Tuesday, May 24, 2022

Lời cám ơn muộn màng (Cựu THT/THNKT Hoàng Như Bá)

 

(bên trái cựu Th/Tướng Lương Xuân Việt / Hậu Duệ NKT đang đứng lên chụp hình tân THT/THNKT vừa nhận Quân Kỳ NKT từ C/H Hoàng Như Bá) 

Kính gởi quý Niên Trưởng;
Cùng các Anh các chị trong gia đình NKT.

Đại Hội NKT/BTTM đã qua,các cánh dù NKT đã chia tay trở về làng cũ.Nhưng dư âm quý giá nhất là tình cảm anh em vẫn còn đọng lại trong tâm khảm mọi người. Những ánh mắt bịn rịn thân thương, những lời chúc sức khỏe và những cái bắt tay thật chặt như không muốn rời nhau diễn ra mọi lúc mọi nơi. Đi vô cũng bắt, đi ra cũng bắt. Đôi lần không nhớ người mình vừa bắt tay là ai, cứ thấy nét mặt quen quen, cái nón đỏ trên đầu là biết người nhà, là vui là mừng là bắt tay, mọi chuyện tính sau. Chỉ chừng nớ thôi là đủ cả lời lẫn vốn cho một chuyến đi hành hương tìm về đơn vị.
    Mới cách nhau một mùa dịch, mà những mái tóc đã bạc nhiều, những dáng đi cũng hơi xiêu vẹo, những con cọp già chỉ còn chút bộ lông chải chuốc, chứ xương cốt đã rả rời ẩn chứa đầy bệnh tật. Thôi thì như những đôi tình nhân, yêu nhau trong hoàn cảnh ngang trái, đến hẹn lại lên. Khi nào cũng mang ý nghỉ đi đại hội lần này là lần cuối, nhưng chắc chắn là khi nào đôi chân không còn lê nổi, cánh dù không còn bọc gió thì mới chấp nhận bỏ cuộc!
    Xin cám ơn, những tấm thân tàn đã tìm về với nhau trong vòng tay thân ái. Xin cám ơn bạn Toàn, bạn Quang, bạn Toán những tấm lòng đã vì tình đồng đội mà tái tạo những pho tượng giúp buổi lễ TƯỞNG NIỆM đầy ý nghĩa.... Cám ơn nhóm Thiện Nguyện Hoàng Lan, Thu Hoàng đã tận tình phục vụ tiếp khách, làm nên một chương trình văn nghệ cây nhà lá vườn phong phú. Cô Thu Hương nhiệm vụ MC lưu loát và nhiều người nửa.... đã góp tay hoàn thành một cuộc hội ngộ đầy ắp tình người,tình chiến hữu.

Thân mến
Hoàng như Bá


Nhờ Quý chuyển lời cám ơn này đến những người đã giúp Đại Hội NKT.

Wednesday, May 18, 2022

Rừng xưa đã khép.. - Lê văn Nguyên -

Đơn vị tiến vào đồn nghĩa quân xã Huy Khiêm mà không gặp sự kháng cự nào của địch quân. Từ đầu hôm qua tín hiệu cầu cứu từ nơi đây hoàn toàn im bặt, nói khác đi là tình hình cực kỳ nguy ngập dữ nhiều lành ít, chính vì vậy mà pháo binh cơ hữu trung đoàn tác xạ vào mục tiêu, bắn suốt đêm cho đến mờ sáng vừa yểm trợ vừa dọn đường cho các đơn vị chủ lực tiến vào giải cứu. Trung đội 3 của tôi là lực lượng tiên phong bước vào khu vực, xung quanh đồn nghĩa quân hoang tàn đổ nát, nó bị cày nát bởi đạn pháo binh, những thân cây bị đốn ngã rơi rụng trên nền đất, mùi thuốc súng nồng nặc cùng mùi máu tươi tanh tưởi còn vương lại trong không khí, nhiều mảnh thân thể, áo quần còn vẫn vướng trên các cành cây, từng hố đạn đều đặn rải rác xung quanh đồn, với tác xạ khủng khiếp như vậy thì đá cùng phải tan huống hồ da thịt con người.
Đồn nghĩa quân Huy Khiêm bị san bằng thành bình địa, cái chòi canh trước đòn bị sụp đổ hoàn toàn, cạnh đó xác một người lính với lỗ chỗ vết đạn trên thân, anh nằm đó mà mắt vẫn còn mở trừng trừng như không cam lòng, khói còn nghi ngút từ bên trong, thỉnh thoảng vài tiếng nổ lép bép của những viên đạn còn sót lại. Tôi cùng Lắm, người lính mang máy truyền tin bước vào bên trong, thận trọng quan sát, nghe ngóng từng chỗ một và cái cuối cùng nhận định là không còn bất kỳ ai còn sống sót, toan bước ra ngoài thì Lắm khều nhẹ tay tôi:
– Ông thầy…bên kia có tiếng rên nhỏ.. Có người còn sống..
Trong căn phòng nhỏ ẩm thấp và tối tăm áng chừng là trung tâm chỉ huy của đồn nghĩa quân, tôi thấy thân người nằm ngửa trên nền đất dưới ánh sáng lờ mờ từ khung cửa nhỏ trên cao hắt xuống, người anh đầy máu bởi những phát súng bắn trực tiếp từ phía trước, ngực bị phá nát, bầy nhầy thịt cùng xương, vài bong bóng máu phập phều theo hơi thở. Với vết thương trí mạng như vậy thì anh đã phải chết từ lâu thế mà còn kéo dài hơi thở như hiện tại là một phép nhiệm mầu-
Trước cảnh tượng đau lòng như thế thì tôi chỉ có còn có thể nói:
– An tâm..chúng tôi mang anh ra ngoài, trực thăng tải thương sắp đến, hy vọng mọi thứ sẽ tốt thôi. Người lính nhếch mép cười, nụ cười ảm đạm, héo hắt và chua chát, máu rỉ ra từ khóe miệng theo cử động:
– Muộn rồi. Cứu không kịp đâu..Tôi biết…Mong các anh tìm.. dùm… vợ…con.. của …tôi…họ.. ngoài kia….Xin…Cầu xin…
– Họ ở đâu? Nơi nào?
Nhưng vô ích bởi người lính sau vài lời trăn trối cuối cùng thì anh nghẹo đầu ra đi vĩnh viễn, đôi mắt trừng trừng nhìn tôi như van xin khẩn cầu tha thiết tha, vài giọt nước mắt long lanh trong suốt ứa ra từ khóe mắt, nó lăn trên má rồi hòa vào máu miệng trước khi rơi xuống đất, tôi không hiểu sức mạnh huyền bí nào đó giúp anh chống lại sự đau đớn, kiệt sức để chờ chúng tôi đến và để rồi gửi gắm lời trối trăng cuối cùng.
– Tôi sẽ tìm nhất định sẽ tìm ra người thân của anh
Tôi run rẩy đưa tay vuốt mắt cho người lính, lòng buồn vô hạn vì sự mất mát đầy đau thương của 2 người.
– Đông Sơn.. Lam Giang gọi.
– Đông Sơn nghe.. Nói đi.
Tôi tóm tắt trình bày sự việc và cuối cùng xin chỉ thị từ người đại đội trưởng, thật lâu có tiếng thở dài từ bên kia đầu máy áng chừng là ông xúc động vì chuyện thương tâm ấy.
– Lam Giang, mày nghe đây.. Cho con cái bung rộng ra tìm nhưng tuyệt đối không được đi sâu vào bên trong bởi đây là vùng an toàn của tụi nó dù không tìm thấy cũng phải trở lại vị trí xuất phát trước khi về chiều. Nghe rõ Lam Giang.

Thằng Đức ngồi trong lòng của tôi cầm quyển tập đọc trên tay ê a đánh vần từng chữ một. Dù mới lên 5 nhưng thằng bé rất thông minh và lanh lợi, không những thế nó còn ăn nói rành rọt như người lớn. Có bé Đức bên cạnh tôi cảm thấy bớt buồn cùng nỗi cô đơn từ khi người mẹ thân yêu ra đi vĩnh viễn, nó là nguồn an ủi cho tôi ở hiện tại và cả tương lai bởi bé Đức không biết cha nó là người tù cải tạo, không bao giờ biết cái chữ Ngụy mà người ta khoác lên người cha. Trong trí óc non nớt của bé Đức thì tôi là người cha mẫu mực và hiền lành, có thể nói sau bà nội thân yêu thì nhất định kẻ thứ hai chính là tôi bởi bà là người nuôi dưỡng thằng bé từ lúc còn đỏ hỏn trong tã lót, là người chăm chút từng miếng ăn, dành từng vật lạ cho nó nhất là thời gian dài đói khổ thiếu thốn sau ngày giải phóng, lắm lúc bà thức trắng đêm canh giữ khi thằng bé bị bệnh, trong thời gian cải tạo dài đăng đẳng người thường xuyên thăm viếng tôi là bà má và thằng con dễ thương này.
– Ba.. Sao ba không về với con với nội? ba xấu lắm con không thèm thương ba nữa đâu!
– Ba đang làm việc ở đây mà khi nào người ta cho phép lúc đó ba sẽ về với con. Ngoan nghe bé.
– Nhớ nghe ba.. nghéo tay đi, ba xạo lắm con không tin đâu.

Một người khách nói đúng hơn là phụ nữ với chiếc khẩu trang bịt kín mặt mũi chỉ chừa đôi mắt, bà đang dẫn chiếc xe gắn máy áng chừng bị trục trặc vấn đề nào đó nên không chạy được nên chỉ biết đẩy đi từng chút một, bà ta ngập ngừng với vẽ e dè khi nhìn căn chòi tồi tàn với vài ba thứ lỉnh kỉnh treo trên vách nhà, một nơi sửa xe không chút tin tưởng thêm vào đó người chủ nghèo nàn, hom hem cùng nét khô khan khó tính trên mặt. Người phu nữ còn đang lưỡng lự thì thằng Đức từ trên chiếc ghế tuột xuống đồng thời chạy u ra ngoài miệng kiếng thoắng nói liền miệng:
– Dì.. xe bị hư phải không? Ba con sửa xe lấy tiền không mắc lắm đâu mà dì biết không ngoài nơi này không còn chỗ nào khác phải đi hết con lộ này mới có xa lắm dì ơi.
Có lẽ thấy thằng bé kháu khỉnh, ăn nói dễ thương khiến bà ta không một chút chần chừ liền đẩy xe vào căn chòi trong lúc tôi xem xét và tìm kiếm chỗ hư hỏng thì thằng bé khệ nệ bưng ra chiếc khay nhỏ cùng cái ấm nhỏ trên tay:
– Con mời dì uống nước, hà thủ ô cùng rễ tranh mà ba mới nấu, ngon và mát lắm dì.
Người đàn bà khẽ bẹo vào má thằng bé dịu dàng nói:
– Không được gọi là dì nghe, kêu là cô. Con tên gì, mấy tuổi? Học lớp mấy rồi?
– Thưa cô, con tên Hoài Đức, 5 tuổi con chưa đi học.
Trong lúc tôi lui cui sửa xe nên không chú ý đến cuộc trò chuyện của thằng con và người khách lạ nhưng khẳng định là vui vẻ, bởi lâu lâu có tiếng cười giòn dả của bé Đức hòa cùng giọng nói êm ả của cô gái.
– Chiếc xe sửa chữa xong, bình xăng con bị dơ, hy vọng sẽ không có gì trục trặc xảy ra, còn tiền công là 500 đồng.
Cô không nói điều gì chỉ lẳng lặng lấy tiền đưa cho tôi nhưng có điều lạ là khuôn mặt thoáng buồn, khóe mắt vương vài giọt nước mắt, nhất là ánh mắt có chút quen quen mà tôi không tài nào nhớ ra chắc chắn là đã gặp qua, nó ủ dột, thê lương và nhiều buồn phiền. Đêm hôm đó sau khi cơm nước xong xuôi và dạy bé Đức ráp vần để năm sau có thể đến trường:
– Ba.. Ba à.. Cái cô hôm nay kỳ cục lắm, cổ khóc hoài hà mà con dổ riết mà không nín.
– Tại sao lại khóc? có phải con nói cái gì đó khiến người ta không vui?
Tôi nhíu mày ngờ ngợ có cái gì đó không hay sắp đến với cha con tôi.
– Ba nói kỳ cục không à.. Bé Đức lắc đầu phụng phịu.. Cổ cầm sợi dây chuyền của con lên coi rồi khóc, con không biết vì cái gì mà cô khóc.. Nín..Nín..Khóc như vậy xấu lắm..
– Sau đó thì sao con, cô còn nói thêm gì nữa không!?
– Có ba. Cổ hỏi má đâu rồi và làm gì, con thưa là má ở xa lắm, xa từ chỗ con đến các ông sao trên trời, ba còn nói con cứ đếm bao nhiêu ông sao trên trời là bấy nhiêu khoảng cách giữa con với má.
Tôi bàng hoàng trong giây lát, câu nói của con tôi và cô gái gợi lại hình ảnh thương tâm và đầy nước mắt của năm xưa, trong suốt thời gian dài vẫn còn đau đáu trong lòng tôi, cố quên mọi thứ với hy vọng thời gian sẽ xóa nhòa nỗi ray rứt ấy. Thời gian cứ thấp thoáng trôi nhanh, bé Đức hiện tại vào mẫu giáo và học rất giỏi và tôi cũng nguôi ngoai chuyện hôm nào, hàng ngày cặm cụi sửa xe kiếm tiền hầu cải thiện đời sống của 2 nhân mạng trong cái xó xỉnh ít người lui tới. Nhưng.. cái chữ nhưng lúc nào cũng có thể xảy ra là điều không một ai mong muốn, cô gái hôm nọ lại xuất hiện lần này không mang khẩu trang cho nên tôi nhìn rất rõ diện mạo của cô ta. Dong dỏng người với nước da trắng hồng mạnh khỏe, giản dị với chiếc quần tây và sơ mi dài tay tuy vậy không dấu nét kiêu sa đài các, một nhan sắc khó tìm so với nhiều cô gái mà tôi từng gặp qua, nó pha trộn cái đẹp giữa cô thôn nữ dân dã cùng nét quyến rũ của nàng công chúa trên cao.
Cô bước vào trong căn chòi đảo mắt nhìn quanh như tìm kiếm, đoán được ý định của cô ta, tôi lập tức lên tiếng:
– Cô muốn tìm bé Đức? Hôm nay nó đến trường rồi, cô có thể cho tôi biết chuyện gì liên quan đến thằng bé?
Cô gái yên lặng không nói lời nào cúi đầu nhìn xuống hình như đang lưỡng lự về vấn đề nào đó khó khăn mà cô khó giải bày. Thật lâu mới buông tiếng thở dài như chất chứa bao nỗi đau thương u uất trong lòng.
– Tôi không biết khởi đầu câu chuyện như thế nào nhưng chắc chắn có liên quan đến bé Đức, chị Khánh Dung và có cả ông trong đó. Gia đình tôi thuộc loại giàu có, cha là thương gia làm nghề thầu khoán, mẹ là giáo sư trường trung học công lập nổi tiếng ở Sài gòn, trong nhà chỉ có 2 chị em, Khánh Dung và tôi, Khánh Hà. ngay từ nhỏ chị Dung rất thông minh và hiếu học cho nên mọi hy vọng của gia đình là mong chị ấy tiến thân vào con đường học vấn để trở thành dược hoặc bác sĩ trong tương lai, không ngờ mọi mong ước của gia đình tiêu tan khi chị tuyên bố chọn ngành sư phạm không phải đệ nhất cấp hay đệ nhị cấp mà là giáo viên bậc tiểu học. Không những vậy, điều làm cho gia đình tức giận là chị tự chọn nơi phục vụ là tỉnh Bình Tuy, quận Hoài Đức, một nơi xa xôi nghèo nàn thiếu thốn mọi phương tiện trong sinh hoạt hàng ngày bất chấp mọi phản đối của cha mẹ, chị Khánh Dung tự mình chọn con đường để phục vụ.
Việc chị dấn thân vào cái nghề bạc bẽo đã gây không biết bao nhiêu nỗi thất vọng cho cha mẹ và kể tiếp một hành động khác của chị là lập gia đình với người lính Nghĩa quân ở nơi chị đang công tác, điều này đưa đến việc cha tôi cắt đứt mọi quan hệ cha con cũng như không muốn một ai nói nhắc tên của chị trước mặt ông. Ngày Chị lên xe hoa về nhà chồng không có lời chúc phúc của cha mẹ,không người thân bên cạnh.
Khánh Hà bụm mặt khóc tức tưởi, tiếng khóc ai oán khiến tôi xót xa trong lòng, mối tình của hai người quả thật đẹp và lãng mạn để rồi cuối cùng họ không còn bị ai chia uyên rẽ thúy.
– …Hôm ngày đầy tháng bé Đức tôi có đến nơi đó cùng lời chúc phúc đứa cháu thân yêu và sợi dây chuyền vàng có khắc K H đeo trên cổ nó như là kỷ niệm của tôi dành cho, cùng có ý nghĩa là tôi luôn ủng hộ mối lương duyên của chị mình bất chấp sự phản đối của ông bà cha mẹ, mối tình cô giáo xinh đẹp trí thức cùng người lính nghĩa quân thật thà chất phác và bình dị khiến tôi khâm phục vô cùng, yêu thương không phải vật được đặt trên bàn cân để tính toán hơn thua nặng nhẹ mà căn cứ vào lòng thành tín và hiểu biết, từ đó cuộc sống cho cả hai mới trường tồn vĩnh viễn. Tin tức chiến sự xảy khắp nơi trên đất nước đều được tôi theo dõi thường xuyên, đặc biệt là tỉnh Bình Tuy, quận Hoài Đức nơi chị Dung đang công tác, linh cảm sẽ có cái gì đó không hay xảy ra cho cả hai và điều này chứng thực, đồn nghĩa quân xã Huy Khiêm bị tràn ngập và không còn một ai sống sót. Có điều kỳ lạ là xác người lính trưởng đồn không tìm thấy và chị tôi cũng vậy, một sự mất tích khó hiểu theo luận cứ thì cả hai có thể bị lực lượng địch mang đi và bắn hạ trong rừng già. Từ việc suy luận ấy cho nên tôi bỏ nhiều thời gian tìm kiếm đồng thời thuê người vào tận trong rừng sâu với hy vọng nếu người còn sống càng tốt bằng không phải bằng mọi cách mang thân xác về nếu họ đã mất đi, thế nhưng hoài công vô ích mọi mong ước của tôi tiêu tan cho đến ngày nước mất nhà tan, kế tiếp cả nhà di tản ra nước ngoài sinh sống từ ngày ấy. Tuy nhiên tôi không bỏ cuộc, luôn nghe ngóng tin tức về người chị của mình cũng như thực hiện nhiều chuyến về nước để tìm kiếm và đây là lần đi cuối cùng cuối cùng để rồi sẽ không bao giờ trở lại vùng đất nhiều bi thương này. Không ngờ và không bao giờ nghĩ là mình gặp lại đứa cháu thân yêu của mình và sợi dây chuyền trên cổ của nó là chứng minh điều này. Ông có thể thuật lại mọi chuyện xảy ra ở ngày hôm ấy cho tôi nghe được không? Cầu xin ông!

……Chúng tôi đi vào khu rừng buông sau khi vượt qua quãng lau sậy dày đặc, rậm rạp. Trung đội dàn đội hình hàng ngang vừa đi vừa nghe ngóng cũng như thận trọng trước mọi động tỉnh xung quanh bởi đây là mật khu của địch quân cùng với lực lượng đông đảo trú đóng. Trời càng về chiều với oi bức nóng nực của mùa hè, trong rừng già không có lấy một tiếng động ngoài trừ vài tiếng chim kêu thê thảm phá tan sự tĩnh lặng vốn có của nó. Dọc theo con suối nhỏ uốn mình theo bờ đất, âm thanh rì rào liên tục của tiếng nước chảy, vài bọt nước trắng xóa tung lên không khi nó va chạm các khối đá đầy rong rêu. Rút cái khăn trong ba lô ra lau mồ hôi nhễ nhại trên mặt, thằng Kính lẩm bẩm gắt gỏng:

– Mẹ cha nó! Trời gì mà nóng thấy sợ, đã vậy còn tối hù thấy mà ghê.
– Mày nói ít được không Kính! Ráng vãnh lỗ tai nghe xem có động tĩnh gì thì cho tao biết.
Tôi trừng mắt lườm người lính mang máy truyền tin đang đi bên cạnh với vẻ bực bội, thấy ông thầy của mình lộ vẻ không vui, Kính cười giả lả làm lành:
– Em đang nghe mà thầy, lỗ tai của em thính lắm không có cái gì giấu em đâu.
Chúng tôi len lỏi qua các lùm cây, leo qua các thân cây mục nát nằm chỏng chơ trên đám lá mục cũng như băng qua con suối để tìm kiếm thế nhưng cho đến giờ phút này tung tích của vợ con người lính vẫn bặt tăm, hơn nữa trời càng tối dần, tôi bặm môi quyết định:
– Lên phía trước một chút, nếu không tìm thấy thì mình rút ra ngoài cho an toàn.
Trong khi tôi vừa ra lệnh thì thằng Kính nghẹo đầu như đang lắng nghe rồi sau đó đưa tay chỉ về phía trước:
– Hình như có tiếng khóc nếu không lầm là con nít
Vừa lúc đó Phú, người trung đội phó chạy đến anh vừa thở vừa hỏi:
-Thiếu úy, mình lùi ra ngoài hay là vẫn tiếp tục tìm? Hai tiểu đội bên kia báo cáo là không thấy bất kỳ khả nghi nào hết.
– Tôi biết rồi, nói anh em chuẩn bị rút lui, tôi lên phía trước một chút xem sao, Kính nghe tiếng khóc của con nít.
– Nếu vậy thì mình lên đó đi ông thầy, hy vọng thằng Kính nói không sai.
chúng tôi hướng về phía trước với tâm trạng bồn chồn lo lắng đoòng thời hy vọng bắt đầu nhen nhúm khi tiếng khóc ngày càng rõ dần, tiếng khóc của đứa bé khi còn khi mất nương theo chiều gió, thận trọng từng chút tôi hướng mũi súng về trước và sẵn sàng siết cò nếu có bất kỳ bất lợi xảy ra và..
Ba người chúng tôi khựng lại và ngây người trước cảnh tượng hết sức thương tâm: Một người đàn bà ngồi dựa vào thân cây, các khuy áo mở tung ra lộ làn da xám xanh, trước ngực loang lổ máu đã ngả sang màu sẫm đen, viên đạn quái ác nào đó đã cướp đi mạng sống của người phụ nữ này, đứa bé áng chừng vài tháng tuổi nằm trong lòng mẹ rúc đầu tìm vú, miệng đầy máu, đôi lúc nó giãy dụa, la khóc tiếng khóc mòn hơi vì đói khát vì đau đớn. Lũ kiến rừng bu đầy trên người đứa bé, chúng đánh hơi mùi máu, đánh hơi được sự sống sắp rời bỏ từ sinh vật nhỏ bé này. Thằng Kính vất khẩu súng vội vã bế nó lên, bên cạnh người trung đội phó nhanh chóng rút cái khăn quàng cổ phủi lia lịa những con kiến còn đeo dính trên người đứa nhỏ.
Tôi cúi xuống cầm bàn tay người đàn bà để xác định tình trạng còn sống hay đã chết, bất thình lình bà ta hé mắt nhìn tôi, đôi mắt đã lạc thần nhưng hiện lên nét mừng rỡ, có lẽ nhìn ra bộ áo quần màu xanh quen thuộc mà người chồng thường mặc trên người, bà đăm đăm nhìn về phía trước, môi mấp máy như muốn nói điều gì đó mà không thể, kế tiếp ánh mắt dần hướng về đứa trẻ với nỗi yêu thương pha lẫn chua chát nghẹn ngào, chúng tôi im lặng nhìn nhau mà không một ai lên tiếng vì biết trong giờ phút này nếu nói những lời an ủi cũng cầm bằng vô ích.
– Nuôi.. dùm… con.. t..ô..i.. Xin..c.á..c ..
Bà ta rướn người thu hết tàn lực nắm tay tôi cùng với ánh mắt cầu khẩn và mong đợi.
– Chị yên tâm ra đi, tôi sẽ chăm sóc đứa bé chính tay mình nuôi dưỡng mà không trao nó cho bất cứ ai cũng như viện mồ côi.
Người đàn bà thở một hơi dài thật nhẹ, bàn tay lơi dần và cuối cùng buông thõng trên nền đất, bà đã chết sau vài lời nhắn nhủ cuối cùng, đôi mắt nhìn đăm đắm vào khoảng không trên cao, nơi không có hận thù, giết chóc. Khánh Dung được an táng cùng người chồng cạnh con suối nhỏ dưới tàng cây thao lao rậm mát. Tôi chọn nơi đó bởi họ có thể nghe tiếng suối chảy, tiếng gió reo, ngắm những nụ hoa tím trong khoảng không vô tận. Một thế giới riêng biệt cho hai người nơi không có chiến tranh thù hằn.
– Tội nghiệp cho chị tôi! Khánh Dung ơi! Đau đớn cho chị quá đi thôi.
Khánh Hà bụm mặt khóc ngất, tiếng khóc xé lòng khiến tôi cay cay mũi tưởng chừng nước mắt có thể rơi ra bởi chuyện thương tâm ấy, dù bao năm trôi qua tôi cố quên cũng như cố không nghĩ đến nhưng khi mường tượng đến đôi mắt của người sắp chết cùng với lời trăn trối cuối cùng khiến trong lòng ray rứt mãi không nguôi.

Tối hôm đó sau khi trình mọi việc cho người đại đội trưởng khả kính và xin ông cho ra quyết định về trường hợp của đứa bé.
– Chuyện này không đơn giản như mày nghĩ! Ai cũng biết 2 người có con và hiện tại nó ở đâu? Mẹ nó ra sao? Xác người trưởng đồn tại sao mất tích? Chi khu,Tiểu khu rồi sẽ điều tra thực hư câu chuyện và lúc đó tao lẫn mày bị dính cán búa.
– Tôi đã nhận lời với vợ chồng họ là nuôi dưỡng thằng nhỏ ít ra nó còn có người thân bên cạnh, tôi không muốn đứa bé là trẻ mồ côi khi giao cho hội từ thiện hoặc trong các cô nhi viện, xin đại úy cho đặc ân cấp cho tôi nghỉ một vài ngày phép để mang nó về cho người nhà chăm sóc. Nếu có chuyện gì xảy ra tôi xin gánh toàn bộ trách nhiệm cũng như không nêu ra bất kỳ vấn đề nào liên lụy đến cấp chỉ huy.
Tôi rời khỏi đơn vị khi trời vừa mờ sáng, đi với sự chấp thuận ngầm của người chỉ huy khả kính, đi mà không có bất kỳ tờ giấy phép trong người. Không hiểu tại sao khi qua nhiều trạm kiểm soát mà không có bất cứ ai chậm lại để hỏi han căn vặn, nhất là đi qua khu Quân Cảnh phụ trách, họ thờ ơ và không quan tâm gì đến người lính mặc quân phục nhàu nát dơ bẩn đầy bùn đất, hơn nửa còn có đứa bé trên tay, một điều huyền diệu khó có thể hiểu được nhưng tự đáy lòng của tôi thì hẳn cha mẹ của đứa nhỏ linh thiêng phù hộ giúp tôi vượt qua mọi chướng ngại.
Tôi kể lại đầu đuôi câu chuyện với mẹ và mong muốn bà chấp thuận nuôi thằng bé trong khi tôi còn miệt mài ngoài sương gió, xông pha ở chiến trường. Trần Hoài Đức tên của đứa bé mà tôi đặt cho nó, nơi cha con tôi gặp nhau trong khu rừng váng thuộc quận Hoài Đức cũng là nơi mà cha mẹ nó tương ngộ, mối tình thật đẹp giữa cô giáo xinh đẹp thông minh và người lính nghĩa quân mộc mạc,hiền lành chân thật.
– Tôi muốn mang bé Đức về nuôi không biết ý kiến của ông như thế nào?
– Không có gì trở ngại cho tôi cả nhưng cô sẽ trả lời sao với đứa bé khi nó hỏi về ba nó, nguyên do gì nó ra đi một mình mà không có ba bên cạnh. Ở cái tuổi còn quá nhỏ chúng ta tốt nhất không nói về cái chết bi thảm của cha mẹ thằng bé.
– Thôi được.. Tôi về suy nghĩ lại xem sao, phải chọn một phương án nào tốt nhất thuận lợi cho tôi, anh và bé Đức.

Thật lâu kể từ hôm ấy Khánh Hà không trở lại, theo ý nghĩ của tôi thì cô ta thay đổi quan điểm của mình hoặc thấy đứa cháu có người cha tốt quan tâm cùng chăm sóc chu đáo cho nên cũng yên lòng và bản thân tôi dần quên đi chuyện ấy, bởi những gì uẩn uất trong lòng đã được bộc lộ. Còn vấn đề khác cũng quan trọng không kém là cật lực kiếm tiền, thời gian gần đây sinh hoạt hai cha con bắt đầu khó khăn bởi nhiều tiệm sửa chữa xe được mở ra để cạnh tranh và cái thua thiệt dĩ nhiên về phần tôi bởi cái tồi tàn của căn chòi cùng dụng cụ cũ kỹ không đáng tin cậy, nhiều khi cả ngày không thu được mấy đồng bạc. Cứ như tình trạng này kéo dài thì hai cha con phải húp cháo trừ bữa. Hôm nay tôi ra chợ với sự tính toán chi ly từng món đồ bởi không còn bao nhiêu tiền trong túi, vài con cá khô, một bó rau cải ngọt và chút bánh ngọt cho bé Đức, quãng đường không dài nhưng tôi cảm thấy mệt mỏi và choáng váng đầu óc, có lẻ sau bao năm tù đày khổ ải đã cướp đoạt hết sức lực, thêm vào đó ăn uống thiếu thốn cho nên mới xảy ra tình trạng này.

Còn đang ngồi trên đầu con dốc nghỉ ngơi đôi chút thì bóng dáng của đứa con xuất hiện trước mặt, thằng bé chạy u đến ve vẩy lá thư trên tay liến thoắng liền miệng:
– Ba..mình có thư mà người viết có tên lạ nghe… Ơ nờ ân khờ anh khanh sắc Khánh …A huyền à hờ.. Hà.. Khánh Hà là ai hả ba?
Tôi như bị điện giật ngây người thật lâu mà không thốt lời nào, thằng nhỏ thấy điệu bộ thất thần của tôi cho nên hoảng hốt đưa tay lên trán thăm dò rồi cằn nhằn:
– Ba.. Ba làm sao vậy? Bị bệnh phải hông? Con nói rồi mà ba không nghe, ra nắng phải đội nón lên đầu.
Tôi vuốt tóc thằng con đoạn gượng cười trấn an nó:
– Khỏe mà con, đưa thư cho ba xem sao.

“….Anh Lam, ngày 12 tháng 5 này em về thăm cha con anh, nói cho nó biết là có mẹ về, chuyện chúng ta rồi sẽ nói sau..”

Tôi đọc lá thư mà như người trong mộng, sự việc đến quá đột ngột ngoài sức tưởng tượng của tôi bởi lối xưng hô thân mật và không cần dấu diếm mục đích của mình khi về nước lần này, nhận thân và kết mối lương duyên cùng người lính sa cơ thất thế.
– Khánh Hà là ai hả ba?
– Là tên của mẹ con, mẹ về thăm và báo cho biết trước.
Thăng Đức hò hét nhảy lưng tưng quanh tôi, âm thanh vui mừng hớn hở.
– Má về thăm mình hả ba? Con nói rồi nhất định là má thương và nhớ con nhiều lắm mà. Con có má rồi ba ơi.. con có má rồi.
Trong suốt thời gian chờ đợi, thằng Đức cứ ra vô ngoài cửa mắt trông ngóng hướng về đầu con dốc, nó mòn mỏi trông chờ đôi khi cầm bức thư lẩm nhẩm ráp vần từng câu một, sau đó cẩn thận xếp ngay ngắn rồi bỏ vào túi như đang cất giữ vật vô cùng quý giá, thậm chí trong giấc ngủ còn mớ gọi người mẹ của mình.
Khánh hà thong thả kéo chiếc va li từ bên trong đi ra, cô ăn mặc thật giản dị và không một chút trang điểm nhưng vẫn ẩn hiện nét xinh đẹp dịu dàng và quyến rũ. Tôi đẩy nhẹ thắng bé về phía trước đoạn nhẹ nhàng nói vào tai:
– Mẹ con đó, ra mừng mẹ đi con.
Bé Đức ngần ngừ pha lẩn rụt rè bởi nó không ngờ người mẹ của mình lại xinh đẹp và đài các như vậy. Trong ý nghĩ của thằng bé thì bà chắc hẳn phải lam lũ nghèo nàn và xấu xí như cha con nó, nhưng rồi không thể ngăn cản nỗi khao khát tình mẫu tử mà bấy lâu nay nó chưa bao giờ có cho nên vừa chạy vừa kêu khóc:
– Má.. Má.. Con nhớ má ..Con thương má…
Khánh Hà vội bỏ chiếc va li rồi ôm chầm lấy thằng bé ràn rụa nước mắt:
– Má cũng nhớ con nhiều mà. Tội nghiệp con của tôi! Mẹ thương con lắm biết không Đức.
Tôi đứng đó mà lòng bùi ngùi xúc động, mắt nhòa lệ vì vui mừng rốt cuộc rồi thằng bé cũng tìm thấy người thân của mình sau bao năm xa cách, dù chỉ là bà mẹ hờ nhưng giữa 2 người vẫn có máu mủ tình thâm còn tôi trong tương lai thì sao? Ở lại trong xứ sở đầy nghi kỵ cũng như phân biệt giai cấp hay là cùng cô ra nước ngoài với tư cách là người chồng hờ để rồi sau đó đường ai nấy đi.
Đêm hôm đó sau khi bé Đức an giấc, tôi cùng Khánh Hà ra ngoài hiên nhà để trò chuyện đồng thời nghe cô nói về hướng đi trong tương lai:
– Sau nhiều đêm suy nghĩ để rồi đưa đến quyết định cuối cùng là mang anh cùng bé Đức ra nước ngoài sinh sống. Chỉ có biện pháp này mới vẹn toàn cho chúng ta mà thôi, mang thằng bé ra đi thì có thể nhưng còn anh thì sao? Em sẽ trả lời với nó như thế nào khi không có anh bên cạnh? Chắc chắn tình thương của thằng bé đối với anh sâu đậm hơn, em không bao giờ hiện diện bên cạnh trong suốt quãng đời thơ ấu cho đến hiện tại mặc dù bé Đức khao khát tình mẫu tử nhưng trong thâm tâm của nó thì hình ảnh người cha mới thật sự quan trọng, thiếu vắng anh bên cạnh thì chắc hẳn tâm lý sẽ bị tổn thương nặng nề, không đứa trẻ nào mà không cần tình thương của cha mẹ, chỉ có tình thương ấy mới có thể khiến chúng vui vẻ trong cuộc sống và hạnh phúc trong sự đầm ấm của gia đình, chúng ta không thể làm cho bé Đức mất mát thêm nữa. Anh và em sẽ hiện diện bên cạnh nó trong quãng đời còn lại chỉ có như vậy mới vẹn toàn cho cả ba.
– Hay là chúng ta tạm thời sống với nhau như vậy rồi sau đó.
Tôi chỉ có thể tạm chấp nhận biện pháp ổn thỏa mà Khánh Hà đưa ra nhưng đồng thời đưa ra ý kiến của mình khi cùng sinh sống ở nước ngoài sau này:
– Không có tạm thời hay gì gì đó sau này, chúng ta sẽ có một gia đình đầm ấm và hạnh phúc, thay mặt vợ chồng chị Dung chăm sóc cùng nuôi dưỡng bé Đức cho đến ngày khôn lớn. Ngày mai, anh và em lên chính quyền địa phương làm thủ tục kết hôn. Có giấy tờ hợp lệ thì thủ tục làm hồ sơ xuất cảnh sẽ dễ dàng hơn.
Tôi có những ngày vui vẻ và hạnh phúc ở xứ người, Khánh Hà làm tròn bổn phận người vợ, người mẹ mà không có bất kỳ phàn nàn hay kêu ca điều gì, nhiều khi tôi không bao giờ dám tin về những gì xảy ra trước mắt, một người vợ đẹp đẻ hiền lành và nết na và đàn con kháu khỉnh. May mắn hay là duyên xảo ngộ mà ông trời dành cho tôi, người lính sa cơ thất trận đã có những ngày cơ cực ở quê hương.
– Em à..Tại sao lại tốt với anh như vậy? Thiếu gì người lựa chọn tại sao lại phải là anh?
– Ngày xưa ông bà ta có bao giờ tìm hiểu hay ngỏ lời yêu thương, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy thế có ai bỏ nhau, họ sống đến đầu bạc răng long con cái đầy đàn. Em chưa bao giờ yêu ai mà cũng chẳng có hình bóng chàng trai nào trong trái tim, sống như vậy cho đến ngày gặp anh ở con dốc nhỏ, trong căn chòi tồi tàn rách nát, người đàn ông nghèo khổ nhưng có trái tim vàng cùng lòng nhân hậu, anh ta chăm chút vá từng mụn vải trên áo quần, dành nhiều yêu thương sâu đậm cho đứa con. Trái tim của em rung động từ dạo đó cũng như phát hiện khi yêu không cần phải mặt mũi, địa vị trong xã hội mà phát sinh từ sự nhận thức tư cách cùng hành động. Em yêu người ta nhiều lắm nhất là khi biết sự khốn cùng của cha con anh trong xã hội mà tình người chỉ đong đầy lòng bàn tay. Chỉ một lời hứa với người sắp mất mà anh ngậm đắng nuốt cay nuôi dưỡng đứa bé xấu số mồ côi cả cha lẫn mẹ, con người như thế thì bảo sao con tim của không rung động.. Một cuộc hôn nhân giả trên giấy tờ nhưng thật sự từ con tim của em thúc giục mà ra, thật cũng là giả mà giả cũng là thực, người thực, việc thực hóa ra còn tốt hơn là người thực, việc thực trong tưởng tượng.

Ngày tháng trôi qua, Hoài Đức bây giờ thành chàng thanh niên cao lớn, lực lưỡng và tràn đầy nhiệt huyết, con đường học vấn đang mở ra trước mắt nhưng có một điều khiến tôi và Khánh Hà bất ngờ là thằng bé tuyên bố chọn ngành sư phạm, một công việc nhàm chán và ít có tương lai, nghề nghiệp mà ông bà ngày xưa cho là bạc béo, bán cháo phổi.

…Chẳng lẻ thằng bé lại đi vào con đường của mẹ nó, con đường nhiều chông gai lắm thử thách, với tài sức cùng sự thông minh thì thằng bé có thể chọn nghề nghiệp nhàn hạ và hái ra tiền.Tôi nhiều đêm suy nghĩ và trò chuyện cùng Khánh Hà về tương lai của Hoài Đức
– Ý của chị Dung lúc còn sống là thế dù đã mất đi nhưng em tin rằng chị của em luôn mãi bên cạnh đứa con của mình, chị dìu dắt nó trên con đường sự nghiệp cũng như kế tiếp con đường của mình còn dở dang, một hoài bảo mà chị Dung ôm ấp khi còn ở bậc trung học, chị dùng mọi kiến thức cùng tài học của mình để truyền bá cho các em nhỏ hiếu học ở vùng thôn quê nơi thiếu thốn nhiều phương tiện cùng khó khăn trong cuộc sống.
Ở nơi thật xa, thật cao Khánh Dung có lẽ mãn nguyện khi nhìn thấy đứa con của mình đã thành tài và sẽ nối gót bà để thực hiện những hoài bão to lớn mà bà chưa có thể hoàn thành, một con đường đòi hỏi sự kiên nhẫn và lòng vị tha. Ngày nào đó tôi sẽ dẫn thằng bé về quê hương, thăm lại ngôi mộ của người thân nơi đó sẽ kể lại câu chuyện ngày xưa cùng những lời nhắn nhủ cuối cùng.
Bên con suối nhỏ, dưới tàng cây thao lao rậm mát với những nụ hoa tím lung linh trong gió, Hoài Đức ngồi cạnh ngôi mộ nhỏ, nó thì thầm nói về quãng đời đã qua, những ngày tháng hạnh phúc bên người cha bất đắc dĩ, bên cạnh người dì cũng là người mẹ thân yêu duy nhất, họ trìu mến nâng niu và dành hết mọi tình thương cho đứa con, đứa cháu lạc loài cùng xấu số của mình.
Xã Huy Khiêm, quận Hoài Đức ngày xưa với hàng buông bát ngát, những rặng cây thao lao cao vút trong khu rừng già và giờ đây mọi thứ đều khép lại, ba má của Hoài Đức yên tỉnh dưới tàng cây, lắng nghe tiếng suối rì rào, đón những nụ hoa tím lượn lợ rơi trong gió. Một vùng đất thanh bình không có chiến tranh, không có tiếng súng và không có người chết cùng hận thù.

Lê văn Nguyên

Sunday, May 15, 2022

Chân dung người Vợ lính.

           Bức chân dung đen trắng không màu mè hoa mỹ, người  phụ nữ  trong ngàn vạn  phụ nữ vợ của lính thời đất nước ngả nghiêng họ đã chiến đấu không súng, không đạn, không huy chương, không khen thưởng, tất cả  cho chồng, lót đường cho con bước lên … Để rồi  kết thúc như một vở hài kịch.

         Chị ấy bình thản kể lại  việc làm vợ của  mình như kể chuyện đời xưa. 

Bắt đầu câu chuyện.                                                                                  

      Tiếng gõ cửa dồn dập anh Phát nhìn qua cửa sổ rồi  mở hé cánh cửa cho Vũ vào, bầu khí gia đình ngột ngạt nặng nề, chị Oanh đặt ngón tay lên  miệng  ra dấu im lặng, Vũ liếc quanh không thấy Mẹ, vợ, và hai con,  đoán được ý của Vũ chị Oanh nói nhỏ:

-Mạ  mới đưa cháu vô dỗ ngủ Em ngoài nớ vô hà ? Em đã ăn chi chưa ?

-Dạ ! ngoài nớ vô, em không đói,  Mạ trong nớ rứa Duyên mô chị ?  

 Anh Phát và chị Oanh nhìn nhau không nói, giác quan thứ sáu báo động chuyện chẳng vui đang chờ, Vũ mệt mỏi ngã dài trên nền ca rô phòng khách  nằm đợi trong hồi hộp lo âu như tù nhân trước vành móng ngựa chờ  lời phán quyết của quan tòa, Vũ suy nghĩ chị Oanh nói cũng được không nói cũng được, vì Vũ đoán biết đáp số bài toán này, chỉ mong là chuyện lành.

Chị Oanh khẽ  nói :

-Duyên để lại bé Thơ cho Mạ, ẵm  cu Lâm  theo gia đình  nhà bên  cạnh ra bến Bạch Đằng đi hơn hai tuần rồi  không  biết ra răng, một vài người quay về nói họ lên tàu thủy đi ngoại quốc cả rồi .

 Vũ vui mừng:

-Rứa hả chị ! Một chọn lựa sáng suốt, tại sao anh chị không đi ở lại đây làm chi ?

Chị Oanh không trả lời câu hỏi theo giỏi tâm thái của cậu em chị biết miệng  nói rứa nhưng chắc đang buồn lắm, người ta nói “nước mất nhà tan” quả  không sai. 

  Vũ đứng lên  nhẹ bước  vào phòng nhìn Mẹ rồi nhìn con, xót xa suy nghĩ sáu tháng tuổi vú mô để bú, sữa mô để ăn, bây giờ anh thấm thía thế nào là giải phóng, tất cả được giải phóng còn lại mình trần thân trụi không một đồng xu dính túi, tích cóp đồng nào đưa vô ngân hàng đồng đó, lấy chi trang trải cuộc sống hàng ngày cho Mẹ và con nhỏ, thân phận người lính bại trận nhìn về phía trước là một khoảng trời mênh mông u tối . 

 Vũ trở ra phòng khách, anh chị Phát  ngồi trầm ngâm nhìn lên bàn thờ có lẽ đang cầu nguyện, một lát anh Phát nói :

-Lệnh gọi trình diện học tập 10 ngày,  mấy hôm nay anh chần chừ  chưa đi, bây giờ có Cậu ngày mai anh em mình cùng đi có anh có em an tâm hơn 

 Chị Oanh nói  :

-Chính sách chung mà, ở đây hay ngoài nớ mô cũng phải đi học tập,  chỉ 10 ngày thôi, mai Cậu và anh Phát đi trình diện đừng để quá trễ mà  rắc rối, Cậu yên tâm Mạ và bé Thơ chị sẽ lo .

 Vũ lấy chùm chìa khóa  giao cho chị Oanh nói :

-Nhà ngoài nớ  em đã nhờ bác  Hoàng coi giúp.


 Hai anh em ra trình diện cứ nghĩ họ ghi danh sách sắp xếp lớp học rồi  về  đợi ngày tập trung học tập nào ngờ  ghi tên  xong là bị đưa vô phòng trong đóng kín cửa một giờ sau lên xe bít bùng  chở  về  khám, không biết mình bị giam khám nào vì lên xe ở cửa phòng, rồi xuống xe  đưa ngay vào phòng, ngồi trên xe bít bùng không biết chạy đường nào, mấy hôm sau  cũng xe bít bùng đưa ra sân ga, cùng lên khoang sắt kín mít xập xình chạy, Sài gòn không có đường sắt về miền Tây, chỉ có đường ra Trung và Bắc, tàu ì à ì ạch chạy mấy ngày đêm, đứng lại nhiều ga, người ngồi trong khoang sắt rải rác xuống dọc đường, Vũ được lệnh xuống không biết ga nào, tàu đứng lại vài ba phút rồi tiếp tục chạy, từ đó hai anh em  mỗi người một nơi, núi rừng miền Bắc xa lạ không biết mình bị dẫn đi đâu.

  Chị Oanh  thất thểu chạy nơi này qua nơi khác  dò la tin tức  hỏi thăm người  quen, hỏi thăm bạn bè, ai cũng như ai cùng chung đại họa, nước mắt lưng tròng cay đắng nhìn  nhau . 

  Ngày ngày chờ tin trong khắc khoải âu lo . Cô nữ sinh hoa khôi  trường Jeanne D’Arc con nhà giàu xếp sách vở  theo chồng ở tuổi  mười chín, chưa  khi nào đụng tay bất cứ việc gì bây giờ phải xắn  tay áo tập tễnh xông  vào cuộc chiến  kiếm cơm .

 Chồng và em trai được lệnh triệu tập đi học 10 ngày, 10 ngày đã qua biệt vô âm tín, bao nhiêu gia đình nhốn nháo chạy đầu này đầu kia dò thăm tin tức nhưng vẫn vô vọng, thời gian nặng nề trôi, một tháng, năm tháng, bảy tháng rồi một năm chị mới  được tin nhắn, Cậu em trai ở Thanh Hóa , Chồng ở Hà Nam Ninh. 

 Chị vui mừng báo tin cho Mẹ  “Hai anh em chưa chết”.   Chị chạy quanh hỏi thăm cách đi thăm tù vừa về tới nhà Mẹ đưa tờ giấy của chính quyền địa phương báo “ nhà của chị trong diện bị trưng thu”, yêu cầu phải dọn ra trong vòng  30 ngày kể từ ngày nhận giấy báo.

Cầm tờ giấy đuổi nhà trong tay chị không mấy ngạc nhiên vì chị đã gặp người bạn học cũ anh ta ra bưng năm Mậu Thân bây giờ trở về làm ông lớn, người này cho chị biết, theo chính sách sớm hay muộn nhà của Sĩ Quan cấp Tá trở lên sẽ tịch thu, mấy lâu nay chị đã từ từ thu xếp mọi chuyện, chị bình thản đưa Mẹ với ba đứa nhỏ hai đứa con và một cháu trở về mái ấm quê hương nơi ông bà tổ tiên đã gầy dựng, nơi đong đầy bao nhiêu kỷ niệm của thời con gái. Chị nôn nóng về gấp  để đi thăm hai người tù, về miền trung thì  đoạn đường ra  Bắc được thu ngắn hơn hai phần.


Bác Hoàng gái  người hàng xóm coi giúp nhà vui mừng đón mẹ con chị từ  đầu  hẻm, Bác  nói :

- Mệ và Cô về  Cháu mừng quá,  giữ nhà của Mệ không đơn giản, khô  rát cổ họng trả lời với người ta, hôm nay đòi mượn, mai xin cho ở tạm, mốt xin gởi sinh ở học, họ mà vô trong nhà rồi lấy xà beng nạy cũng không ra, đứa nào thấy nhà Mệ  cũng nuốt nước bọt.

 Hai mẹ con chị Oanh chỉ biết cúi đầu tạ ơn bác Hoàng gái.


  Mới  về ở  được hai đêm chưa dọn dẹp xong đồ đạc đêm thứ ba Cảnh sát khu vực đập cửa kiểm tra hộ khẩu yêu cầu chị trình giấy tạm trú, tạm vắng hơn một năm ở Sài Gòn chưa ai hỏi giấy này.

Chị nói :

-Anh đợi tôi vào lấy .

Chị vào phòng cầm ra miếng giấy nói :

-Giấy tạm vắng  không có  nhưng có giấy này, tôi bị đuổi  ra khỏi nhà không biết phải đi mô nên kéo nhau về đây. 

Người Cảnh sát coi tờ giấy rồi bỏ đi.

  Vài ba hôm sau một toán  người, đàn ông có đàn bà có, đến vận động bán nhà đi kinh tế mới, cho chị thời hạn  suy nghĩ một tuần họ sẽ trở lại, họ đi rồi chị ngồi xuống ghế thấy ê chề đắng cổ họng.

 Việc nhà chưa thu xếp xong lại phải đương đầu với những chuyện như thế này, không có ai để chia sẻ, áp lực đang đè nặng lên người chị. 

Chị đọc kinh, Chị cầu nguyện xin ơn trên soi sáng.

 Việc cấp thiết là phải đi thăm Chồng và Em trai mọi chuyện từ từ tính liệu sau.

 Đơn xin thăm nuôi  chính quyền địa phương  trả lời:

 (Không giải  quyết  vì tình trạng cư trú của chị chưa rõ ràng) .


Đoàn người  hôm trước lại đến, hôm nay có cảnh sát khu vực đi theo, chị vui vẻ đón tiếp miệng xuýt xoa :

-Thật xin lỗi nhà kẹt tiền quá phải bán bộ bàn ghế chưa sắm lại kịp  các anh chị  chịu khó đứng một chút, để khỏi mất thì giờ của các vị tôi xin trả lời, việc bán nhà đi kinh tế mới theo chủ trương mà các anh chị đã truyền đạt hôm trước tôi xin thưa, tôi là gái đã lấy chồng không có quyền quyết định, tôi phải hỏi ý của em trai tôi vì đây là nhà Tổ Phụ, còn Mạ tôi các Vị cũng biết bệnh người già không  còn biết chi hết, hôm qua lên phường xin giấy thăm nuôi để gặp Cậu em bàn chuyện bán nhà nhưng không  giải quyết vì lý do cư trú của gia đình tôi không rõ ràng.

Người Cảnh sát hứa xem xét lại  giấy thăm nuôi.


 Gần hai tuần  vai xách nách mang lặn lội từ rừng Thanh Hóa ra rừng  Hà Nam Ninh, không cầm được nước mắt chỉ hơn một năm mà chị không còn nhận ra họ, tột cùng khổ đau hằn ghi lên thân xác khô gầy, trên khuôn mặt bọc lớp da nhăn nhúm, đôi mắt trắng dẻ thụt sâu trong hốc xương, vòng mi thâm quầng. Chị báo sơ cho hai người biết nhà ở Sài gòn bị tịch thu đã dọn ra Huế được  hai tháng rồi, Mạ và ba nhóc đều khỏe, chị không nói chi thêm vì không muốn đem âu lo đến cho chồng và em, chị tự tin sẽ giải quyết êm xuôi mọi nan đề trước mắt.


 Cuộc sống chật vật hơn sau chuyến đi Bắc về, chị đạp xe quanh thành phố tìm nghề thích hợp kiếm cơm, cảnh sống chụp giật, một nói mười, không nói có, chị không làm được.

 Chị chọn nghề đơn giản ít vốn học cách luộc hột vịt lộn, chị bắt đầu bước xuống cuộc sống thành phố này bằng thúng hột vịt lộn với mấy bao thuốc lá bán lẻ, leo lét cây đèn dầu, tấm ni lông quấn cổ xoay quanh người, khi che mưa, khi chắn gió, tại  góc ngã ba đường, đêm hè oi bức cũng như đêm đông mưa lạnh, ngồi còng lưng, tê nhức đầu gối, thâu đêm gà gáy để bán cho xong 100 cái trứng lộn. Vậy mà có được yên đâu. Số người hôm nọ lại đến hoạnh họe đủ điều bắt chị phải bán nhà đi kinh tế mới, chị quyết liệt phản đối, khả năng và sức lực của chị không thể phá rừng cuốc đất để nuôi ba đứa con nít và một bà già, nếu không  cho  ở đây thì viết giấy cho chị trở vào lại Sài Gòn .

  Họ  nặng lời hăm dọa :

-Muốn người thân cải tạo  mau về thân nhân phải chấp hành triệt để lệnh của chính quyền địa phương, hơn nửa gia đình  của bà là gia đình ác ôn, có nợ máu với nhân dân với cách mạng chồng Sĩ Quan cấp Tá em là Biệt kích,  theo chính sách bắt buộc phải rời thành phố nếu không đi sẽ cưỡng chế.

Chị nói như đùa:

- Tôi không tha thiết sống nhưng không can đảm tự tử các anh chị muốn làm gì tùy ý và làm nhanh lên, điều mong ước là xin giúp giải phóng cuộc đời của tôi, tôi xin được chết nơi đây, các anh chị hôm nay không giúp giải quyết mạng sống của tôi thì ngày mai xin các anh chị hãy quên tên tôi đừng tới nhắc kinh tế mới kinh tế cũ nửa.

Sau buổi nói chuyện quyết liệt hôm ấy chị hồi hộp chờ kết quả, một ngày hai ngày rồi qua tuần qua tháng không nghe nói năng chi, vậy là chị đã vượt qua được chặng đường gai góc.

 Cuộc sống đã tụt dốc đến tột cùng, nữ trang, rồi áo quần từ từ ra đi tất cả dồn vào những chuyến thăm nuôi, mỗi năm thăm một lần quay qua quay lại kỳ thăm nuôi nữa lại đến, mỗi năm thăm một lần không thể không đi, chị là liều thuốc bình an của hai người, nhưng biết làm sao đây, nhà không còn gì  để bán, con nít mỗi năm một lớn ăn nhiều hơn, chị quá vụng về không biết làm chi ngoài việc hằng đêm ôm thúng trứng vịt lộn với mấy gói thuốc lá lẻ, có tối bán hết có tối không, chị nhịn ăn được nhưng ba đứa nhỏ và Mẹ già thì không thể, đành phải nhắm mắt ghé lại Trung Tâm Huyết Học đưa tay vào cho họ lấy máu  kiếm ít tiền như lần trước chị đã làm.


 Thầy Huỳnh thắng xe gấp chạy nhanh vào Trung Tâm Huyết Học gọi :

-Chị Oanh . 

Chị  giật mình quay lại, thầy Huỳnh nói :

-Chị ra em chở chị  về.

 Chị đành phải theo thầy Huỳnh rời nơi bán máu, đưa chị vào sân thầy Huỳnh dặn:

-Chị vào  nhà đợi em một chút .

Mười lăm phút sau Thầy Huỳnh đưa bác Hoàng tới, thầy Huỳnh là con trai trưởng của bác Hoàng cũng là con đỡ đầu của ba chị, thầy Huỳnh nguyên là Đại Chủng Sinh, vì lý lịch không tốt nên chính quyền  không cho tiếp tục tu. Thầy giỏi  ngoại ngữ  với lại quen biết nhiều, nhờ người giới thiệu nên xin được việc làm công nhân.

  Bác Hoàng gái ôm vai chị  nói :

- Xin lỗi cô!  Tôi nghe thầy Huỳnh nói mà giờ này tim tôi vẫn còn đập, tôi bận lo quán cà phê, sáng đi sớm tối về trễ, lúc nào gặp cô cũng thấy tươi cười cứ tưởng cô chống đỡ qua ngày được,  đâu ngờ cô túng quẫn đến độ phải đi bán máu, người cô xanh xao khô đét như vậy còn máu mô mà đi bán, tội nghiệp cô quá, cô đã bán mấy lần rồi, cô phải giữ gìn sức khỏe để lo cho ba đứa nhỏ và Mệ nữa, răng cô liều dử rứa, cần tiền thì nói với tôi, tiền đây cô cầm đi, cần thêm thì cứ nói, đừng dại dột tới đó nữa nghe chưa.

Bác Hoàng dúi vào túi chị một nắm tiền bác nói:

- Tôi cho cô mượn khi nào  dư dả thì hoàn lại, cô an tâm không lẽ suốt kiếp này mình không ngóc đầu dậy nổi hay sao, lúc đó tôi sẽ tính vốn lẫn lời. Bác Hoàng nói tiếp : - Việc bán hột vịt lộn bữa ni cô lấy ít lại bán tới 11 giờ khuya hết còn chi cũng về nghỉ. Bắt đầu ngày mai buổi sáng 5 giờ cô lên quán phụ giùm tôi tới 11 giờ  nghỉ trưa về lo cho Mệ và mấy đứa nhỏ, chiều 2 giờ Cô lên lại phụ tôi một lúc nửa.

Chị đứng lên theo bác ra cửa nói:

-Em cám ơn Bác đã lo lắng cho em.

Chuyến đi thăm tù lần này vội vàng hơn, vì khi đi gạo trong hũ  còn quá ít sợ bà cháu ở nhà đói.

 Mới trở vô nhà cu Tâm thỏ thẻ khoe:

-Mạ nờ ! Nhà mình bữa ni nhiều gạo lắm, mỗi bữa bà ngoại cho tụi con ăn hai chén sướng quá chừng.

Chị hỏi:

-Gạo mô mà nhà mình có.

-Mệ Hoàng đem qua cho bà ngoại, còn nửa tụi con bác Huỳnh cũng cho kẹo, sướng  ơi là sướng.

 Hàng tháng đều đặn bác Hoàng gửi qua mấy chục ký  gạo, chiều  đi làm về trên tay thầy Huỳnh lúc nào cũng gói  kẹo hay bao bánh ngang qua nhà đôi vô cho mấy đứa nhỏ.

Chị không biết làm sao để diễn đạt lòng biết ơn với gia đình bác Hoàng. Họ là  chiếc phao cứu gia đình chị sắp chìm. 

Hằng đêm chị vẫn tranh thủ bưng thúng hột vịt lộn ra ngã ba ngồi bán kiếm thêm dồn vào việc thăm nuôi, nhờ gia đình bác Hoàng mà chị được an tâm, chị ngồi nhìn ánh sáng heo hắt của cây đèn dầu bên thúng hột vịt lộn suy nghĩ  không biết kiếp này còn đọa đày bao lâu.

 Nhiều đêm đói cồn cào nhìn trứng vịt nuốt nước miếng muốn ăn một cái cho ấm bụng nhưng lại thôi để dành cái trứng bán kiếm vài ba hào, chắt chiu dành dụm thăm chồng thăm em. 

 Rồi chị nhận được giấy báo anh Phát được ra tù yêu cầu gia đình ra đón anh ấy về, Chị đưa  tờ giấy cho bác Hoàng coi, Bác cũng có suy nghĩ như chị, chắc chắn có vấn đề, nếu bình thường ra tù thì chạy ù về nhà mắc chi gia đình phải đi đón, Bác nói:

-Để tôi bàn với Thầy Huỳnh, nhờ thầy xin nghỉ vài ngày đi với cô lỡ có chuyện chi chị em người một tay chứ tôi thấy tình hình ni không xong rồi, lỡ chú nớ có chuyện chẳng lành mần răng mà tính, không chừng ra mang xác về cũng nên.


 Hai chị em vào khu thăm nuôi trình giấy báo ngồi chờ, mấy phút sau hai người xốc nách một  người hay đúng hơn là một sinh vật lạ đặt nằm trên sạp tre, một người nói :

-Đây anh Nguyễn Mạnh Phát chúng tôi giao cho gia đình, chị cầm tờ giấy ra trại coi tên thì đúng là Nguyễn Mạnh Phát.

  Anh Phát còn khoảng trên ba chục ki lô con người giống như tắm trong thùng sơn vàng mới ra, màu vàng khủng khiếp không dám nhìn lâu, miệng mấp máy muốn nói gì nhưng không nói được .

 Đường từ trại tù ra quốc lộ quá xa mà lại  đường rừng lên đèo xuống suối rất khó đi  thầy Huỳnh nói:

- Mình phải đi liền thôi cô à, bằng mọi cách đưa chú ra khỏi đây đã, chú không nặng lắm đâu, hai chị em mình thay nhau cõng đi được đoạn nào hay đoạn đó  gặp nhà dân tính sau.

 Ban đầu thay nhau cõng còn gắng đi nỗi, càng về sau thì không tài nào nhấc chân lên khỏi mặt đất được, cả ba cùng nằm lăn ra thở, một bà chị đi ngang qua thấy cục vàng to tướng nằm thoi thóp có lẽ đã quen với cảnh này rồi nên chị mau miệng  chỉ đường tới nhà người có cỗ xe trâu, thuê cỗ xe trâu đưa ra liên tỉnh lộ để đón xe.


   Khổ này chưa qua khổ khác lại tới, cơ chi mà trời cho mọc thêm hai tay hai chân nửa may ra mới chạy kịp .

 Hai chị em cõng về tới bệnh viện mừng quá sức trình giấy xin nhập viện phòng nhận bệnh lắc đầu không nhận.

 Cõng về nhà ai chỉ chỗ mô chị đi tới  chỗ đó  tìm thuốc cứu anh, chị ra tới Tân Ấp vùng đất cuối của Quảng Bình giáp ranh với Hà Tĩnh, Tân Ấp là làng người dân tộc Tày, từ ga xe lửa đi bộ khoảng mười  cây số đường rừng, trèo lên tụt xuống hai ngọn đồi vác hai bao lá về, uống không thấy nhúc nhích động đậy, người khác chỉ ra làng Cùa  Ba Lòng tỉnh Quảng Trị chị cũng ra, người khác chỉ Nam Đông A Lưới chị cũng lên, toàn lá với lá, vàng vẫn cứ vàng không xuống sắc chút nào.

  Chị cầu nguyện hằng đêm xin ơn trên cho  chị gặp được thầy được thuốc cứu chồng, sức lực con người có hạn, khi lực tận chỉ biết phú dâng và bám víu vào Thượng đế.


Hôm nay chị nhắn chú xe kéo chở cho chị mấy bao trấu để nấu, chú  xe kéo vác trấu vào  thấy khối vàng thiêm thiếp trên võng chú quay lại hỏi.

-Ai rứa cô?

-Ông xã của tôi tù ngoài Hà Nam Ninh gần chết họ kêu gia đình ra nhận mới đưa về đó anh.

-Cô cho chú uống thuốc chi chưa  ?

-Dạ ! Tui chạy thuốc  khắp cả rồi mà không thấy bớt chút mô hết.

-Ui cha ! Thứ vàng da ni dễ trị lắm, vài ba hôm là lành, chừ cô chạy ra chợ mua một bó chè xanh và một miếng gan heo, đem về vằm gan ra  nấu chung với  lá chè, sắc đậm cho chú ấy uống, rồi ngày mai cô đi sớm, khoảng  gà gáy lên bến Than đứng đó chờ mấy người đi củi lên đò qua sông, cô theo họ nhờ họ chỉ cây Nắp Ấm cây này thân mềm dạng cây leo hoa giống như miệng ấm có đậy nắp y như nắp ấm, nên họ gọi là nắp ấm, cây mọc ngoài bìa đồi vùng đất trũng, tôi đã lên đó hái mấy lần rồi, cô lên đó nhờ họ chỉ cho mà hái, hái nhiều để khỏi đi lại. Nó thuộc loại cây leo, nắm gốc nhổ thì kéo cả chùm, thân dây mang về khỏi vằm, cứ  quấn từng nắm nấu chung với  chè tươi và gan heo, mua thêm một cục đường đen, uống nước chè đặc bao tử cào khó chịu cô cho nhai chút đường, chú uống ba ngày là bớt vàng chừng một tuần là lành. “Bến Than là bến đò ngang gần ngã ba điện Hàng Chén”.

Tạ ơn Thiên Chúa bài thuốc đơn giản mà quá hay uống ngày thứ  ba là bắt đầu đổi sắc, từ vàng ra bạc, uống tiếp gần một tuần thì nước da trở lại bình thường rồi khỏi hẳn.                                         

  Anh Phát không ngờ  nét tươi vui của vợ chỉ để che dấu một thảm cảnh đau lòng, nhìn thúng hột vịt anh đã khóc, khóc như một  đứa trẻ, xót xa thương vợ, đã không tiếc thân mình bán máu để có tiền nuôi anh, hằng đêm anh bưng đèn cùng chị ra ngồi ngã ba.

 Thầy Huỳnh kiếm cho anh Phát một chỗ giữ xe đạp, năm sau đang chuẩn bị đi thăm nuôi cậu em, thì lễ Quốc Khánh 2/9 cậu em trai và bác Hoàng ba của Thầy Huỳnh được thả về. 

 Gia đình bây giờ thêm bốn cánh tay của hai người đàn ông chị bớt tất bật, sinh hoạt gia đình  cơm mắm tạm ổn qua ngày ba đứa nhỏ gửi vào trường Mẫu giáo của nhà dòng nữ.

 Qua cơn bĩ cực đến hồi thái lai.

Ba gia đình, bác Hoàng, Cậu em trai và gia đình chị Oanh cùng nộp đơn một lần xin xuất cảnh theo chương trình HO. Mọi người được thông suốt đến định cư tại Hoa Kỳ.

 Một sự ra đi không ai ngờ, chị không dám quay lại nhìn chặng đường đã qua không bút mực nào diễn đạt được sự khốn khó đến tột cùng đó, không lời  nào xứng hợp để nói  lời tạ ơn gia đình bác Hoàng.  Ba gia đình bây giờ đã kết chặt thành một đại gia đình, dọn về sống gần nhau cùng một thành phố, yêu thương, săn sóc.

Hạnh phúc hơn Thầy Huỳnh tiếp tục vào dòng tu và  nay đang là Linh Mục phó giáo xứ Việt Mỹ. 


 Phần 2 : ……… 


 Cha mẹ là lá chắn tinh thần  là hành trang  là sức mạnh cho con cái  bước xuống cuộc đời.

 Đó là lý lẽ  thường tình của cuộc sống. Từ ngày cưới nhau cho tới bây giờ trải qua bao cay đắng nhọc nhằn chịu đựng bao gian nan khổ cực chị  Oanh luôn cố gắng vượt qua vui vẻ chấp nhận nghịch cảnh, hi sinh cho chồng cho con đó là niềm vui của người làm vợ là thiên chức của người mẹ.

Mấy chục năm qua chị  chưa bao giờ có ý nghĩ sai lệch về chồng, một mực tôn trọng anh, vì anh là người chừng mực nói năng chín chắn, có trước có sau, lúc nào cũng ôn tồn, hoàn cảnh nào cũng bình tỉnh, sống có nguyên tắc, năng nỗ  nhiệt tình, chị tin tuyệt đối sự thủy chung của anh, chị nghĩ nếu trên đời này tìm người chung thủy một vợ một chồng thì anh là người đầu sổ trong số đó .

Mấy tháng nay sau chuyến đi Việt Nam lần thứ hai trở về chị  cảm nhận ở anh có cái gì khác khác với nguyên  tắc sống của anh thường ngày, chị không phải là người đàn bà mà thiên hạ ví như con gà mái oang oác tối ngày, nhưng những sinh hoạt bất thường của anh tạo cho chị sự chú ý tò mò, những tiếng thở dài, những lúc ngồi tư lự, những lần thì thầm  điện thoại, rồi có những lúc hốt hoảng trước mặt chị, đó là những điểm khác lạ mà mấy chục năm qua chị chưa thấy ở anh ?


Chiều thứ 7 hôm nay gia đình  bác Hoàng và gia đình chị lỉnh kỉnh mang thức ăn tập trung về nhà Vũ “cậu em trai”  để mừng sinh nhật cháu Thơ. Hai chục năm qua cậu em  tội nghiệp ku ki một mình  vừa làm cha vừa làm mẹ nhiệm vụ nào cũng chu toàn. Hạt giống Vũ ươm, xới, gieo trồng nay  đã kết nụ ra hoa, một Nha Sĩ xinh đẹp tràn đầy sức sống đang vươn lên trong niềm tin yêu của gia đình, thành quả tốt đẹp đó cũng không ít công sức của  chị  Oanh vừa là Cô vừa là Mẹ và cũng là Cha .


 Tiệc vui bắt đầu, chai rượu lễ của Cha Huỳnh mang tới coi như khai vị, cả ba người lâu nay rất ít uống rượu, chiều  nay không biết vì quá vui hay mắc chứng gì mà họ thi nhau cụng, mới chút xíu mà đã thanh toán xong chai rượu lễ có lẽ nồng độ nhẹ và ngọt nên dễ uống, còn thâm qua phân nửa chai Cordon Blue, rượu mạnh vào họ bắt đầu đổi tông, âm thanh lè nhè nhừa nhựa, ngắc nga ngắc nghẻo một lúc rồi cả ba anh em  lăn đùng ra ghế sô pha, hai chị  dọn dẹp xong ngồi nhìn mấy ông say nằm bất động chờ họ tỉnh rượu để về .

 Hai chị cũng ngả lưng xuống, tiếng ù ù nho nhỏ ở chế độ rung của điện thoại cầm tay phát ra, lắng tai nghe thì nó trong túi quần của anh Phát, bác Hoàng bảo chị Oanh lấy ra nghe thử, không chừng thằng Tâm gọi có chuyện gì chăng. Chị Oanh kéo thẳng chân anh Phát ra thọc tay moi cái phone trong túi quần  một hàng số lạ hiện ra 0985… chị nói nhỏ số phone lạ quá, bác Hoàng lấy điện thoại nhìn số rồi đi ra ngoài, ngoắc  chị Oanh cùng ra. Chị Oanh thấy khó chịu trong lòng, chị ân hận đáng lẽ chị không nên làm vậy, chị chần chừ, nhưng  trước sự đã  rồi đứng dậy đi ra theo, ra tới nơi nghe bác Hoàng nói:

-Được đợi cậu ấy tỉnh rượu tôi sẽ nói lại giúp cho cô. Bye cô nghe.

 Bấm xóa cuộc điện đàm, Bác Hoàng bảo chị đem bỏ lại như cũ, chị trở ra Bác ngồi tránh một bên ghế xích đu chờ chị .

Chị rùng mình ớn lạnh không biết do thời tiết về đêm của CA.  hay rùng mình vì sắp được nghe bác Hoàng nói, chị chắc chắn là chuyện  không vui, chị nói với Bác Hoàng :

- Mình vô nhà thôi Bác, Em thấy ớn lạnh quá, hôm nào rảnh em chạy qua nhà nghe Bác nói chuyện củng được.

 Nhìn sắc mặt của bác Hoàng chị đoán biết bác Hoàng sẽ cho chị câu trả lời về những dấu hỏi chị đặt ra với anh Phát mà chị thường tâm sự với bác Hoàng mấy lâu nay, chị suy nghĩ nghe một lời buồn là thêm một gánh nặng, tại sao lại tìm gánh nặng mà mang vào người, bỏ được cái gì thì bỏ  quăng được cái gì thì cứ quăng  chị cố né tránh để khỏi nghe.

 Lòng chị lúc nào cũng bình thản chị nhớ một câu trong bài hát của TCS … “ Ai nên khôn không có một lần ... dậy mà đi ...”  quả thật vậy, bản lãnh của con người là tự thắng bản năng, tự thắng những đòi hỏi tầm thường của thể xác, bản năng yếu đuối không thoát khỏi cám dỗ bị vấp ngã là chuyện thường, nhưng vấp ngã rồi có biết đứng  thẳng người dậy để mà đi hay vẫn cứ nằm ỳ ra giãy giụa trong vũng bùn, đó là điều đáng  nói, là điều chị mong đợi nơi anh, tất cả những suy nghĩ của chị chỉ là đoán mò theo  trực giác của phụ nữ chứ chưa chắc là đúng và chị cầu mong là không đúng.

 Hơn thế nữa, đều là con nhà đạo hạnh mọi chuyện trong cuộc sống đều tín thác vào Đức tin, chị dành thời gian vào việc đọc kinh tham dự thánh lễ.

 Lại một mùa Chay về sinh nhật của cháu Thơ cũng đến, câu chuyện hôm sinh nhật cháu Thơ năm ngoái đã giáp vòng một năm chị luôn tránh nói chuyện riêng với bác Hoàng chị sợ phải nghe, chị luôn tạo cho gia đình  một bầu khí ấm cúng vui nhộn như mấy chục năm qua, chị nhắc anh Phát rảnh rỗi không  làm gì thì lấy vé về VN chơi, mùa này vé máy bay hạ giá, sau Phục sinh vào mùa hè giá vé cao. Chị tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu của anh.


Trái bom âm ỉ châm ngòi hai năm nay bây giờ đã nỗ, bao nhiêu hy sinh, bao năm gắn bó tình nghĩa vợ chồng đã kết thúc đơn giản trên một miếng giấy với hai chữ ký .

Sau hôm phân chia tài sản theo lệnh của Tòa án  anh Phát đi bặt tăm, chị nghe mấy người bạn về Việt Nam qua nói lại anh Phát về cưới vợ trẻ, cô ấy là người giữ xe đạp với anh sau khi anh lành bệnh vàng da.

 Chị cười sảng khoái  khi kết thúc câu chuyện .

Tôi hỏi:

-Em không thấy chị buồn .

Chị cười trả lời:

- Cây kim khâu bị rớt mất cũng lấy cục nam châm rà tìm cho bằng được, một người đầu ấp tay gối mấy chục năm, con người mà mình lấy máu đem đổi bánh đường tụm cá khô bao thuốc bổ, con người mà mình  vượt núi băng rừng tìm thuốc chữa trị, bây giờ quay lưng lại, không buồn làm sao được, buồn lắm chứ, nhưng khi đã tột cùng đau khổ thì mình trở nên chai cứng, dửng dưng chấp nhận, một khi họ đã quyết định đi con đường họ chọn, thì thôi mình cứ vui, hơn nửa  trách nhiệm làm mẹ mình làm xong, bổn phận làm vợ mình cũng chu toàn, mình không chút gì hổ thẹn với lương tâm.

Thời gian sau chị gặp mấy người bạn của anh Phát mấy anh ấy nói:

-Anh Phát lúc này đã thành ca sĩ rồi, anh trình diễn rất thành công bài hát 

“Anh đã lầm đưa em sang đây” .

Không biết họ nói thật hay ám chỉ điều chi, Chị nói lại :

-Cửa nhà tôi luôn mở không khóa.

  Người vợ tuyệt vời .

 Viết theo lời kể .   

  Phương Lâm .

Người Vợ Lính Lôi Hổ

Đạn quân thù nổ dòn đây đó

Lửa chực chờ đốt cháy quê hương

Máu chiến binh đỏ thắm nhuộm chiến trường

Quyết giữ lấy phần biên cương Quốc thổ


Là vợ của lính trong thời binh lửa

Mái pông sô hứng đạn ngỡ trời mưa

Súng rền vang chẳng khác pháo giao thừa

Mùi thuốc súng nồng thơm căng buồng phổi


Sánh vai chồng xông pha ngoài biên ải

Lửa hỏa châu cháy rạng sáng quê hương

Tay lựu đạn tay cò bóp súng trường

Còn ai nhớ ai thương người vợ lính ...


Chồng gục xuống vợ khinh binh thế chỗ

Diệt quân thù cơn cuồng nộ chiến tranh

Ai còn nhớ người quả phụ vô danh

Khép kín mình bên dòng đời hiu quạnh.


(Nhân vật và câu chuyện nhằm vinh danh những anh hùng trong bóng tối, ghi chép theo chuyện kể và một số dữ kiện có thể thật và hư cấu)


 Thị xã Trà Vinh tôi sống không lâu nhưng nơi này đã để lại trong tim nhiều kỷ niệm, đã cưu mang tôi hai lần trên bước đường trốn chạy nạn cộng sản. Lần thứ nhất vào khoảng tháng 2 năm 1975 khi đồng bào tỉnh Quảng Trị lục đục kéo  ngang qua Huế, anh bà con của tôi là cố Trung Tá  Nguyễn văn Bình Sư đoàn I Bộ Binh lên nhà đề nghị với Má tôi:

-Dì nên đưa các em về Trà Vinh ở với chị Thảo một thời gian Dì nói các em chuẩn bị sẵn sàng vài hôm nữa con lên lại đưa Dì và các em đi.

 Gia đình tôi đông chị em Ba tôi bị việt cộng chôn sống năm Mậu Thân nên chúng tôi lúc nào cũng được sự quan tâm của bà con thân tộc.

  Mặc dù Anh Bình không nói lý do bỏ Huế đi,  nhưng một vị Trung Tá nói như thế cũng hiểu ngầm rằng tình hình chiến sự căng thẳng. Thảm cảnh Mậu Thân còn đó, những bộ hài cốt trắng hếu tay chân quấn chặt dây kẽm gai, xương đầu dập nát trong những hố chôn tập thể như hiển hiện trước mắt, hình ảnh những tên đao phủ  trợn mắt nhe răng cầm búa, cầm mã tấu đánh vào đầu người dân lành vô tội làm tôi ớn ốc nổi da gà, khi nghe anh Bình nói vậy tụi tôi cuống cuồng, chị em mỗi đứa một túi xách nhỏ mang theo ít đồ cá nhân ngồi bắt mặt ngó ra đợi.

 Nhà chị Thảo ở đầu sân bay Trà Vinh gần cổng Đại Đội Tổng Hành Dinh của Sư Đoàn 9 Bộ Binh, chồng chị làm Đại Đội Trưởng, căn nhà lợp lá dừa nước, vách toàn là ống đạn, chiều dài căn nhà quá cỡ nhà bình thường  tựa như khu gia binh.

  Vô tới đây ai nấy thở phào nhẹ nhõm, chạy một mạch xa như vậy cứ nghĩ rứa là ổn chưa kịp vui thì tin sét đánh tới Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh cho Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa buông súng đầu hàng.

Thế là hết ! Chị em chúng tôi nước mắt lưng tròng nhìn nhau trong âu lo thương hận.


Cho tôi thước vải thô màu trắng

Quấn ngang đầu buộc chặt nỗi hờn căm

Ba Mươi tháng Tư Một Chín Bảy Lăm 

Cúi đầu xuống phục tang ngày Quốc Hận.


Đất nước đã nhuộm đỏ màu tang tóc, đại nạn cộng sản bao trùm, không biết tương lai về đâu, nơi bám víu sau cùng là  chấp hai tay xin ơn trên phù trì che chở.

 Trong thế chẳng đặng đừng chúng tôi bầu đoàn thê tử lục đục trở lại Huế, gia đình tôi  đông chị em nên Ba tôi xây nhà rất to, nhà sau nối liền nhà trước, mái đúc bằng dự tính lên lầu, tết Mậu Thân bị mấy trái pháo cũng không hề hấn gì, bước vô tới cửa ngõ thì tá hỏa tam tinh, một nhà toàn là lính việt cộng, khi đến tột cùng của sợ, thì không còn biết sợ là gì, tôi bước vào nhà như một con điên liệng mạnh túi xách xuống nền hét lớn:

-Mấy ông ở mô mà vô đây, đi ra ngay, ra khỏi nhà ngay lập tức !

 Đám lính cộng sản này tôi thấy phần nhiều là đám choai choai cỡ mười sáu mười bảy, đứa nào đứa nấy nghe tôi hét chúng quờ quạng kéo nhau dồn lui nhà sau, rồi một tên lớn tuổi từ nhà sau ra điều đình:

-Không biết Mẹ và các cô về nên chúng cháu không chuẩn bị, Mẹ cho chúng cháu ở tạm nhà sau một hai hôm để chỉ huy sắp xếp chúng cháu sẽ đi ngay.

Ai nấy mừng thầm, đối phương xuống nước nhỏ tức là nhà mình không mất.


Bạn còn nhớ cuối mùa xuân năm nớ

Quê hương chìm trong biển đỏ thương đau

Tang thương ly hận chồng chất oán sầu

Đất nước khởi đầu thiên niên mạt vận.

                                    

   Trà Vinh .

 Lần này tôi  trở lại với hoàn cảnh khác, tay ôm con dại, cùng chồng lánh nạn thu gom đi tù lần thứ hai.

  Làng tôi có hai người đi tù về sớm một là anh Tùng bà con cấp bậc Trung Tá trước phục vụ trong ban Liên Hiệp Quân Sự bốn bên, hai là  ông xả của tôi, còn phía cầu Kho Rèn có hai người bạn thường lên chơi là Thiếu Úy Cam Thiếu Úy Đức.

Sau vụ tàu cộng đánh các tỉnh biên giới phía Bắc, ban ngày công an tỉnh đến nhà thẩm tra lý lịch, đêm hôm sau xét hộ khẩu bắt đi luôn, vậy là đã bị bắt đi ba người, gồm anh Tùng, anh Cam và anh Đức, chồng tôi cũng vậy sáng hôm nay công an xét lý lịch, chiều hôm đó chúng tôi vội vàng bỏ Huế ra đi.

 Hai vợ chồng và đứa con vào Trà Vinh tá túc  nhà chị Thảo được gần bốn tháng, điều ngạc nhiên cuộc sống bà con ở đây chẳng khác  lúc trước mấy, quán nước mía, quán cà phê bên đường nhạc cũ trước 1975 vẫn râm rang ca hát, bà con ở đây nghe chúng tôi nói chuyện ăn cơm độn hầu như không ai biết cơm độn là gì, so với Huế, Quảng Trị thì đây là thiên đàng.

 Cuộc sống tinh thần ít căng thẳng hơn Huế, người dân ở đây không dòm ngó nhau nên  tình trạng rình rập báo cáo lập công không có, nhờ vậy chúng tôi tá túc ở đây trên bốn tháng rồi không bị xét hộ khẩu.

 Như mọi ngày mâm cơm trưa chuẩn bị xong  để bên mép giường, chiếc chiếu cũ trải xuống nền nhà làm bàn ăn cũng đã sẵn sàng, nồi cơm trắng không độn gạo Nàng hương thơm phức, song cá kèo kho khô với hẹ ngào ngạt mùi thơm, ở Huế thời buổi này làm sao có được bữa cơm thịnh soạn như vậy.


Nghề đạp xe lôi của ông xã giờ giấc bất thường khi sớm khi trễ, tôi bồng con ra ngồi dưới bóng dim cây xoài đợi, nước phèn vàng quánh trong hồ rau muống xông lên mùi hăng hắc, nhìn ra  con dốc đầu lộ chờ anh chàng xe lôi về.

 Xe lôi chạy nhanh xuống dốc sau xe có hai người khách chạy thẳng vào sân, một lớn một bé, tôi bồng con đứng dậy nhường bóng mát cho ảnh đẩy chiếc xe vào. Tôi gật đầu chào  người phụ nữ và bé gái, tôi rùng mình khi nhìn mặt người phụ nữ, quá dễ sợ, một mắt tròng trắng nhô lên như muốn nhảy ra ngoài, ghèn đóng một vòng quanh con mắt, vàng vàng xám xịt, cánh tay trái treo lên cổ một vết thương dài lòi mỡ lẫn máu vàng khè ruồi bay theo, đầu đội mũ lác rách toe, mặt hai mẹ con dính dày đất bụi, tay bé cầm cái tô to, họ là người ăn xin, chồng tôi nói :

-Em đưa chị và cháu vô nhà anh tháo cổ xe ra cho vào bóng dim rồi vô sau .

Tôi đưa người phụ nữ và cháu bé vô nhà, đẩy mâm cơm  sâu vào trong, rảnh chỗ  ở mép giường mời hai người ngồi, vì sống tạm nên chẳng có bàn ghế chi hết, người phụ nữ vẫn im thim thíp từ ngoài sân vô đây, chồng tôi vào bưng theo thau nước, kẹp cái khăn trắng đã ngả màu, vì nhuộm phèn, vì thiếu xà phòng, ảnh nói:

-Chị rửa mặt  rồi  cho cháu ăn cơm kẻo quá trưa rồi.

  Quay qua tôi anh giới thiệu :

-Đây là chị Quang, vợ của Đại Úy Q. trưởng phòng hành quân đơn vị cũ của anh, anh ấy là bạn, đầu năm 1974 anh thuyên chuyển về Đà Nẵng anh Q. ở lại đã bị bắn chết tại phòng ngủ trong bản doanh đơn vị khi cộng quân tấn công Buôn Mê Thuột.

Chị Q. đứng dậy đưa em bé đi rửa mặt, nhìn khuôn mặt dơ hầy dễ sợ  lem luốc của chị  không thể đoán chị ở độ tuổi nào, tôi hỏi nhỏ ông xã.

-Chị nớ mần chi mà bị thương nhiều dử rứa, nhìn mặt Chị em rùng mình  con mắt  ghê quá, lòi ra không nói mà ớn ốc cái  lớp ghèn lòng thòng bao quanh, tay bị thương há miệng mỡ máu chảy ruồi lằng theo cả đoàn, răng chị  không băng bó lại, mất vệ sinh kiểu đó lâu ngày cánh tay cụt  như chơi .

 Chồng tôi mỉm cười nói :

-Đó là những vết thương của thời đại.

Tôi nói lại :

-Đúng là bệnh thời đại, khi xã hội là một vũng bùn thì con người lấm bùn mất vệ sinh theo.

 Chị ấy đưa cháu trở vào, tôi không dám nhìn chị, nhẹ nhàng bưng mâm cơm đặt xuống chiếc chiếu, tôi chọn ngồi sát bên chị để hai  người ngồi cùng chiều khỏi nhìn thấy mặt người đối diện, kéo nồi cơm về gần, tôi ngại cánh tay lòi mỡ đó đưa qua đưa lại, nhưng tôi giật mình khi Chị đưa tay nhận chén cơm tôi xới, cánh tay trắng nõn nà vết thương kinh tởm đó không còn nữa, tôi ngạc nhiên hỏi chị :

-Hồi nãy tay chị bị thương mà răng chừ lành rồi .

 Chị cười nói :

-Chuyện dài dòng lắm, chị sẽ kể cho em nghe sau .

 Tôi suy nghĩ câu nói của ảnh “vết thương  thời đại”, câu nói có ẩn ý nhưng mình nghĩ không tới .

Bây giờ tôi nhìn kỹ mặt chị, mắt  trái tròng trắng vẫn nhô lên, nhưng ghèn bao quanh không còn, khuôn mặt trái xoan, sóng mũi  dọc dừa, con mắt còn lại đen láy sau hàng lông mi dài họ gọi là mắt bồ câu, một vẻ  đẹp thanh tú, kiêu sa, nếu hai mắt bình thường thì đúng là một giai nhân.

 Tôi thắc mắc nhưng không nói ra, nhìn dáng người của chị, chắc chắn sinh ra và lớn lên trong một gia đình bề thế, đương nhiên là học hành tới nơi tới chốn, gia đình của chị rồi gia đình bên chồng, dù khó khăn cách mấy  hai gia đình không kham nổi hai mẹ con chị hay sao mà để chị  dắt con đi ăn xin, kể cũng hơi lạ.

 Bữa cơm xong chị phụ tôi dọn dẹp, tôi không cho tôi nói:

-Chị rửa tay cho cháu ngủ, mấy cái chén em quơ một tí là xong.

 Chồng tôi vội vàng lên yên đi lại để dọn hàng cho chị Thảo và đưa các mối buôn ở chợ về nhà, tôi dặn ảnh:

-Anh nhớ nói với chị Thảo nhà mình có khách nghe.

Anh gật đầu quay qua nói với chị Q.:

-Tụi em ở đây khá lâu rồi chưa được ai hỏi thăm sức khỏe, đêm nay chắc cũng vậy chị phè cánh ngũ một giấc mai đi sớm.

Anh ấy ra đi chúng tôi ngồi lại với nhau nhìn thẳng vào mắt chị tôi mở đầu :

-Chị biết đó, em cũng là vợ lính, nhưng lính từ trại tù về, xã hội này chị cũng đã biết họ gọi mấy ông là Ngụy quân, em không có phước  được làm vợ lính trong thời chiến để  cùng chồng ngửi mùi thuốc súng, em cũng không may được làm người vợ đi bán từng CC máu để nuôi chồng trong các trại tù khổ sai khốn nạn. Em chia xẻ  nhọc nhằn thân xác của anh hiện tại và trân quý dĩ vãng oai hùng của anh, em không bao giờ đụng tới vết thương đang sưng mủ, nhức buốt từ trái tim đến thớ thịt, có những buổi chiều anh ngồi quay mặt xuống hồ đôi mắt nhìn về nơi xa xôi nào đó, có khi  đứng dậy mắt đỏ hoe. Em nghĩ đó là những phút giây thiêng liêng của cuộc sống, người anh hùng ngã ngựa, họ muốn đứng lên, nhưng đứng lên cách nào, muốn vực dậy nhưng vực cách sao đây. Em luôn cảm thông và khuyến khích tinh thần, tội nghiệp ảnh, tội nghiệp những người lính Việt Nam Cộng Hòa.  Tội nghiệp những người vợ bị lột xác trong cái xã hội quỷ quái này, các chị phải đầu tắt mặt tối gánh nặng hai vai, chồng trong trại tù, con còn nhỏ dại, tứ thân phụ mẫu già yếu tật bệnh, bây giờ em đang ngồi đây cũng đang cùng anh trốn chạy, qua một ngày là mừng một  ngày, được ngày nào hay ngày đó, xã hội này là một bóng đêm dài bất tận, nhìn tới phía trước toàn dao găm mã tấu, toàn máu là máu, sau lưng là một nhà tù khổ sai.

 Tôi nói một hơi chị ngồi yên lắng nghe, con mắt còn lại của chị  sáng long lanh đầy sát khí  chị nói.

- Chồng của em là bạn thân của gia đình chị, hai anh  là những người lính từng kề vai sát cánh từ lúc họ phục vụ bên Lực Lượng Đặc Biệt, bây giờ người mất người còn, chú và em đang trên đoạn đường bôn tẩu, chú có em  cảm thông chia xẻ, chị một mình lạc lõng bơ vơ, chẳng còn ai ngoài những người bạn, trân quý nhau coi nhau như ruột thịt. Chị  kể cho em nghe về chị, sáng mai mẹ con chị sẽ đi, không biết đi đâu bạn bè bảo sao thì nghe vậy. 


Chị bắt đầu kể:

- Bản doanh của Chiến Đoàn 3 Xung Kích / Nha Kỹ Thuật trấn đóng tại Buôn Mê Thuột  trong căn cứ rất lớn Quân Đội Hoa Kỳ chuyển giao, đơn vị phân ra từng khu ở cho Sĩ Quan, cho Hạ Sĩ Quan và trại gia binh, chị và anh Q. ở trong đó.

Chiến trận bắt đầu, khoảng chừng hai ba giờ sáng đêm  10 tháng 3 năm 1975, nhiều tiếng nổ lớn giật mình thức dậy không biết nỗ ở đâu nỗ hướng nào, anh Q, bật dậy mở đèn phòng lấy bộ đồ lính vắt trên đầu giường, tròng quần vào, chân xỏ vội đôi Bốt Đờ Sô, tay lấy cây súng XM16  dựng bên đầu giường vén màn bước ra như thường lệ ngồi vào ghế để cột dây giày, chị nghe anh lên tiếng nói chuyện với ai đó thì một loạt súng nổ, chị giật mình vén màn nhìn ra anh Q. gục lên bàn, chị  thấy người bắn anh Q. bận bồ đồ Biệt Kích bạc màu, tóc dài, dáng nhỏ mặt xương xẩu hắn đứng nhìn anh Q. một lúc rồi bỏ đi. Máu anh  từ ghế ngồi chảy xuống có vòi. chị ngồi bệt xuống nền nhà thân hình cứng đơ, như cái xác không hồn, cứ ngồi mở to mắt nhìn máu chảy, nhìn anh ngồi gục ở đó, chị lịm chết đi như thế không biết bao lâu, con bé khóc chị giật mình, đứng lên lấy miếng bánh quy trong hộp lương khô cho bé ăn, không biết đã qua giờ thứ mấy, không biết bây giờ sáng hay chiều, mặt trời đã nghiêng bóng, như xác chết chị bước ra ngoài coi còn ai nhờ giúp, đập cửa phòng anh Đường đối diện không nghe ai lên tiếng, mấy phòng kế bên cửa mở toang không bóng người, đơn vị im lìm vắng tanh, hoang vắng đến lạnh người, tiếng súng đì đùng nghe rất xa, Chị không biết việc gì đã xảy ra, một điều chị biết là lúc này trong bản doanh đơn vị chỉ còn một mình Chị, quay trở vào phòng, anh Q. ngồi gục bất động trên ghế, máu  nhuộm đỏ bộ đồ hoa loang một khoảng lớn trên nền nhà đã khô. Nhìn anh, chị đứng  chết trân, chân tay  lạnh cóng, trong đầu lảng vảng câu hỏi. Chết rồi ư ? Chết thật rồi ư ? Nước mắt không chảy nửa, khô đắng cổ họng, không biết phải làm gì, đầu óc trống rỗng, chợt giật mình như tỉnh cơn mê khi nghe tiếng người nói chuyện, tiếng chân người xào xạc đến gần, chị mừng thầm như vậy là có người giúp, nhưng phải coi ai cái đã, chị lui vào trong buồng ngủ, hé tấm màn chắn gió nhìn ra, ba người đứng lại  trước cửa phòng của chị, chị thấy thằng bắn anh Q. cầu vai hắn có  cột miếng vải đỏ, với thêm hai thằng khác đội mũ cối, ba đứa  súng đeo vai đứng ngay cửa ra vào phòng nhà của chị đang chỉ chỏ nói chi đó, thấy hắn chị mừng quá, vớ cây súng XM16 của anh Q, đặt nòng súng lên thành gỗ đóng lưới chắn muỗi, mũi súng cách bọn đó khoảng 3 mét, tầm cao này thì cả ba đứa đều ngang vai và cỗ, chị bật nhẹ khóa an toàn, kéo mạnh tấm màn che, mở mắt to nhìn ba đứa để coi chúng ra sao khi chị nghéo cò, ngón tay chị siết chặt cò súng cho chắc ăn mũi súng dích qua dích lại, chúi xuống, dở lên, toe nát cánh cửa ván ép, ba đứa đã khuất tầm nhìn, có lẽ bọn chúng  nằm xuống, chị cầm súng đi ra, trở băng đạn lại “súng anh Q. hai băng cong mỗi băng 30 viên đạn gắn băng keo lại với nhau”  đạp mạnh cửa ba thằng nằm chồng lên nhau, chị  đưa súng vào đầu bóp cò tiếp ba chục viên đạn ra đi ba cái đầu dẹp xuống như ba mũi dày .

 Nhìn xác dẹp đầu của thằng đó chị thấy lòng mình nhẹ nhõm, tâm trí  tỉnh táo lạ thường, đem đặt cây súng lên bàn cạnh anh, lúc đó  mới nghĩ ra  chôn anh rồi rời khỏi đây. Chị ung dung mở cái xẻng gấp cá nhân đào một rảnh dài, dải đất bên cạnh phòng ngủ, lấy tấm ra  trắng bọc xác kéo anh ra hố chôn, anh  quá cao và nặng, hơn nữa trong tư thế ngồi, chết quá lâu cứng đờ, chị tập trung hàng chục chai rượu tẩm vào quần áo một lúc duỗi thẳng người ra, đất không đủ lấp kín phải kéo bao cát chắn chung quanh nhà xổ ra lấp lên, xong việc trời cũng nhá nhem tối, chị vào sửa soạn để ra đi, mang theo hai cây súng của anh, cây Rouleaux ngắn nòng “P.38” với nửa hộp đạn , cây Browning 10 viên đạn và hộp đạn lẽ giắt vào nịt vú, xé hai giãi vải trắng ra trải giường làm khăn tang quấn lên đầu, vớ cái ba lô của ảnh cho vào ít đồ ăn khô hai mẹ con cúi chào anh rồi ra đi .


   Hành trình về phương Nam.

Những bước chân âm thầm trong đơn độc, không phương tiện, không bóng người trên quốc lộ 21, lưng cõng con, ba lô mang trước ngực như xác không hồn, cứ đi, cứ bước, không biết điểm đến và bao giờ tới đích, lòng chị đã chai cứng, thù hận đốt cháy con người, chị sẵn sàng giết bất cứ đứa nào lạng quạng trước mắt. Chị sẵn sàng chết, nên chị không sợ chết, chị nguyện sẽ giết bọn chúng  trong khả năng có thể .


  Dọc theo Quốc lộ 21 về hướng đông, đi bộ đến nổi hai bàn chân phồng chảy nước, đi nhanh, đi chậm, qua từng khúc, vượt từng đoạn, nơi nào có nhà  vào kiếm ăn, có chủ nhà thì xin, không chủ thì tự lục tìm, ngủ bờ, ngủ bụi, ngủ bất cứ lúc nào không kể ngày đêm, chị chẳng còn biết sợ là chi, cây P.38 sẵn sàng đáp ứng khi cần thiết.

 Những nơi đã đi qua không để lại trong chị  dấu ấn nào rồi một hôm không biết mình đi đã bao lâu, mẹ con chị đứng trên đèo Phượng Hoàng hướng nhìn  về phía đông, xa xa những cụm khói bốc lên có lẽ đó là thị xã  Ninh Hòa.

  Người chị  hừng hực nóng như cơn sốt  khi đứng trong khu thị tứ đỏ rực màu cờ máu, có lẻ miền Nam đã mất trong những ngày chị lang thang trên Quốc Lộ 21. 

 Dọc theo Quốc lộ 1 từng cụm người ngồi,  nằm, la liệt, thần sắc ngu ngơ, họ ngồi vì họ đã cùng đường. Từng toán lính cộng sản ngang qua, những thằng bận đồ lính VNCH mang băng đỏ lẽo đẽo theo sau, chị muốn móc súng bắn nát óc mấy thằng đó.

Chị bắt xe đi từng đoạn về Sài Gòn. Sài gòn bây giờ quá tội nghiệp, xác xơ, ủ rủ, vọng nhìn theo bóng những đứa con bị đuổi ra đi.


Sài gòn ơi ! Thôi từ nay vĩnh biệt

Ta gục đầu thương tiếc buổi chia ly

Người ra đi đảo lộn cả đất trời

Người nằm xuống không nói lời từ biệt’

Muôn thế hệ ngàn sau hằng thương tiếc

Sài gòn ơi ! thôi vĩnh biệt từ nay.


Đau đớn nhìn quang cảnh Sài Gòn .

  Chị về gia đình của chị nghỉ ngơi đợi  sinh hoạt thành phố khởi động lại, chị đưa cháu về Cầu Ngang tỉnh Vĩnh Bình thăm gia đình nội của cháu, trình bày  qua loa với ba mẹ Ảnh  là anh ấy tử trận, cứ vậy vài ba tháng đưa cháu về thăm mang theo tí quà Sài gòn, ở lại vài ba hôm rồi lên. Một hôm ngồi trên xe đò Cầu Ngang lên Trà vinh để về  Sài Gòn, xe dừng lại đón  khách, người đàn ông bên đường với bốn năm lồng vịt, người ấy lên xe, ngang qua chỗ chị ngồi anh ta nhìn chị một lúc rồi gật đầu, chị thấy người này quen quen nhưng nhớ không ra, vì mặt mày anh ta lem luốc, chị cũng gật đầu chào lại, chắc anh ấy biết mình.

 Xe tới bến Trà Vinh, mẹ con  chị nán lại xuống sau, cố ý chờ người bán vịt, mấy lồng vịt đặt lên xe lôi, người ấy quay lại nhìn chị hỏi:

-Chị Q. không nhìn ra em hà? em là Hoàng đây.

Chị mừng quá Hoàng là bạn cùng quê với Ảnh, trước cùng đơn vị, Hoàng ở Thám Sát, anh em gặp nhau thường xuyên, sau Hoàng xin về Sư Đoàn 9 cho gần nhà, nghe anh Q. nói H. về Sư đoàn 9 làm Đại đội  trưởng Trinh Sát, Hoàng giờ đây sắc thái suy sụp, xác xơ trong diện mạo người nông dân, cười nhưng không vui, Chị nói với ảnh:  

-Mặt chú bầy hầy lem luốc chị không nhận ra, buôn bán có khá không ?

Hoàng trả lời :

-Cũng tạm ổn, em có nghe tin anh Q, em xin chia buồn với chị.

-Cám ơn chú, nước mất nhà tan thôi đành chấp nhận, sao chị thấy chú không mấy vui, bộ gia đình gặp chuyện gì hay sao, xã hội tăm tối con người sống vội vàng chụp giật, có gì chia sẻ được mình chia sẻ cho nhau.

Hoàng nhìn chị như dò xét, lưỡng lự nói :

-Không có gì đâu vài chuyện lặt vặt thôi mà, hôm nào rảnh chị em mình tâm sự, cũng có vài chuyện nặng lòng nhưng không biết chia sẻ với ai, thời buổi này không thể tin ai được chị à.

  Chị trả lời :

-Chú Hoàng tin anh Q. thế nào thì tin chị như vậy, bộ chú sợ chị là chó săn hả, có gì chia sẻ được chú cứ nói đừng ngại.

Hoàng tới sát bên chị nói nhỏ :

- Nếu chị không sợ liên lụy thì em nói, em và một số anh em Đại đội Trinh sát ly khai, em buôn bán thế này để mua lương thực thuốc men cho anh em, anh em  khá đông, nhưng bị chúng giết dần giết mòn, chuyện dài không thể nói một lúc ở đây được, mỗi  tuần hai ngày thứ hai và thứ ba  em đều có mặt ở đây, lúc nào có dịp chị về đây trúng hai ngày này em sẽ nói cho chị nghe.

Chị trả lời Hoàng  :

-Bây giờ chị lên cho kịp chuyến xe đã, hai tuần sau trở lại đây tìm chú.


 Về tới Sài gòn chị tìm nhà cô bạn xin theo cô ấy chạy bán thuốc tây, chị được cô ấy giới thiệu với vài chủ sạp thuốc, cô bạn chị nói:

- Ban đầu hơi lúng túng, nhưng nghề dạy nghề, cố nhớ vài tên thuốc, công dụng, liều dùng, học thêm dần dần rồi mau chóng trở thành Dược sĩ kiêm Bác sĩ chợ trời.

 Chị bám trụ ở sạp anh Ngọc tại chợ Kim Biên, cũng may anh Ngọc là Sĩ Quan Biệt Động Quân tù về sớm nên anh ấy thông cảm hoàn cảnh của chị, tận tình hướng dẫn, chị ngồi liền mấy ngày ở sạp với anh để học, thấy cũng không quá khó nên chị bắt đầu xuất chinh,  anh Ng. cho chị quyển từ điển thuốc bỏ túi,  cũng may trời cho có chút nhan sắc kèm theo sự lanh lẹ nên buôn bán cũng ra trò, quá dễ để hái tiền, người có thuốc đem đi bán vì họ không biết giá trị  thuốc, người đi mua cần đúng tên thuốc, đúng bệnh chứ họ không cần biết giá tiền bao nhiêu . 


  Đúng hẹn chị về Trà Vinh sáng thứ Ba, mang theo một ít thuốc đau đầu đau bụng, với một ít tiền. Hoàng mừng nói:

-Tưởng chị lạnh gáy nói cho qua chuyện, không ngờ chị về thật. 

Hoàng chỉ quán hủ tiếu nói : 

-Chị vô đó gọi hủ tiếu ngồi đợi em, quán của hai ông bà người Hoa lớn tuổi họ ít chú ý tới người khác, hơn nửa cũng là nơi quen biết .

Hoàng vào chị lấy gói quà nhét vào tay chú ấy. 

-Trong nầy một ít thuốc, chị có ghi và một ít tiền chị phụ với chú, từ nay chú khỏi lo thuốc, anh em trong đó cần thuốc gì cho chị biết, chị sẽ phụ thêm một tí tiền để chú rộng tay chi dùng cho anh em.

Hoàng run run nói :

-Em cảm động quá, thay mặt anh em, em xin cám ơn chị.

Hoàng nói tiếp:

-Sau ngày 30 tháng 4 tụi em kéo nhau mang súng đạn đi luôn không về, mấy tháng đầu tập trung, sau này xé lẻ, kiếm ghe sống trong  kinh rạch, rừng tràm, rừng đước, bờ bụi, tụi em đã đánh phá nhiều nơi, giết  nhiều thằng ác ôn, cuộc sống của anh em ngày càng khó khăn, bị săn lùng liên tục, lương thực không có, mò tôm, bắt cá mưu sinh, mình em ngoài này cựa quậy phụ giúp, một số anh em bị thằng trưởng công an huyện bắt chúng đem xử bắn tại phi trường Trà Vinh,  thằng này quá ác ôn, bắt ai tình nghi là nó bắn ngay vứt xác xuống kinh không tra hỏi, anh em mình đã bị nó giết quá nhiều, em lo quá, cuộc sống này không thể kéo dài, ra trình diện gặp nó cũng chết, sống để chiến đấu nhưng chỉ một nhóm nhỏ đánh đấm làm sao, súng có mà đạn không, không lẽ sống lây lất như thế này mãi, em thương anh em quá  nhưng nghĩ mãi không tìm ra cách nào cho ổn thỏa.

Chị góp ý:

-Theo ý chị trước tiên phải nghĩ cách  tiêu diệt  thằng công an đó đã rồi tính tiếp, bây giờ chú báo anh em ở yên và cố lẩn tránh, còn thằng công an chú thu thập tin tức của hắn, sinh hoạt thường ngày, gia đình, vợ con, nơi ăn, chỗ ở, thói quen. mọi việc mình sắp xếp từ từ không thể nôn nóng được, chị hứa sẽ đồng hành với chú và anh em, thôi chị lên hai tuần sau về lại, khi nào cần việc gì chú lên chợ Kim Biên hỏi sạp thuốc tây anh Tư Ng. chị lãng vãng quanh khu đó, cẩn thận là trên hết.

Chị trở lại chợ Kim Biên phải nói là thời gian hái ra tiền, nhà nước cộng sản bị cấm vận, bệnh viện toàn là thuốc lá cây, Xuyên Tâm Liên, ngải cứu còn thuốc tây trong các kho Long Bình, kho 18 và các kho dự trữ khác của VNCH bọn họ đưa ra bán hàng xe, như bán vật liệu phế thải, họ không biết nên không dám dùng, thi nhau chở đi bán. Buồn cười nhất, hôm nay bán thuốc đó, ngày mai lại đi mua thuốc đó, bán ra một mua lại ngàn, sẵn tiền vơ vét của đồng bào nhắm mắt nhắm mũi mua  từng bao chuyển về Bắc.

  Lặn lội ở chợ mới biết sinh hoạt đằng sau chợ, khi chiều xuống đêm lên, trong ánh đèn vàng mờ nhạt, bên những đống rác tanh hôi đủ thứ mùi, một xã hội lên ngôi, những bóng người như ma trơi lần lượt về tựu lại, họ là những tay móc túi, giật dọc, những kẻ ăn xin, những tay đâm thuê chém mướn, họ có luật của họ, có vùng đất tự trị trong giới giang hồ đường phố. Chị không biết họ nhưng họ biết chị, chị bắt đầu thích họ, thích cái xã hội với những tay  ngang tàng bướng bỉnh, coi luật pháp không là chi, chị xích lại với họ, thân thiết với họ, hòa đồng với họ, họ làm ăn từng nhóm, nhóm nào hôm đó  làm ăn không khá chị tặng một bao lì xì, họ đủ mọi lứa tuổi, nam có, nữ có, một số có gia đình ban đêm về nhà ban ngày nhập bọn.


 Chuyện tên công an huyện làm chị suy nghĩ mãi, giết một thằng mọc ra một thằng, nhưng giết được thằng này may ra anh em tìm được một ngã rẽ mới. Chị về gặp Hoàng như đã hẹn, Hoàng cho chị chi tiết cá nhân của thằng ác ôn đó, khó khăn là thằng này sinh sống ăn ở trong Huyện, gia đình ở đâu vùng ngoài. 

Chị đã nghĩ ra cách, tìm anh Ng. chủ vựa thuốc hỏi:

  • Khách quen của anh có ai làm nhà báo không ?

Anh Ng. trả lời:

  • Có mấy tay hay tới mua và đặt hàng, mua nhiều chắc đưa về ngoài bán lại.

  • Hôm nào có nhà báo tới nam nữ chi cũng được anh nhớ gọi em nghe,

  • Chi vậy, bộ muốn đổi nghề xin theo làm đệ hả ?.

Hai chúng tôi cùng cười, sáng nào tới chợ chị cũng ghé nhắc:

  • Anh nhớ bạn nhà báo của em nghe.

Chị tìm đám anh em móc túi nhờ họ ra tay giúp lấy cái bóp để coi giấy tờ cá nhân của người làm báo, ai nấy tranh nhau trổ tài, họ hỏi:

  • Con mồi ở đâu ? 

 Chị nói :

  • Chuẩn bị thôi khi nào người đó tới chị sẽ báo.

Một hôm chặp khoảng ba giờ chiều anh Ng. cho người báo tin ngắn gọn “ người tình của chị tới “. Chị chạy quanh tìm được ba em, hai gái một trai, chị tức tốc vào sạp, người đàn ông trung niên ốm xanh có lẻ thiếu dinh dưỡng đang hút thuốc nói chuyện với anh Ng. thấy chị anh Ng. nheo mắt gật gật đầu, ba đứa sà vào hỏi mua thuốc đau bụng chưa kịp nói lời nào là bỏ đi ngay. Trong lòng chị lo lo, chắc thằng cha này không mang theo bóp đựng giấy tờ nên mấy đứa thấy không có chi đã bỏ đi.

Chị đứng lên nói bâng quơ vài điều rồi tiếp theo sau lưng ba đứa, ra sau hàng vải con bé đưa cho chị cái bóp, chị  giật mình la lên:

  • Ôi trời ! chị tưởng thằng cha không có bóp nên các em bỏ đi liền, ai dè các em nhanh tay không thể  tưởng được, chị bái phục các em.

Một em nói :

  • Nhanh vậy mà có khi bị bẻ què tay đó chị.

  • Chị lấy mấy tờ giấy giao bóp lại cho mấy đứa em nghe.

Lục tìm trong bóp, một thẻ đảng viên đảng cộng sản, một giấy giới thiệu của cơ quan báo chí thành ủy Sài Gòn, một thẻ chứng nhận nhân viên biên tập báo nhân dân và một chứng minh nhân dân (thẻ căn cước) như vậy là quá đủ để chứng minh nhân thân của một người. Chị đi tìm nhóm làm giấy tờ giã, họ chụp hình làm tuốt luốt các giấy tờ kể cả (thẻ căn cước) CMND, đương nhiên là thay tên đổi họ.

Chị mang giấy tờ tìm nhà người này trả lại, rồi gạ gẩm làm quen, nói với anh ta khi nào có chuyến tác vụ xa xa anh cho em theo với, em trang bị như một phóng viên đi bên anh coi như dựa hơi le lói với thiên hạ. Anh ta hỏi nếu đi vài hôm có đi không ? Chị trả lời  chẳng sao  bao lâu cũng được miễn là vui. Chị đi theo anh ta mấy chuyến trong chương trình truyền hình “cuộc sống quanh ta” với hai mục đích, thứ nhất thiên hạ sẽ thấy chị ló mặt trên truyền hình bên anh ta, thứ hai học cách tác nghiệp, đó là việc chuẩn bị sẽ đi hỏi thăm sức khỏe đồng chí  trưởng công an huyện.

Chị về nhà ông nội của Bé, hỏi thăm tình hình nông nghiệp, vì có vài nơi nông dân không xuống vụ, không chịu cày cấy, nắm rõ tình hình trong vùng, chị lên chợ Trà vinh gặp chú Hoàng báo cho chú ấy biết thứ bảy tuần sau chị sẽ về thăm thằng đó chưa biết có sờ gáy hắn được hay không, chị cố gắng tạo điều kiện thuận lợi, bằng mọi cách xóa tên hắn trong ngày thứ bảy, em khấn vái xin vong hồn các anh chết oan phù trợ cho chị.
Lôi Hổ Ban Mê Thuột.
(Còn tiếp)