các thế hệ mai hậu suy gẫm về câu ca dao Việt Nam:

“Nực cười châu chấu đá xe, tưởng rằng chấu ngã ai ngờ xe nghiêng”

Dù chẳng làm nên lịch sử nhưng TSQ – VT cũng góp phần viết nên “bảng hùng ca QLVNCH” trong ngày miền Nam sụp đổ.

Video TSQ Diễn Hành Tết 2025

Monday, February 3, 2025

Những Vùng Đất Và Ngày Tháng Rời

 Cây số 17 tối 29-4-68: Bốn giờ chiều đường dây từ Huế gọi ra: trở về gấp. Anh Hạnh kêu chiếc xe đổ thêm xăng, coi lại máy rồi tiễn tôi ra khỏi La Vang. Người tài xế nói với tôi: anh giữ chắc súng nghe, tôi phóng đó, hồi này cũng khá rồi. Quốc lộ mở rộng, những ngọn đồi cỏ thấp phía tây, xa những ngọn núi giấu đỉnh trong mây. 

Mé biển những lượn đất cát trắng khô khan, thỉnh thoảng mấy ngọn dương xơ xác… Cây số 27, Lê Hằng Minh của Trâu Điên đã chết, cột cây số bị bắn nát. Tới Huế trời đã hơi tối. Người bạn trong bộ tư lệnh nói: xe chở anh ra cây số 17, họ đợi anh ngoài đó, có lẽ sớm mai, phải ra đó ngay… Không kịp làm gì ngoài việc đổi xe trở lại cây số 17, người tài xế già lo ngại khi cho xe quay lại thị trấn, tôi trấn an: chết có số.

Khung cảnh trơ trụi, một bồn nước cao giữa những ngọn cây khô, hàng kẽm gai dày cỏ bị đốt cháy nhem nhuốc. Người tôi trở thành một chiếc xe vận tải: máy móc, mũ sắt, áo giáp, chiếc áo khoác trở thành chiếc va ly với đầy đủ những vật dụng, từ viên thuốc đau bụng tới que tăm, bàn chải và thuốc đánh răng. Gặp Khải, gặp Đính… 

Bính nói: ngủ hầm hay ngủ trên, pháo kích ghê lắm. Bính chỉ ra những bức tường đổ, những hầm hố chung quanh. Tôi nói: ngủ ở trên, pháo kích chạy. Yên chí có chỗ nằm, liên lạc để sớm mai nhảy xong mình đi ra ngoài, vòng qua những hậu cứ, ra quán bên quốc lộ kêu một chai bia. Mấy người lính mua theo những thứ cần thiết. Không thể thiếu đế, trong đó mưa và lạnh lắm. Buổi chiều bỗng nhiên có lúc sáng rực với nắng quái, con đường bụi và mấy chiếc xe chạy hết tốc lực thi đua với thời gian… chợt nhớ nhà… Anh Đính nằm trên chiếc võng treo vào hai thân cây ổi nhỏ, chiếc máy truyền tin ở bên, anh hút từng hơi thuốc ngắn kể lại cho tôi nghe ngày dẫn tiểu đoàn vào Ngọ Môn… anh nói: mai vào trong chắc đụng lớn. Anh cười.

Khoảng nửa đêm trời đổ mưa, tôi thức dậy nghe tiếng động của im lặng. Người lính đều đã ngủ và những chiếc ba lô đã gọn gàng. Trong rừng núi thâm u của Trường Sơn kia những ai đang thức? …

Tà Bạc 30-5-1968. Năm giờ sáng tiếng còi réo tập họp. Tôi nhớ tới những sớm tinh mơ trong quân trường ngày nào. Dế kêu, cả lũ thức dậy nhanh nhẹn thu xếp, tập họp… Đã hai năm. Những người lính trở dậy, đeo ba lô lên vai thầm thì trở ra bãi đáp, chỉ có những tiếng ho, những tiếng nói nhỏ, tiếng bùn lép nhép dưới đế giầy, những đốm lửa trên đầu điếu thuốc lập lòe trong đêm tối. Từng người nối đuôi nhau, những chiếc mũ sắt, áo mưa phủ kín, đoàn người như một dòng những khối bóng tối di động. Quân đưa cho tôi chiếc lon nhỏ với chút cà phê bột nóng bỏng: như vậy là hiếm lắm đó, vào trong đó còn nhỏ rãi ra nữa… 

Con đường nhỏ đầy những vũng nước của trận mưa đêm qua. Băng qua những thửa ruộng còn chân rạ chúng tôi tới bãi đáp là một triền đồi thấp có cỏ. Quân nói: mình nhảy Tà Bạc, Lương, Bình ở trong đó từ chiều hôm qua, chuyến này đi e lâu mới về. Từng đơn vị nhỏ tập họp nơi hai bên sườn đồi cách xa nhau. Người đứng ngồi lóng ngóng, những bóng người di động không rõ nét, những người đứng xa nhau hai thước không rõ mặt. Từng nhóm người tụ lại, từng cơn gió lạnh buốt ẩm nước. 9 giờ một đoàn trực thăng xuất hiện và thấp dần đổ xuống ở ngọn đồi. Đếm được 30 cái. Từng tiểu đội nhanh nhẹn lên trực thăng. 

Thời gian chờ đợi kéo dài. Mây vẫn chưa tan trên những đỉnh núi phải vượt qua trước khi vào thung lũng. Những chiếc trực thăng nằm im với những cánh quạt rũ như những con chuồn chuồn gặp nước. Khi đợt nắng đầu tiên chiếu xuống những lá cỏ long lanh nước thì những chiếc cánh quạt bắt đầu quay nhanh. Trong giây phút cả đoàn trực thăng nhấc mình lên khỏi mặt đất, tôi bám chặt tay vào chiếc dây nơi ghế ngồi. Chúng tôi lên cao, lên cao mãi. Những ngọn đồi thấp, những ngọn núi không cây, màu cỏ thay đổi từng vùng. Gió lạnh thốc trong lòng máy bay. Trực thăng lên cao mãi, có những khoảng mây đục thấp, đoàn trực thăng nối đuôi nhau theo những khoảng trời xanh, len giữa những đám mây, len giữa những ngọn núi đồi trùng điệp… 

Cho tới khi máy bay bắt đầu xuống thấp, tôi nhận thấy phía trước mặt một thung lũng, hai chiếc trực thăng võ trang đang nhả đạn, đường bay nhanh và những chao lượn ngoạn mục. Thung lũng có một chiều ngang khá rộng, kéo dài về phía Nam , mấy ngọn đồi thấp trơ vơ mấy ngọn cây khô. Mầu đất phơi đỏ ở dưới, từng hố bom sâu có hình thù của những chiếc lá sen già đã tàn, những chiếc lá sen khổng lồ, đó là dấu tích của những trận mưa bom hồi đầu mùa xuân trước khi những trận mưa lớn đổ xuống… Từng chiếc đáp xuống nhanh nhẹn, từng người lính nhảy vội tóe sang hai bên, trực thăng bốc lên nhanh…

Tà Bạc, trung tâm của Ashau, phía Bắc là A Lưới giáp ranh với Quảng Trị, phía cực nam là Ashau thông vào Quảng Nam có con đường vào vùng công trường 6, tức Khe Tre. Từ Tà Bạc có con đường 547 qua Ba Hi Vũng Chậu để tới Huế, con đường mòn ấy trong những năm yên bình cũ đã đưa nhiều người vào trong Tà Bạc trong ý định thiết lập một vùng định cư mới, nhưng nay đã không có dấu vết gì về những cố gắng của một thời. Trên con đường 547 hiện có một đơn vị Mũ Đỏ hành quân. Trời bắt đầu đổ mưa nhỏ hạt, số quân còn lại không thể đổ tiếp. Anh Đính cố gắng bắt liên lạc với một tiểu đoàn ở hướng Nam . 

Chúng tôi rẽ cỏ làm đường, những ngọn cỏ lau sắc như dao cao hơn đầu người. Một người lính đi trước đập tay lên cổ vuốt xuống một con vắt nhỏ như sợi chỉ, màu xanh, nhảy tanh tách từ những lá cỏ bám vào cổ, vào tay, những người lính vội tụt tay áo, kéo cao cổ áo… Những thân cỏ lau ngã xuống, những bước chân đạp lên tạo thành một con đường mới, con đường đưa chúng tôi lên ngọn đồi lớn nhất nằm trong thung lũng. Lên tới lưng chừng đồi thì tôi gặp anh Lương đang đứng bên một chiếc hầm đang được đào dở. Từ Mậu Thân bây giờ chúng tôi mới gặp lại nhau. Trực thăng đang thả trọng pháo xuống, những người lính pháo binh vội vã thiết trí và ngay sau đó đã hướng về phía Nam , hướng lên những ngọn núi phía Tây nhả đạn. 

Anh Lương liên lạc với Mẫn ở một ngọn đồi phía Nam báo tin tôi đã xuống. Niệm đang dẫn đại đôi vào những sườn núi thăm dò. Ngọn đồi đang bị tràn ngập những người lính. Những ngọn cỏ cao đang được đạp nằm xuống, thật nhanh chóng những chiếc hầm đã hoàn thành và những ngọn khói xanh đã un lên: những người lính nhặt củi đốt lửa nấu cơm trong khi chờ đợi… Cho tới giữa trưa, tất cả đơn vị của Trung đoàn 3 đã xuống hết thung lũng. Tiếng trọng pháo nổ đều đều…

Ăn một miếng cơm đựng trong chiếc hộp sắt. Người Thượng sĩ già cầm chiếc bi đông đưa về phía tôi, miệng hơi mỉm cười: uống miếng nước anh. Tôi nói cám ơn và cầm lấy bi đông đưa lên uống. Tôi suýt bị sặc vì ngụm rượu đầy, tôi mỉm cười không nói, rượu đế có mùi vỏ quýt thơm nồng. Đây đó những người lính chụm lại với nhau ăn cho qua bữa, có người mở ra những thức ăn mang sẵn, có người nướng cá khô, có người bẻ lấy mấy tàu bắp cải bỏ ra ăn sống. 

Theo chân những đơn vị bộ binh bao giờ tôi cũng thấy hiện ra những gian khổ. Những gian khổ không phải chỉ trong những bữa ăn, nó hiện ra nơi những bộ quần áo sứt chỉ, đôi giày vẹt đế, dáng vẻ nhẫn nhục, họ thường có mặt trong những vùng đất có giới hạn, họ bám giữ lấy đất trong những điều kiện khó khăn và phương tiện tiếp trợ ít oi, khác hẳn với những người lính ở đơn vị tổng trừ bị… Họ đi hành quân mang theo gạo, rau, nước mắm, tàu vị yểu… họ không thích hợp với đồ hộp. Họ cần gạo hơn là bánh khô…

Tới quá trưa tôi theo một tiểu đội đi về những sườn núi phía Tây, Niệm báo về khám phá được những hầm của địch. Con đường mòn nhỏ có nhiều hố bom, chúng tôi thấy những ổ súng phòng không của địch bỏ lại, chúng tôi gặp những mảnh vỡ của xe vận tải bị phá. Lách qua những quãng đường mòn, qua những lùm cây, chúng tôi lọt vào trong một khu rừng rậm, không có chút ánh sáng nào, chừng như lá ở trên đầu chúng tôi có nhiều lớp khác nhau, thỉnh thoảng một vùng ánh sáng hiện ra, nơi đó là những hố bom đào sâu dưới đất và những ngọn cây phía trên đã bị đốt cháy. Qua một con suối nhỏ chúng tôi tới một sườn núi, ở đây có những ngọn cây cao và gốc lớn, dưới đất không có cỏ, chỉ có lá khô nhiều lớp và những khoản đất nhẵn, đây là nơi cộng quân đào nhiều hầm kiên cố bám vào sườn núi. 

Những căn hầm ngang cỡ nhau bỏ trống, mỗi chiều khoảng ba thước, ở dưới làm một lớp sàn bằng cây nhỏ cách đất khoảng ba mươi phân, trên hầm can những thân cây từng lớp xen với những lớp đất dày đến ba thước và trên cùng lợp cỏ tranh. Không thấy có hầm nào trúng bom. Chúng tôi dừng lại lâu ở một cái hầm lớn mà chúng tôi cho là của một người chỉ huy, phía trên, nơi gần miệng hầm là một khoảng đất bằng phẳng, có một cái bàn nhỏ, hoàn toàn được làm bằng những cành cây nhỏ, bốn chân đóng xuống đất, trên là những cành cây được cột lại với nhau bằng mây, những băng ghế dài bao quanh và tản mát cũng được làm như thế. 

Quân nói: chỗ này mà ngồi đánh cờ thì tuyệt. Sau đó Quân rủ tôi đi sâu vào trong, vừa đi Quân vừa ngước nhìn lên những ngọn cây, Quân nói: tôi mới phát giác ra, ở trong này có lan… Khi tới một ngọn cây cao, Quân ngừng lại và bỏ giày trèo lên, Quân mang xuống một cụm lan lớn, một chùm lan trắng muốt rũ dài, Quân nâng niu hài lòng. Trở lại chỗ đóng quân, Quân treo cụm lan nơi đầu lều vải.

Buổi chiều xuống thật nhanh, mây đục xuống vây kín thung lũng như cái vung, những ngọn núi chung quanh khuất kín ngọn trong mây mù. Cơn mưa lớn đổ xuống khi trời bắt đầu tối, nước đổ như thác, lều chúng tôi ở sườn đồi, nước đục ngàu từ trên chảy ào ào. chúng tôi cuốn mình trong những áo mưa ngồi tựa lưng vào nhau, nước ngập vào những chiếc hầm, chảy dưới lớp cỏ còn tươi. Chúng tôi tằn tiện với những mẩu thuốc được đốt lên. Mưa đổ xuống khoảng hơn một giờ thì tạnh, 

Quân cố gắng gây chút lửa đun nước trong chiếc ống bơ, chiếc bếp bằng đèn cầy là một sáng kiến lạ mắt đối với tôi. Nước sôi, Quân mở những gói cà phê bột thả vào chiếc lon. Tôi hỏi: kiếm đâu ra vậy. Quân cười hắc hắc: bọn nó mới xuống dưới kia kiếm được một mớ, đồ thả dù từ hồi trước bị mắc trên cây. Trong mưa lạnh chúng tôi chuyền nhau lon cà phê chua và chát xen vào những gói thuốc… Mưa kéo dài suốt đêm, chúng tôi ngồi bó gối dựa lưng vào nhau.

Tà Bạc ngày 2-5-68. Những cánh quân đi sâu xuống phía Nam, những đụng độ nhỏ, nhiều hầm vũ khí…

Tà Bạc đêm 4-5-68. Những ngày ngắn và những đêm mưa dài, mặt trận vẫn yên tĩnh. Quân có thêm mấy cụm lan. Mình nhớ nhà. Không có hy vọng một trận lớn. Trong lúc sửa soạn đi ngủ, Quân kêu lên: xong rồi. Tôi ngạc nhiên, Quân vẫn ôm lấy chiếc máy thu thanh nhỏ úp lên tai, chiếc máy gần hết pin nghe nhỏ. Lúc sau Quân hơi phác một nụ cười: xong rồi, tin cho biết Mỹ và Bắc Việt hẹn gặp nhau ở Ba Lê vào ngày 10-5. Xong rồi, xong rồi… Một anh lính ngồi bên: liệu có hòa bình không?

Tôi thấy phải trở về gấp.

Huế 5-5-68. Trực thăng đã đưa tôi trở lại cây số 17. Bùi ngùi chia tay những người bạn. Huế kinh hoàng những cuộc pháo kích. Đêm qua nhiều hỏa tiễn 120 rơi xuống Mang Cá, khu An Hòa… Tin tức dồn dập từ Sàigòn. Lưu Kim Cương đã chết. Tướng Loan bị thương nặng. Đàm Quang Quý chết. Các chuyến bay bị hủy. Làm sao về. Ở Sàigòn giới nghiêm 7 giờ tối.

Huế 7-5-68. Sáng vào sư đoàn gặp tướng Trưởng. Một người có nét mặt khắc khổ, rất thận trọng. Ông hỏi tình hình. Tôi nói: lính cần gạo, ăn đồ hộp Mỹ lính đi kiết chịu không được. Ông là người ở trên trời gần hết thời gian của một ngày. Chỗ nào ông cũng có mặt. Một người lính kể: tôi lái xe ra Quảng Trị, lúc bấy giờ quốc lộ còn nhiều mìn, xe đang chạy tôi bỗng nghe nổ lớn phía sau xe, ngừng xe lại coi tôi biết một trái mìn đã nổ sau khi xe tôi vượt qua. Sao lại có sự may mắn đó. Tôi nghĩ mãi mới nhớ, buổi sáng trước khi lên đường chúng tôi đã thấy tướng Trưởng cười. Câu chuyện này tôi đã nghe nói tới nhiều lần, thực giả không rõ nhưng có điều chừng như biểu lộ một cá tính của tướng Trưởng qua cái nhìn của người lính. Tướng Trưởng không vắng mặt trong mọi trận đánh, buổi sáng vừa thức dậy tôi đã thấy ông ở La Vang. Buổi trưa sau cuộc hành quân khai diễn được ba tiếng ông đáp xuống ngay bộ chỉ huy nhẹ ở Gia Đẳng, Trung đoàn 3 xuống Tà Bạc không đầy ba tiếng ông đã đứng trên đồi cao… ông xuất thân từ nhảy dù, con rể một nhà văn tiền chiến: Thạch Lam… 17 giờ, chuyến trực thăng độc nhất có được ở Huế đưa tôi vào Đà Nẵng.

Sàigòn ngày 8-5-68. Chuyến bay quân sự hiếm hoi đưa tôi trở lại Sài Gòn. Đà Nẵng trong đêm bị pháo kích. Máy bay trở lại lượn trên Sàigòn với những vòng lửa và khói ở gần sân bay. Đợt tổng tấn công mới đã khởi đầu…

Sàigòn ngày 11-6-68. 6 giờ sáng hàng loạt hỏa tiễn rơi xuống Sàigòn. Nhiều nhà cửa bị sập ở khu Gia Long. Nhiều người chết… Mai đi Cà Mâu… Chuyến đi không mấy yên tâm…

Cà Mâu 12-6-58. Chiếc phi cơ nhỏ đáp xuống một sân bay hẹp nằm giữa đồng lúa xanh. Con đường nhỏ vào thị trấn, những dấu tích tàn phá trong Tết vẫn còn nguyên vẹn. Không nơi nào thiếu vắng những dấu tích của cuộc chiến… Con đường ven sông, tôm khô phơi đầy một màu đỏ óng. Miền Nam của cá và tôm… Gặp Nhân hẹn mai đi Hòa Thành.

Cà Mâu 1306-68. Nhân dẫn đi ăn sáng, hẹn chiều về ăn canh chua lươn của bà Sáu Mập. Ai tới Cà Mâu phải biết tới điều đó. Xuống thuyền đi Hòa Thành. Dòng sông nước đục. Chiếc ghe máy chạy nhanh. Một người đứng bên bờ sông tay trái vẫy. Thằng nhỏ hỏi: ghé được không thầy hai. Nhân nói được, nhưng mé bên này thì không. Tôi hỏi sao vậy. Nhân nói: bên này mấy bố du kích ra hoài. Gần trưa chúng tôi tới Hòa Thành. Một ấp lớn…

Suốt từ ngoài đầu ấp suốt dọc con đường tôi không nhìn thấy một điều nào cho thấy rằng ở đây – trên một khoảnh đất nhỏ của quê hương – có chiến tranh, nhưng sự thật cũng không lâu những anh em du kích vẫn lẻn về phá rối đời sống dân chúng. Nhưng không vì thế mà họ khiến cho dân chúng không sống được. Dân chúng vẫn cầm súng và cầm cày. Mãi cho tới khi tới cuối ấp Tân Phong tôi mới nhận thấy những hàng rào kẽm gai và những chướng ngại vật chung quanh ngôi giáo đường, lúc bấy giờ những học sinh của ấp đang tập hát theo với mấy cô giáo, gác chuông làm bằng cây, phía trên lợp tôn mới trông như một vọng gác, trên đó cũng gắn những máy phóng thanh… Tôi đặc biệt chú ý tới vòng đất bao quanh một khẩu súng, mới nhìn tôi nghĩ là súng cối 82 ly, nhưng nhìn lại tôi thấy nó hết sức đơn sơ. Chừng như đoán được ý tôi, Nhân bước vào trong vòng đất, nhắc cái nắp đậy miệng súng ra nói:

- Đây là một khẩu súng cối nội hóa.
- Người mình làm lấy được?
- Của một ông thợ rèn, súng mình làm nhưng bắn bằng đạn Mỹ.
- Bắn được?
- Sao lại không, bắn nhiều rồi là khác…

Tôi cũng bước vào trong, tôi nhận thấy ống sắt được ráp lại bằng nhiều đoạn ngắn, vết hàn còn hằn rõ, súng không có máy nhắm, nhưng cũng có trục quay sang ngang, và lên cao xuống thấp được, bàn là một miếng sắt rộng mỗi chiều khoảng 20 phân, nòng súng được chống xuống đấy bằng ba cẳng sắt, bên cạnh đó còn có một cái bùi nhùi dùng thông nòng súng, lúc mở miệng ra xem tôi thấy nòng súng đã rỉ sét, tôi nói:

- Lâu nay không bắn nữa sao?
Một anh dân vệ đứng bên nói:
- Lâu rồi không dùng đến, nhất nữa người bắn chuyên môn hôm nay cũng không còn ở trong ấp…
- Thế còn ông thợ rèn?
- Ông ấy chết lâu rồi…
- Không có máy nhắm thế này rồi làm sao?

Nhân cười, những người đứng chung quanh tôi lúc đó cũng cười:

- Không có máy nhắm, vô phúc bắn nó nổ ngay khi ra khỏi nòng thì làm sao? hoặc tới chỗ không phải là mục tiêu… Nguy hiểm quá.
- Có người đã bắn rồi, bắn nhiều rồi, bắn theo kinh nghiệm, vậy mà hay lắm đó. Nếu không bắn được thì để đây làm gì… Ở đây có hai khẩu chứ không phải một.

Tôi theo người dân vệ đi ra đằng sau, ở đó cũng có một khẩu như vậy nữa.

- Vậy cái người làm cũng tài lắm đâu phải vừa gì, vậy ông ta còn làm được những khẩu nào khác không?
- Nghe nói có một khẩu để đâu đó trên quận, và ông ta còn làm thử một khẩu 105 ly nữa nhưng khi bắn thử thì đạn nổ trong nòng, chính lần thử này khiến ông ta thiệt mạng.
- Vậy ông ta là người thế nào?

- Bọn tôi ở đây không ai biết rõ về ông hết, những người già thì biết, ông ta chết đã lâu chỉ nghe nói lại. Sau này chỉ có một người bắn được hai khẩu này, rồi về sau chưa ai dám thử bắn hết, nhưng cũng không có dịp để dùng đến nữa… Bọn tôi định hôm nào lau chùi rồi bắn thử xem sao…

Tôi nghĩ tới một người thợ rèn vô danh, một người nào đó có lẽ chúng ta đã gặp, người ấy đã cặm cụi với những khẩu súng bằng chính những sáng kiến của mình… Rồi một hôm chết đi mang theo những điều mình đã có, không để lại dấu vết nào… Tôi nghĩ khẩu súng trong cánh đồng lầy này tự nó biểu trưng cho một sắc thái, tự nó nói lên một sức sống và niềm bí ẩn nào đó. Sức sống và niềm bí ẩn vẫn thường có mặt trong khắp xứ sở này…

Đức Hòa 28-6-1968. Vị sĩ quan giới thiệu qua về trái hỏa tiễn 120 ly vừa bắt được. Nó được đưa từ vùng mật khu Ba Thu tới đây để bắn vào Sàigòn, đây là những trái hỏa tiễn đầu tiên tịch thu được. Tôi nghĩ tới hành trình của nó từ Liên Sô…

Nha Trang 6-7-1968. Chuyến bay đi Pleiku ngừng lại ở đây. Biển xanh ơi, nhớ năm học cũ. Những người bạn thân thiết. Đi lại những con đường xưa…

Pleiku 13-8-1968. Chuyến bay đưa tôi tới Cao Nguyên lần thứ nhất. Đường lầy bùn, những cơn mưa lạnh. Thị trấn dơ bẩn với sinh hoạt thời chiến. Tôi nhớ tới ông tướng đã thành lập nơi giải trí cho lính: Trung tâm khang lạc, một thứ nhà điếm công khai dành cho lính. Bây giờ nó không còn, nhưng bây giờ nó có hình thức mới: con đường Hoàng Diệu và lính Mỹ. Những con lốc lầy bùn đỏ, lính Mỹ với súng đeo vai xuất hiện từ 11 giờ tới 4 giờ chiều…

Tuấn cho một chiếc áo khoác. Hoàng cho chiếc áo giáp còn mới. Tôi nói đùa: mong cho mau không phải dùng tới những thứ này. Những ly đế trong buổi chiều nơi quán nhậu. Tuấn cười khật khưỡng. Thuyên bình lặng. Hoàng huyên thuyên. Chúng tôi nói tới ngày hòa bình. Chợt tôi nói: ngày hòa bình nào.

Pleiku 14-8-1968. Buổi sáng sớm Nho đến, xe đợi ngoài đường, chúng tôi dời thị trấn lên quốc lộ 14, nơi buổi chiều vừa qua có cuộc giao tranh.

Nho móc trong túi ra cho tôi coi chiếc huy chương, trên một miếng đồng tròn có khắc hai chữ Cách Mạng, đó là một trong những chiếc gắn trên những xác chết nơi quốc lộ 14 nối liền Pleiku với Kontum. Nho kể lại trận đánh vào buổi chiều Chủ Nhật cho tôi nghe, khi một đoàn xe tiếp tế dời Pleiku đi Kontum khi tới gần ngả ba Dak Doa, cách Pleiku 13 cây số thì bộ đội Cộng sản từ hai bên tấn công, trước nhất là những trái đạn 75, 60 rồi từng đoàn người dời khỏi sườn núi và rừng cây xông ra. 

Ngay khi nghe thấy tiếng súng nổ, đơn vị thiết vận xa bảo vệ quốc lộ từ hai đầu kéo xuống vừa đủ thuận lợi để chống những bộ đội cảm tử từ trong bìa rừng vượt ra tới khoảng đấy trống cách đường nhựa khoảng một trăm thước, cuộc giao tranh diễn ra không đầy nửa tiếng, đoàn xe và những thiết vận xa hoàn toàn vô sự, địch bỏ lại trên 30 xác chết. Trong những xác chết đó có kẻ ra đã được gắn huy chương cách mạng. Bầu trời buổi sáng ngày thứ Hai có một lúc không mưa, trời quang, dù vậy vẫn còn nguyên bầu không khí rét mướt của rừng. Tôi lên xe theo Nho tới thăm nơi xẩy ra cuộc chiến ngày hôm trước. 

Trên đường chúng tôi ghé thăm căn cứ của đoàn thiết vận xa có nhiệm vụ bảo vệ quốc lộ. Thiếu tá D. cho chúng tôi thấy những vũ khí đã tịch thu được vào buổi chiều hôm trước. Trên một khẩu B40 máu còn đọng lại trên thân gỗ… Thiếu tá D. cho tôi biết tinh thần của những bộ đội miền Bắc, nhiều cuộc tấn công đã diễn ra trên quốc lộ 14 khiến con đường này có lúc rất nguy hiểm, ở xa tới người ta e ngại khi phải vượt qua, nhất là khoảng ngả ba Dakdoa, cũng như khoảng đường 19 gần nơi Suối Đôi, hai địa điểm này dù ở trên hai quốc lộ khác nhau nhưng chung một khoảng rừng mà trong nhiều năm Cộng quân vẫn trú ẩn. 

Cộng quân khống chế một thời gian dài trên quốc lộ 14 nhưng nay thì điều đó đã không còn nữa. Quốc lộ đã được mở rộng và trải nhựa như một xa lộ dù công tác chưa hoàn thành hết. Thiếu tá D. nói với tôi: bộ đội miền Bắc tấn công trên quốc lộ mục tiêu chính được nhắm tới là cướp lương thực, điều ấy đã được kiểm chứng bởi những cuộc tấn công nhắm vào các đoàn xe tiếp tế. Vị chỉ huy thiết vận xa có một vẻ cởi mở và đầy tin tưởng, ông còn cho tôi được thấy một sáng kiến của anh em thiết vận xa chống lại B40, một võ khí lợi hại đối với xe bọc sắt.

Quốc lộ 14 mở ra trước mặt, những con dốc dựng đứng, lớp bùn đỏ dày trên mặt nhựa khiến cho những bánh xe gần như vượt ra ngoài ý muốn của người cầm lái, đoàn xe nối đuôi nhau nhẹ nhàng, chậm chạp di chuyển.

Bây giờ thì chúng tôi đang ở trên một con đường hai bên không một bóng nhà: khoảng đất trống những cây thấp, rồi rừng cây rậm kéo mãi cho tới chân núi phía xa, trong đó những con mắt thù hận chờ đợi. Quốc lộ thực sự chưa được hoàn tất, nhựa chỉ mới được trải một nửa trên đường, bên kia còn lại đất và đá. Những đường vòng nguy hiểm, những chiếc xe nhà binh Mỹ phóng hết tốc lực… Một xác chết, hai, ba, bốn… những xác chết nằm ngay nơi mép đường nhựa. Chúng tôi ngừng lại giữa đường, những xác chết nằm rải rác cô quạnh, một vài chiếc xe ngang qua chạy chậm lại, có những chiếc máy ảnh được đưa ra, bên những xác đã trương, mặt tái nhợt, quần áo rách tôi thấy rải rác những vỏ đạn. Chiều hôm qua cuộc giao tranh đã diễn ra ở đó. 

Bây giờ thì còn lại những xác chết, những vỏ đạn, những vết bánh sắt chằng chịt trong khoảng đất trống… Với một địa thế thật trống trải, với khoảng cách khá xa từ lề đường tới ven bìa rừng, tôi thấy quả những người Cộng sản đã liều lĩnh để vượt ra phơi mình trên khoảng cách đó… Ngã ba Dakdoa, anh bạn nói có thể đi thẳng Kontum. Nhưng chúng tôi đã không tiếp tục đi, chúng tôi quay trở lại. Bây giờ tôi mới nhận thấy trong bìa rừng cách từng khoảng xa những thiết vận xa đã bố trí ở đó… Tôi hiểu vì sao những mưu toan cướp lương thực đã không thực hiện được.

Cơn mưa nặng hạt lại đổ xuống cùng với gió lộng, vào tới ranh thị trấn chúng tôi ngừng. Anh bạn chỉ cho thấy bên kia đường, mé tay trái, những người đàn bà và trẻ con co ro trong những chiếc áo mưa đứng hoặc ngồi lóng ngóng. Có người tay không, có người xách theo những chiếc giỏ. Người bạn nói: những người chờ đứng bán những lon bia, bán thân và chờ rửa xe cho Mỹ… Vào những buổi sớm nhiều chuyến xe phải ngừng lại đó chờ mở đường, những anh lính Mỹ phải chờ đợi và đó là thời gian làm ăn cho nhiều người. 

Tôi biết có một người trở thành giàu rất mau, anh ta không ở Pleiku mà ở Kontum, anh ta có một cái xe gắn máy nhắm chở những cô gái chơi tới quốc lộ, chỉ cần chở ra theo với những toán công voa, bỏ họ đấy, mỗi cô một ngàn, mà đâu phải chỉ có một cô, những cô này mang theo một tấm vải nhựa, thế là xong, buổi chiều anh chàng kia lại tìm nhặt những cô đó trên quốc lộ đưa trở về - Người bạn nói với tôi và cười – Nói ra nghe mà thảm, chiến tranh đưa dân mình tới những hoàn cảnh kỳ cục không thể tưởng được. Anh cứ ngó những người đứng lóng ngóng kia thì đủ rõ, ở đây có một đơn vị lớn của bộ binh Mỹ, họ nhiều khi ở trong rừng cả tháng mới trở ra, như vậy anh đủ hiểu… 

Có một số người mình thì có một quan niệm rất rõ ràng: bằng bất cứ cách nào kiếm được nhiều tiền, ăn cắp được nhiều, họ dùng mọi phương tiện. Ăn cắp ở đây không phải là ăn cắp nữa. Tôi đã vào nhà một người, bà ta làm lao công trong một sở Mỹ, trong nhà có nhiều thứ lắm, từ cái gạt tàn thuốc, những bộ tách uống nước, thôi thì đủ thứ… không phải bà ta mua đâu, bà ta ăn cắp dần dần mỗi lần một cái cốc, một cái dĩa, bà ta còn lấy được mùng màn, áo mưa, giấy lau… đủ thứ hết. Quả thật tôi không thể tưởng tượng được rằng làm cách nào mà bà ta mang được những cái rất cồng kềnh ra khỏi sự khám xét ngặt nghèo của những cơ sở Mỹ. Nhưng rồi tôi cũng được giải thích một phần nào, một phần thôi khi tôi tới cửa một cơ sở Mỹ vào lúc tan sở, những toán người ở trong đi ra đều bị khám xét bởi những anh lính Mỹ to lớn. Chừng như anh ta đã được huấn luyện một cách kỹ càng về những mánh lới của những người nhắm ăn cắp, anh ta lôi từ bụng chửa một người đàn bà ra một cái khăn tắm lớn, lôi từ trong quần một người đàn ông ra một cuộn giấy đi cầu, lôi từ trong búi tóc một bà già ra một cai ly… lôi từ trong đế giày ra một số dao cạo… Vậy đó, như vậy thì làm sao được. Nhưng người ta đâu chịu bó tay, một cô gái vừa tiến tới với anh Mỹ đã cười ngặt ngẽo, cô ta sát vào, ôm lấy eo, nhanh nhẹn hôn lên má anh ta một cái, thế là xong, anh lính Mỹ cười giơ tay vỗ vào mông cô gái một cái như tống đi thế là cô gái không bị khám gì hết, và anh hiểu rằng trong người cô ta, cùng cái xách chắc chắn sẽ có gì trong đó, một chai rượu là đủ rồi… Nhưng trông cảnh một bà già Tàu từ trong ra cũng ôm lấy anh lính Mỹ mà hôn thì tôi chịu không nổi tức cười… Để cho hôn, cho sờ, nhưng lấy được đồ là nhất rồi…

Cơn mưa đã ngớt hơn, người bạn cho xe leo dần lên dốc với tất cả thận trọng, mặt đường bùn đỏ trơn như mỡ… Bao nhiêu điều tôi đã thấy, đã nghe, những điều đó liên kết với nhau tôi có thể nhìn thấy một sự thật, nỗi cay đắng. Trở lại câu lạc bộ, đứng từ trong cửa sổ nhìn ra những ngọn đồi nối tiếp nhau, những núi, những con đường, màn mưa mỏng tôi thấy mình như lạnh đi…

Kontum 19-8-1968. Vượt qua quốc lộ 14, hơn bốn mươi cây số. Rừng xanh. Thiếu tá Báu ngần ngại khi nghe tôi nói muốn tới Dakseang, nơi đang diễn ra trận đánh. Ông ngại ngần vì hơn một tháng nay trực thăng không đáp xuống được… Một người bạn nói cho tôi biết tình trạng ở trong đó. Những người lính biên phòng có khi cả năm không ra khỏi đồn. Nơi đó chứa lương ăn, đạn và quan tài bọc kẽm. Một ông bố tới trại đưa xác con, đường bay bị cắt, ông bố ngồi đánh bạc hơn một tháng lúc ra được ông mang theo gần một triệu bạc về cùng với xác đứa con trai… Không có trực thăng. Tôi lang thang trong thị trấn với những giáo đường cổ kính, những con đường có cây cao xanh…

Phan Rang 15-10-1968. Tôi muốn thực hiện một chuyến đi dài. Khởi hành từ Sàigòn, qua Phan Thiết, ngừng lại Phan Rang. Mưa bão ập xuống. Bó người trong nhà.

Nha Trang 21-10-1968. Tôi đã tới Nha Trang được ba ngày, mưa bão tiếp tục đổ xuống vùng duyên hải, không thể tiếp tục đi Qui Nhơn như dự định… Mai trở lại Sàigòn…

Anh Q. Lần trở lại này tôi đã không được gặp anh, không được cùng nhau lặng lẽ bên những ly rượu, và sau đó phá lên cười… anh đang ở Sước Rũ, Khe Tre, Công trường 6, A Shau…còn nhớ không những câu thơ của Quang Dũng chúng ta đã đọc cho nhau nghe, nhớ không: Đêm đêm mơ chuyện làm khăn gói, để sớm mai rồi lại quẩn quanh…chính là thế, chúng ta đã quanh quẩn với những mộng tưởng, những phân vân giữa suy tưởng và hành động, chúng ta đã khôn quá, bịn rịn quá. Chúng ta đang đi, cũng khăn gói đó nhưng thực sự chúng ta không đi, không đi như điều chúng ta nghĩ phải làm. Chắc Q. còn nhớ hôm nào, một người đã chỉ vào mặt chúng ta: bọn chui vào vỏ ốc. 

Chúng ta chỉ biết cười chua xót. Chúng ta không chối được sự thực đó, chúng ta chỉ còn mỗi một cách thế, tự chúng ta trong những cố gắng cá nhân, chúng ta chỉ còn tư thế khiêm tốn trên điều mà tôi nói với anh: phục hưng lại một phẩm cách người…Phải giết đi bao nhiêu kẻ phải phá hủy đi bao nhiêu… những dơ dáy ngập lên tận mũi chíng ta phải chịu đựng, bao nhiêu nhược điểm chúng ta nhìn thấy. Chúng ta chỉ có thể làm trong hai điều, một là không làm gì hết, hai là xóa sạch đi rồi bắt đầu lại từ không có gì đó. Chỉ có thể, không thể làm khác… Thôi hãy uống đi, uống nhưng không được say. Nhớ anh vô cùng, những tan hoang còn đó…

B. Hôm nay anh ở đây nhưng anh nghĩ tới em những ngày đầu tiên sống trong quân trường, anh muốn có mặt ở Sàigòn để xuống thăm em trong những ngày đầu tiên sống với đời quân ngũ và để nhắc lại điều anh vẫn nói với em: bạn bè anh và bạn bè em đã có những người chết, hai anh em cách nhau mười năm của đời sống nhưng rồi chúng ta cùng ở trong một cuộc, chúng ta phải cùng nhau gánh chịu một thực tại chúng ta không mong ước, chúng ta đều không có tuổi thơ, không được sống trong thái bình yên vui, không được biết gì là hạnh phúc gia đình… Chúng ta chỉ còn lại một đời sống nhỏ bé…

 Chúng ta sống trong sự bất công, cùng mọi người chúng ta gánh chịu những bất công đó một cách đồng đều, trong bất công đó chúng ta hãy cố gắng làm cho bất công giảm đi, em nhớ không, như anh D. đã nói trước khi lên đường: mình ra mặt trận, phải ra vì sợ sau này khi hòa bình trở lại chỉ còn một mình sống sót, sự sống sót vô ích và buồn bã. Mong em vui với những bầu bạn mới, những người cùng chung cảnh ngộ như chúng ta, hãy nhớ một điều: ai sao ta vậy, việc người khác làm được thì chúng ta làm được, chỉ khác một điều: chúng ta chọn điều nào mà chúng ta cho là phải thì chúng ta làm. Khi trở về anh sẽ xuống thăm em…

Anh C. Tôi thông cảm những phân vân của anh, đời sống những người thân yêu, sự minh bạch ngay thẳng, trách nhiệm. Chắc anh còn nhớ một lá thư nào của T.: ta không biết làm chi hết, to be or not to be thì cũng ẩu như nhau. Nói vỡ nợ trước cuộc sống này, chính trị bẩn thỉu, nghệ thuật phù phiếm, yên ổn thì tồi tàn, chiến tranh thì phi lý hơn… Cho nên ta không biết xoay sở thế nào cả. Nghệ thuật có là một giải thoát không? Nghệ thuật chỉ cho ta và cho người yêu ta thôi… Sáng tác vẫn chưa chắc đã yên ổn trong tâm hồn khi nghĩ đến cái chết của bạn bè, của những thằng em và của những thằng học trò ngoài bãi chiến. Có lẽ ta chỉ còn cái chết để dâng hiến cho đời thôi, cho cả cái đám quần chúng vô ơn mà ta và cậu vẫn ghét cay ghét đắng. Những ngày rảnh rỗi đi chơi với những bạn bè để rồi mỗi chiều trở về nhìn nhau cười ngao ngán… Tôi nhắc lại về người đã vắng mặt, hay đã chết đó. Có điều tôi không đồng ý với một lựa chọn nào đó, nhưng như tôi đã nói với anh : tôi kính trọng thái độ đó, con người đó… Nỗi cay đắng khốn khổ của chung chúng ta…

Anh T. Tôi đã được thư của anh, thành thật xin lỗi anh chị, xin hứa sẽ ghé lại thăm, như anh đã biết công việc và những dời đổi không ngừng khiến tôi đã không ghé lại dự sinh nhật của cháu bé, đứa con nuôi của tôi, tôi cũng đã không có quà cho nó, nhưng tôi nhớ nó… Điều anh hỏi khiến tôi chẳng biết nói sao, có điều những gì xưa kia tôi đã nói với anh nay tôi vẫn tiếp tục, tôi không thể từ bỏ được. Buồn là nhiều lúc nhìn lại thấy những cố gắng của mình cũng trở thành vô ích, nhưng không phải vì sự vô ích hay hơn nữa vì vô vọng mà chúng ta không làm điều chúng ta nghĩ phải làm. Tôi chép lại đây điều mà Arthur Koestler đã viết: nhà văn có bổn phận xã hội, một công việc rõ ràng phải làm. 

Mỗi khi hắn viết một tác phẩm hắn như một người thuyền trưởng thực hiện một hành trình với những mệnh lệnh được niêm phong cất trong túi áo, khi hắn mở phong bì ra ở giữa biển cả, hắn nhận thấy những mệnh lệnh đều được viết bằng một thứ mực trông không thấy được. Không thể đọc được những mệnh lệnh đó, tuy nhiên hắn vẫn luôn luôn ý thức một bổn phận phải hoàn tất – bởi vì hắn đương chỉ huy một chiến thuyền chứ không phải một thuyền du lịch. Những mênh lệnh trong túi áo hắn có thể không đọc được nhưng vẫn có tính cách sai truyền cấp bách đem đến một ý thức trách nhiệm của hắn. Trong sứ mạng nhà văn ở đó sự lớn lao và cũng ở đó chướng ngại…

Anh K. Có thể anh đã không bằng lòng tôi, dù anh không nói ra, có điều về phần tôi thì tôi đã nói hết cùng anh: tôi dứt khoát với sự chọn lựa của tôi, tôi cố gắng sống như tôi mong ước. Tôi không có một ảo tưởng, một mặc cảm nào. Nào phải cho riêng ai. Tôi chịu ơn những người đã chết đi, hiện đang cố gắng để cho tôi còn được sống, và như thế tôi phải làm điều tôi nghĩ, tôi muốn được chia sẻ, tôi mong anh sống trọn được như điều anh nghĩ, không lừa dối mình và người khác…

Ng… dù ở đâu anh cũng chỉ nhìn thấy một cuộc sống gian nguy phải chấp nhận, chịu đựng, những cay đắng buồn phiền… chúng ta, nào đâu phải riêng chúng ta, cả dân tộc nhỏ bé nhưng kiên cường này, đã buộc chặt vào một định mệnh khắt khe… Trên quê hương ấy, trong cuộc sống ấy chúng ta gắn bó với nhau tình cờ… Anh đã đi trên những con đường chia cách, gian nan, hiểm nguy… những con đường đưa chúng ta đến những gặp gỡ bàng hoàng… Anh vẫn tự hỏi, con đường vô hình nào đã đưa anh đến bên em. Xưa kia mẹ anh dặn anh: con trai không được khóc, và em thì nói với anh một câu thơ: em sẽ không bao giờ để anh nhìn thấy em khóc đâu… chúng ta cùng giấu nhau những ngậm ngùi cảm thông… Có bao nhiêu điều anh không nói với em nhưng anh nghĩ em nghe thấy những tiếng nói đó…

Anh M. Tôi đã nhận được thư báo tin mừng của anh, tôi không biết có lời nào hơn là gửi lời chúc anh chị những ngày tới sống ở xứ người như sống trên quê hương thân yêu những ngày thơ ấu. Không, tôi nghĩ anh không phân trần một điều nào với bất cứ ai… Riêng phần tôi, tôi không thể làm điều gì khác, tôi tự gắn đời sống mình với quê hương với những người thân yêu, ở đó những bất hạnh và những vui tươi đằm thắm, những cay đắng ngọt ngào cùng với niềm kiêu hãnh chất ngất…

 Quê hương này là đất hứa, chúng tôi tự cắm thập tự trên đó cho chính mình… Sau này, tôi mong ước thế, thời gian địa ngục đã qua, anh sẽ trở về, nhưng tôi hỏi anh chắc lúc đó anh sẽ thấy sao mình không được sống như mọi người, những khổ đau làm thành hạnh phúc cho kẻ sống sót…

Sàigòn ngày 25-5-1962. Tờ sự vụ lệnh trong túi đợi chuyến bay đi Đà Nẵng và Huế… Lương đã mất một chân ở Đức Dục năm trước. Bình về Thủ Đức. Đính, Mẫn bị bắt ở Tân Lâm và Khe Gió. Quân đi Ban Mê Thuột. Hạnh đã dời khỏi Quảng Trị… Bây giờ những ai còn ai mất. Tôi nói với một người bạn: tôi chịu ơn quân đội, nói thế chỉ để nói: tôi chịu ơn những bạn hữu suốt trong 5 năm trong quân ngũ đã giúp tôi có được hoàn cảnh để di chuyển không ngừng. Tôi nhớ đời những người bạn và những ân tình…

Dương Nghiễm Mậu