Friday, January 5, 2024

Đại Tá Bùi Dzinh - Thủ Khoa Khóa 3 Võ Bị Đà Lạt 1951

Từ một thiếu uý ra trường vào năm 1951 mà đơn vị đầu tiên là Tiểu đoàn lưu động 21 (một trong những đơn vị tiền thân của Sư đoàn 1 BB sau năm 1955), ông Dzinh đã dũng cảm chiến đấu trên các chiến trường miền Trung và Cao nguyên VN với nhiều lần thương tích đầy mình. 

Người sĩ quan Khoá Thủ Khoa Khóa Trần hưng Đạo đã làm cho các bạn đồng khoá hãnh diện khi mà chẳng bao lâu sau ... vào năm 1958, đã thay thế Trung tá Nguyễn văn Vĩnh nắm quyền chỉ huy SĐ 15 khinh chiến đóng tại Dục Mỹ, tiếp đó dời sư đoàn về Ban mê Thuột. Tại đây, Sư đoàn được cải danh lại là sư đoàn 23 BB. Vì thế có thể nói ông Bùi Dzinh là vị Tư lệnh đầu tiên của hai Sư đoàn 23BB (1958) và Sư đoàn 9BB (1962). Ngoài ra ông Dzinh còn là tư lệnh phó Sư đoàn 21BB (vào năm 1960) mà Đại tá Trần thiện Khiêm là Tư lệnh. Năm kế tiếp ông ta cũng là Tư lệnh phó Sư đoàn 5BB (1961) mà Đại tá Nguyễn đức Thắng là Tư lệnh; trước khi được thăng chức Đại tá Tư lệnh Sư đoàn 9BB vào năm 1962; ở sư đoàn này vào thời gian đó không có Tư lệnh phó! Mà chỉ có một người bạn đồng khoá 3 VB là Trung tá Tôn thất Đông làm tham mưu trưởng (sau này là Đại tá Tỉnh trưởng tỉnh Vĩnh Bình và là dân biểu dưới thời Đệ Nhị Cộng Hoà. Ngoài ra còn có các Trung Đoàn trưởng là Thiếu tá Chương dzềnh Quay (là Chuẩn tướng tư lệnh SĐ21 BB), Thiếu tá Nguyễn Cả (sau này là Đại tá Chánh văn phòng phủ Tổng thống Nguyễn văn Thiệu)...

Đời binh nghiệp của Đại tá Bùi Dzinh chấm dứt vào giữa tháng 11/1963 vì đã không tán thành cuộc đảo chánh lật đổ TT Ngô đình Diệm; Ngược lại trong cương vị Tư lệnh Sư Đoàn 9 BB vào ngày 01/11/1963 mặc dầu đang bận hành quân ở Bến Tre ông đã điều binh từ Bộ Tư lệnh đóng tại Sa Đéc về Sài Gòn cứu TT.Diệm; Nhưng không thành vì Đại tá Nguyễn hữu Có vừa thay thế Đại tá Bùi đình Đạm trong chức vụ Tư lệnh SĐ 7 BB (vào ngày 31/10/1963) dàn quân ra chặn ở ngã ba Trung Lương và mặt khác ông này ra lệnh cho vị Tỉnh trưởng tỉnh Định Tường rút hết những chiếc phà về phía Mỹ Tho để cản trở binh lính SĐ9 BB chuẩn bị vượt Bắc Mỹ Thuận … Ngày 06/11/1963, theo lệnh của Bộ TTM/QLVNCH Đại tá Bùi Dzinh bàn giao Sư đoàn 9 BB cho vị Phó Tư lệnh là Trung tá Đoàn văn Quảng rồi về Sài Gòn trình diện Hội đồng Cách Mạng Quân nhân do Trung tướng Dương văn Minh lãnh đạo .Ngày đó cùng với các ông Thiếu tướng Huỳnh văn Cao, Đại tá Cao văn Viên, Bùi đình Đạm , Nguyễn Phước và một danh sách chừng 30 sĩ quan cao cấp. Đại tá Bùi Dzinh đã nhận được giấy «nghỉ dài hạn không lương..vì lý do kỷ luật» ?!... Vài năm sau đó ông ra Hội đồng Giám định y khoa (Trung tâm miễn dịch) nhận giấy giải ngũ với cấp độ tàn phế 100°/° vì ba miểng súng cối (mortier) thời kỳ năm 1954 trước trận Điện biên phủ còn ghim trong hộp sọ cho đến ngày hôm nay... Năm 1965 Đại tá Bùi Dzinh cùng Thiếu tướng Lâm văn Phát, các vị Đại tá Huỳnh văn Tồn, Nhan minh Trang, Phạm ngọc Thảo và Trung tá Lê hoàng Thao ... làm cuộc chính biến ngày 19/2 nhằm lật đổ Quốc trưởng Đại tướng Nguyễn Khánh với mục đích là để ổn định tình hình rối ren về chính trị cũng như quân sự trong thời điểm này. Việc làm này không có sự ủng hộ của người Mỹ nên thất bại?! Ông Dzinh bị bắt vài tháng sau đó và bị giam hai năm ở nhà tù Chí Hoà, mãi đến 01/4/1967 nhân dịp TT.Nguyễn văn Thiệu ban hành hiến pháp của nền Đệ Nhị Cộng Hoà, ông mới được trả lại tự do ...

Ngày 30/4/1975, ông Dzinh và gia đình ở lại VN vì không có phương tiện trốn chạy như bao người khác. Mặc dầu giải ngũ đã lâu ông vẫn bị nhà nước Cộng sản bắt đi cải tạo ở ngoài miền Bắc cùng với các sĩ quan cao cấp của Quân đội VNCH (Liên tục chuyển qua các trại giam Hoàng liên sơn - Yên bái - Hà nam ninh). Sau tai nạn lao động động cuối năm 1976 (xảy ra trong lúc cải tạo ở trại tù Yên Bái) do trong lúc đốn cây cho Lâm trường làm giấy bị cây đổ chạm mạnh vào đầu, nên bị trọng thương hôn mê trong suốt một tuần vì sự kiện này mà đến nay một số người tù cải tạo cùng trại những tưởng ông Dzinh đã chết rồi! vì thường xuyên các trại viên bị cách ly, phân tán và chuyển đến các trại khác nhau).

Trung Tá Bùi Dzinh, Đại Tá Trần Thiện Khiêm và Chuẩn Tướng Hồ Văn Tố, Fort Leavenworth 1960

Ông được thả về cuối năm 1980, không được ở yên vì lệnh chính quyền địa phương cưỡng bức đi khu Kinh tế mới; chỉ vài tháng sau ông cùng hai người con vượt biên đến Trại tỵ nạn Thái lan bằng đường biển, cuối cùng đã quyết định đi tỵ nạn tại nước Pháp.

Tóm tắt những giòng kể trên là những điều mà tôi biết được về cha tôi ( ông Bùi Dzinh sinh năm 1929 tại làng Xuân Hòa, huyện Lệ Thủy, Tỉnh Quảng Bình). Ông ấy không tỏ mình ra trước mọi người; chán ghét chiến tranh và buồn thân phận lưu vong; ông không muốn nói nhiều với thế hệ con cháu về cuộc chiến tranh VN trước đây. Hầu như ông muốn giữ cho mình được một sự thanh thản ở độ tuổi 82 cho đến cuối đời; không buồn viết nhật ký hay tiểu sử đời binh nghiệp như một số quý vị tướng lãnh lưu vong thường làm (để tự đề cao mình và bôi nhọ cho người khác), bằng cách ra sách để biện hộ cho những sai lầm của họ đã gây ra vào thời kỳ trước năm 1975..   

Đại sự bất thành của ba Đại tá dân Ông Tạ trong tuần tam nhật các thánh 31-10, 1-11, 2-11-1963 Hai cái chết thảm ở ngoại ô và một án tử hình.

Thủ Khoa Khóa 3 sau này là Đại Tá Bùi Dzinh
(Tôi không phải là người viết sử mà chỉ ghi nhận thông tin từ góc người Ông Tạ. Nhưng lịch sử Việt Nam Cộng hòa chắc chắn sẽ phải viết lại hoàn toàn nếu mưu sự ấy thành công)
Trên đường Thánh Mẫu (nay là Bành Văn Trân, Tân Bình, TP.HCM) có một ngôi nhà khá lặng lẽ. Dân trong xóm này gọi bà chủ nhà lịch thiệp, nét sang trọng này là o Khôi. Ít ai biết đó là vợ đại tá Việt Nam Cộng hòa Lê Quang Tung.
O Khôi ở với con gái là Lan. Chồng cô Lan là đại tá Cầu, sĩ quan thuộc quyền đại tá Tung, tư lệnh Lực lượng Đặc biệt Việt Nam Cộng hòa, kiêm Chỉ huy trưởng Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Tổng thống phủ. Phó của ông Tung là đại tá Trần Khắc Kính; con rể cụ lý Sóc trong ngõ Con Mắt, cách nhà cũ của nhà thơ Đỗ Trung Quân chừng vài chục mét; gần sát nhà cụ Vũ Hữu Soạn, cha đại tá hạm trưởng HQ4-Trần Khánh Dư tham gia Hải chiến Hoàng Sa 1974 Vũ Hữu San.
Đại Tá Trần Khắc Kính

Sau này, cả nhà o Khôi đi định cư ở Marseille (Pháp), nhà để lại nhà nước. Phần sau nhà để lại cho một người giúp việc lâu năm của gia đình tên Thôi. Bà Thôi có tật nhẹ, chân đi hơi cà nhắc. Bà sống một mình, hàng xóm không thấy có anh em thân thích gì nên khi bà mất, hàng xóm xúm lại lo tang cho bà. Một nét sống chia sẻ chòm xóm của người Ông Tạ.
Trước khi đi Pháp, o Khôi hay đến thăm gia đình một người bạn rất thân đồng hương là bà cựu đại tá Việt Nam Cộng hòa Bùi Dzinh nhà trên đường Cách Mạng Tháng Tám, Tân Bình, đối diện hồ tắm Cộng Hòa; cách nhà bà vài trăm mét.


Đại tá Bùi Dzinh là võ khoa (thủ khoa) khóa 3 trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt tháng 7-1951. Khi tốt nghiệp, ông được đích thân Hoàng đế Bảo Đại trao kiếm và được đại diện anh em trong khóa bắn cung "tang bồng hồ thỉ". Ông cùng lứa tuổi và thân với đại tá Lê Quang Tung.

Đại Tá Bùi Dzinh
Đại Tá Bùi Dzinh

Như vậy, nhà ba ông đại tá Việt Nam Cộng hòa Lê Quang Tung, Bùi Dzinh, Trần Khắc Kính cùng dân Ông Tạ và ở rất gần nhau: ông này giáo xứ An Lạc, ông kia giáo xứ Nghĩa Hòa, Chí Hòa; nhà này cách nhà kia chỉ năm bảy trăm mét. Tất cả đều là giáo dân Công giáo nhiệt thành.

Hai đứa con cụ lý Sóc, em vợ ông Kính tên Hùng và Cường là cặp giúp lễ đầu tiên ở nhà thờ An Lạc. Thậm chí có lúc anh Cường còn dự tính nhập tu ở Đan viện Thánh Mẫu Châu Sơn - Đơn Dương. Cùng thời và bạn bè với cặp giúp lễ này ở nhà thờ An Lạc là anh em Đinh Trung Nghĩa (sau này là linh mục Dòng Tên) - Đinh Tiến Luyện (nhà văn nổi tiếng này thì có lẽ nhiều người biết)...

Đại sự bất thành của ba Đại tá trong cuộc đảo chính 1-11-1963
Ông Dzinh, ông Tung cùng Công giáo nhiều đời như gia đình Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm, thậm chí đồng hương Lệ Thủy (Quảng Bình), Huế với ông Diệm nên không khó để biết hai vị này rất ủng hộ ông Diệm. Riêng ông Tung, người tuyệt đối trung thành với ông Diệm; từng được ông Ngô Đình Nhu giao nhiệm vụ thành lập Quân ủy Trung ương đảng Cần Lao. CIA lúc đó xếp ông là người có quyền lực nhất ở Nam Việt Nam sau anh em ông Diệm và ông Nhu.
Ông Kính và ông Dzinh sinh cùng năm 1929. Ông Tung lớn hơn vài tuổi. Cũng là cùng trang lứa.
Cuối năm 1956, ông Tung được đích thân Tổng thống Diệm gọi vào Dinh Độc Lập phỏng vấn rất lâu, sau đó phong trung tá, đưa làm giám đốc Sở Liên lạc. Phó giám đốc là ông Kính, lúc đó mới đại úy. Có lúc sở này mang tên Sở Khai thác địa hình.
Ngay sau đó, ông Tung đi Honolulu học khoá đặc biệt về hoạt động bí mật và xâm nhập. Ông Kính và em ông Tung là trung úy Lê Quang Triệu cũng đi Saipan (một hòn đảo thuộc đảo Guam) học về tình báo.


Ngày 15.3.1963, Tổng thống Diệm đổi Sở Liên lạc thành Lực lượng Đặc biệt, thăng ông Tung lên đại tá, tư lệnh Lực lượng Đặc biệt, ông Kính làm phó. Đại tá Tung thật ra chỉ lo về hoạt động tình báo, gián điệp ở miền Bắc, còn việc tổ chức, huấn luyện Lực lượng Đặc biệt thuộc ông Kính, lúc đó là thiếu tá.

Lực lượng Đặc biệt là đơn vị chỉ huy Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Tổng thống phủ, lực lượng tinh nhuệ nhất của Quân lực Việt Nam Cộng hòa; trang bị hỏa lực rất mạnh, có cả xe tăng lẫn cao xạ bắn máy bay và trung thành tuyệt đối với chế độ Ngô Đình Diệm.

Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Tổng thống phủ đóng ở thành Cộng Hòa (nay là khu vực Trường đại học Dược và Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn) trên đại lộ Thống Nhứt (nay là đường Lê Duẩn, quận 1, TP.HCM); cách Dinh Độc Lập (nay là Hội trường Thống Nhất) vài trăm mét. Và họ chỉ chịu buông súng đầu hàng sáng 2-11-1963, sau cú điện thoại trực tiếp của Tổng thống Diệm lúc ấy đang trú ẩn ở nhà thờ Cha Tam, cuối đường Trần Hưng Đạo (Chợ Lớn) khi ông quyết định gặp đại diện nhóm tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa làm đảo chính.

Lực lượng Đặc biệt là nỗi ám ảnh thất bại của nhóm tướng lĩnh đảo chính với hậu thuẫn của Mỹ - như đã từng thất bại trong cuộc đảo chính năm 1960. Ngày 19.10.1963, tướng Paul D. Harkins, chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ ở Việt Nam Cộng hòa thông báo cho Tổng thống Diệm biết ngân khoản Hoa Kỳ dành cho Lực lượng Đặc biệt bị cắt giảm.

Rõ ràng phía Mỹ đã ngửi mùi một kế hoạch, âm mưu đáng sợ từ Lực lượng Đặc biệt mà hai vị tư lệnh và phó tư lệnh là Lê Quang Tung và Trần Khắc Kính – đều là dân Ông Tạ: một nhóm lính thuộc Lực lượng Đặc biệt mặc đồ thường dân sẽ phóng hỏa đốt Tòa đại sứ Mỹ; ám sát đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge, Jr. và một số quan chức chủ chốt của tòa đại sứ.

Hai ông Tung - Kính lên kế hoạch này, chắc chắn có sự chỉ đạo của hai ông Diệm - Nhu, chí ít là ông Nhu, do đã nắm được toan tính của phía Mỹ trong việc đứng sau lưng cuộc đảo chính này.
Và nhóm tướng lĩnh đã làm đảo chính, với hậu thuẫn của Mỹ và đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge, Jr., ra tay trước.


Ngày lế các thánh, các linh hồn 1 và 2-11-1963 đẫm máu
Trong Giáo hội Công giáo Rôma, có ba ngày đại lễ liên tiếp, gọi là Tuần tam nhật Các thánh: 31-10 lễ Vọng các thánh (Halloween), 1-11 lễ Các thánh, 2-11 lễ Các đẳng (hay Lễ Các đẳng linh hồn, lễ Các linh hồn). Ba ngày lễ này dựa trên việc hiệp thông công đức (thông công), lời cầu nguyện giữa ba vùng: trần thế, thiên đàng và luyện ngục.


Cả Tổng thống Diệm và ba vị đại tá kia đều là người Công giáo nhiệt thành chắc chắn không bỏ qua việc dự thánh lễ những ngày này. Thực tế sáng 2-11, ngay trong cơn dầu sôi lửa bỏng, thập tử nhất sinh, trước khi quyết định gọi điện thoại cho phe đảo chính báo nơi ẩn náu của mình, ông Diệm và em trai là ông Nhu vẫn bí mật dự lễ Các linh hồn ở nhà thờ Cha Tam.

Cuộc đảo chính của nhóm các tướng lĩnh, do tướng Dương Văn Minh làm chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng, có lẽ đã tính toán cả những chuyện này khi quyết định chọn ngày D cho cuộc đảo chính: 1-11-1963. Trước đó, sáng 1-11-1963, ngay ngày lễ Các thánh, đại sứ Lodge vẫn gặp Tổng thống Diệm.

Hai đại tá Lê Quang Tung và Trần Khắc Kính chắc chắn cũng đã chuẩn bị cho việc dự những ngày "lễ buộc" (buộc phải dự) của Công giáo này.

Tuy nhiên, ngày 1-11, trong khi đại tá Kính cùng gia đình chuẩn bị bước vào nhà thờ An Lạc dự lễ Các thánh thì đại tá Lê Quang Tung lại phải chuẩn bị đến Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa (nay là Bộ Tư lệnh Quân khu 7) cách khu An Lạc khoảng cây số - theo yêu cầu của nhóm tướng lĩnh tổ chức cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm.

Lý do triệu tập: Nghe nói có một cuộc đảo chính Tổng thống Diệm nên trung tướng Trần Văn Đôn, quyền tổng tham mưu trưởng triệu tập tất cả các vị tư lệnh mọi quân binh chủng và giám đốc nha sở ở Sài Gòn về họp ở Bộ Tổng tham mưu.

Trước đó, nhóm tướng lĩnh đảo chính đã tạo tin giả: “Việt cộng đang tập trung quân ở Hố Bò, Củ Chi, chuẩn bị tấn công Sài Gòn”. Lực lượng Đặc biệt đã bị điều ra đây. Sư đoàn 5 Bộ binh về bảo vệ Đô thành Sài Gòn. Tổng thống Diệm không ngờ tư lệnh Sư đoàn 5, đại tá Nguyễn Văn Thiệu (sau là tổng thống nền Đệ nhị Cộng hòa, nhà ở lúc đó là cư xá sĩ quan Trần Hưng Đạo, gần đầu đường Thoại Ngọc Hầu, nay là Phạm Văn Hai) thuộc nhóm sĩ quan làm đảo chính.

Đại Tá Lê Quang Tung
Đại Tá Lê Quang Tung

Trong cuộc gặp này, ông Tung đứng lên phản đối cuộc đảo chính, bị lôi ra ngoài giết chết. Theo đại tá Phạm Bá Hoa, lúc đó là đại úy, ông được thiếu tướng Trần Thiện Khiêm yêu cầu gọi điện thoại “mời” các tướng tá về họp và có mặt ở buổi họp đó nói ông Tung bị Quân cảnh gác phòng họp còng tay đưa ra ngoài bắn chết, Nhưng cũng có thông tin nói ông Tung bị đại úy Nguyễn Văn Nhung – cận vệ của tướng Dương Văn Minh đâm chết. Đến giờ vẫn còn ý kiến khác nhau về chuyện này.

Sau đó, em trai ông Tung là thiếu tá Lê Quang Triệu, tham mưu trưởng Lực lượng Đặc biệt vào Bộ Tổng tham mưu tìm anh cũng bị giết.

Thân xác của hai anh em ông Tung và ông Triệu bị vùi ở đâu đó khu vực nghĩa trang Bắc Việt (nay là khu vực chùa Phổ Quang, Tân Bình), bên hông Bộ Tổng tham mưu mà tới giờ vẫn chưa tìm thấy. Những kẻ sát hại hai ông đến nay vẫn chưa rõ là ai. Đại úy Nhung sau đó vài tháng cũng “lấy dây giày thắt cổ tự tử” khi bị tướng Nguyễn Khánh ra lệnh bắt giam, điều tra để “trả thù cho Ông Cụ (Ngô Đình Diệm)” nên sự thật lịch sử này tới giờ vẫn còn chìm trong bí mật.

Một ngày sau khi hai anh em ông Tung – ông Triệu bị thảm sát, ngày 2-11-1963, hai anh em ông Diệm và ông Nhu cũng bị thảm sát đẫm máu. Khám nghiệm tử thi cho thấy trên người hai ông đầy vết bầm dập, vết đâm và những phát đạn. Ai chủ mưu và quyết định, ai thủ phạm trực tiếp tới giờ cũng chưa rõ, dù đa số dư luận cho đó là đại úy Nhung nổi tiếng hiếu sát – cận vệ của tướng Dương Văn Minh.

Điều trùng hợp là thoạt đầu, trước khi dời mộ về nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi (nay là công viên Lê Văn Tám), hai ông Diệm – Nhu cũng được chôn cất gần nơi hai anh em ông Tung – Triệu bị giết (nghĩa trang Bắc Việt). Cụ thể hai ông Diệm, Nhu ban đầu đã được an táng trong một nghĩa trang thuộc chùa Hưng Quốc (hay An Quốc?) trong khuôn viên Bộ Tổng Tham mưu, cạnh mộ Lê Văn Phong, em ruột Tổng trấn thành Gia Định Lê Văn Duyệt…

(Ông Lê Văn Phong là phó tổng trấn Bắc Thành năm 1818, dưới quyền của Tổng trấn Lê Chất. Năm Minh Mạng thứ 5 - Giáp Thân, 1824, ông về thăm quê, trở bệnh qua đời ở Gia Định. Ông từng lãnh chức chưởng tả dinh, nên còn được người đời gọi là "Ông Tả Dinh". Mộ ông ban đầu rất kiên cố do chính Tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt, anh ruột ông xây trong khu vực sau này thuộc xã Tân Sơn Hòa, nằm trong khuôn viên Bộ Tổng tham mưu, sau nhà tướng Đặng Văn Quang. Năm 1961, để mở rộng bãi đáp trực thăng, người ta khai quật mộ, dời về phía sau, cũng trong khuôn viên Bộ Tổng tham mưu, gần đường Hồ Văn Huê, Phú Nhuận hiện nay. Mộ phần hai ông Diệm – Nhu thoạt đầu chôn ở khu vực này).

Sáu tháng sau, ngày 22-4-1964, em trai Tổng thống Diệm là ông cố vấn miền Trung Ngô Đình Cẩn bị Tòa án Cách mạng tuyên án tử hình. Ông Cẩn đệ đơn lên Quốc trưởng Dương Văn Minh xin ân xá. Tổng giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình cũng gửi một lá thư tới Dương Văn Minh xin ân xá với lý do là ông Cẩn đang bị bệnh rất nặng, không còn sống được bao lâu cho nên không cần thiết phải hành quyết. Ông Minh bác đơn. Ngày 9-5-1964, ông Cẩn bị hành quyết bằng xử bắn và chôn cất cũng ở nghĩa trang Bắc Việt – xã Tân Sơn Hòa.

Như vậy, ban đầu cả ba anh em ông Diệm – Nhu – Cẩn đều được chôn cất trên phần đất xã Tân Sơn Hòa, chỉ cách khu Ông Tạ (cũng thuộc xã Tân Sơn Hòa) vài trăm mét.
Sau khi nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi bị giải tỏa 1983 – 20 năm sau khi hai ông Diệm – Nhu bị ám sát, phần mộ hai ông Diệm - Nhu dời về nghĩa trang Lái Thiêu (tỉnh Bình Dương). Nhiều nghĩa trang khác ở TP.HCM cụng bị giải tỏa trong đó có nghĩa trang Bắc Việt. Phần mộ ông Cẩn được cải táng, đưa về bên cạnh mộ mẹ là bà Phạm Thị Thân và hai anh Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu.

Sau cuộc đảo chính, đường Ngô Đình Khôi trước mặt Bộ Tổng tham mưu đổi thành đường Cách Mạng 1-11 (nay là đường Nguyễn Văn Trỗi).


Viên Đại tá hai lần phản đảo chính, một lần đảo chính bị tuyên tử hình với tội danh “chuyên viên đảo chính”

Ngày 1-11-1963, hay tin cuộc đảo chính nổ ra ở Sài Gòn, đại tá Bùi Dzinh đã lập tức điều động Trung đoàn 15 thuộc Sư đoàn 9 bộ binh và một pháo đội của Tiểu đoàn 9 pháo binh về phản đảo chính.
Nhưng đại tá Nguyễn Hữu Có thuộc phe đảo chính đã dàn lính Sư đoàn 7 bộ binh chặn ở ngã ba Trung Lương sau khi ra lệnh cho tỉnh trưởng Định Tường - trung tá Nguyễn Khắc Bình rút hết phà tại bến bắc Rạch Miễu và Mỹ Thuận về bờ phía Mỹ Tho để ngăn Sư đoàn 9 vượt sông Tiền…


Năm ngày sau, 6-11-1963, đại tá Bùi Dzinh phải bàn giao Sư đoàn 9 cho tư lệnh phó là trung tá Đoàn Văn Quảng, về trình diện Hội đồng Quân nhân Cách mạng tại Bộ Tổng tham mưu. Tại đây, ông đã có cuộc tranh luận dữ dội với thiếu tướng Tôn Thất Đính khiến ông Đính nổi nóng, móc súng đòi bắn. Tướng Lâm Văn Phát nhảy vào can thiệp và tướng Khiêm kéo sang phòng khác, rồi mời "về nhà nghỉ ngơi".
Mấy ngày, đại tá Bùi Dzinh sau nhận quyết định "Nghỉ dài hạn không lương" của Hội đồng Quân nhân Cách mạng (chỉ huy là trung tướng Dương Văn Minh) cùng một danh sách 31 sĩ quan cao cấp (thiếu tướng Huỳnh Văn Cao, đại tá Cao Văn Viên, đại tá Bùi Đình Đạm, đại tá Nguyễn Văn Phước...).


Đây không phải là lần đầu tiên ông Dzinh phản đảo chính cứu Tổng thống Ngô Đình Diệm, người đồng hương huyện Lệ Thủy, Quảng Bình của mình. Ba năm trước, ngày 11-11-1960, ông Dzinh, lúc ấy là trung tá, tư lệnh phó kiêm tham mưu trưởng của Sư đoàn 21 bộ binh cũng từ miền Tây mang một pháo đội 105 cùng đại úy Lưu Yểm, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/33 của của Sư đoàn 21 bộ binh kéo về Sài Gòn nhổ chốt Phú Lâm do Tiểu đoàn 8 nhảy dù trấn giữ; thẳng đường về Dinh Độc Lập dẹp tan cuộc đảo chính do đại tá Nguyễn Chánh Thi cầm đầu.

Sau khi chống đảo chính thất bại và bị Hội đồng Quân nhân Cách mạng của tướng Dương Văn Minh tước binh quyền, gia đình ông Dzinh đã từ dinh tư lệnh Sư đoàn ở Sa Đéc dọn về cư xá Lữ Gia, Phú Thọ, cạnh nhà nữ tài tử Kiều Chinh.
Tại đây, năm học 1963-1964, các con ông như Bùi Dzũng, học nội trú lớp đệ ngũ – nay là lớp 8, cùng hai em trai: Cường, lớp đệ thất (lớp 6) và Bình, lớp nhì (lớp 4) trường Đắc Lộ của linh mục Vũ Khánh Tường. Anh trai tôi cùng tuổi, cùng khối học, cùng nội trú với Bình, con ông Bùi Dzinh ở đây.


Năm 1964, ông Dzinh mướn nhà thầu Vũ Thịnh xây ngôi nhà đầu tiên ở vườn cao su Phú Thọ trên đường Nguyễn Văn Thoại (nay là đường Lý Thường Kiệt) nhìn xéo sang khu đất nay là chợ Tân Bình. Đối diện bên kia đường là nhà của đại tá Quỳnh, chỉ huy trưởng Trường Sĩ quan Chiến tranh chính trị Đà Lạt.

Ông Dzinh không chịu ngồi yên. Ngày 19-2-1965, ông cũng ra tay: tham gia cuộc đảo chính nhằm lật đổ tướng Nguyễn Khánh, do thiếu tướng Lâm Văn Phát chỉ huy cùng đại tá Phạm Ngọc Thảo. Cụ thể ông lên kế hoạch cùng trung tá Lê Hoàng Thao mang quân từ Long An chiếm Bộ Tư lệnh Biệt khu thủ đô (nay là Bộ Tư lệnh TP.HCM) và quản thúc trung tướng Trần Văn Minh, tư lệnh Biệt khu Thủ đô tại trại Lê Văn Duyệt suốt 24 giờ trước khi rút lui ngày 20-2-1965.

Cuộc đảo chính thất bại và bị toà án quân sự kết án tử hình khiếm diện với tội danh “chuyên viên đảo chính và sử dụng quân đội bất hợp pháp” (sau hạ xuống chung thân rồi tha bổng), ông Dzinh đã chạy về khu Ông Tạ, ẩn náu ở lò bánh mì nhà ông bà Dần trên đường Thánh Mẫu, sau đó sang Nhà hưu dưỡng các linh mục ở nhà thờ Chí Hòa cách đó khoảng 100m…

Bị lùng sục ráo riết, ông chạy về nhà một ông trùm giáo xứ Lạng Sơn ở Xóm Mới (Gò Vấp) một thời gian, sau đó bị bắt, đưa về tạm giam ở Tổng nha Cảnh sát Quốc gia - Sài Gòn trước khi bị giải sang khám Chí Hòa tháng 5 - 1965.
Chính quyền Sài Gòn tịch thu nhà của ông ở đường Nguyễn Văn Thoại. Vợ ông và chín người con tạm nương nhờ nhà người cậu ruột là trung tá Lý Trọng Lễ (sau này là dân biểu tỉnh Bình Long rồi làm tỉnh trưởng Khánh Hòa thời Đệ nhị Cộng hòa – Nguyễn Văn Thiệu) ở dãy nhà lầu đối diện hồ tắm Cộng Hòa. Sau đó qua ông Lễ, mua căn nhà số 203 đường Lê Văn Duyệt nối dài (sau năm 67 đổi số 207 rồi cuối cùng là số 211 đường Phạm Hồng Thái, Gia Định – nay là Cách Mạng Tháng Tám); nhờ người dì đứng tên và ở đó từ tháng 9-1965 tới giờ.


Cạnh nhà ông Dzinh là nhà trung tá Trần Ngọc Châu, chuyên gia chống phiến loạn của Việt Nam Cộng hòa, cựu dân biểu thời Đệ nhị Cộng hòa (ông vừa qua đời tháng 6-2020 ở tuổi 96 ở Mỹ, do biến chứng của bệnh Covid-19).
Căn nhà ở đầu đường Sở Mỹ (nay là đường Lê Minh Xuân) và Nguyễn Văn Thoại, xéo chợ Tân Bình được chính phủ trả lại năm 1967 sau khi ông ra khỏi khám Chí Hòa - nhân dịp Tổng thống Thiệu ban hành hiến pháp nền Đệ nhị Cộng hòa.


Gia đình ông ở chính tại ngôi nhà đối diện hồ tắm Cộng Hòa cho đến khi đi nước ngoài cuối năm 1980. Căn nhà luôn đóng kín cửa phía đường Cách Mạng Tháng Tám. Khách ra vào bằng cửa sau. Bà cựu đại tá Bùi Dzinh tướng to cao, phúc hậu…
Cùng số phận đau buồn, trước khi định cư ở Pháp, hai bà cựu phu nhân hai đại tá Việt Nam Cộng hòa Lê Quang Tung, Bùi Dzinh thường qua lại thăm viếng nhau…


Ngày 2-11-1971, sau tám năm lật đổ nền Đệ nhất Cộng hòa, chính quyền Việt Nam Cộng hòa lần đầu tiên cho phép tổ chức tưởng niệm, lễ giỗ Tổng thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu công khai tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi.
Sáng hôm ấy, đại tá Bùi Dzinh được cựu trung tá Trần Thanh Chiêu trong ban tổ chức tưởng niệm thông báo trước đã lái xe chở theo con trai là Bùi Dzũng đến dự buổi lễ này.


Trung tá Trần Thanh Chiêu, nguyên tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh. Năm 1960, Quân Giải phóng xâm nhập và lấy đi một số vũ khí tại căn cứ Trảng Sụp do một trung đoàn thuộc Sư đoàn 21, đóng ở đây. Ông bị Tổng thống Ngô Đình Diệm cách chức tư lệnh sư đoàn, thay bằng đại tá Trần Thiện Khiêm. Ông Chiêu dân Quảng Nam, tánh tình cương trực và khí phách, nhận lỗi, không phàn nàn, oán trách một lời. Sau được tổng thống Diệm tín nhiệm trở lại, giao làm chỉ huy trưởng Lực lượng Bảo an & Dân vệ - tiền thân binh chủng Địa phương quân và Nghĩa quân. Thời Đệ nhị Cộng hòa, sau khi giải ngũ, gia đình trung tá Trần Thanh Chiêu dọn nhà về khu ngã tư Bảy Hiền cạnh nghĩa địa Quân đội Pháp, gần trường Quốc gia nghĩa tử - nay là Trường cao đẳng Lý Tự Trọng).

Hai cha con ông Bùi Dzinh đậu xe gần salon ôtô Trường Can (chủ là thiếu tá Trương Định) trên đường Hiền Vương, đi bộ đến trước cổng chính nghĩa trang. Nơi đây, từ 9h sáng đã có hàng ngàn người tụ tập, phần lớn là bà con Bắc 54 các nơi: Ông Tạ, Trung Chánh (Hóc Môn), Gia Kiệm, Dốc Mơ, Hố Nai... đến bằng xe đò, xe Lam.
Vì số người quá đông nên lính gác và cảnh sát không cho phép vào bên trong nghĩa trang thăm viếng, cầu nguyện. Như đã đoán trước, ban tổ chức đã cho dựng ngay một bàn thờ lộ thiên phía trong sát cổng chính vào nghĩa trang. Thánh lễ cầu hồn được tổ chức theo nghi thức đọc kinh của đạo Công giáo do một linh mục chủ tế và mọi người thầm lặng cầu nguyện. Anh Bùi Dzũng cho biết nhìn thấy có những dòng nước mắt rơi.


Buổi lễ kết thúc xế trưa. Các ông đại tá Bùi Dzinh, Đỗ Văn Diễn, Trương Văn Chương… vốn là những chiến hữu cùng tham gia vụ chính biến (bất thành) ngày 19-2-1965 nhằm lật đổ tướng Nguyễn Khánh đã cùng ăn trưa ở nhà hàng L'Admiral, phía sau trụ sở Quốc Hội (nay là Nhà hát lớn).
Cùng lúc đó, trước mắt tôi, một thằng nhỏ chín tuổi, nhiều xe hoa diễu hành, phát loa dọc các con đường ở khu Ông Tạ như Thoại Ngọc Hầu (nay là Phạm Văn Hai), Phạm Hồng Thái (nay là Cách Mạng Tháng Tám)... suy tôn và đòi phục hồi sự thật, danh dự cho ông Diệm…


Những ngày lễ của Tuần tam nhật Các thánh khu Ông Tạ ấy đầy oan khiên, máu và nước mắt.

Cù Mai Công

Nguồn: https://www.facebook.com/he.via.54/posts/1338953329884050