Văn Lan
Thường Đức là tên của một quận lỵ xa nhất về hướng tây của
tỉnh Quảng Nam. Hầu hết phần đất của quận bao gồm một phần
của dãy Trường Sơn với những núi, núi, núi và núi. Một trong
những thôn xã trù phú nhất của Quận tên là Hà Tân nằm tựa
trên mũi sông nơi giáp lưu của con sông Côn đổ ra con sông Vu Gia.
Trên sườn đồi, về hướng tây, ở đầu xã là Trụ sở văn phòng
Quận và cũng là Chi Khu Thường Đức. Giáp lưng Quận, trên đỉnh
đồi là hậu cứ của Tiểu Đoàn 79 Biệt Động Quân (TĐ79/BĐQ). Đây
là một căn cứ do quân đội Mỹ thiết lập trước đây dùng làm nơi
xuất phát của những đơn vị Nhảy Toán bao gồm cả Việt và Mỹ.
Ngày 14 tháng 11 năm 1970, căn cứ được chuyển giao cho TĐ79/BĐQ.
Ngoại trừ dăm ba lần Tiểu Đoàn về đây dưỡng quân sau những cuộc
hành quân ở những vùng khác trên khắp Quân Khu 1, mỗi lần về
nghỉ khoảng hai ba tuần. Hầu như quanh năm, Tiểu Đoàn chỉ để
lại độ một Trung Đội, khoảng vài mươi người, để quản trị hậu
cứ.
Trên một ngọn đồi nhỏ kế cận, về hướng tây, gần như cách biệt
với Tiểu Đoàn là nơi đóng quân của Đại Đội 1. Vòng đai phòng
thủ cũng như nơi ăn chổ ở của toàn thể Đại Đội là những
lô-cốt, cách khoảng được nối liền bằng con giao thông hào. Nằm
giữa ngọn đồi là một căn nhà tôn, vách lá, dùng làm chỗ văn
phòng Đại Đội. Bên ngoài văn phòng có trồng năm ba cây làm
cảnh. Dưới sức nóng hừng hực của mặt trời, màu xanh của lá
cây trên một giải đất vàng vỏ chỉ toàn những sỏi đá, mang lại
một ít tươi mát cho những thằng lính xa nhà như chúng tôi.
Phía bên trái văn phòng Đại Đội là một căn nhà tôn không vách
dùng làm nhà ăn. Ngoài giờ ăn, đây là nơi duy nhất mà bọn lính
chúng tôi dùng để trốn nắng trong những buổi trưa hè oi ả.
... một trưa hè năm 1973
Trời nắng như thiêu đốt trên ngọn đồi bản doanh Đại Đội. Hầu
hết mọi người đều xuống dưới làng. Những ai có gia đình ở
dưới đó thì được về nhà. Đứa nào thuộc dạng con bà xơ nhưng
có tiền thì cũng xuống làng vào quán ăn uống đấu hót. Còn
đám con bà xơ, thuộc loại bần cố nông, còn lại như chúng tôi,
khoảng năm bảy đứa, thì tụ tập ở căn nhà ăn ngồi trốn nắng
và tán dóc trên những cái bàn ghế làm bằng những thanh gỗ
lấy ra từ những thùng chứa đạn.
Một thằng lên tiếng hỏi thinh không:
- Đứa nào có chuyện tiếu lâm nào hay hay kể nghe chơi?
Cả bọn ngồi im không có thằng nào trả lời. Một đứa, tương đối
có khả năng nói chuyện diễu hơn những đứa khác bèn nói:
- Tụi mày có nghe cái chuyện “Thỏi xúc xích của cái bà góa phụ với cái ông xã trưởng” hồi nào chưa?
Những giọng khác hỏi lại:
- Có phải cái chuyện ông xã trưởng đòi ăn cái khúc xúc xích ở trên cái bàn thờ đó không?
- Có phải cái chuyện này mấy ông Huấn Luyện Viên ở Dục Mỹ kể hở?
Đứa tính kể chuyện ầm ừ:
- Ờ, chắc chuyện đó đó.
Cả đám cười rộ lên rồi có tiếng gạt ngang:
- Thôi, kể chuyện khác đi mày. Mỗi lần nghe cái chuyện đó mà tao thấy ớn cho cái thằng nhỏ quá. Ghê bỏ mẹ.
Thằng tính kể chuyện bị cụt hứng nhăn răng cười thôi không nói nữa.
Một chặp sau, như nhớ ra chuyện gì nó bèn nói:
- Được rồi, có chuyện này hay lắm để tao kể cho tụi mày nghe.
Sau khi biết chắc ai cũng muốn nghe, nó bèn kể:
- Tụi mày còn nhớ hồi mình còn đóng ở Quân Đoàn không? Bữa
nọ, có chuyện, tao phải đi qua Bộ Chỉ Huy ở Non Nước làm giấy
tờ. Trên đường về, khi xe lam sắp lên trên cầu Trịnh Minh Thế
thì bị chặn lại. Phía trước có một cái xe Hồng Thập Tự với
một đám người đứng bao chung quanh. Tò mò, tao cũng đi tới coi
thử chuyện gì cho biết. Tới nơi, chen vô thì tao thấy có một cô
bé nữ sinh khá xinh đẹp, quần áo ước sủng nước, đang ngồi
trên cái băng ca thút thít khóc. Tao bèn hỏi người đứng bên
cạnh:
- Chuyện gì vậy?
Người đó chỉ cô gái rồi nói:
- Nghe nói cô này nhảy xuống cầu tính tự tử sao đó, nhưng may
sao có cái cậu kia nhảy xuống cứu kịp, chớ không thì ngủm cù
tèo rồi.
Vừa nói người này vừa chỉ về hướng một cậu thanh niên, quần
áo ướt mèm, mặt mủi quạu quọ hùng hổ, từ dưới bờ ruộng đang
leo lên lề đường nhắm về hướng đầu cầu đi tới. Nhằm lúc đó,
có một đám học trò đang đi xuống. Khi tới gần nhóm học sinh
thì nó dừng lại nhìn chằm chặp từng đứa như tìm kiếm ai.
Nhìn một lúc như nhận không ra ai, nó bực mình giận dữ la lớn:
- Đm, hồi nãy thằng nào xô tao?
Tự nãy giờ lắng nghe câu chuyện một cách say mê, bây giờ cả đám mới la lên cười rộ một cách thích thú.
o O o
Đang đấu hót chợt có đứa chỉ tay về hướng Tiểu Đoàn ở bên kia đồi:
- Ai đi về giống như ông Thường Vụ thì phải?
Chúng tôi cùng nhìn theo về hướng chỉ tay của nó. Phía bên kia
đồi Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn, ông Thường Vụ Đại Đội đang đi về,
theo sau ông có một nhóm người.
Không ai hỏi, một đứa ra vẻ rành chuyện giải thích:
- Chắc tụi lao công đào binh (LCĐB)?
- Sao mầy biết? Một đứa khác hỏi lại.
- Hồi nãy tao nghe ông Thường Vụ nói. Ổng nói tý nữa ổng qua
Tiểu Đoàn nhận mấy người lao công đào binh về làm tạp dịch hay
tải đạn gì đó cho Đại Đội.
- Rồi họ có theo mình đi hành quân không?
- Chắc vậy. Nghe nói họ bắt mấy người lao công đào binh đi tải đạn.
- Khổ quá hở! Một đứa chặc lưỡi.
- Thế có cho họ mang súng không?
- Sao mà mày khờ quá vậy. Giao súng cho nó rồi lỡ nó bắn mày rồi trốn đi thì sao?
Cả bọn im lặng theo dõi nhóm người đang tiến dần về hướng Đại
Đội. Có khoảng mươi người lẽo đẽo đi theo sau ông Thường Vụ.
Khi họ đến trước văn phòng đại đội, ông Thường Vụ ra lệnh cho
họ tập họp, dặn dò họ dăm ba điều gì đó rồi ông ra hiệu cho
họ tan hàng đi về phía nhà ăn, nơi chúng tôi đang ngồi, để
tránh nắng. Chắc cỏ lẽ họ là những người Lao Công Đào Binh vì
trông họ ăn mặc đủ loại quân phục thường phục, giày dép lộn
xộn.
Thấy chúng tôi đang hút thuốc, một người có dáng dấp “dân chơi
tỉnh lẻ”, trông có vẻ lớn tuổi hơn chúng tôi, đến gần.
- Đàn anh cho em xin một điếu thuốc.
Mấy cặp mắt hướng về chỗ tôi, tôi cũng bắt chước họ nhìn theo
hướng đó nhưng chẳng thấy ngoe nào nữa trừ tôi, tránh không
được, tôi miễn cưỡng móc túi lấy gói Basto mời vị này một
điếu. Thấy vậy, mấy người khác cũng tiến tới chìa tay xin
thuốc.
o O o
Nó là người đến xin thuốc cuối cùng. Lúc này, tôi mới có dịp
quan sát nó một cách rõ ràng hơn. Khi nhóm người LCĐB còn đang
tập họp trên sân Đại Đội, tôi nhận thấy có một thanh niên ở
vào trạc tuổi của chúng tôi. Trông nó có vẻ lạc lõng và cô
đơn trong nhóm người này. Nó mặc một chiếc áo nhà binh đã củ
rích và có phần tơi tả. Chân nó mang đôi dép nhựt đến gần đưa
tay xin thuốc. Trông nó không sạm nắng như chúng tôi hay những
người LCĐB khác. Mặt mũi nó trắng trẻo như thư sinh, tướng tá
có vẻ hiền hậu con nhà lành. Nhìn nó, không ai nghĩ rằng nó
đã đi lính, huống hồ chi là đã đào ngũ rồi bị bắt để thành
lao công như thế này.
Vừa chìa điếu thuốc đưa cho nó tôi vừa hỏi:
- Tên gì vậy mậy?
Nó đưa tay nhận điếu thuốc lá rồi trả lời.
- Dạ, em tên Sơn. Nó nhã nhặn trả lời.
Tôi không ưa lắm cái cách xưng hô “anh anh, em em” bá vơ ngay từ
khi còn ở ngoài đời. Tôi càng thấy chướng lỗ tai khi nghe cái
lối xưng tụng như thế này ở trong quân đội. Tôi thấy “trung sĩ
em em; đại úy em em; ông thầy em em ...” nghe nó không phải lịch
sự nhưng mang hơi hướm hèn hạ và cầu cạnh không thích hợp với
khẩu khí và tư cách của một quân nhân. Nó cũng như một số lớn
khác trốn nhà đi lính hay dùng cách đổi giấy khai sinh, cạo
tên, đổi tuổi, v.v... Tôi không nghĩ tên Sơn là tên thật cúa nó.
Mồi điếu thuốc xong, có lẽ nó cảm nhận được sự khó chịu của
tôi nên nó bèn lảng sang một góc khác. Nhìn nó ngồi một mình
quay lưng trông về dãy núi xa xa, tôi thấy nó thật là cô đơn
cũng chẳng khác gì chúng tôi cho mấy. Một lát sau, ông Thường
Vụ trở lại kêu họ tập họp rồi dẫn những người LCĐB đến một
lô-cốt kế văn phòng Đại Đội, chắc là chỉ cho họ chỗ ngủ.
o O o
Đến chiều, sau khi dùng cơm tối xong, trời hãy còn sáng nhưng
chúng tôi không quen ai ở Thường Đức nên cũng chẳng tha thiết
xuống dưới làng làm gì, thành ra cứ tụ họ̣p quanh quẩn ở cái
nhà ăn.
Thấy bọn tôi la cà ở nhà ăn nó bèn lân la qua làm quen. Một
thằng trong bọn tôi khi nhìn thấy nó đang đi dần tới bèn đứng
dậy đi về phía cái hầm của nó. Một chặp sau trở lại, nó cầm
trên tay theo một đôi giầy bô, đưa cho thằng Sơn:
- Nè, lấy cái này mang đỡ đi mày. Ở đây toàn là đá không à. Đi dép nhựt chịu sao nổi.
Thằng Sơn cảm động ra mặt, đưa tay ra đón lấy đôi giầy bố.
- Ê! Mà mang đôi giầy này vô thì mày không được tới gần tụi tao à.
Thằng Sơn đang loay hoay sỏ chân vô giầy nghe nói như thế bèn
ngước lên nhìn về hướng của giọng nói vừa phát ra có vẻ phân
vân lẫn chút thất vọng.
Đứa ngồi bên cạnh thằng Sơn bèn vỗ vai nó giải thích:
- Nó nói giỡn đó. Chắc mày cũng biết là giầy bố nó hôi kinh khủng như thế nào.
Thằng Sơn lúc này mới vỡ lẽ cười hì hì. Từ khi biết nó đến
giờ, đây là lần đầu tiên tôi thấy nó cười một cách trọn vẹn.
o O o
Trung Đội 3 là nơi có nhiều con bà xơ, độc thân vui tính nên nó
hay la cà đi theo. Vì cùng tuổi tác nên chúng tôi dễ hòa hợp
chơi thân với nhau. Chúng tôi cũng không so đo nên không ai trong
chúng tôi phân biệt lao công đào binh hay lính tráng. Nó cũng
biết thế nên lúc nào rãnh rỗi thì nó đi kiếm chúng tôi. Ngược
lại, đi đâu chơi, chúng tôi cũng hay dẫn nó đi theo.
Từ đó, nó theo Đại Đội đi hành quân khắp “Vùng Chiến Thuật”.
Mang tiếng là đi tải đạn nhưng thật ra những người LCĐB còn mang
đạn ít hơn chúng tôi. Còn nó, có lẽ nhờ vào tính tình dễ
mến, nên người ta chỉ giao cho nó mang một phần tiếp liệu nên
cũng tương đối nhẹ nhàng lắm.
o O o
Trận Thường Đức - Ngày N
- Ngày 28 tháng 7 năm 1974
Trời chưa sáng nhưng hậu cứ đã choàng dậy trong cơn mưa pháo.
Chỉ trong vài tiếng đồng hồ, hai ngọn đồi của hậu cứ Tiểu
Đoàn đã tiếp nhận hằng trăm, có thể hằng ngàn đạn pháo cũng
không chừng. Trời vừa hừng sáng, khi những bóng dáng của cộng
quân, lũ lâu la cô hồn đi gieo tang tóc, xuất hiện rồi kêu réo
xung phong. Tôi có dịp nhìn quanh địa thế. Quang cảnh thật là
điêu tàn. Tất cả mọi vật như thay đổi. Hình như không một viên
sỏi, hòn đá nào mà không bị lãnh đạn ít nhứt cũng một lần.
Cùng chung với số phận những người dân Thường Đức, nó cũng bị
ném quăng vào trong trận chiến. Tự dưng, nó cũng phải hứng
chịu những nghiệt ngã ngoài ước muốn của nó.
Trận Thường Đức - Ngày N+?
Chiến trường lúc này đang im lặng. Sự im lặng của bắt đầu một
màn tấn công tới, hoặc cộng quân đang tơi tả nghỉ xả hơi.
Tôi đang ngồi bệt dưới giao thông hào mơ màng nghĩ tới những cô
gái mà tôi có hân hạnh đựơc quen biết. Tôi tưởng tượng, tôi
trong bộ quân phục tác chiến, bám đầy bụi đường, còn vương mùi
thuốc súng, đưa các nàng đến quán cà-phê Thạch Thảo ở Đà
Nẵng vào buổi hoàng hôn. Trong ánh đèn màu lung linh huyền hoặc
với tiếng nhạc êm ái thoát ra từ giàn âm thanh Akai, bên tách
cà-phê phin pha một ít rượu rum, êm ái cầm tay các nàng, tôi sẽ
kể cho các nàng nghe những màn đánh nhau ngoạn mục còn hơn cả
những phim chiến tranh của Mỹ, và còn trội hơn cái tiểu đội
của ông Vic Morrow trong show Combat rất nhiều. Cái tiểu đội của
ông Vic Morrow chẳng thấm tháp gì so với những chàng Biệt Động
Quân thuộc Đại Đội 1, Tiểu Đoàn 79. Chúng tôi ngon đến độ mà
đạn cũng phải khớp, khi nó bay tới gần mà thấy Biệt Động Quân
là nó hoảng hồn rơi xuống đất nghe lụp bụp thấy tội lắm.
Đạn cứ sủi vào đất kêu lụp bụp từng chập. Từng tiếng đạn
phòng không quen thuộc từ trên cao độ ở dãy núi Pla-tô ở hướng
nam phía bên kia sông bắn sang. Đạn trúng đất kêu lụp bụp lụp
bụp. Tôi giựt mình nhìn quanh cầu nhầu:
- M, đạn ở đâu mà dư đến độ dùng cả đạn phòng không mà bắn
sẻ như thế! Tiếng súng mỗi lúc mỗi chát chúa dần dần tiến
về vị trí của tôi. Tôi đang kiếm cách thu mình cho nhỏ hơn, cầu
trời cho tai qua nạn khỏi thì nghe tiếng chân lụp xụp chạy
tới. Tôi vội liếc ngang qua coi thử đứa nào thì thấy thằng Sơn
thở hổn hển lom khom chạy đến. Đến chỗ tôi ngồi nó ngồi thụp
xuống. Tôi tính cằn nhằn nó ở đâu thì ở chỗ đó chứ chạy đi
chạy lại làm gì để cho nó bắn thì nó đã vội nói:
- Còn thuốc cho tao xin một điếu?
Nhìn nó hôm nay không ai nghĩ nó là LCĐB mà rõ ràng là lính
Biệt Động Quân thứ thiệt. Trên đầu nó mang một cái nón sắt,
chắc lượm được của ai đó. Cũng giầy, cũng bộ đồ trận, trông
nó cũng ngầu lắm. Thay vì mang súng M-16 như chúng tôi thì nó
lại cầm một cây AK với mấy cái băng đạn AK đeo “tòn teng” trước
bụng. Thấy tôi nhăn mặt nhìn khẩu AK của nó, nó nhăn răng cười
phân trần:
- Không biết cái nước thịt của tụi nó chui vô kẽ nào mà chùi
hoài cả ngày hôm qua tới giờ mà nó vẫn còn thúi.
- Sao không lựa cái nào sạch sẽ mà xài, chớ lấy cái này làm gì? Tôi hỏi nó.
- Cái này là sạch lắm đó mày. Cả một đống súng lượm vô, cây
nào cây nấy cũng dính đầy nước thịt xám xì, thấy mà muốn
mửa.
Tôi nhớ lại, hôm trước, vì đạn đã cạn dần mà không có tiếp
tế; để có thể duy trì khả năng chiến đấu, tiểu đội Trinh Sát
của đại đội 1 do Trung Sĩ Khâm chỉ huy đợi đêm tối mò ra ngoài
hàng rào phòng thủ. Họ dọ dẫm mò tới những nơi mà xác cộng
quân bị bỏ lại để thu lượm súng ống của địch hầu có thêm vũ
khí chống cự với địch quân. Dưới cái nóng cháy người của mùa
hè, ban ngày cũng như ban đêm, những xác chết của cộng quân bị
sình chướng và rục nát tiết ra những giòng nước nhờn nhờn
xền xệt mang một màu xám xịt. Chúng tôi không biết nên gọi cái
loại nước này là nước gì nên cứ gọi đại nó là nước thịt.
Chất nước xám từ trong xác chết của cộng quân chảy ra bám vào
những súng ống đạn dược nằm bên cạnh tử thi.
Đêm đó, sau khi nghe tin tiểu đội Trinh Sát của Khâm trở về, tôi
có mon men lên xem coi thử có cái nào còn xài được thì đem về
xử dụng. Chưa tới nơi, mùi xú uế từ trong đống vũ khí toát ra
làm tôi muốn nôn mửa. Tôi đã ngửi cái mùi này từ mấy ngày
qua nhưng chưa bao giờ có cái bất hạnh gần gủi như hôm nay. Có
thể nói, trên đời này, không có một mủi hôi mùi thúi nào mà
có thể qua mặt được mùi hôi này. Nó không những thúi mà nó
còn làm cho người ngửi phải rùng mình và nghẹt thở nữa.
Tôi mở bao thuốc lá đưa cho nó một điếu. Cầm điếu thuốc trong
tay rồi mà nó vẫn còn chần chừ chưa chịu đi. Thấy nó liều
mạng chạy xuống đây xin thuốc, còn tôi thì lúc nào cũng thủ
sẵn một cây thuốc lá trong ba-lô, vả lại, còn biết sống chết
bao lâu nữa nên tôi đưa hết bao Basto còn lại cho nó. Nó bèn cầm
lấy lom khom chạy ngược trở về phòng tuyến của trung đội 3.
Vừa thấy nó di chuyển trong giao thông hào, bên kia, đạn đại liên
phòng không lại ồn ào bắn sẻ sang.
Trận Thường Đức - Ngày N+10 – Ngày 7 tháng 8 năm 1974
Trời vừa hừng sáng, từng đợt pháo kích đã mở màn cho một
ngày mới. Cường độ pháo kích hôm nay có phần dữ dội hơn những
ngày trước, báo hiệu cho thấy có sự thay đổi chiến thuật.
Sau pháo kích, cộng quân bắt đầu dùng pháo bắn trực tiếp vào
những lô-cốt hoặc giao thông hào nơi Đại Đội 1 phòng thủ. Những
căn hầm nào còn chống chỏi được cho tới hôm nay cũng đã bắt
đầu rung chuyển. Từng đoạn giao thông hào dần dần bị san bằng.
Nơi Trung Đội 3 phòng thủ là nơi chiến đấu quyết liệt nhứt nên
trở thành là mục tiêu chính cho những khẩu đại bác từ bên kia
sông bắn sang.
Bị pháo kích, tuy có hãi hùng nhưng cũng còn đỡ hơn là bởi vì
đạn rớt khắp nơi nhưng không lọt một chổ nhất định. Chỉ khi
nào xui gặp phải trái đạn rớt kế bên mình, thì lúc ấy thân
xác mới bị rúng động vật vã. Tuy quằn quại nhưng cơ thể còn
có cơ hội phục hồi vì viên đạn kế tiếp có thể rớt ở nơi
khác nên thân thể có đủ thời giờ trở lại bình thường. Còn bây
giờ, đạn nó cứ nhắm chỗ mình bay tới vùn vụt, hết viên này
tới viên kia. Chỉ những tiếng nổ và sức ép của nó không thôi,
cũng đủ làm cho toàn thân co rúm tê liệt kéo dài cho đến khi
dứt pháo. Không ngôn ngữ nào có thể diễn tả được nỗi kinh
hoàng khi bị đặt vào trong hoàn cảnh bất hạnh này.
Mỗi một tiếng đạn nổ là mỗi lần lồng ngực như muốn vỡ tung
ra. Sức ép công phá của trái đạn đè bẹp xuống lồng phổi
khiến không làm sao thở nổi. Tới khi thở được thì bụi cát ùa
nhau bay vào trám đầy trong cuống họng. Tai ù, máu mũi chảy,
mắt mở không ra. Nếu có cố gắng hé ra được thì cũng chẳng
thấy gì vì bụi đá quay cuồn trên không che khuất hẳn mọi hình
mọi vật.
Từng quả rồi từng quả, những trái pháo liên tục nổ trên đầu tuyến phòng thủ của Trung đội 3.
Khi màn pháo phủ đầu vừa dứt, khi đám bụi mù cũng vừa tan
thì cộng quân bắt đầu tấn công. Bóng chúng̣ lố nhố dò dẫm sang
từ phía bên phòng thủ của Trung Đội 1 đã bỏ trống từ cả
tuần nay. Từ triền đồi bên hướng tây, một cánh quân khác cũng
bắt đầu tiến sang.
Đợi khi cộng quân vào hẳn trong tầm tác xạ, bên này phe ta bắt
đầu khai hỏa. Mặc dầu lúc này cộng quân có phần lợi thế hơn
những lần trước nhờ vào một số chướng ngại vật của ta như
một số hầm hố mà mình đã bỏ lại vì không còn khả năng trải
rộng phòng tuyến. Tuy nhiên, như những lần trước, bọn chúng̣ đã
phải chùn bước trước sự phản công mãnh liệt của Trung đội 3.
Nói rằng Trung đội 3 bởi đó là tuyến phòng thủ của Trung đội 3
chứ thật ra chỉ còn có năm ba tay súng của tiểu đội trinh sát
của Tr/S Khâm.
Có lẽ bên kia địch quân cay cú vì cứ bị bên ta đẩy lui. Từ trên
đỉnh núi bên kia sông, chúng̣ nhận thấy chiến thuật phá hầm
bằng cách cho bắn trực xạ có hiệu quả. Từ trên cao độ, cộng
quân cho pháo bắn thẳng xối xả vào những hầm hố nào còn nhô
ra trên mặt đất. Gồng mình hứng trận đòn thù, lần này chúng
tôi có cảm giác chúng muốn chôn sống những ai còn lại. Chúng̣
muốn dùng hầm hố và giao thông hào làm mồ chôn chúng tôi.
Dù có thành đồng cốt sắt cũng không làm sao có thể đứng vững
trước sự tàn phá khủng khiếp này. Lần lượt, từng cái hầm
bị sụp đổ. Từng đoạn giao thông hào bị san bằng. Một trái
pháo nổ ngay trên bờ hầm của Trung Úy Tẩm, Đại Đội Trưởng Đại
Đội 1, máu từ đầu ông chảy xuống che khuất một bên mắt.
Trên sân đồi, từng cột đất được móc lên quăng tung tóe trong
không gian. Trong bụi mờ, thằng Dũng, thằng Đức rồi Tr/S Khâm
khập khểnh theo giao thông hào đi xuống. Nhìn họ xuống tôi biết
chắc cái ngày sẽ đến rồi phải đến.
Khi thấy rõ tiểu đội Khâm đã rút về sau, cộng quân bèn ngưng
pháo cho bộ binh tiến chiếm. Bóng cộng quân bắt đầu lố nhố từ
bên vị trí của trung đội 2 dò dẫm tiến sang. Chúng tôi, chỉ
còn lại vài thước phòng tuyến bên này chia nhau đâu lưng bố
trí.
Tiếng thằng Tư trong máy báo cáo về Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn tình
trạng của Tr/U Tẩm và yêu cầu rút về bên đồi của Tiểu Đoàn
cố thủ.
Năm ba tên cộng quân nhảy lên thụp xuống tràn tới. Khi cộng quân
chỉ còn vài thước cách cái hầm của Trung đội 3 vừa mới xập.
Đột nhiên, từ bên trong hầm, một loạt đạn đại liên M60 bắn ra.
Vì không ngờ còn có người trong hầm, cho nên một số bị trúng
đạn kêu la chí chóe, một số khác vội lùi lại phía sau.
Đạn đại liên vẫn cứ nổ dòn; 3 viên - 2 viên; từng hồi một.
đùng đùng đùng - đùng đùng... đùng đùng đùng - đùng đùng...
Chúng tôi cùng nhìn nhau phân vân không biết đứa nào còn kẹt lại ở trong đó. Bỗ̉ng có tiếng la:
- Chắc thằng Sơn lao công đào binh?
Trung Sĩ Khâm tính dợm người lên, đi trở lại để phụ thằng Sơn.
Chưa kịp dượm bước thì tiếng đạn đại liên cũng vừa dứt. Cùng
lúc ấy, bóng thằng Sơn, từ trong cái miệng hầm lao về phía
chúng tôi. Tới nơi, nó thở hổn hển thều thào:
- Hết đạn rồi. Hết đạn rồi.
Chợt thấy Trung Úy Tẩm ngồi dựa lưng gần đó, nó nói:
- Tụi nó tới rồi, Trung Úy.
Có tiếng bên Tiểu Đoàn gọi qua. Thằng Tư cầm máy lên nghe. Nó
dạ dạ một vài lần rồi cúp máy. Quay sang Tr/U Tẩm nó nói:
- Đại bàng kêu zulu.
Từng người một rời khỏi phòng tuyến băng vội qua bên kia vòng
đai của Tiểu Đoàn. Ai qua trước xong thì yểm trợ cho lớp qua
sau. Sau khi tất cả đã qua hết bên này an toàn. Nhìn lại, tôi
thấy ba bốn tên cộng quân đang mon men tới gần nơi chúng tôi vừa
cố thủ trước đó không bao lâu.
o O o
Đại Đội 1 bị thất thủ kéo theo Đại Đội 3, rồi Tiểu Đoàn,
tiếp theo Chi Khu Thường Đức. Chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ
mà tình thế đổi ngược trở nên hoàn toàn vô vọng. Những tiếng
la kêu đầu hàng cuả bọn chúng vang lên, nhưng hình như từ ngữ đó
không nằm trong ngôn ngữ của chúng tôi.
Chúng tôi phối hợp với một số bên Đại Đội 3 di chuyển xuống
làng. Chưa bao giờ tôi cảm thấy ê chề khi bắt gặp những ánh
mắt xót xa của những người dân trông theo từ hai bên đường. Có
một số như đã chuẩn bị sẵn, khi họ thấy chúng tôi đi qua họ
bèn gồng gánh dắt díu nhau theo sau chúng tôi.
Đến cuối bờ sông bên này con sông Côn thì cả lính với dân không
thể di chuyển được nữa. Chúng tôi bây giờ được tăng thêm một số
lính Nghĩa Quân, Địa Phương Quân, Cảnh Sát, Cảnh Sát Dã Chiến,
Nhảy Toán v.v...
Có người nào đó kêu gọi những ai không bị thương nặng tập họp
lại. Tôi và một nhóm lính tráng đủ loại đi qua hướng vừa kêu.
Đến nơi, chúng tôi cùng đồng ý mở đường máu, theo đường làng,
song song với tỉnh lộ số 4 về Đại Lộc.
Hai chiếc ghe chở hai nhóm chúng tôi qua sông trước làm đầu cầu
cho dân chúng và những người bị thương qua sau. Nhờ vào sự
kháng cự khá yếu ớt, chúng tôi qua sông với chỉ hai ba người
bị xây xát.
Qua được rồi, chúng tôi ra dấu cho mọi người theo. Lợi dụng sự
thối lui của cộng quân, chúng tôi quyết định chọn lối đánh
thần tốc bằng cách vừa đánh vừa chạy với hy vọng thu ngắn
được quãng đường trước khi trởi tối, cũng như trước khi địch
quân có cơ hội tái phối trí.
Một điều chúng tôi không ngờ tới, với cách đánh này, con số
thương vong bị loại khỏi vòng chiến rất cao. Chúng tôi xông qua
được một thôn, đến thôn kế tiếp phải vượt qua một cánh đồng.
Khi vừa sắp tới đầu thôn thì bên kia cộng quân đã dàn sẵn bắn
ra sối xả. Không cách nào tiến thêm được, chúng tôi đành rẽ
trái ra lộ, băng ruộng nhắm vào bìa núi.
Trên cánh đồng, dân có lính có, dắt díu nhau chạy tuôn vô núi.
Trên con lộ, cộng quân không buồn dấu diếm, đi thản nhiên xả đạn
vào trong đám đông.
o O o
Sau khi vào hẳn bên trong cho đến khi những tiếng súng bắn đuổi
theo nhỏ dần thì tôi bắt đầu chậm lại. Đến một chỗ khá an
toàn tôi bèn nhìn quanh xem thử mình ở nơi đâu. Trong khi đang
loay hoay định hướng hình dung vị trí của mình trên cái bản
đồ, tôi nhớ mang máng trong đầu thì tôi gặp thằng Kiệt, thuộc
nhóm Nhảy Toán, và thêm một vài người lính khác nữa cũng vừa
trờ tới.
Trên đường vào núi, chúng tôi băng qua một lớp dây cáp điện
thoại. Thằng Kiệt và tôi cùng đồng ý là đám Việt Cộng có
thể sẽ đóng quân dọc theo bìa núi. Để cho an toàn, tôi đề nghị
nên di chuyển theo sườn núi cách khoảng một ký-lô mét song song
với bìa rừng. Nếu xuông xẻ, tôi nhẩm tính trong đầu là khoảng 3
ngày thì chúng tôi sẽ đến được Hà Nha.
Để tránh bị phát giác, chúng tôi cứ dọ dẫm đi theo triền núi
nên rất chậm chạp. Mãi đến chiều, xa xa tiếng nước suối chảy
nghe róc rách. Càng tới gần hơn thì chúng tôi nghe có tiếng
người nói chuyện líu lo. Đến gần nhìn xuống con suối tôi thấy
toát mồ hôi hột. Dưới suối, một đám con trai con gái súng ống
đầy mình đang giặt giũ tắm rửa ồn ào.
Đi thêm nữa thì không được. Mà lùi lại thì cũng không xong. Chì
cần một tiếng động mạnh thì cả đám sẽ bị tiêu tùng. Chúng
tôi bèn tìm chổ ẩn nấp chờ trời tối để vượt qua con suối.
Tôi và thằng Kiệt kêu khổ im lặng ngồi dấu mình trong bụi cây.
Trời nóng hừng hực, quần áo nhớp nhúa dơ bẩn làm người ngợm
ngứa ngáy khó chịu. Những con muỗi, con nhặng cứ đua nhau vung
vít bay qua bay lại không cho chúng tôi được yên thân. Chốc chốc,
một con gió nhẹ thổi qua làm cho những lá cây xao động tạo
thành những âm thanh rù rì trong cái tĩnh mịch của núi rừng.
Đột nhiên trong tiếng xào xạc của lá cây, có những âm thanh là
lạ xen vào. Tôi cố lắng nghe để tâm phân tích đoán thử cái gì
có thể tạo ra những âm thanh mới lạ thì tim tôi chợt thắt lại
khi nhận ra đó là tiếng động của những bước chân đang từ từ
tiến gần về hướng nơi chúng tôi đang trú ẩn.
Thằng Kiệt cũng đang nhận ra điều đó nên nó khẽ huých nhẹ vào
tôi rồi đưa mắt ra dấu về hướng của những tiếng chân đang tiến
dần tới. Tôi nhủ thầm, không lẽ bọn chúng đã khám phá ra
chúng tôi? Hay là bọn họ đang tuần tiễu? Thời gian như ngừng
hẳn lại. Mồ hôi trán tôi rịn ra. Hồi hộp, tôi chậm chạp đưa
ngón tay trỏ vào trong lòng cò súng của khẩu Colt.45, một khẩu
súng duy nhất tôi còn mang theo với vỏn vẹn một băng đạn.
Tiếng động của những bước chân tiến lại gần hơn. Chúng tôi
chong mắt nhìn qua bụi cây xem thử ai đó đến gần. Cứ mỗi một
tiếng bước chân nghe càng rõ hơn thì nhịp đập của tim tôi lại
càng thêm dồn dập. Khi bóng dáng họ hiện dần sau những lùm
cây, tôi thấy tất cả đều mặc quân phục. Tôi nhận ra có một vài
đứa thuộc Đại Đội 3 và có cả thằng Sơn trong nhóm.
Đến đây thì tôi mới thở dài nhẹ nhõm. Vừa mừng mà cũng vừa
lo. Mừng vì tưởng gặp cái họa nhưng không phải. Lo vì ngại đám
Việt Cộng ở dưới suối nhận ra bởi vì mấy vị này đi đứng có
vẻ hiên ngang lắm. Chờ cho bọn họ đến khá gần tôi mới lộ mặt
đưa tay ra dấu bảo tất cả im lặng.
Thằng Sơn kịp nhận ra tôi nên nó có vẻ mừng rỡ rón rén chui
vào bụi ngồi cạnh tôi. Mấy đứa còn lại cũng bắt chước nó
làm theo.
Dưới khe suối, đám Việt Cộng vẫn tiếp tục tắm rửa và giặt
giũ. Họ to tiếng và nói chuyện rất ồn ào. Tồi nhận thấy
giọng nói Miền Bắc của họ có vẻ lanh lảnh và the thé, chứ
không ấm áp và đài các như những người có giọng Bắc mà tôi
biết. Tôi nghĩ chắc mấy người này là người Thượng vì giọng
nói của họ không giống như giọng nói của những người ở thành
phố. Giọng miền Bắc của họ nghe không được êm ái và văn minh.
Một giọng nói mang những âm hưởng của người miền núi với
những âm thanh chát chúa. Trong tình trạng thập tử nhứt sinh như
lúc này, những âm vang của họ còn nghe như những tru tréo vọng
về từ cõi âm.
Ngồi chờ hoài cũng sốt ruột nên một thằng trong nhóm bèn có ý kiến:
- Tao có cách để tụi mình qua suối được.
- Bằng cách nào? Một thằng khác thầm thì hỏi lại.
- Lấy một nắm gạo xấy liệng vô trong núi.
Vài cái vai rung rinh với những tiếng cười khúc khích. Có một thằng ngây thơ thắc mắc:
- Liệng gạo sấy vô núi thì làm sao mình qua được?
Thằng bên cạnh vẫn còn cười giải thích:
- Mục đích tụi nó từ Bắc vô Nam là để kiếm cơm. Liệng mấy
hột gạo qua bên đó thì tụi nó sẽ giành nhau lượm. Lúc đó thì
mình cứ đi qua chớ tụi nó có còn thấy gì khác đâu.
Gìờ vỡ lẽ ra nó mới che miệng cười.
o O o
Sau một vài lần chạm trán với địch quân trong vài ngày sau đó.
Cuối cùng chúng tôi cũng thoát được về tới Hà Nha.
Sau khi biết chắc Hà Nha là vùng kiểm soát của phe ta. Chúng
tôi bèn lần mò trở ra con lộ.
Đến nơi, ngay bìa làng, cạnh con lộ, một văn phòng của Liên
Đoàn 14 BĐQ, với vài người lính của BCH Liên Đoàn, được thiết
lập trong một quán cóc. Kế đó, một chiếc xe Jeep và một xe
Hồng Thập Tự.
Thấy chúng tôi xuất hiện, họ mừng rỡ̉ dìu chúng tôi ngồi vào
ghế rồi mang ra những ly sữa nóng cùng một tô mì gói. Hỏi ra
thì được biết họ ở đây để đón những ai thoát về từ Thường
Đức. Bụng bị đói meo từ hơn mấy ngày qua, nay uống được ly sữa
nóng cộng với tô mì gói rồi làm thêm một điếu Ruby, đến đây,
tôi mới cảm được mình thực sự đã rời xa cỏi chết.
No ấm rồi, tinh thần tôi từ từ dịu xuống. Đảo mắt nhìn quanh,
tôi chợt thấy nơi đây thật thanh bình. Ngoài những mẩu đối thoại
trong quán, không một tiếng đạn đại bác, không một tiếng máy
bay oanh kích, không một tiếng la hét chém giết. Vài tiếng
súng nổ vang bắn ra từ đồi 52 gần đó. Khoảng năm bảy trăm
thước về hướng Tây, Tây Bắc là rặng núi Đông Lâm chạy dài về
hướng đông, nơi đây, cộng quân đang án binh chận đánh quân tiếp
viện lên giải vây Chi Khu Thường Đức. Lúc này thì tôi mới ngợ
rằng, thì ra đây là những tiếng súng vọng lên từ Hà Nha vào
những ngày đầu cuộc chiến. Thế mà chúng tôi cứ hăm hở kháo
nhau rằng đó là tiếng súng của quân tiếp viện đang đánh lên để
hổ trợ chúng tôi.
Sau khi ăn xong, thấy quần áo của thằng Kiệt, tôi và một vài
đứa khác máu me tùm lum nên họ đưa chúng tôi lên chiếc xe Hồng
Thập Tự. Còn thằng Sơn và một vài đứa lành lặn khác thì ở
lại với họ để về BCH Liên Đoàn nhập chung với Đại Đội 2 và
Trung Đội 2 của Đại Đội 1. Hai đơn vị nầy được giữ lại đây để
bảo vệ Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn khi Tiểu Đoàn bị điều động từ
Quảng Tín về để bảo vệ quận lỵ Thường Đức.
Trên đường đi về Tổng Y Viện Duy Tân ở Đà Nẵng, tôi thấy sinh
hoạt hai bên đường có phần hối hả nhưng không có vẻ khẩn cấp
lắm.
Xe chạy ngang qua nơi BCH Liên Đoàn 14, hiện giờ không còn một
Tiểu đoàn nào dưới trướng, đang đóng trên Núi Đất ven con lộ.
Từng dãy ăng-ten tua tủa chĩa lên trời. Xe lên người xuống tấp
nập.
Đến khi tới gần Đại Lộc, tôi thấy người người đi đứng buôn bán
rất là bình thường. Hình như họ không biết Cộng quân chỉ cách
nơi đây chừng mươi cây số. Hay họ đã quá quen với không khí
chiến tranh?
Trên đoạn đường từ Hà Nha về tới Đại Lộc, tôi chẳng thấy một
sự kiện nào để chứng tỏ rằng đã có những toan tính tiếp
viện hay giải vây Chi Khu Thường Đức. Tôi cũng không thấy lính Sư
Đoàn 3 mang ba-lô súng đạn đi ra chiến trường. Có thể tôi nhầm,
nhưng tôi cũng không thấy một đơn vị bạn nào di chuyển trên con
tỉnh lộ số 4 về hướng Thường Đức từ Đại Lộc, hay ngược lại.
Có dịp tập họp lần tới, tôi sẽ đề nghị Tiểu Đoàn nêu ý kiến
lên trên ghi công đặc biệt cho tiểu đoàn. Bởi vì hiếm khi có một
đơn vị cấp Tiểu Đoàn, hơn một nửa Tiểu Đoàn thì đúng hơn, với
một số vũ khí đạn dược hạn chế, mà được Quân Khu chỉ định
cử ra chọi với hơn cả một sư đoàn của đối phương, với vũ khí
hùng hậu dồi dào, mà lại chiến đấu đơn độc cho tới viên đạn
cuối cùng, cho đến khi không còn đất dụng võ. Bao nhiêu tuyên
dương, tôi thiết nghĩ, cũng chưa hẳn là vừa. Riêng tôi, tôi muốn
lấy các Anh Dũng Bội Tinh với ngôi sao vàng, để truy tặng mấy
thằng đã chết, mấy thằng bị thương bị bỏ lại, và những thằng
còn vất vưởng đâu đó ở trong rừng.
o O o
Sau khi được băng bó xong tôi bèn “dọt” qua Non Nước, Bộ Chỉ Huy
Biệt Động Quân Quân Đoàn 1 Quân Khu 1, để gặp Thiếu Úy Lục và
Trung Sĩ Việt bây giờ đang tạm thời làm việc như một BCH Tiểu
Đoàn dã chiến. Th/U Lục trước đây là Đại Đội Phó Đại Đội 1
nhưng bây giờ là Sĩ Quan Phát Ngân của Tiểu Đoàn. Còn thằng
Việt là bạn thân với tôi. Trước đây nó là Thư Ký Đại Đội và
bây giờ theo Th/U Lục đi phát lương.
Gặp nhau, thằng Việt mừng hoen nước mắt. Hàn huyên một chập,
tôi bèn kể về câu chuyện của thằng Sơn. Tôi đề nghị với thằng
Việt nên làm đơn kể về công lao của nó rồi xin nó được ân xá
phục hồi binh nghiệp cho nó. Nếu được, xin nó chuyển thành quân
nhân thực thụ của TĐ79/BĐQ. Thằng Việt nghĩ nó đang ở ngay tại
BCH Quân Khu nên nó có thể dàn xếp được.
Cầm giấy phép 29 ngày tái khám trong tay, tôi bèn dọt về quê
thăm nhà. Nghỉ chưa hết 2 tuần thì tôi đã bắt đầu chán ngán
nếp sống sinh hoạt của thành phố. Tôi cũng dần dà bớt thiện
cảm với những người bạn ngoài đời. Tôi thấy tôi không còn
thích hợp với thành phố. Tôi bèn về trình diện Tiểu Đoàn,
lúc này đang bổ túc tại Dục Mỹ. Đến nơi, trừ Đại Đội 2, còn
bao nhiêu đều là lính mới.
Không ai biết thằng Sơn lưu lạc nơi đâu. Có tin, BCH Liên Đoàn trả
nó lại cho An Ninh Quân Đội. Có tin, nó được phục hồi thành
lính Biệt Động và bổ sung về Tiểu Đoàn 78 Biệt Động Quân.
o O o
Từ đó, tôi không còn gặp thằng Sơn nữa. Hôm nay, viết lại những
nghĩa cử anh hùng xưa. Có người còn sống và cũng lắm người
đã chết. Họ tình nguyện chiến đấu và chấp nhận sự hy sinh.
Đây là bổn phận của người lính. Còn thằng Sơn, nó là Lao Công
Đào Binh, không ai bắt nó phải “quýnh” nhau nhưng nó vẫn nhập
cuộc một cách hoan hỉ. Vì vậy, bài viết đầu tiên tôi dành sự
trang trọng này cho nó.
Viết cho mày đó Sơn.
No comments:
Post a Comment