Thursday, August 29, 2019

Hội Bảo Tồn Truyền Thống QLVNCH tại Nhật





 


Đại Hội Gia Đình Mũ Đỏ VN Kỳ 39 - 2019 Nam Cali: Hoa Dù Hội Ngộ


Westminster (Bình Sa)- - Tiếp xúc với Mũ Đỏ Hoàng Tấn Kỳ, Chi Hội Trưởng Gia Đình Mũ Đỏ Orange County, Trưởng Ban tổ chức Đại Hội Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam Hải Ngoại Lần Thứ 39 được ông cho biết: Đại Hội lần nầy với chủ đề “ Hoa Dù Hội Ngộ”sẽ diễn ra trong hai ngày thứ Sáu ngày 30 và thứ Bảy ngày 31 tháng 8 năm 2019.
Đại hội quy tụ hơn 800 quý Niên trưởng, chiến hữu và gia đình về từ các Tiểu Bang Hoa Kỳ, các nước Âu Châu, Úc Châu, Canada và một số các chiến hữu đến từ Việt Nam, Đặc biệt kỳ đại hội nầy có nhiều Niên Trưởng là những Sĩ Quan cao cấp trong binh chủng Dù, các Quân Y Sĩ nhãy dù phục vụ trong các đơn vị Qua6n Y thuộc Sư Đoàn Dù…
Dạ tiệc Tiền Đại Hội sẽ được tổ chức vào lúc 6 giờ chiều đến 11 giờ đêm tại Nhà hàng Dimond Seafood Palace #3 địa chỉ 6731 Westminster Blvd, CA 92683 (714) 891-5347. (Dạ tiệc nầy chỉ dành riêng cho Mũ Đỏ và gia đình).
Dạ tiệc, văn nghệ mừng đại hội kết thúc sẽ diễn ra vào lúc 6 giờ chiều đến 11:30 tối Thứ Bảy ngày 31 tháng 8 năm 2019 tại Đại Sãnh Đường Khách Sạn DELTA MARRIOT HOTEL số 12021 Habor Blvd, Garden Grove, CA 92840  điện thoại (714) 867-5555 với sự tham dự khoảng 1000 chiến hữu, thân hữu và gia đình.
Chương trình có phần trình diễn văn nghệ của các nghệ sị thân hữu và một số anh chị em Mũ Đỏ khắp nơi trình diễn.
Kết thúc chương trình với phần dạ vũ trước khi chia tay nhau.
Được biết mỗi lần đại hội, các chiến hữu Gia Đình Mũ Đõ có chương trình bầu lại Chủ Tịch, Phó Chủ Tịch và các thành viên Ban Chấp Hành Gia Đình Mũ Đỏ Trung Ương, chỉ định đơn vị tổ chức trong năm tới…Tổng kết những công tác hoạt động trong năm qua của từng Chi Hội Gia Đình Mũ Đỏ. Hoạch định chương trình sinh hoạt cho năm tới…
Theo tài liệu nói về Sư Đoàn Nhảy Dù cho biết các vị Tư Lệnh Binh Chủng Nhảy Dù gồm có: Đại Tá Đỗ Cao Trí từ ngày 01 tháng 9 năm 1954 – đến tháng 9 năm 1956; Đại Tá Nguyễn Chánh Thi, từ ngày 01 tháng 9 năm 1956 đến năm 1960; Thiếu Tướng Cao Văn Viên từ ngày 12 tháng 11 năm 1960 đến năm 1964; Trung Tướng Dư Quốc Đống từ ngày 19 tháng 12 năm 1964 đến năm 1972; Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng từ 01-11-1972 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Muốn biết thêm chi tiết xin liên lạc:(714) 537 – 8817.
Việt Báo online

Tư Thắng để Chỉ Huy - Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam








Saturday, August 24, 2019

Thắp nhang < tưởng nhớ Tướng Quân -Ngô Quang Trưởng nơi Đèo Hải Vân

AE Thiện Nguyện Viên - Huế
Thắp nhang < tưởng nhớ Tướng Quân -Ngô Quang Trưởng nơi Đèo Hải Vân
Nhóm Thiện Nguyện. MĐ
Chào Cố Gắng

Monday, August 19, 2019

Bóng Ma Biên Giới" Nhảy toán vào vùng địch (Lôi Hổ Huỳnh Ngọc CĐ 1/XK/NKT) Bài viết và Audio book

Bomb CBU và mặt trận Phan Rang 1975
Phan Rang và những điềm lạ 4/ 1975
Theo lệnh hành quân của Đại Tá Chỉ Huy Trưởng Sở Liên Lạc, Đoàn chúng tôi sẽ cử 1 Toán vào tham gia phòng thủ tại Dinh Độc Lập cùng quân số với các Đoàn khác, một nửa quân số do Thiếu Tá Nguyễn Văn Được chỉ huy vào tham gia phòng thủ phi trường Tân Sơn Nhất, số còn lại gồm nhưng người tình nguyện gồm 4 Toán hành quân, Ban Tham Mưu dã chiến, sẽ do đích thân Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng Tống Hồ Huấn chỉ huy để sáng ngày 03-04-75 sẽ có một phi vụ đặc biệt chở toàn bộ ra Phan Rang ứng chiến, và đặt dưới quyền của Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi là Tư Lệnh Tiền Phương của Quân Đoàn 3. Ân huệ cho chúng tôi được ban ra do công điện của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu là mỗi người sẽ được đặc cách lên một cấp, cố gắng giúp Tướng Nghi thực hiện những nhu cầu hành quân mà quân bạn không đảm trách. Ngày 21-04-75 sẽ có quân số của Đoàn khác ra thay thế.
Từ phòng họp bước ra, chúng tôi nhìn nhau không ai nói câu nào. Vì chưa bao giờ có cái ban thưởng đặc biệt như vậy trong quân đội, hành quân thì hành quân, chuyện cơm bửa của lính, sao nay lại hứa hẹn trước sẽ thăng cấp khi xuống Phan Rang. Đại Úy Đặng Bá Lộc nói với Thuần và tôi: Tau chắc kỳ nầy đi khó quay trở lại. Thiếu Tá Huấn quay lui nhăn mặt: “Ê, Lộc nói bậy gì đó, anh em khác nghe được bàn tán rồi mất khí thế!”. Đại Úy Lưu văn Thuần cười khề: giỡn chơi thôi Thiếu Tá, đi không về là chuyện thường của Lôi Hổ, Kinh Kha thời đại mà... Nhưng tôi cấm không được nói với binh sĩ, Thiếu tá Huấn quay lại quắc mắt nói, Lê Đí, Lê Hưng, Nguyễn văn Ấn cả 3 cùng cười, nói nhỏ: “Lính Lôi Hổ tinh như ma, cả lãnh thổ Quân Đòan 3 đông nghẹt lính tứ tán chạy về, ai mà không biết chuyện gì xảy ra, bảo cho thăng cấp trước hành quân là chúng nó biết ngay. Mà anh em sống chết bên nhau lâu đời làm sao giấu được”.
Mỗi người một câu chúng tôi rồi cũng chia tay, ai về lo việc người đó. Cả Phi trường Phan Rang như đang tắm trong cái nóng của vùng cát nắng, từng đợt không khí loãng bốc lên chờn vờn như bầy thú hoang ngoài hàng rào phòng thủ của phi trường. ủa, mà sao lại vắng thế nầy, lính tráng đâu không thấy, thấp thoáng trong các căn nhà Bộ Chỉ Huy Hành Quân có vài người qua lại. Đơn vị chúng tôi được 2 vị Tướng chỉ huy mặt trận tiếp đón niềm nở ra vẻ ưu tiên và cho được nằm cạnh Phòng hành quân. Thỉnh thoảng có vài tiếng nổ của đạn pháo 130 ly ngoài xa.
Trên bầu trời bây giờ xuất hiện 3 chiếc A37 đang bay về, phiá sau 1 đoàn 6 chiếc trực thăng đang từ từ hạ cánh trước Bộ Chỉ Huy Hành Quân, chúng tôi thấy những binh sĩ Nhảy Dù lần lượt rời phi cơ, có một Đ/u đang tập họp, trong đám họ có người không có ba lô, có người không có súng, tôi tiến đến xem có ai quen thì ra Đại Úy Nguyễn Văn Bé bạn cùng khóa. Tôi hỏi bạn sao lính mầy lôi thôi vậy, Bé cười buồn, bọn tao bị tụi nó cáp duồn tại Khánh Dương, đánh nhau một trận tơi bời hoa lá mới ra thân thể nầy. Bây giờ nhận lệnh Trung Tá Phát Lữ Đòan Trưởng Lử Đoàn 3 Nhảy Dù, cho tái trang bị rồi chơi tiếp.
- À, mà Biệt Kích tụi mầy ra đây chi vậy? Biên giới mới là sân chơi của tụi mầy mà!
Tôi nói, “Lính mà em, đâu có giặc thì ta cứ đi!”.
Bé chửi thề một câu rồi chép miệng, “Nóng lắm nghe mậy, tình hình bi đát lắm đó! Tụi nó có đến 3 Công Trường, chưa kể thiết giáp, pháo phòng không và cả mấy trung đoàn tăng viện” Rồi Bé nói tiếp: “Tụi tao đụng bọn sư đoàn 3 sao vàng, toàn bọn lính trẻ con non choẹt, nhưng khổ nổi chúng nó đông quá, lại được yểm trợ tụi tăng T.54 và pháo tập. Bọn tao bị phục kích đánh chia cắt cô lập, không phương tiện yểm trợ như trước, bọn mầy cũng hãy coi chừng! Thôi, mai gặp.”
Tôi bắt tay cám ơn bạn, từ ngày ra trường bây giờ mới gặp nhau, chẳng có một ly bia để uống mừng hội ngộ, không kịp hỏi han về gia đình, chiến trường mà.!. Vào họp để nghe Chỉ Huy Trưởng Chiến Đòan ban lệnh, khi ra khỏi phòng thì trời cũng đã về chiều, Ngoài xa là một đơn vị bạn đang đổi tuyến. Tôi lầm lũi về vị trí tập trung để ăn cơm chiều. Đại Úy Nguyễn Văn Dẫn cũng đang đưa toán của anh đến gần và hỏi tôi thấy có gì lạ không. Tăng lùn và Phúc mát nhe răng cười: Tụi mình lâu nay đi làm ăn riêng lẻ, từng toán xa tít mù khơi, bây giờ hoạt động chung với Dù, Bộ Binh, Địa Phương Quân, lại có cả xe tăng, máy bay lủ khủ, đông vui quá xá, sợ gì chớ!
Thật vậy, đơn vị chúng tôi bao giờ cũng làm ăn lẻ, có đâu như bây giờ đông quá! Hải Đen xen vào: “Các anh nghĩ xem, đông như đại chiến thế nầy mới là nguy đó! Tình hình sao người ta mới đưa mình ra đây, lại còn cho lên lon trước nữa chứ, tôi không ham.!,
Nghe Hải nói có lý, tôi thầm nhủ, mình ra đây là do tình nguyện, mà không tình nguyện cũng phải đi. Tất cả quân Tổng Trừ Bị đều đã bị ném ra các vùng chiến thuật hết cả rồi. Thôi thì <Lôi Hổ ! Sá Gì > Đã vào binh chủng nầy rồi thì thân mạng có sá gì ...... chúng tôi thường bảo nhau như thế.
Đến 1giờ 40 phút trưa ngày 05-04-1975, tất cả 4 Toán đã nhận đầy đủ nhiệm vụ xâm nhập là truy tìm vị trí đóng quân của bọn xâm lược vc, phát hiện và báo cáo về Bộ Chỉ Huy Tiền Phương; bắt tù binh để khai thác ý đồ tiến công; thăm dò và hướng dẫn quân bạn thất lạc tại Khánh Dương trở về và cố tìm kiếm xem vị trí phòng không cũng như các đơn vị xe tăng của đối phương
....Những thông tin nầy rất quan trọng cho việc điều quân phòng thủ căn cứ Phan Rang, đã được Tướng Nghi quan tâm đặc biệt, ông cho biết Phan Rang bây giờ như yết hầu của cả Miền Nam, với quân số ít ỏi rất khó phòng ngự, mặc dù bên ta có lực lượng phi cơ tác chiến với tinh thần rất cao, nhưng ta đã mất điểm tiếp tế xăng dầu tại Cam Ranh, tất cả điều phải nhận từ Sài Gòn. Kho xăng dự trữ tại phi trường đã bị địch pháo kích, các ngày sắp tới sẽ được tăng viện thêm 2 trung đoàn bộ binh và có thể thêm một Lữ Đoàn Nhảy Dù... các toán Lôi Hổ phải thám sát kỹ mặt Tây Quận Tân Mỹ trải xuống Bắc và Đông Bắc Quận Du Long, trước khi các đơn vị bạn được điều động đến.
Chiến Đoàn 1 chúng tôi có 4 Toán tham gia trận nầy là Toán Hải Sơn, Hải Vân, Hải Yến và Hải Điểu do 4 sĩ quan cấp Thiếu úy chỉ huy, nhưng lúc nầy bảng công tác đã ghi cấp bậc mới là Trung úy, còn nhân viên toán cũng điều được Đại Úy Lộc ghi thêm 1 cấp, nhưng điều nầy chẳng mấy ai quan tâm. Đại Úy Thuần nói để hôm về SG sẽ làm lễ khao lon một lược cho vui, (nhưng điều nầy chẳng bao giờ đến với đơn vị chúng tôi nữa), Các toán được tôi hướng dẫn qua kho quân nhu của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân lãnh lương khô và trang bị hành quân.
Đến khoảng 4 giờ chiều thì các Toán trở về vị trí để trang bị. Tôi đến bắt tay mừng các Toán Trưởng như Trung Úy Trần Công Minh, Nguyễn văn Nhung, Nguyễn văn Tiếp và Đại Úy Nguyễn Văn Dẫn cùng chuyện trò với các anh em khác, Lệnh xâm nhập đã được ban hành: sáng mai lúc 9 giờ 30, Phi Đoàn 229 trực thăng sẽ bốc toán vào vùng.
Tôi đứng trước phòng họp của Bộ Chỉ Huy Tiền Phương cùng vị Chỉ Huy Trưởng Đoàn 1 và đưa mắt tiển theo các chiếc trực thăng mang đi những bạn mình vào vùng nguy hiểm, trong thâm tâm chúng tôi điều biết lần nầy may ít rủi nhiều, có cái gì rất khác những trận Quảng Trị, Hạ Lào, hay trận Lai Khê An Lộc mà tôi đã từng tham dự. Nhưng tôi không tài nào lý giải được. Nhìn cho khuất bóng những con tàu ở cuối chân mây, tôi thầm cầu nguyện Mẹ Quán Thế Âm, Mẹ Maria, xin độ cho những Kinh Kha ra đi hãy được trở về bình an!
Đến trưa, các Sĩ Quan Tiền Không Sát đã về, tin từ những toán xâm nhập báo cho biết vào vùng an toàn. tôi vào Phòng Truyền Tin để theo dõi thêm một lúc nữa, tình trạng các toán vẫn ổn. Có lẽ bọn địch chủ quan vì được tuyên truyền bên ta đã bỏ ngỏ Phan Rang, hoặc đang say men chiến thắng vì đã may mắn chiếm được Nha Trang không tốn một viên đạn, nên không chú tâm đến mối đe dọa đang rình rập: Biệt Kích Lôi Hổ đang săn lùng quân cướp chúng mầy. ...
Và những gì đến đã đến, Toán Hải Vân của Trung Úy Trần Công Minh đả tóm gọn được 2 cán binh thuộc công trường 968 đang gởi về làm quà ra mắt cho Trung Tướng Nghi, tiếp đến Toán Hải Yến cũng tóm được 1 tên cán binh quan trọng thuộc F.10 của sư đoàn 3 sao vàng. Toán của Đại Úy Dẫn và Trung Úy Tiếp cũng cho biết tọa độ đóng quân của 2 trung đoàn cs Bắc Việt thuộc sđ 325 chủ lực.
Bộ Tư Lệnh Tiền Phương bây giờ như có con mắt thần từ xa, Tướng Nghi báo về Sài Gòn xin cho ra tăng viện Lữ Đoàn 2 Dù và điều động 2 Trung Đoàn Bộ Binh 4 và 5 từ Bình Thuận ra. Còn sau đó là những gì thì tôi không được biết nhưng trưa ngày 9-4-75, thì tôi và Đại Úy Lê Đí cùng Long râu, Thắng Huế, lên một chiếc trực thăng, bên kia Đại Úy Thuần và các anh em khác như Ngyễn văn Ấn, Lê Hưng lên một chiếc khác bay ra hướng Du Long, phiá Tây Nam của Ba Ngòi và đáp xuống.
Nơi đây là một khu rừng thấp nằm trên triền một ngọn đồi, những cán binh Bắc Việt nằm ngồi ngổn ngang, có anh mắt đã lồi tròng trông rất khủng khiếp, có anh máu ra từ mũi, miệng, 2 tai, có người lưỡi thè ra gần một gang tay, người thì 2 tay cấu vào ngực, tôi thấy một người mặt còn rất trẻ, 2 tay nắm lấy khẩu CKC, tôi cúi xuống cầm khẩu súng nhưng không tài nào giựt ra được vì 2 tay anh ta nắm rất chặt.
Lê Đí báo về Bộ Chỉ Huy Hành Quân và liên lạc với Thuần đang ở mục tiêu khác thì tình hình cũng như bên nầy. Chúng tôi cố lượm vài khẫu súng K.54 và thu gom ít tài liệu từ những cái cạp-dề rồi vội vàng lên trực thăng để về báo cáo lại tình hình. Sau đó, Tướng Nghi và Tướng Sang gọi Trung Tá Tống Hồ Huấn lên để nói những lời khen thưởng anh em Lôi Hổ Nha Kỹ Thuật. Chính Trung Tá Huấn cũng không biết điều gì đã xảy ra.
Sau nầy ngồi bàn tán mới suy đoán được là nhờ sự phát hiện của Toán xâm nhập, Bộ Chỉ Huy Tiền Phương đã xin lệnh từ Sài Gòn và kết quả là 2 trái bom CBU đã được Không Lực VNCH qua sự chấp thuận của một người Mỹ mặc thường phục là sỹ quan đại diện của Tòa Đại Sứ Mỹ tại Vùng 2 hình như tên ông ta là Lewis (nói rất rành tiếng Việt đúng giọng cả 3 Miền) xin cấp trên của họ chấp thuận, nhằm mục đích ngăn chận sức tiến quân của bọn cs BV xâm lược, nhờ đó mà mặt trận Phan Rang mới cầm cự được thêm gần 1 tuần lễ và bọn cs BV mới có thể tạm thời rút quân lui về ẩn trốn tại khu vực Vườn Dừa và Ba Ngòi để chờ lệnh.
Cũng chính nhờ sức phòng thủ của tất cả các quân binh chủng bạn như các đơn vị Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, các chiến sĩ bộ chiến thuộc Sư Đoàn 2 BB VNCH, và nhất là sức chiến đấu ngoan cường của 1 Tiểu Đoàn thuộc Lữ Đoàn 3 Dù và Lữ Đoàn 2 Dù của Đại Tá Nguyễn Thu Lương mà Phan Rang đã được giữ vững suốt trong 2 tuần lễ, kể từ khi mất Nha Trang, nhờ đó mà Sàigòn có thêm cơ hội tổ chức chiến đấu để người Mỹ kịp đưa người di tản trước khi mất Miền Nam Việt Nam.
Rốt cuộc, Phan Rang mà chúng tôi nhận lệnh hành quân từ SG; không phải là bàn đạp để tái chiếm Nha Trang thân yêu, cái thành phố biển hiền hòa trong lòng người dân Việt, mà ngược lại, đây chỉ là thâm ý của giới chính trị Hoa Kỳ, biến Phan Rang thành một chốt chặn tạm thời để họ thu xếp cho cuộc di tản Sàigòn, và tất cả chiến binh tại mặt trận Phan Rang từ người lính cho đến cấp chỉ huy chung quy cũng chỉ là con chốt thí !
Tuy suy nghĩ như vậy, nhưng đã là chiến binh, chúng tôi, tất cả người lính của Miền Nam VN, trong mọi hoàn cảnh, đều luôn chấp hành triệt để quân lệnh trong nghiệt ngã gian nguy, nhằm mục đích chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc và an dân.
Sau chiến tranh, chúng tôi mỗi người một nơi, kẻ lưu lạc xứ người, kẻ bị đoạ đày trong trại tù khổ sai của bọn phỉ quyền cs, nhưng sau khi trở về đời sống dân thường vẫn giữ được khí tiết và sống đời trong sạch, không gian manh trộm cướp, nhũng loạn đồng bào.
Vị chỉ huy trực tiếp của chúng tôi là Trung Tá Tống Hồ Huấn sau khi ra tù, sang Tân Tây Lan theo sự bảo lãnh của người em vợ cũng đã trở thành vị Mục Sư Tin Lành, cho dù ông ta đã có vài lần xử ép tôi. Nhưng đó là quân đội, thi hành trước khiếu nại sau, phải không Trung Tá Mục Sư.

Suốt một đêm không ngủ trọn giấc, bọn cộng quân với ưu thế pháo binh do các nước quốc tế cộng sản quan thầy của chúng hỗ trợ ào ạt, còn bên phe ta QLVNCH thì kể từ năm 1972, các văn thư gởi đi từ Bộ TTM bắt phải gởi về các cấp số đạn pháo 105 ly, 106 ly không giật, cối 81 ly, gọi là đem về đổi. Nhưng đạn gởi về thì có, mà đạn đổi lại thì không,
Trời ơi, bọn xâm lược thì tha hồ bắn phá; làm mưa làm gió, còn bên ta phải rút cấp số đạn, trước xin 100 tràn, thậm chí 2,3 trăm tràng có liền, nay phải chờ quyết đinh từ Sư Đoàn, rồi năm sau chờ Quân Đoàn chấp thuận, mà lại bị giảm xuống chỉ còn 30 tràng, rồi 20, như hồi 1973 tại Trảng Lớn - Tây Ninh và năm 1974 tại Bình Long - An Lộc ...
Lý do được viết trong văn thư là các loại đạn không an toàn, yêu cầu đơn vị gởi về gấp, số phận của các loại đạn nầy đi về đâu thì tôi không biết, chỉ biết là chiến trường thiếu đạn, Xăng khan hiếm, các cơ phận quân cụ cho máy bay, xe tăng, thiết giáp, GMC,....đều không có trong bảng cấp số. Là một sĩ quan tác chiến hành quân tôi đâu biết gì hơn, nào Hiệp Định Paris , nào Liên Hiệp 4 bên ,....3 bên ...chi chì.... quá ư là rắc rối, tôi không đủ kiến thức trang bị để hiểu về chình trị. Bó tay !
Sáng hôm nay 7-4-75, tôi mượn đỡ bên Không Quân chiếc Jeep, kêu mấy ông Thuần, Đí và mấy nhân viên Toán như Hoàng Tăng (Tăng răng vàng) Trịnh Ngọc Cơ (Cơ hồi chánh) Phan Gia Thanh (Thạnh mập), T/S Nguyễn Văn Đại lên xe tìm đường ra thị xã Phan Rang tìm chút tươi mát (xin chớ hiểu chữ tươi mát nầy theo nghĩa trong nước bây giờ, ý tôi là tìm ít thức ăn như rau cải, cà mướp .....) , vì phi trường mấy lâu nay bị vây kín do áp lực của bọn du kích thổ phỉ địa phương, nên vị Chuẩn Tướng Tư Lệnh SĐ 6 /KQ ra lệnh nội bất xuất, ngoại bất nhập, còn ông Tỉnh Trưởng Phan Rang nghe đâu về SG họp, cơ số lính Điạ Phương Quân không ai điều động, nay ông mới trở về, chỉnh đốn các Tiểu Đoàn Điạ phương và an ninh Thị Xã Phan Rang được lập lại, Ông Tướng cho phép chúng tôi được ra ngoài để tìm mua thức ăn tươi.
Khi xe tôi chạy gần đến cổng số 1 thì gặp xe của Đại Úy Bé với 6 lính Nhảy Dù trang bị đầy đủ, Bé vẩy tôi lại và nói: Ê, mấy tướng Biệt Kích đi đâu vậy? Tôi nói ra ngoài phố tìm mua thức ăn tươi. Bé nói đi qua Tháp Chàm không được đâu, tụi vc đang ở trong tháp vừa dùng cối, và đạn bắn tỉa xưống đường, muốn đi thì tụi mầy với tụi tao phối hợp làm 2 mũi tấn công lên tháp, quân số của tao chia ra sợ không đủ sức yểm trợ cho nhau. Mầy tính sao ?
Tôi đang hội ý với Thuần và các anh em mình thì bị Bé chơi xỏ nói giọng khiêu khích: Mà thôi, Lôi Hổ thấy ngại thì để tụi tao xông lên làm thịt mấy thằng vixi, còn bọn mầy cứ ở đây chờ xem Lính Dù tụi tao làm...
Nghe mà phát tức, tôi nói: “Đánh lớn là sở trường tụi mầy, còn đánh gọn nhẹ là nghề của tụi tao nghe mầy, để tao lên trước cho”. Thế là chúng tôi chia nhau làm 2 tốp, vừa tiến vừa quan sát tình hình. Bé cũng dàn lính thành 2 tổ tiến lên phía Đông. Chúng tôi băng qua đường rầy xe lửa thật nhanh và nép sát theo độ dốc của ngọn đồi, Bên quân của Bé vừa tiến vừa bắn làm nghi binh trước mặt nơi con đường dẫn lên Tháp, chúng tôi lẳng lặng 2 nhóm âm thầm tiến ở mặt sau.
Khi gần đến chân ngọn tháp thì Thạnh dùng M.79 lảy liên tiếp 3 trái vào ô trống của tháp từ trên xuống dưới. Tưởng cũng phải nói Thạnh mập vốn là tay xạ thủ M.79, súng của hắn đã mài cơ bẩm, vừa bắn vừa thảy vỏ đạn 1 tay, tay kia nạp đạn là bắn liền 3 quả đạn đi mà nghe đâu như nổ cùng một lúc. Thạnh Zăngô là biệt danh của hắn.
Hướng trước có nhiều tràng đạn M16 của lính Dù, Trong tháp, bọn địch phản ứng yếu ớt, Tôi đưa điếu thuốc đang hút dở chuyền qua Trịnh Ngọc Cơ rồi tung người ném tiếp 2 trái Mini về hướng tháp, Đại cũng xả súng nhắm vào một tên rồi 2 tên đang bị áp lực của lính Dù đánh phía trước chạy nộp mạng cho chúng tôi. Hướng bên kia, Thuần và Tăng răng vàng cũng đang dùng lựu đạn thanh toán mấy tên du kích thổ phỉ, Toán của Bé vào tháp trước, hắn phất tay ra hiệu cho chúng tôi là đã thanh toán xong mục tiêu. Bây giò điếu thuốc cũng chuyền qua tay của Đại và về đến tay tôi.
Thế là xong, cái chướng ngại mà mấy anh Nghiã Quân chưa kịp ra tay đã được Nhảy Dù và Lôi Hổ phối hợp giải toả như trò đùa. Bé lấy cây cối 82 ly đưa ra nói: Ông cần cái nầy không, trong đó còn mấy khẩu B.41 nữa. Chúng tôi cười: “Lôi Hổ không cần chiến lợi phẩm, cũng không cần ai nhắc đến tên, hay công trạng gì cả, Chiến Sĩ Vô Danh mà bạn, ông cứ lấy đi. Rồi ra phố kiếm mấy con Tắc Kè Nhông làm một bưã sum họp”.
Bé tiếc rẻ từ chối vì còn phải đi dẹp mấy cái chốt nữa, “Chưa xong công việc đâu bạn, ông Tướng gọt đầu tụi tao bây giờ”! Cũng từ đó đến nay tôi không có cơ hội gặp lại bạn ấy nữa, xin chúc mọi sự bình an cho bạn ! (Đại úy Nguyễn Văn Bé, con của vị Thượng sĩ già Nhảy Dù, Cựu binh Điện Biên Phủ) Chúng tôi ra phố tìm được quán nhậu xập xệ, trước cửa treo lủng lẳng mấy con Kè Nhông.
Kêu một dĩa, hắn chém đến 500 đồng Hưng Đạo, thêm một đứa một tô cháo và uống vội vài chai 33. Xong bang ra khu chợ chồm hổm mua mấy bó hành ngò, rau cải, khoai lang và bí rợ, vì trong phi trường mấy bữa cấm cung , ông Trung Tá Không Quân cho phép chúng tôi hạ mấy con bò làm lương thực, bò ăn ngon nhưng nóng quá.
Khi đi ngang qua đám mấy người dân tụ tập chúng tôi hỏi thăm tình hình bà con, và được nghe họ kể một chuyện lạ tai: “Mấy anh biết không, mấy bữa nay không biết sâu róm ở đâu trong rừng cứ bò ra miết, từng đoàn từng đoàn như lính vậy, hết tốp nầy đến tốp khác như đi diễu binh vậy đó”. Tôi hỏi: Thưa bác vậy có biết chúng bò đi đâu không? “Thì chúng cứ nhắm hướng biển mà bò ra, rồi cùng nhào xuớng biển sóng cuốn trôi hết trơn” Thuần xen vào: “Hôm qua tôi có nghe anh lính Địa Phương Quân vào kể chuyện nầy, tôi không tin thật, nên bây giờ nhân tiện ra xem cho biết thực hư”.
Tôi nói không chừng tụi vc dùng lối tuyên truyền xám để gây hoang mang cũng nên. Chị lớn tuổi đúng kế bên bảo: “Các ông đa nghi thì thôi, tụi tôi đồng là vợ lính mình cả, không tin thì cứ ra quốc lộ thấy liền” Chúng tôi cám ơn chị rồi lên xe nhắm hướng đường chạy tiếp.
Năm phút sau thì quả thật, trên đường xác sâu róm nằm khô queo, xe của dân di tản chạy vào hướng Nam cán lên nát bấy mà chúng cũng cứ bò thản nhiên như không có chuyện gì xãy ra. Tôi muốn lần ra bờ biển xem cho biết, nhưng T/s Tiến nói thôi đừng đi, ngoài đó chưa an ninh. Chúng tôi quay vào chợ mà lòng ngổn ngang suy nghĩ vẩn vơ. câu nói sâu róm đi từng đoàn như lính nhào xuống biển...., tôi nhắc đi nhắc lại câu: “Như lính nhào xuống biển” ...
Quay lại tìm một quán cà phê, nhân tiện mua vài gói thuốc lá, thì lại nghe một câu chuyện lạ khác. Một anh lính Nghĩa Quân nói cho chúng tôi nghe là tại làng Thanh Thủy, quê hương của TT Nguyễn Văn Thiệu có Hòn Núi Dao, tự nhiên cục đá Dao trên đỉnh núi sau một cơn mưa đã lăn nhào xuống chân núi, vỡ làm 2 mảnh, mặt trong của 2 mảnh vỡ có hình ngoằn ngèo như chữ viết của người CHĂM. Ông Xã Trưởng cũng có nhờ mấy ông bô lão Chăm Pa ra tìm cách đọc, nhưng hình như không ai đọc được. Chúng tôi cũng hiếu kỳ muốn đi ra đó xem sao, nhưng trên đường xe cộ xuôi Nam quá nhiều; hơn nữa, lại còn phải đi vào phi trường, sợ ông Tướng Tư Lệnh cho đóng cổng thì bỏ mẹ.
Hồi còn nhỏ, tôi được truyền dạy ít kinh nghiệm về Phong Thủy, sau ngày vào lính nghe đâu có kỳ nhân dị sĩ là tôi vội sắm lễ vật đến yết kiến xin thọ giáo, nên tôi vận dụng những điều học được để khảo hạch, Như hồi cuối tháng 3/75, đang tuần gác doanh trại thì đêm hôm đó trên bầu trời chợt xuất hiện sao Thái Bạch (Sao Hôm và Sao Mai) di chuyển từ Đông sang Tây, nhưng lạc vào cung Hắc Đạo của vị trí Sửu - Mùi, phạm Trung cung, là Bạch Hổ nhập Trung, lại còn có tiếng khua vang len keng lập bập như đe dọa, Thiên Hổ Trướng Khưu Cơ của Đức Trần Hưng Đạo nói đó là điềm “Binh Tan Tướng Chết”, ngày mai lại nghe tin tại BTL/QĐ.3 Tướng Nguyễn Văn Hiếu bị ám sát, sau đó là cuộc rút quân cao nguyên, bây giờ lại thấy hiện tượng Sâu Róm bò ra biển, đá lăn trên Núi Dao.
Thật sự, ngọn núi Dao theo phong Thủy là ngọn Bút Kình Thiên, nghe nói mộ tổ của TT Thiệu được an táng phương Đông Nam của ngọn núi nầy, Núi ở Phương Tây Bắc thuộc cung Càn là Thiên Môn, chân mộ hướng Đông Nam là Địa Hộ, chung quanh có cồn cát trải dài làm thế Long Hổ, lấy cửa biển làm Minh Đường tụ thủy. Tôi chưa có dịp đến tham quan.
Hôm nay quả có điềm lạ xuất hiện là ứng sự không may cho quân mình, vì TT Thiệu là Nguyên Thủ Quốc Gia, nay lăng miếu bị phạm hung thì dân chúng miền Nam chắc cũng cùng chung số phận. Các bạn tôi thì vẫn tỉnh như rồi, bàn bạc về món thịt Tắc Kè Nhông của biển cát Phan Rang, hẹn nhau ngày về sẽ ghé vào xơi thêm lần nữa, nhưng đã hết cơ hội rồi bạn ơi. Lòng tôi cứ suy nghĩ miên man, về đàn sâu, về hòn núi đá ....
Ôi, Phan Rang có những điềm lạ ........
Phan Rang
(Lôi Hổ Huỳnh Ngọc CĐ 1/XK/NKT)
 
AUDIO BOOK

NỮ TƯỚNG NGƯỜI MỸ GỐC VIỆT ĐẦU TIÊN TRONG QUÂN ĐỘI HOA KỲ. Danielle J Ngô

Đại tá Danielle J Ngô vừa được thăng Chuẩn Tướng Lục Quân Hoa Kỳ - gia nhập Lục quân Hoa Kỳ năm 1990, và trở thành một binh sĩ thuộc Binh chủng Công binh, sau đó cô theo thụ huấn một khóa Sĩ quan và tốt nghiệp mang cấp bậc Thiếu úy vào năm 1994. Danielle J Ngô được thuyên chuyển lần lượt phục vụ tại các đơn vị Công binh như: Trung đội trưởng kiêm Đại đội phó Tiểu đoàn 62 Công binh; Sĩ quan phụ tá ban 4, Lữ đoàn 20 Công binh Nhảy dù; Sĩ quan Ban 1 kiêm Ban 3, Tiểu đoàn 37 Công binh Nhảy dù; Phân đội trưởng, Phân đội Công binh 610; Đại đội trưởng, Đại đội Chỉ huy, Tiểu đoàn 299 Công binh chiến đấu; Phó ban 4, Lữ đoàn 1, Sư đoàn 4 Bộ binh tham dự cuộc hành quân "Operation Iraqi Freedom I" tại Iraq. Là Sĩ quan thuộc Bộ tham mưu Liên quân (Joint Chiefs of Staff Intern) tại Washington D.C; Sĩ quan phụ tá phòng 5, Sư đoàn 1 Bộ binh; Phó phòng 5, Bộ tư lệnh các Lực lượng Hoa Kỳ tại A Phú Hản (OPERATION ENDURING FREEDOM Afganistan); Trưởng ban 3, Tiểu đoàn 1, Lữ đoàn 1, Sư đoàn 1 Bộ binh; Tiểu đoàn trưởng, Tiểu đoàn 52 Công binh; Sĩ quan Phụ tá Quân sự cho Chủ tịch Ủy ban Quân sự khối NATO tại Brussels, Bỉ quốc..
Cô được thăng cấp Đại tá vào tháng 8 năm 2014 và Chuẩn Tướng vào tháng 6 năm 2019.
Hiện Chuẩn Tướng Ngô đang nắm quyền chỉ huy Lữ đoàn trưởng, Lữ đoàn 130 Công binh Lục quân.

Đại Tá Tôn Thất Tuấn Tùy Viên Quân Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam

Đại tá Lục quân Hoa Kỳ gốc Việt Tôn Thất Tuấn, một thuyền nhân tị nạn cộng sản được Bổ Nhiệm Làm Tùy viên quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam.
Bộ quốc phòng Hoa Kỳ vừa bổ nhiệm Đại tá Lục quân Hoa Kỳ gốc Việt Tôn Thất Tuấn làm tùy viên quân sự Tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội Việt Nam thay thế cho Đại tá Lục quân Earnest Lee, Tùy viên quân sự tiền nhiệm mãn nhiệm kỳ trở về Bộ quốc phòng nhận nhiệm vụ mới. Đại tá Tôn Thất Tuấn là Tùy viên quân sự Hoa Kỳ gốc Việt thứ hai sau Đại tá Lục quân Hoa Kỳ gốc Việt Patrick D. Reardon Tùy viên quân sự nhiệm kỳ trước Đại tá Earnest Lee.
Văn phòng Tùy viên Quân sự Tòa Đại sứ Hòa Kỳ tại Việt Nam chịu trách nhiệm hỗ trợ trong việc phối hợp thực hiện chính sách quân sự của Hoa Kỳ, đồng thời là đại diện cho Bộ trưởng Quốc phòng, và Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương, và các cơ quan quân sự khác của Hoa Kỳ. Do đó Đại tá Tùy viên Quân sự chịu trách nhiệm phân tích và tường trình về những diễn biến quân sự tại Việt Nam trong bối cảnh về những vấn đề an ninh đang diễn ra trong khu vực và trên toàn thế giới, nhằm thông tin trong việc đưa ra những chính sách quân sự đối với Việt Nam và các nước Đông Nam Á. Văn phòng Tùy viên Quân sự cũng phối hợp tất cả các hoạt động về an ninh giữa quân đội Hoa Kỳ và quân đội Việt Nam tại các diễn đàn song phương và đa phương, cũng như trong mọi lĩnh vực hoạt động quân sự.
Đại tá Tôn Thất Tuấn, một thuyền nhân tị nạn cộng sản định cư tại Hoa Kỳ vào năm 1977, sau khi hoàn tất Đại học Southeastern Oklahoma State University, ông theo đuổi ước mơ phục vụ trong quân đội và trở thành một binh sĩ vào năm 1986. Đơn vị đầu tiên trong đời quân ngũ của ông là Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 30, Lữ đoàn 3, Sư đoàn 3 Bộ binh. Năm 1989, ông theo thụ huấn khóa sĩ quan và trỡ thành một Sĩ quan Bộ binh, từ đó ông lần lượt thuyên chuyển phục vụ tại các đơn vị như: Sư đoàn 101 nhảy dù (101st Airborne Division), Sư đoàn 1 Thiết kỵ (1st Cavalry Division), Bộ tư lệnh Thái Bình Dương (U.S. Pacific Command), Lực lượng hỗn hợp tìm kiếm tù binh và quân nhân Hoa Kỳ mất tích/Bộ quốc phòng (Defense POW/MIA Accounting Agency) v.v…
Đại tá Tôn Thất Tuấn đã từng phục vụ và chiến đấu tại Kuwait, Iraq và Afghanistan-Pakistan border. Ông được ân thưởng nhiều huy chương cao quý như: Bronze Star Medal, 
Defense Meritorious Service Medal with 2nd Oak Leaf, Meritorious Service Medal, 
Department of State Meritorious Honor Award, Ranger Tab, 
Parachute Badge, 
Air Assault Badge, and 
Combat Infantryman Badge. 
Ông được thăng cấp Đại tá vào năm 2012.
Trần Anh.

 Đại tá Tôn Thất Tuấn
một thuyền nhân tại Hà Nội.
Giao Chỉ, San Jose
Tùy viên quốc phòng Hoa Kỳ tại Hà Nội đến thăm San Jose
Tuần qua Việt Museum đã có dịp đón tiếp riêng đại tá Tôn Thất Tuấn hiện là đương kim tùy viên quốc phòng của tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội. Vào lúc 10 giờ sáng ngày thứ tư 11 tháng 1 năm 2017. Nhân dịp này ông Tuấn trình bày đặc biệt về việc trùng tu Nghĩa Trang quân đội Biên Hòa. Đại tá Tuấn là con trai một sĩ quan ngành Quân Cụ QLVNCH. Hiện là người giữ chức vụ quan trọng trong ngành ngoại giao và quốc phòng Hoa Kỳ. Chúng tôi chỉ mời một số quan khách giới hạn, quan tâm và hiểu biết về đề tài. Đặc biệt buổi họp mặt có sự hiện diện của ông Nguyễn Đức Cường, nguyên tổng trưởng kinh tế VNCH, giáo sư âm nhạc Trần Nhật Hiền, ông Lê Thái Phúc, đại diện hội Hải quân và Liên Hội cựu chiến sĩ, giáo sư Vũ Công Hiển Hội nhiếp ảnh Trúc Viên. Trung tá Công Binh Vũ Thượng Đôn, Trung tá Đỗ Hữu Nhơn, lực lượng đặc biệt. Về phía TV và báo chí có sự tham dự của ông Huỳnh Lương Thiện và Việt Vùng vịnh từ San Francisco. Ông Vũ Nhân SBTN.     
Hậu duệ VNCH và chuyện Nghĩa trang.
Trong chuyện viếng thăm đặc biệt Viet Museum đại tá Tuấn đi cùng vợ là bà Thu Hà con gái của đại tá không quân VNCH quê miền Hậu Giang. Hai ông bà đã có các con trưởng thành. Riêng con trai cũng là đại úy lục quân Hoa Kỳ. Hoàn cảnh của đại tá Tuấn hết sức liên quan đến ý nghĩa của Viện bảo tàng Thuyền Nhân và VNCH. Ông là thuyền nhân 16 tuổi và là hậu duệ của gia đình chiến binh miền Nam. Đặc biệt trong chức vụ hiện nay ông là người quan tâm và có cơ hội góp phần trực tiếp vào việc bảo tồn Nghia Trang Biên Hòa. Trong phạm vi giới hạn vì chức vụ không cho phép nên ông chỉ có thể thông báo vắn tắt một vài con số cụ thể. Tổng số phần mộ hiện nay còn lại trên 10 ngàn so với con số 16 ngàn được ghi lại trong tác phẩm của cơ quan IRCC phát hành năm 1993. Các phần mộ trùng tu được 5700 ngôi mộ. Mỗi ngày con số này gia tăng. Ông cũng gợi ý sau này Viet Museum có cơ hội đưa tất cả tin tức vào mạng điện toán có danh tính tử sĩ nào còn tài liệu ngõ hầu các gia đình và chiến hữu có thể tham khảo. Đồng thời về việc đóng góp, ông cho biết nên liên lạc thẳng với hội VAF do ông Nguyễn Đặc Thành là cơ quan đã mở đường và còn tiếp tục lâu dài. Đại tá Tuấn cho biết điều khó khăn là bước đầu trùng tu được trên 200 phần mộ đầu tiên mấy năm trước. Mặc dù có nhiều ý kiến khác biệt nhưng chỉ trong vài năm mà đồng bào từ khắp nơi đã âm thầm đóng góp từ Mỹ. Pháp, Canada và ngay cả Úc châu đạt được nửa đường. Trùng tu được tất cả các phần mộ hiện nay và tiếp tục bảo toàn lâu dài là đạt được mục tiêu căn bản. Đặc biệt có sự hiện diện của trung tá Đỗ hữu Nhơn thông báo các tin tức về việc đóng góp trực tiếp tại San Jose trong phạm vi liên hội cựu quân nhân và gia đình ông hoàn tất trên 300 phần mộ và sẽ còn nỗ lực tiến tới con số 500 trong tương lai.   

Trong buổi nói chuyện rất riêng tư nhưng cũng có nhiều tin tức rất lý thú về vai trò của một người lính Mỹ gốc Việt trong cấp bậc đại tá tùy viên tại Hà Nội nhưng vì còn tại chức nên không thuận tiện thu hình và tường thuật. Rất mong một thời gian sau chúng ta có thể đọc được hồi ký về một đại tá thuyền nhân trong nhiệm kỳ tuỳ viên Hoa Kỳ 3 năm tại Hà Nội.
Sau đây để quý độc giả có thể biết rõ hơn về đại tá Tôn Thất Tuấn, tôi xin gửi đến bà con các tài liệu của ông BMH đã phổ biến từ DC. Qua tài liệu này, khán giả có thể ghi nhận được người thiếu niên thuyền nhân Tôn Thất miền Trung xứng đáng là hậu duệ của QLVNCH. Trong hoàn cảnh hết sức tế nhị hiện bỏ tâm huyết lo cho nơi yên nghỉ cuối cùng của các tử sĩ miền Nam. Rất mong rằng ông hoàn tất được sứ mạng căn bản trong nhiệm kỳ hiện nay.
 
ĐẠI TÁ TÔN THẤT TUẤN
(TÙY VIÊN QUỐC PHÒNG-TÒA ĐẠI SỨ HOA KỲ TẠI VIỆT NAM)
Bài của BMH, VA.
Bộ quốc phòng Hoa Kỳ vừa bổ nhiệm Đại tá Lục quân Hoa Kỳ gốc Việt Tôn Thất Tuấn làm Tùy viên Quốc phòng Tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội Việt Nam kể từ 30/9/2015, thay thế cho Đại tá Lục quân Earnest Lee, vừa mãn nhiệm kỳ trở về Bộ Quốc Phòng nhận nhiệm vụ mới. Trước Đại tá Tôn Thất Tuấn có Đại tá Lục quân Hoa Kỳ Patrick D. Reardon, tên Việt Nam Nguyễn Đức Độ là Tùy viên Quốc phòng Hoa Kỳ gốc Việt đầu tiên tại Hà Nội từ năm 2009-2012.
Văn phòng Tùy viên Quốc phòng Tòa Đại sứ Hòa Kỳ tại Việt Nam chịu trách nhiệm hỗ trợ trong việc phối hợp thực hiện chính sách quân sự của Hoa Kỳ, đồng thời là đại diện cho Bộ trưởng Quốc phòng, và Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương, và các cơ quan quân sự khác của Hoa Kỳ. Do đó, Đại tá Tùy viên Quốc phòng chịu trách nhiệm phân tích và tường trình về những diễn biến quân sự tại Việt Nam, những vấn đề an ninh đang diễn ra trong khu vực và trên toàn thế giới. Những thông tin này được sử dụng để đưa ra những chính sách quân sự đối với Việt Nam và các nước Đông Nam Á. Văn phòng Tùy viên Quốc phòng cũng phối hợp tất cả các hoạt động về an ninh giữa quân đội Hoa Kỳ và quân đội Việt Nam tại các diễn đàn song phương và đa phương, cũng như trong mọi lĩnh vực hoạt động quân sự. Đại tá Tôn Thất Tuấn, một thuyền nhân tị nạn định cư Hoa Kỳ vào năm 1977 lúc đã 16 tuổi. Sau khi hoàn tất Đại học Southeastern Oklahoma State University, ông theo đuổi ước mơ phục vụ trong quân đội và trở thành một binh sĩ vào năm 1986. Đơn vị đầu tiên trong đời quân ngũ của ông là Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 30, Lữ đoàn 3, Sư đoàn 3 Bộ binh. Năm 1989, ông theo thụ huấn khóa sĩ quan, và trở thành một sĩ quan bộ binh. Từ đó ông lần lượt thuyên chuyển phục vụ tại các đơn vị như: Sư đoàn 101 nhảy dù (101st Airborne Division), Sư đoàn 1 Thiết kỵ (1st Cavalry Division), Bộ tư lệnh Thái Bình Dương (U.S. Pacific Command), Lực lượng hỗn hợp tìm kiếm tù binh và quân nhân Hoa Kỳ mất tích/Bộ quốc phòng (Defense POW/MIA Accounting Agency) v.v... Đại tá Tôn Thất Tuấn đã từng phục vụ và chiến đấu tại Kuwait, Iraq và biên giới
Afghanistan-Pakistan. Ông được ân thưởng nhiều huy chương cao quý như: Bronze Star Medal, Defense Meritorious Service Medal with 2nd Oak Leaf, Meritorious Service Medal, Department of State Meritorious Honor Award, Ranger Tab, Parachute Badge, Air Assault Badge, and Combat Infantryman Badge.  Ông được thăng cấp Đại tá vào năm 2012.
Đại tá Tuấn cùng hai chiến binh Mỹ gốc Việt tại bộ tư lệnh Thái Bình Dương. - Army Col. Tuan Ton, Pacific Command’s desk officer, (left) prepares a box of burn cream with Army Sgt. 1st Class Kelvin Ngo, and Sgt. 1st Class Phong Le, both from Joint POW/MIA Accounting Command, July 22, 2014, at Joint Base Pearl Harbor-Hickam, Hawaii. (U.S. Air Force photo/Master Sgt. Matthew McGovern)
 
Trùng tu Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa
Được sự đồng ý của Đại tá Tôn Thất Tuấn, xin chuyển đến Quý Vị lá thư ngắn của Ông gởi cho Hội Biệt Động Quân vùng Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận, dù vắn tắt nhưng cũng nói lên sự quan tâm đặc biệt của Ông sau lần đi thăm mới nhất Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa.  Ông cũng cho biết cuộc thăm viếng Nghĩa trang mới đây của đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Ted Osius vào ngày 16/10/2015.
Đồng thời ông cũng gởi kèm tài liệu, hình ảnh mới nhất của những mộ phần của tử sĩ QLVNCH, và việc trùng tu Nghĩa Trang trong thời gian qua của Hội Vietnamese American Foundation (VAF)…
Kèm theo là phần thông báo về buổi tiếp xúc với đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam ông Ted Osius của VAF… và đặc biệt lá thư đại sứ Ted Osius gởi nhị vị dân biểu thuộc Ủy ban Ngoại Giao Hạ viện Hoa Kỳ sau khi Ông  đến thăm Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa.
Xin mời Qúy Vị theo dõi để tường và tùy nghi thẩm định..
BMH
Washington, D.C
—————————————-
From: Tonfamily
Date: November 18, 2015 at 5:58:14 AM EST
To: bietdongquandc
Subject: Kính chào Hội BĐQ DC và phụ cận
Kính thưa quý bác, cô chú và anh chị Hội Biệt Động Quân DC và phụ cận, Dạo này qúy bác, cô chú và anh chị khoẻ luôn chứ?  Bên này Thu Hà và Tuấn vẫn bình thường. Công việc của Tùy viên Quốc phòng Hoa Kỳ tại Việt Nam tuy rất bận nhưng cũng có cơ hội đi lại đây đó trong mấy tuần qua như Huế và Sài Gòn.
Tuần vừa rồi Tuấn đi cùng anh bạn thuộc VAF đến thăm NTQĐBH.  Khung cảnh ở đây thật buồn nhưng được biết là 2,447 ngôi mộ cũng đã trùng tu xong do sự đóng góp của nhiều cá nhân và hội đoàn khác nhau [trong đó có Hội BĐQ DC&PC].  Khí hậu bên này ẩm lắm cho nên sau khi quét vôi trắng lên trên mộ được 5-6 tháng thì lại bắt đầu thấy rong rêu.  Thật là khổ ải trong việc bảo tồn nghĩa trang cho đúng lòng tôn kính của chúng ta!
Cũng xin báo qúy bác, cô chú và anh chị rõ là ông Đại sứ Ted Osius cũng đã đến thăm NTQĐBH vào ngày 16/10.  Ông nói với Tuấn ông đến thăm nghĩa trang trước là để tỏ lòng tôn kính đến sự hy sinh của những anh linh chiến sĩ VNCH nơi đây và cũng để chính ông có thể tự nhận định được tình trạng hiện tại của nghĩa trang. Gởi quý bác, cô chú và anh chị xem hình ông Osius đến thăm nghĩa trang và bản tổng kết trùng tu do VAF tóm lược.
Tuấn thiết nghĩ cộng đồng mình cần hợp lại công sức nhiều hơn nữa mới có thể làm xong việc trùng tu này.  Tuấn được may mắn đang làm việc với một ông Đại sứ có tầm nhìn rất xa và thiết tha với nguyện vọng của những người Mỹ gốc Việt.
Vài hàng thăm sức khoẻ qúy bác, cô chú và anh chị và cho Tuấn Hà gởi lời thăm đến Tổng Hội Biệt Động Quân.
Rất kính mến,
Đại tá Tôn Thất Tuấn, Lục quân Hoa Kỳ
Tùy viên Quốc phòng Hoa Kỳ
Đại Sứ Quán Hoa Kỳ – Hà Nội, Việt Nam
 
Lời phát biểu của Trung Tá Tôn Thất Tuấn, Lục Quân Hoa Kỳ - Đêm Hội Ngộ Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Trừ Bị Vùng Hoa Thịnh Đốn và Phụ Cận
Monday, September 13, 2010
Đêm Hội Ngộ Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Trừ Bị Vùng Hoa Thịnh Đốn và Phụ Cận - Lời phát biểu của Trung tá Tôn Thất Tuấn, Lục Quân Hoa Kỳ. Ngày 12 Tháng 9 Năm 2010 - Falls Church, VirginiaKính thưa quý niên trưởng Kính thưa quý Đại Diện Cộng Đồng Việt Nam Kính thưa Ban Tổ Chức (BTC) Kính thưa quý Cựu Chiến Binh (CCB) cùng toàn thể quý vị thân mến. Tôi xin phép được tự xưng là “tôi” trong vài phút tới đây để cùng thưa chuyện trong một khung cảnh tuy long trọng nhưng không kém tình huynh đệ chi binh. Thật là một vinh dự cho gia đình chúng tôi được đến dự đêm hội ngộ CCB hôm nay và tôi cũng rất hânh hạnh được chia sẽ với quý vị vài quan điểm và nhận định riêng của mình trên phương diện là một người lính, con của lính, rể của lính, anh của lính, và bây giờ cũng là cha của một người lính. Chân thành cám ơn BTC đã có lời giới thiệu về cá nhân tôi. Phải nói rằng tôi cảm thấy có một phần hơi hổ thẹn vì đã nhận lời để phát biểu mà thường được dành cho khách danh dự, bởi vì đối với tôi, trong đêm nay có rất nhiều bậc lão thành, có rất nhiều vị anh hùng, và có không biết bao nhiêu người đã không quản ngại đường xá xa xôi để đến tham dự tối hôm nay. Thật vậy, CCB là những vị anh hùng đã chiến đấu cho niềm tin chân chính, phục vụ cho lý tưởng của quốc gia, và hy sinh cả một đời người cho tổ quốc.Tôi rời Việt Nam lúc đó gần 16 tuổi nên cũng đã chứng kiến được nhiều cảnh hào hùng và anh dũng của người CCB – cương quyết, gian nan, và nhiều người cũng đã chịu đựng nhiều đau thương do hậu quả cuả chiến tranh, mà có thể nói rằng, khả năng chịu đựng đó ngoài sức tưởng tượng cuả chính bản thân tôi.Tôi được biết, CCB là những người có lòng quyết tâm và sự dũng cảm, đã chiến đấu hăng say cho tổ quốc và cho dân tộc cho đến những giây phút cuối cùng – tay cầm súng tay bồng con, tay cầm súng lưng cỏng mẹ, mà vẫn cầm súng với đồng đội cho đến khi không còn cầm được nữa.Tôi cũng đã được chứng kiến, CCB là những người có sức chịu đựng dẽo dai, kiên trì, có một sức sống thật mảnh liệt, để còn phải dìu dắt gia đình của họ qua những chặng đường nguy hiểm, chông gai, và đầy thử thách sau biến cố năm 1975.Tôi cũng rất kính phục, CCB là những người có sức nhẩn nại phi thường nhằm tạo ra mọi điều kiện thuận lợi và cơ hội tốt cho con cháu họ trưởng thành trên mảnh đất xa lạ nhưng đầy hứa hẹn từ thuở ban đầu, như cha mẹ của chúng tôi đã tạo cơ hội cho vợ chồng tôi và ngay cả cho các con của chúng tôi.Ngay trong giây phút này, tôi xin quý vị hãy cùng tôi tạm ngưng lại những gì vừa gợi nhớ trong trí óc của chúng ta, để cùng chụp lại những hình ảnh kiêu hùng trong quá khứ cuả người lính Việt Nam Cộng Hòa. Tấm hình đó chính là món quà cuả tôi xin trao tặng đến tất cả quý vị CCB trong đêm nay để đánh dấu sự hy sinh cao cả của một người lính, người anh, người chị, người vợ, người chồng, người cha hay một người mẹ.Tôi vừa mới về lại đây tối hôm qua sau một tuần lễ đi công tác ở Việt Nam. Chuyến đi này cũng như 18 lần đi công tác trước đây, đều tốn ít nhất là một ngày đường mệt mỏi mới tới Việt Nam. Nhưng riêng lần này tôi có mang theo một cái ví tiền nhỏ màu nâu, trong đó có những tấm hình của những người mà tôi chưa bao giờ gặp, để hoàn lại cho thân nhân hoặc gia đình của họ còn ở Việt Nam. Bởi vì trong một trận cận chiến tại tỉnh Gia Định vào ngày 11 tháng 2 năm 1968, một người lính Mỹ đã chính tay anh giết chết kẻ địch của mình là một Cộng quân, rồi anh ta đã lấy đi cái ví tiền màu mâu này đem về Hoa Kỳ để làm kỷ vật chiến trường. Nhưng mãi cho đến 2 tuần trước đây, người lính Mỹ này đã nhận định rằng, cái ví tiền mà anh cất giữ bấy lâu nay, đã kéo dài một thảm kịch tinh thần cho chính anh trong suốt bao nhiêu năm qua. Cuối cùng anh đã nhờ tôi đem trả kỷ vật này về lại cho Việt Nam. Ngồi trên máy bay, tôi thầm nghĩ, chẳng lẻ phải cần tới 42 năm trong cuộc đời để người cựu chiến binh Mỹ này có thể xóa đi những hận thù trong cuộc chiến, và để có thể tìm lại sự bình an cho chính anh hay sao!
Tôi nhận thấy quá khứ đã để lại nhiều bài học, thành công cũng như thất bại. Con người không thể thay đổi được quá khứ, nhưng nếu quá khứ được nhận định một cách chính xác, thì chắc chắn con đường dẩn đến tương lai sẽ được rõ ràng và tốt đẹp hơn. Cũng vì chuyện cái ví tiền này làm tôi gợi nhớ một câu chuyện khác đã xảy ra cánh đây không lâu. Tôi không biết đầu đuôi câu chuyện này đã xảy ra như thế nào trong một cửa tiệm ở khu Eden, nhưng lúc đó có một người đàn ông vừa bước ra khỏi tiệm thì ông ta nói ngay với một giọng nói rất là bực tức: “Qua đây tị nạn mà cứ đòi hỏi được như Mỹ, không biết cái thân phận gì hết.” Tôi đã không đoán được ngụ ý của ông ta là như thế nào, nhưng vì lúc đó tôi đang đợi vợ tôi ở bên vỉa hè và cũng vì hơi tò mò, nên tôi đã mạnh dạn bước đến vài bước để trao đổi vài câu tâm sự với ông ta. Kính thưa quí vị, trong mỗi người chúng ta ở đây cũng đã có rất nhiều hoàn cảnh khác nhau khi đến Hoa Kỳ. Thật vậy, một số người trong chúng ta một thời đã làm người tị nạn, nhưng hôm nay chúng ta không còn là những người tị nạn nữa. Chúng ta vượt qua mọi gian nan và nguy hiểm để đi tìm tự do và đã tìm được tự do trên đất nước thân yêu và đầy hy vọng này. Đối với tôi, chúng ta cũng không phải là người Việt Nam hải ngoại hay là Việt kiều, bởi vì những danh từ đó có một tính cách chính trị, biểu hiệu cho một người công dân mang quốc tịch Việt Nam đang tạm trú, đi học, hoặc đi làm ở nước ngoài. Chúng ta ở đây là những người Mỹ gốc Việt với niềm tự hào, vì ít hay nhiều, trong mỗi người chúng ta cũng đã, đang, và sẽ tiếp tục đóng góp cho sự phồn thịnh và an ninh của nước Mỹ mình.Từ chiến tranh vùng Vịnh cho đến chiến trường bảo vệ tự do hôm nay ở Iraq và Afghanistan, đã không một lần vắng bóng hay thiếu sự đóng góp với nhiều khả năng khác nhau của những người lính Mỹ gốc Việt; và trong đó có 12 người lính Mỹ gốc Việt đã anh dũng hy sinh tại Iraq và Afghanistan. Anh em thế hệ chúng tôi vẫn tiếp tục bước trên con đường hào hùng, anh dũng, nối tiếp theo những nét vàng son trong hình ảnh kiêu hùng của qúy CCB đã ghi lại, và thi hành bổn phận của người công dân xứng đáng như mọi người công dân Mỹ khác ở đây. Kính thưa quý vị, khi chúng ta chấp nhận đứng vào trong vị trí xứng đáng là công dân của nước Mỹ, thì chúng ta sẽ có được một tiếng nói rõ ràng hơn, không những hợp thức hơn, mà còn gây được nhiều ảnh hưởng thiết thực hơn, để dìu dắt cho thế hệ sau được hưởng một tương lai đầy hứa hẹn. Đối với tôi, quý CCB luôn luôn là những vị anh hùng!
Chân thành cảm tạ toàn thể quý vị và xin kính chào.
Giao Chi San Jose.   giaochi12@gmail.com  (408) 316 8393

Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng - Đinh Thế 405

Tướng Lê Quang Lưỡng sinh năm 1932 tại tỉnh Bình Dương. Thời niên thiếu, học hết bậc Tiểu học tại tỉnh nhà ông lên Sài Gòn theo học tại Trường Trung Học Petrus Ký. Sau khi lấy bằng Thành Chung ông gia nhập vào quân đội và xuất thân Khóa 4 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, cùng khóa với Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu, Đại Tá Lê Văn Phát…
Ngay khi vừa mãn khóa vào ngày 1 tháng 06 năm 1954 ông tình nguyện sang Binh Chủng Nhảy Dù (ND) và được gởi ngay ra Bắc bổ sung cho Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù với chức vụ Trung Đội Trưởng của Đại Ðội 52 ND. Từ đó ông đã trải qua các chức vụ chỉ huy từ cấp Trung Đội Trưởng (Thăng cấp Trung Úy tháng 6/1956), Đại Đội Trưởng (Thăng cấp Đại Úy tháng 11/1963), Ban 3 Tiểu Đoàn rồi Tiểu Đoàn Phó.
Năm 1965, Ông được đi du học về “Tác Chiến Trong Rừng Núi Sình Lầy” tại Mã Lai Á. Tại quân trường, ông đã trình bày chiến thuật tấn công và tác chiến theo quan điểm của riêng ông được tất cả các huấn luyện viên đều chú ý và thán phục. Đến tháng 9/1965, về nước với bằng tốt nghiệp Thủ Khoa, ông được Tướng Dư Quốc Đống chỉ định nhiệm vụ thành lập và giữ chức Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2ND tại Trung Tâm Huấn Luyện Quốc Gia Vạn Kiếp ở Bà Rịa.
Trong buổi lễ xuất quân của TĐ2ND vào tháng 1/1966, Đại Tá Lý Thái Như Chỉ Huy Trưởng TTHL/QG Vạn Kiếp đã Chủ Tọa và trao gắn cấp bậc Thiếu Tá cho Ông.
Sau buổi lễ xuất quân, Tiểu Ðoàn 2 ND về trấn giữ vòng đai Biệt-Khu-Thủ-Ðô vừa chỉnh trang đơn vị, vừa tái huấn luyện tại chỗ. Chính ông đã đứng ra hướng dẫn tất cả Sĩ quan cũng như binh sĩ về chiến thuật và kỹ thuật tác chiến của Nhảy Dù và ngay sau đó TĐ2ND đã tham chiến tại khu phi chiến, tại đồi 1416 trên đỉnh Ngok Wank quân khu II, tại khắp các mặt trận ở các quân khu và đã từng gây kinh hoàng khiếp vía cho bọn giặc cộng xâm lược không thua bất cứ một đơn vị Nhảy Dù kỳ cựu nào khác.
Cuối năm 1967, ông sang Okinawa du khảo và học hỏi về Chiến thuật phản tình báo và chống chiến tranh du kích. Ngày 25/1/1968, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Lữ Ðoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù thay thế Trung Tá Hồ Trung Hậu, đánh đuổi quân Cộng Sản ra khỏi Huế và Quảng Trị trong trận chiến “Tổng Công Kích năm Mậu Thân” của CS.
Sau trận nầy ông được thăng cấp Trung Tá tại mặt trận vào tháng 4/1968. Và cũng trong chức vụ LĐT/LĐ1ND ông được thăng cấp Ðại Tá tại mặt trận vào tháng 9/1969 sau các cuộc hành quân tại Tây Ninh để tiêu diệt các đơn vị CS lẩn khuất trong khu vực Chiến Khu C và đưa chiến trường ra khỏi lảnh thổ Quân Khu III qua bên kia biên giới.
Kể từ đây, ông đã tham gia hầu hết các cuộc hành quân làm nên lịch sử của SĐND, như là Chiến dịch Bình Tây Kampuchea 1970, Hành Quân Lam Sơn 719 trên đất Lào vào tháng 02 năm 1971, giải vây An Lộc tháng 4/1972, Hành Quân Lam Sơn 72 trong chiến dịch Lôi Phong tái chiếm Quảng Trị vào tháng 06 năm 1972, và cuộc hành quân tái chiếm Thường Đức vào tháng 08 năm 1974. Trong ba cuộc hành quân đầu, Tướng Lưỡng đã tham dự với tư cách Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, trong các cuộc hành quân về sau Tướng Lưỡng đã điều quân với tư cách là Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù.
Trong trận chiến giải vây An Lộc năm 1972, tài điều binh của ông đã được đưa vào chương trình nghiên huấn của Trường Quân Sự Command and General Staff College (Đại Học Chỉ Huy & Tham Mưu) ở Fort Leavenworth, tiểu bang Kansas, Hoa Kỳ sau hai danh tướng Tôn Tử, một thiên tài quân sự nổi tiếng của Trung Hoa thời Xuân Thu Chiến Quốc (722 – 480 TCN) và Erwin Rommel (1891 – 1944 có biệt danh là "the Desert Fox") một tướng lãnh lừng danh của Đức Quốc Xã vào đệ nhị thế chiến.
Trong trận chiến nầy ông đã phối hợp chiến thuật phân tán mỏng các đơn vị Nhảy Dù để bao vây, dùng các Tổ Khinh Binh đột kích vào các chốt của bọn cộng phỉ rồi dùng Phi Pháo và Pháo Binh tiêu diệt địch để phá vỡ chiến thuật Chốt Kiềng của bọn cộng phỉ tại suối Tàu Ô cũng như tại cửa ngõ Sóc Gòn của An Lộc.
Đại Tá Lê Quang Lưỡng đã áp dụng yếu tố bất ngờ một cách táo bạo và thành công khi đổ quân Nhảy Dù xuống Sóc Ton Cui cạnh Đồi Gió để làm đầu cầu, rồi tiến vào An Lộc. Ông cũng đã nghi binh đánh lạc hướng địch quân khi liên lạc bằng hệ thống âm thoại báo cho Tướng Hưng rằng ông sẽ không vào An Lộc mà ngày mai Quân Đoàn sẽ đưa một đại đơn vị nhảy xuống phía Bắc An Lộc tấn công vào Đồi Đồng Long vào giải cứu các đơn vị bị bao vây. Ông được Tướng Minh Tư Lịnh Quân Khu III đặt trọn niềm tin và giao cho Ông trọn quyền quyết định sách lược.
Với kinh nghiệm lão luyên trên chiến trường của một “Quân Đội con nhà nghèo” với sự yểm trợ tích cực của người bạn đồng minh, ông đã sử dụng tài tình và hiệu quả lối đánh thần tốc của các Chiến Binh Nhảy Dù với hỏa lực vô tiền khoáng hậu của phi pháo và các pháo đài bay B52 để tiêu diệt các đơn vị cộng phỉ, để giải vây cho các đơn vị thuộc quyền, để mở rộng vòng đai và rồi hoàn toàn giải tỏa An Lộc.
Tháng 6 năm 1972, Đại Tá Lê Quang Lưỡng được đề cử chức vụ Phụ Tá Hành Quân cho Tư Lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù là Trung Tướng Dư Quốc Đống trong chiến dịch Lôi Phong tái chiếm Quảng Tri. Cuối tháng 8 năm 1972, ông được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu thăng cấp Chuẩn Tướng, và sau đó ông được bổ nhiệm giữ chức Tư Lệnh Phó, xử lý thường vụ chức vụ Tư Lệnh SĐND. Lúc bấy giờ, Bộ Tư Lệnh Hành Quân Sư Đoàn Nhảy Dù đặt tại căn cứ Hiệp Khánh, cách Huế 17 km về phía Bắc.
Tháng 11 năm 1972, Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng chính thức được chỉ định làm Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù cũng là vào lúc VNCH đang đi vào một giai đoạn cực kỳ khó khăn nhất trong lịch sử. Sư Đoàn Nhảy Dù do ông chỉ huy đã phải đương đầu với bao nhiêu thử thách từ phía bọn cộng phỉ cũng như từ phía Đồng Minh và nội bộ của VNCH. Nhưng ông luôn giữ đúng phong cách của một vị chỉ huy, thi hành trách nhiệm được giao phó một cách hoàn hảo và suốt đời tận tụy hy sinh cho Tổ Quốc đến những ngày cuối tháng 4/1975.
Trận đánh để đời sau cùng của ông là trận Thường Đức từ tháng 8/1974 đến tháng 11/1974 ông đã áp dụng chiến thuật Xa Luân Chiến để 3 Lữ Đoàn Nhảy Dù luân phiên giao tranh và gây thiệt hại nặng nề cho hai SĐ 324B, SĐ 304 và một Trung Đoàn của SĐ 2 của bọn cộng sản bắc việt cùng các lực lượng địa phương.
Năm 1975 vào những ngày tháng lịch sử của VNCH, lệnh từ trung ương bỏ Quân Đoàn I và rút Sư Đoàn Nhảy Dù về Sài Gòn. Một tin chấn động cho toàn quân, toàn dân và sự kinh hoàng tột độ ấy đã mở đầu cho sự tan rã ồ ạt sau đó.
Hơn thế nữa, kể từ ngày SĐND được bốc khỏi Vùng I, quyền chỉ huy chiến thuật binh chủng Nhảy Dù, quyền sử dụng các chiến binh Nhảy Dù cũng vượt ra khỏi tầm tay của vị Tư Lệnh. Các đơn vị Nhảy Dù đã bị xé ra từng mảnh. Mỗi đơn vị một nơi rồi lần lượt bị tan hàng.
Ngày 29 tháng 4 năm 1975 Tướng Lưỡng di tản sang Hoa Kỳ, với nỗi ngậm ngùi: “Sầu hận của tim ta ai biết được. Người tươi vui ta mãi mãi căm hờn”.
Và sau đó ông định cư tại thành phố Hampton, tiểu bang Virginia. Đến năm 1979, ông cùng gia đình di chuyển về thành phố Bakerfield, tiểu bang California cho đến cuối đời.
Trong khoảng thời gian từ 1976 đến những năm 1982 ông có tham dự vào một số sinh hoạt trong nỗ lực trở lại VN tổ chức lực lượng kháng chiến nhưng tiếc rằng Trời đã không chiều lòng người. Sau này ông lui dần vào im lặng và ít khi lên tiếng. Ông cũng thường sinh hoạt và gần gũi với Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam từ năm 1980.
Năm 1990 ông cùng Tướng James B.Vaught Hoa Kỳ dẫn đầu đoàn diễn hành của Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam trên đại lộ Constitution, Washington D.C cùng với các đơn vị Nhảy Dù của 32 quốc gia bạn, nhân ngày kỷ niệm 50 năm thành lập binh chủng Nhảy Dù Hoa Kỳ. Nhảy Dù là đơn vị của QLVNCH đầu tiên và duy nhất từ trước cho đến thời điểm nầy, được mời chính thức rước ngọn cờ Vàng Ba Sọc Đỏ giữa lòng thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Hai bên đường dân chúng Hoa Kỳ và đồng bào Việt Nam tỵ nạn cộng sản, đón tiếp và cổ võ nồng nhiệt.
Ngày 21/9/2005 Tướng Lê Quang Luỡng đã qua đời tại Bakerfield California vì chứng bệnh Gan, thọ 73 tuổi, để lại nhiều luyến thương sâu xa cho đoàn quân Mũ Đỏ.
Tại San José California, một Cựu Chiến Binh Nhảy Dù - Định Thế 405 - đã thương khóc ông:
“Người đi…
Cây cỏ buốt đau thương!!!
Anh hùng Lê Quang Lưỡng.
Bàng hoàng…Nghĩ chừng vô tưởng.
Vị Tướng lãnh hào hùng,
Dẫn đầu quân binh Mũ Đỏ.
Đã bỏ trần gian,
Vội vàng không giã biệt.
Âm âm lạnh, lòng nhói đau da diết,
Thương hơn thương, tử biệt cõi sinh phù.
Hỡi Thiên Thần máu đỏ thắm thiên thu,
Tim bất khuất, đời Hoa Dù vay trả.
Nghiệp cả trả chưa xong
Đục trong trời phiêu lãng.
Ba mươi năm,
Những buổi chiều bàng bạc.
Cánh hạc thẫn thờ bay,
Cuộc đời nầy đen trắng
Cả quá khứ đầy hận thù cay đắng
Quê hương ơi chất nặng nghiệp linh hồn.
Vó ngựa chân bon…
Những bồn chồn từng thu qua chết lặng,
Vệt nắng vàng hoang vắng gió heo may.
Việt Nam ơi, cả dân tộc đang quay,
Trận bão lốc hay cơn say nghiệt ngã.
Ba mươi năm,
Khắp địa cầu xa lạ.
Đoàn Thiên Thần nghiêng ngả dắt dìu nhau.
Gượng cười thôi tim quằn quại thương đau.
Mỗi một bước vạn cơn sầu gậm nhấm.
Ba mươi năm,
Vàng đỏ đen tím xậm,
Nét kiêu hùng vẫn ẩn chứa trong tim.
Chưa bao giờ ta thật sự đứng im.
Dù một phút, nghĩ, chìm trong dĩ vãng.
Nhưng hôm nay bầu không gian ảm đạm,
Quân kỳ buồn, rủ xuống tiễn anh linh.
Quốc kỳ bay, tung ngao nghễ không thinh,
Lệnh kỳ bó, vành khăn tang đơn lạnh.
Hoàng Hoa Thám, mùa Trung Thu hiu quạnh.
Vì toàn quân mất vị Tướng anh hùng.
Quê hương ta mất dũng sĩ tận trung,
Và Tổ Quốc mất người hùng Mũ Đỏ.
Ba mươi năm,
Chiến trường ta còn đó,
Tư Lệnh ơi…Ông bỏ chúng tôi rồi ! ! !
Thế là xong…Thật ngắn ngủi kiếp đời,
Thoáng đấy, mới đây, gió trời mưa đất.
Vùng trắc ẩn rồi ai còn ai mất,
Nghĩa tử ly, oan khuất mủi thương mình.
Định thế nào, là thảm bại quang vinh,
Thua hay thắng, thường tình trong dĩ nghiệp.
Mỗi Mũ Đỏ là lương tri thông điệp,
Để toàn dân phải ngưỡng mộ tri ân.
Họ đã tặng đời tim óc, xác thân,
Trong biển lửa, giữa gian trần bạc bẽo.
Cánh Dù rơi… nơi xứ người lạnh lẽo,
Thiên Thần buồn réo khúc nhạc bi ai.
Cánh dù bung từng ôm cả chí trai,
Gom hoài bão miệt mài trang dũng kiệt.
Kính ông Tướng…Trời tạm dung đơn độc,
Ngưỡng mộ anh hồn bay bổng sao băng.
Nơi mù xa vùng sinh tử trầm thăng,
Ông thanh thoát đất vĩnh hằng vô tận”
Vĩnh biệt Tư Lệnh.
Vĩnh biệt Đích Thân!!!
Đinh Thế - 405

Tài liệu tham khảo:
-Phỏng vấn các Chiến Hữu trong Sư Đoàn Nhảy Dù.
-Những tin tức do Anh Lê Quang Đức, con của Tướng Lưỡng cung cấp.
-Thiên Thần Mũ Đỏ Ai còn "Ai mất" của Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng
-Bài Văn Tế Tướng L ê Quang Lưỡng của Định Thế 405 – Giám Đốc Võ Thuật SĐND, Đại Đội Trưởng 90.
-Bài Điếu Văn của Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Chức đọc trong Lễ Truy Niệm tại Bakerfield 11/2005 
(Sài Gòn trong tôi - Võ Trung Tín/ Nguyễn Hữu Viên)