Friday, July 26, 2013

Các chiến hữu cuả tôi


Những ngày tháng sau hiệp định Paris năm 72 đối với các đơn vị đang chiến đấu là một khoảng thời gian dở khóc dở cười.
Cuộc chiến vẫn còn nguyên vẹn nhưng danh nghĩa chiến tranh thì không. Những thương thảo giữa các phái đoàn 4 bên VNCH-Mỹ-VC-CSBV sau những thủ đoạn mánh lới, cuối cùng cũng đã mang đến một bản hiệp ước mà bên nào cũng giải thích cho rằng mình thắng lợi! Duy có một sự thực không thể chối cãi là máu vẫn còn tiếp tục đổ trên lãnh thổ Miền Nam, dưới vĩ tuyến 17.


Về mặt quân sự, hình thái tác chiến cũng đổi. Cộng quân chuyển sang thế chủ động tấn công, quân đội ta rút về vị thế phòng thủ vừa tuyến, vừa khu vực tùy tình hình chiến sự của từng vùng chiến thuật. Trong lúc ấy quân đội Hoa kỳ đặt trọng tâm vào việc rút chân ra khỏi cuộc chiến, và áp lực bạn đồng minh phải tuân thủ các điều khoản trong hiệp định! Các đại đơn vị chính qui Miền Bắc sau thời gian nghỉ khoẻ lần lượt lên đường vượt vĩ tuyến 17. Các đơn vị địa phương của Cộng Sản Miền Nam bò ra khỏi mật khu đánh phá lấn chiếm các thị xã, thị trấn và các trục giao thông. Ngọn roi chí tử B52 không còn, các đơn vị chính qui cộng sản di chuyển nhởn nhơ giữa ban ngày trên các trục xâm nhập. Đặc biệt trên đường mòn Hồ chí Minh, các đoàn xe dài hàng chục cây số nối đuôi nhau chuyên chở vật liệu, quân cụ và người di chuyển ngày đêm. Có lẽ trong quân sử thế giới, chưa có một đạo quân nào như chúng ta đã phải chiến đấu trong một tình trạng tồi tệ đến như thế. Quân trang quân dụng, đạn dược bị hạn chế, những cấp lãnh đạo chiến tranh tất bật với những mưu toan tranh đoạt lẫn nhau, thậm chí ngồi làm vì cho có vẻ đoàn kết. Thủ đô Sài Gòn hỗn loạn không ngày nào không có biểu tình tranh đấu cho đủ mọi thứ rắc rối trên đời.
Trong một tình hình hỗn loạn như thế, đòi hỏi người lính chiến VNCH phải tác chiến có hiệu quả cao có phải là một ảo tưởng không? Thành ra, việc sụp đổ của cuôc chiến trong ngày 30 tháng Tư 75 là một hệ quả có thể hiểu được, và tiên đoán được. Điều đáng buồn là cho đến ngày nay, nhiều vị từng giữ những chức vụ then chốt trong cuộc chiến vẫn chưa nhận ra trách nhiệm của mình. Cuộc đổ lỗi lòng vòng từ các vị nguyên thủ xuống thứ dân, từ người ngoại cuộc sang người cầm súng trực tiếp còn có cơ kéo dài miên man.
Cuộc chiến tranh tự vệ vừa qua là cuộc chiến của chúng ta, những người quốc gia bảo vệ đất nước chống lại cuộc xâm lăng của cộng sản. Do vậy, khi chúng ta thua trận, mất nước, toàn thể những ai còn nhận mình là người quốc gia đều có lỗi. Lỗi nặng nhẹ tùy theo vị trí và vai trò của mình trong hàng ngũ chiến đấu. Phải xác định như thế để có thể tìm ra những bài học hữu ích cho lịch sử dân tộc, cho các thế hệ tiếp nối và đề ra được những đối sách hiệu quả trong tình hình mới. Còn nếu không, chúng ta sẽ cứ mãi phân hoá, chia rẽ trong đội ngũ, và những ước mơ về tương lai sán lạn của dân tộc vẫn sẽ mãi mãi chỉ là những ước mơ.
Trong thất bại chua cay tháng Tư năm ấy, đành rằng nạn nhân là tất cả những ai đã từng đứng chung, và hãnh diện chung dưới một màu cờ vàng ba sọc đỏ; nhưng không ai có thể phủ nhận được những thiệt thòi, bất công và sự điêu linh thống khổ cùng những hy sinh vô bờ bến cuä các chiến sï QLVNCH. Họ là những người đã coi nhẹ mạng sống của chính mình trong một cuộc giao chiến mà giỏi lắm là thủ huề!

Nhìn lên trên những người chỉ đạo cuộc chiến, các nhà lãnh đạo chính trị đã không thực tâm sống chết với dân tộc. Hãy nhìn sang ngay một lân bang sát cạnh chúng ta. Tôi còn nhớ rõ những cảm xúc dào dạt của mình khi đọc tin trên báo chí trong những ngày tháng 4 năm ấy khi xem lá thư từ chối việc ra đi của thủ tướng Cam Bốt Sirik MaTak gởi cho đại sứ Hoa Kỳ John Gunther Dean. Thậm chí ngay cả đến tướng Lon Non em, chỉ huy quân đội, cả hai đều biết chắc chắn họ sẽ mạng vong khi rơi vào tay quân địch. Nhưng họ đã chấp nhận điều ấy trong sự can trường hào hùng của một cấp lãnh đạo. Họ đã chết theo cái chết của dân tộc Campuchia trong cơn cuồng sát tự diệt của Khờ Me đỏ!

Cũng còn may cho chúng ta trong những giờ phút bi tráng nhất của lịch sử dân tộc trong Tháng Tư năm ấy. Chúng ta cũng đã có những gương hy sinh coi cái chết nhẹ tựa lông hồng tương tự.

Trong quân sử VNCH, chúng ta sẽ vẫn mãi mãi tự hào về những tướng lãnh vị quốc vong thân trong những giờ phút cuối cùng của cuộc chiến. Một Nguyễn khoa Nam, Trần văn Hai, Lê văn Hưng, Lê nguyên Vỹ, Phạm văn Phú và những sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ khác được biết đến tên tuổi, hoặc vô danh. Sự hy sinh của họ theo cung cách của một quân nhân, vừa biểu lộ lòng ân hận với dân tộc vì đã không làm tròn bổn phận của một người lính bảo vệ đất nước, vừa là lời khẳng định quyết liệt không thể cùng tồn tại chung một bầu trời với quân thù. Cái chết của họ đã tự nói lên sự hào hùng dũng cảm của một đạo quân từng làm nên bao chiến tích.

Đời sống con người thực sự có những giới hạn rất ngặt nghèo. Dù cho có ở những địa vị trùm thiên hạ, tiền muôn bạc đống cũng chẳng thể kéo dài đời sống ra được. Nhưng ngược lại, con người có thể làm cho nó ngắn đi theo mong muốn của mình, một thứ cướp quyền của Thượng đế! Lẽ sống chết, tử sinh trong vai trò của một chiến sĩ là một điều gì đó rất lạ lùng. Có những quyết định chỉ hiện đến trong giây lát, có vẻ như rất tình cờ, nhưng thực ra nó đã được hình thành trong suốt chặng đường suy tưởng và va chạm với thực tế. Những hành động dũng cảm, liệt oanh của các vị anh hùng liệt sĩ trong quân sử ta là một dẫn chứng điển hình.
Chắc hẳn khi tự chọn lấy cái chết cho mình, từng vị chẳng hề nghĩ rằng sau khi mình nằm xuống sẽ còn có cơ hội để những người khác tưởng nhớ tới. Ý nghĩ chết theo với sự tan rã của một đạo quân từng dưới quyền chỉ huy của mình, chỉ là sự thể hiện lòng trách nhiệm với quốc gia dân tộc, và đặc biệt là sự trung thành với lý tưởng mà họ đã theo đuổi; với sự nhận thức rõ ràng về danh dự của một chiến binh với đồng đội của mình.

Đọc quân sử thế giới, chúng ta thấy, khi Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng đồng minh, nhiều sï quan cao cấp của quân đội Nhật cũng đã từng bày tỏ lòng trung thành với đất nước y như thế. Duy có điều, cái chết của họ ít ra cũng còn được người chịu trách nhiệm cao cấp nhất là hoàng đế Hirohito ghi ơn và làm gương để đưa nước Nhật vào một trang sử mới. Còn các liệt sĩ của chúng ta thì không; thậm chí còn tệ hơn, khi những vị thượng cấp của họ có người vẫn còn bất cố liêm sỉ tới mức độ sẵn sàng thỏa hiệp với kẻ thù để mưu cầu quyền lợi tư riêng được ngụy trang dưới lớp vỏ bọc “vì quyền lợi của đất nước, dân tộc“!

Tháng Tư năm nay lại đến, các chiến hữu nổi danh một thời nay đã đi rất xa, đến một vùng trời bình yên không còn lửa đạn và thù hận. Nói theo danh tướng Mac Arthur, những người lính già ấy chỉ mở dần theo thời gian.


Tháng 7 năm 1972, mặt trận Cao nguyên đã trở lại bình thường. Sau ba đợt tấn công mưu đồ chiếm Kontum để lập thủ đô cho cái gọi là mặt trận Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) của cộng sản thất bại, thế trận trở lại giằng co. Lúc đó các lực lượng chính của mặt trận B3 lui dần vào các mật khu để tái tổ chức, bổ xung quân số, và trang thiết bị. Những đơn vị trực thuộc của Sư đoàn 23 VNCH cũng được tái phối trí phòng thủ mở rộng vòng đai tỉnh lỵ Kontum, và tung các cuộc hành quân an ninh xa ngoài vòng đai hàng chục cây số. Tháng 9, tôi bị thương sau đợt pháo kích bằng hỏa tiễn 122 ly của địch khi vừa bước chân ra khỏi trung tâm hành quân của Trung đoàn 44 đặt tại Bộ Tư lệnh Biệt khu 24 cũ.

Tôi bàn giao đơn vị cho đại tá Võ hữu Hạnh để trở về điều trị vết thương tại quân y viện Đoàn mạnh Hoạch, Phan thiết. Sau hơn hai tháng điều trị và nghỉ dưỡng thương tôi trở lại trình diện BTL/ SĐ tại Kontum. Lúc này tướng Trần văn Cẩm đã thay thế tướng Lý tòng Bá làm Tư lệnh Sư đoàn. Tôi được chỉ định giữ chức vụ trưởng phòng Ba (Phòng hành quân và Huấn luyện) thay thế cho trung tá Điều ngọc Chánh, nguyên trước đây từng là trung đoàn trưởng của tôi. Trung tá Chánh thuyên chuyển về Bộ tư lệnh Cảnh sát Quốc gia tại Sài gòn. Tưởng cũng nên nhắc lại trong khoảng thời gian tương đối ngắn từ cuối năm 1972 đến giữa năm 1973 đã có nhiều thay đổi cấp chỉ huy trong Sư đoàn. Trung đoàn 44 do Trung tá Nguyễn hữu Lữ từ sư đoàn 2 điều về làm trung đoàn trưởng. Đại tá Võ hữu Hạnh từ trung đoàn 44 chuyển qua làm trung đoàn trưởng trung đoàn 45 một thời gian ngắn sau đó bàn giao lại cho đại tá Phùng văn Quang. Trung đoàn 53 do trung tá Võ Ân được điều từ Sư đoàn 22 qua giữ chức vụ trung đoàn trưởng thay thế cho đại tá Trần văn Chà bị thương nghỉ điều trị.
Trong những cuộc họp hành quân và qua các buổi tham dự thuyết trình hàng ngày để cập nhật tình hình địch bạn; tôi quen biết trung tá Võ Ân. Nhận xét đầu tiên của tôi về anh là tính tình cởi mở và vui vẻ trong giao tiếp rất dễ gây thiện cảm cho người tiếp xúc với anh lần đầu. Vì anh xuất thân từ một tiểu đoàn trưởng giỏi kinh qua kinh nghiệm tác chiến từ cấp trung đội trưởng trở lên nên nói chung việc chỉ huy tác chiến đối với anh không có trở ngại gì. Anh người Huế và tiếng anh xưng hô với bạn hữu cùng trang lứa luôn dùng “Tau” và “cụ mi” nghe cũng ngồ ngộ. Các sĩ quan tham mưu chính của Sư đoàn lúc đó ngoại trừ Đại tá Bùi hữu Khiêm một sĩ quan pháo binh tốt nghiệp khóa 3 Thủ Đức là lớn tuổi, tính tình trang nghiêm đạo mạo, đám còn lại chúng tôi tương đối trẻ hơn nên sinh hoạt cũng thân mật và vui hơn. Trưởng phòng Một là trung tá Dương đức Sơ cùng khóa 17 với tôi. Trung tá Điều ngọc Chuy, trưởng phòng Hai, tốt nghiệp Khóa 16 trước tôi một khóa. Tôi là trưởng phòng Ba. Trung tá Nguyễn khoa Đài, khóa 4 Thủ đức, trưởng phòng Tư. Trưởng phòng Tổng quản trị là trung tá Nguyễn xuân Thắng, cùng khóa với Chuy, sau đó ít tháng bàn giao cho trung tá Lợi.
Từ cuối năm 1972 cho tới trước ngày hiệp định Paris được ký kết chừng 1 tháng tình hình Kotum sôi động trở lại. Thực ra điều này không nằm ngoài những ước tính tình báo của Sư đoàn căn cứ trên các tin tức kỹ thuật chúng tôi thu thập, và qua cung từ hồi chánh và tù binh chúng tôi bắt được. Ngoài ra chúng tôi cũng nhận rõ âm mưu của cộng sản gia tăng các cuộc lấn dất giành dân và áp lực quân sự nhằm hỗ trợ cho các đòi hỏi chính trị trên bàn hội nghị lúc đó. Đó chính là thời gian trận Trung Nghĩa xẩy ra.
Trung Nghĩa là một khu dân cư nằm ở phía tây thành phố Kontum, giới hạn bởi hai nhánh sông Dap Bla ở hướng nam, và Dap Kron ở hướng tây. Phía bắc là ngọn Ngok Bay cao độ 669 mét, là ngọn núi cao nhất trong khu vực hành quân đang do địch quân kiểm soát là mục tiêu rất khó chịu.
Lực lượng phòng thủ chính là Trung đoàn 44 và các đơn vị ĐPQ, NQ của Tiểu khu. Vì các trung đoàn 45 và 53 trách nhiệm khu vực bắc Kontum nên BTL/ SĐ yêu cầu BTL/ Quân Đoàn 2 tăng cường lực lượng ngõ hầu tổ chức hành quân quy mô tảo thanh các lực lượng địch trong khu vực Trung Nghĩa.
Bộ Tư lệnh quân khu 2 đã điều động Trung đoàn 42 từ Bình Định lên tăng cường. Lực lượng tham chiến của cộng sản chủ lực là trung đoàn 24, 95, và 66 luân phiên tấn công và một số đơn vị đặc công, pháo và hoả tiễn thống thuộc hỗ trợ.
Trận đánh kéo dài từ khoảng cuối tháng 8 cho tới đầu tháng 9 thì kết thúc. Các lực lượng cộng sản chịu tổn thất năng đành phải bỏ dở mục tiêu rút về hướng bắc. Trung đoàn 42 SĐ 22 sau khi hoàn thành nhiệm vụ được lệnh dời khu vực hành quân trở về lại vùng duyên hải. Trong đêm ăn mừng chiến thắng trận Trung Nghĩa, đại tá Thông có nhã ý mời anh em chúng tôi một bữa cơm thân mật tại nhà hàng Thiên nam Phúc ngay tại thị xã.
Bữa ăn gồm niên trưởng Nguyễn cao Vực, khóa 13, tiểu đoàn trưởng 230 Pháo binh, thiếu tá Đinh ngọc Thạch, khóa 15, Trung đoàn phó 45; Dương đức Sơ, trưởng phòng I/ SĐ, Điều ngọc Chuy, trưởng phòng 2/ SĐ, bác sĩ Tường, tiểu đoàn trưởng 23 Quân y, và tôi, trưởng phòng 3/ SĐ. Tưởng cũng nên nói thêm khi còn là Sinh viên Sỹ quan Võ Bị, niên trưởng Thông và tôi cùng ở chung đại đội 7 SVSQ. Anh người cao lớn và da ngăm đen mắt hơi lộ nên các bạn trong khóa 16 gọi anh bằng một cái tên nghe rất ngộ: Thông Lumumba. Thực tình tôi cũng không hiểu tại sao tên anh lại được gắn với tên của ông tổng thống xứ Congo này. Tôi đoán chừng là tại ngoại hình của anh chăng? Anh vốn dĩ là một người tu xuất nên tính tình thuần hậu hiền lành, trước các lời trêu chọc của các bạn đồng khóa, anh chỉ mỉm cười vui vẻ. Anh tốt nghiệp tháng 11 năm 1962 và được điều về Sư đoàn 1 ở Huế là quê hương của anh, còn tôi về Sư đoàn 7 ở Mỹ Tho. Tính từ ngày ra trường đến lúc gặp lại, chúng tôi đã xa cách nhau gần 10 năm!
Tôi còn nhớ trước khi bắt đầu bữa ăn, anh mang ra ba chai rượu whiskey hiệu Black and White, là món khó kiếm trong thời gian đó ở Kontum. Anh đĩnh đạc nói: “Hôm nay tôi mời các bạn ăn bữa cơm thân mật, trước là mừng ngày gặp gỡ các niên trưởng Vực và Thạch, các bạn khóa 17, bạn Chuy và bác sĩ Tường. Tôi cũng muốn nói lời cám ơn các bạn đã giúp đỡ đơn vị tôi trong suốt thời gian hành quân vừa qua. Ngày mai chúng tôi sẽ trở lại Bình Định, tôi muốn chúng ta vui với nhau đêm nay để kỷ niệm buổi gặp gỡ thân mật này.“ Bác sĩ Tường là người lên tiếng trước tiên “Nếu uống hết rượu đại tá cho chúng tôi uống thêm bia nữa chứ?” Anh Thông cười “Uống líp, tôi bao hết.“ Khi người hầu bàn mang thực đơn ra anh giao cho từng người kêu món mình thích. Bàn qua tán lại cuối cùng chúng tôi kêu món gà gói giấy là món ăn có tiếng của tiệm này, thêm món mì xào thập cẩm và thịt bò xào lăn. Đại tá Thông nói tiếp “Moi không uống được rượu thành ra xin lỗi moi sẽ uống nước ngọt còn các toi cứ dùng tự nhiên.” Và sau đó anh kêu một chai xá xị ngồi nhâm nhi với đĩa đậu phọng rang mang ra ngay từ đầu.
Khi nhà bếp nhận xong món đặt làm và bắt đầu chế biến đun nấu thì cũng là lúc chúng tôi kêu nước đá và soda để mở rượu uống. Chắng biết cao hứng thế nào chưa đầy 20 phút, chai rượu đầu tiên cạn láng. Từ đó, cả bàn 6 người chúng tôi bắt đầu nóng máy. Bác sĩ Tường giành khui chai rượu thứ hai đổ cạn vào 6 chiếc ly trên bàn. “Dô, dô… trăm phần trăm mừng đại tá Thông cùng Trung đoàn 42 và buổi gặp gỡ đêm nay!“
Tường nâng ly lên mời và chúng tôi lại… uống. Khi chai rượu thứ ba khui cũng là lúc món gà gói giấy và bò xào được mang ra để trên bàn. Bàn nhậu trở nên nóng bỏng vì các tiếng dô dô và niên trưởng Thạch là người khui chai này.

Chai whiskey Black and White thứ 3 cũng được thanh toán gọn lẹ trong chiều hướng ngưu ẩm như thế rất chóng vánh và cả 6 chúng tôi bắt đầu quờ quạng. Bác sĩ Tường là người đầu tiên ói và lui hui chui dưới ghế để tìm lối đi ra! Niên trưởng Vực, Thạch, Sơ và tôi cùng mờ mịt hết thấy đường về. Chỉ riêng niên trưởng Chuy là còn tương đối tỉnh táo. Tôi nghe giữa những lời đàm thoại có tiếng đại tá Thông “Ơ này các bạn phải ăn đi chứ, đồ ăn kêu ra rồi mà không ai chịu ăn gì hết vậy!?“

Sáng hôm sau trong buổi tiễn đưa trung đoàn 42 rời khu vực hành quân trở về hậu cứ, chúng tôi có mặt đầy đủ nhưng đầu óc lừ đừ mụ mị. Tôi nhớ mãi nụ cười hiền hòa của đại tá Thông và câu nói với chúng tôi. “Moi sợ mấy toi luôn, uống gì đâu mà như trâu uống nước ruộng!“ Chúng tôi dơ tay chào anh và cũng từ bữa nhậu không thể nào quên đêm ấy ngờ đâu lại là lần gặp gỡ cuối cùng với anh.
Đại tá Thông cùng đơn vị của anh trở về với vùng Bình Định cũng đang sôi sục mùi thuốc súng sau đó không lâu.
Sư đoàn 23 cho đến giữa năm 73 sau khi hiệp định Paris được ký kết lại thêm một lần tái phối trí lực lượng. Trung đoàn 44 của trung tá Lữ tiếp tục ở lại Kontum. Trung đoàn 45 của đại tá Quang trở về hoạt động khu vực giữa Đèo Tử Sĩ và Hàm Rồng. Trung đoàn 53 của trung tá Võ Ân về lại Ban mê Thuột. Bộ Tư lệnh Hành quân Sư đoàn đặt tại Hàm Rồng.
Tháng 7 năm 73, tình hình quân sự thuộc lãnh thổ tỉnh Quảng Đức trở nên sôi động. Các đơn vị chính quy của địch từ Bình Long, Phước Long tăng cường đánh phá mở rộng vùng kiểm soát vào khu vực giao tiếp giữa vùng 3 và vùng 2 khu quận Kiến Đức thuộc lãnh thổ tỉnh Quảng đức. Bộ tư lệnh Sư đòan 23 (BTL/ SĐ23) và trung đoàn 53 từ Ban mê Thuột di chuyển đi Quảng Đức để ứng phó tình hình. Vùng giao tranh chính là nơi một đơn vị ĐPQ của tỉnh trú phòng tại Bù Binh đang bị uy hiếp nặng nề và sau đó bị tràn ngập. Khu vực hành quân là vùng đồi núi có cao độ trung bình 600m. Quốc lộ 14 chạy vòng vèo giữa hai bên đồi núi chập chùng, sâu hai bên trong quốc lộ khoảng 2 đến 3 cây số là hai con sông nhỏ Dak Kar ở phía nam, và Dak R’ Lap chay song song theo hướng đông bắc tây nam cùng hướng với quốc lộ ở hướng bắc. Một vị trí lý tưởng cho các cuộc vận động phục kích, công đồn đả viện của địch.

Đại đội 23 Trinh sát của sư đoàn được tung vào trận địa đầu tiên sau khi mục tiêu là đồn Bù Binh được pháo binh và không quân dọn dẹp xong. Trung úy Giáo, đại đội trưởng, là một sĩ quan giàu kinh nghiệm và rất gan dạ cùng toán viễn thám đầu tiên đổ xuống ngoài vòng thép gai của đồn để trực tiếp xung phong chớp nhoáng vào mục tiêu. Cuộc chạm súng ngắn ngủi và đại đội này chiếm lại được vị trí phòng thủ của địch với tổn thất nhẹ. Cuộc hành quân khởi đầu có vẻ thuận lợi. Chuẩn tướng Lê trung Tường ra lệnh tổ chức phòng thủ. Chiều xuống mau. Ban đêm đại đội trinh sát báo cáo nghe nhiều tiếng động của cơ giới từ hướng Bình Long kéo lên. Vừa hừng sáng hôm sau đại đội trinh sát báo cáo bị pháo kích nặng và xin không yểm để ngăn chặn các cuộc xung kích của địch. Tướng Tường nhận định nếu để đại đội trinh sát cố thủ tại vị trí sẽ gây tổn thất cho đơn vị này trước lối đánh biển người của địch. Ông bí mật nói cho trung úy Giáo hiểu ý định vể kế hoạch triệt thoái khỏi mục tiêu để ông rộng tay sử dụng hỏa lực.
Các phi tuần khu trục vần vũ suốt ngày đánh phá, ngăn chặn địch để yểm trợ cho đại đội trinh sát cắt vòng rào rút về hướng đông nam. Sau khi hoàn tất việc rút quân, trời đã về chiều. Không quân ra khỏi vùng hoạt động, pháo binh sử dụng hỏa lực thay thế yểm trợ cho đơn vị bạn. Đồng thời trung đoàn 53 từ quận Kiến Đức xuất phát tham gia giải tỏa áp lực địch.
Tưởng cũng nên nhắc lại tình hình chiến sự trong giai đoạn này. Vì tuân thủ theo những điều kiện đã được quy định trong hiệp định Paris nên những hoạt động quân sự của chúng ta lúc đó là tổ chức phòng thủ khu vực hoặc tuyến trên lãnh thổ cả bốn quân khu. Ngược lại, những đơn vị cộng sản gia tăng vận chuyển quân trang dụng và người từ miền Bắc bổ sung cho chiến trường miền Nam để tổ chức các cuộc tấn công quy mô đều trên cả bốn Vùng chiến Thuật.

Ngoài chiến xa được sử dụng rộng rãi trên các chiến trường lớn từ đầu năm 1972, địch còn được trang bị loại hoả tiễn cá nhân SA7 của Liên xô chế tạo để bắn hạ máy bay, những vũ khí này chỉ được sử dụng hạn chế để thử nghiệm trong thời gian trước đó ở Vùng 1, thì tới giai đoạn này đã được trang bị rộng rãi cho các đơn vị bộ binh của họ ở Vùng 2. Trận đánh giải tỏa áp lực địch tại Bù Binh là trận đánh đầu tiên loại hỏa tiễn này được địch quân sử dụng tối đa. Và trận đánh thứ hai họ cũng sử dụng tối đa loại vũ khí lợi hại này hơn một năm sau khi địch quân tấn công Ban mê Thuột. Tôi nhớ tới những giờ phút ngồi trên trực thăng chỉ huy C&C trong trận đánh ấy mà thấy thương mến các chiến hữu không quân của mình. Lúc đầu là phản lực, tiếp theo là trực thăng và sau cùng là quan sát, tất cả các bạn tôi phần nhào lộn bắn phá mục tiêu hỗ trợ quân bạn dưới đất, phần nhào lộn như làm xiếc tránh né hỏa tiễn cầm tay của địch. Đầy trời là những đốm khói đen trắng xen kẽ nhau, khói của hỏa tiễn nổ hụt mục tiêu, khói của các trái khói lân tinh của các máy bay trực thăng do các xạ thủ đại liên liệng ra nổ ngoài trời để thu hút hỏa tiễn tìm nhiệt của địch…

Tôi cũng nhớ tới tiếng Ân báo cáo về Trung tâm Hành quân Sư đoàn (TTHQ/SĐ) khi anh tịch thu được 11 cây 57 ly! (mà thực ra sau đó, qua tài liệu của Phòng Hai, chỉ là các vỏ ngoài của loại hỏa tiễn tầm nhiệt này, lần đầu tiên chúng tôi thấy được trên chiến trường Cao nguyên!) Cuộc chiến rõ ràng có sự chênh lệch hẳn về mặt vũ khí. Bên địch được trang bị vũ khí ngày càng tối tân và đầy đủ hơn còn phía chúng ta lại bị hạn chế về sử dụng đạn dược, quân nhu và nhất là không được dùng loại oanh tạc cơ B52 một thứ khắc tinh đối với địch quân, chiếu theo hiệp định Paris!
Trung đoàn 53 và đại đội 53 trinh sát quần thảo với địch gần mười ngày với tổn thất nặng cho cả hai phía. Sau cùng địch cũng phải rút quân khỏi khu vực và Trung đoàn 53 trở về quân Đức Lập thuộc tỉnh Đắc Lắc nghỉ dưỡng quân và bổ sung quân số. Trên đường từ Quảng Đức trở về lại Ban mê Thuột, Tướng Tường, Chuy và tôi có ghé lại Bộ chỉ Huy trung đoàn 53 của anh đóng cách quận lỵ chừng hai cây số trên quốc lộ 14 nối Quảng Đức đi Đắc Lắc.
Võ Ân ra đón chúng tôi. Nhìn khuôn mặt anh tươi tắn trẻ trung tuy rất mệt mỏi sau gần mười ngày hành quân mà cảm thông sự vất vả ưu tư trên nét mặt anh lúc đó. Nói thật lòng, nếu anh mặc áo trắng quần dài xanh, không ai có thể nói anh là một sĩ quan cao cấp và đang đảm nhiệm một chức vụ quan trọng như thế. Anh có dáng dấp một cậu học trò cấp ba hơn là một võ quan. Tháng 3 năm 1974, tôi nhận được quyết định của Bộ Tổng tham mưu trở ra lại đảm nhiệm chức vụ trung đoàn trưởng Trung đoàn 44 thay thế cho trung tá Nguyễn hữu Lữ thuyên chuyển về quân đoàn 2 chờ lệnh. Rồi tôi đi Kontum nhận đơn vị, sau đó trở về Pleiku hành quân vùng căn cứ 801. Từ đó tôi chỉ thỉnh thoảng gặp lại Ân trong các cuộc họp hành quân sư đoàn, bởi vì trung đoàn của Ân phụ trách khu Đắc lắc và Quảng Đức.
Ngày 10 tháng 3 năm 1975 Ban mê Thuột bị tấn công. Tôi còn nhớ mãi những bàng hoàng khi được tin hơn nửa đơn vị của mình đã không thể không vận tới nhập cùng mũi tấn công cùng Trung đoàn 45 như theo kế hoạch dự trù để tiến vào giải cứu Ban mê Thuột. Nhìn về hướng thị xã, khói lửa ngút trời. Những đoàn người thuộc đủ mọi thành phần, đủ sắc dân lũ lượt kéo nhau chạy về hướng biển. Những nét mặt ngơ ngác, thất thần, những đôi mắt không còn nước mắt để khóc. Sự khổ đau tột cùng hiện nguyên hình trên khuôn mặt họ đã nói lên điều mà lời nói trở thành vô dụng không diễn đạt được.

Tôi cũng nhớ tới những báo cáo nghe thật buồn của đơn vị bạn khi trình lên thượng cấp những tổn thất về các cuộc chạm súng với địch mà phần hỏa lực yểm trợ pháo binh của ta là số không. Chỉ còn những chiến sĩ võ trang bằng máu hồng, xương trắng, một lòng yêu quê hương dân tộc chống trả lại chiến xa đại pháo của địch quân đang nã đạn dòn dập vào họ. Và những chiến hữu không quân cũng đang vừa yểm trợ vừa làm xiếc với hỏa tiễn SA7 của địch trên vùng trời Ban mê Thuột lúc đó! Tôi nhớ tới những cuộc đối thoại ngắn ngủi với Võ Ân đang cố thủ trong vòng đai phòng thû phi trường Phụng Dực, mà qua những lời nói đứt đoạn, tôi vẫn hình dung ra được niềm hy vọng tràn trề của anh trong ao ước bắt tay được với chúng tôi đang trên đường đi vào thị xã trong ngày 12 tháng 3 năm ấy. Rồi sau đó chỉ ít ngày, chiều 16, tôi nghe tiếng thiếu tá Cẩm, Trưởng phòng 3 Sư đoàn, chuyển lệnh cho anh rời khỏi căn cứ. Trong quân sử VNCH, cuộc chiến đấu oanh liệt này là một trong những nét son cuối cùng trước khi sang trang.Với quân số khoảng 2 tiểu đoàn trong một căn cứ phòng thủ không thuộc loại kiên cố kiểu pháo đài bởi vì đó chỉ là một hậu cứ tiếp liệu. Không có hỏa lực hùng hậu của pháo binh hoặc không quân hỗ trợ, đơn vị của anh đã chiến đấu với tất cả nỗ lực vô song của mình để chống trả một lực lượng tấn công với quân số địch quân đông gấp nhiều lần, có xe tăng và pháo hỗ trợ.
Mặt trận Ban mê Thuột (BMT) nằm trong biển lửa hỏa lực và các đợt xung phong của địch muốn mau chóng thanh toán chiến trường. Cứ điểm của anh là một ốc đảo nhỏ nhoi, đơn vị của anh đã chiến đấu đơn độc như thế để sống còn.
Sau này khi mở đọc hồi ký của các tướng lãnh cộng sản viết về trận đánh BMT, về đơn vị của anh, trận đánh của anh vẫn bị xỉ vả, chửi rủa nhiều nhất! Cái kết thúc bi hùng của trận đánh nằm ở chỗ này: Sau nhiều ngày vây đánh liên tục, các lực lượng chủ công của địch đành phải bỏ qua mục tiêu khó gặm mà tiếng quân sự gọi là “By pass” để thanh toán các mục tiêu khác. Đơn vị của Ân cũng chẳng đầu hàng, anh nhận được chỉ thị của thượng cấp rời bỏ vị trí. Trận đánh không có đợt xung phong cuối cùng bởi vì người “công“ không thể chiếm lĩnh trận địa nếu không chịu một tổn thất to lớn, và người “thủ “ mặc dù không còn ở lại cứ địa nhưng đã thực sự làm xong trách nhiệm của mình. Hậu quả của trận đánh còn kéo rất dài sau đó khi Sài gòn thất thủ, anh vẫn còn bị gọi lên trình diện Ủy ban Quân quän để viết lại toàn bộ diễn tiến trận đánh này. Tính tình anh bình dị, dễ mến. Trong chỗ bạn bè thân thiết, anh thuộc loại hiền lành không thích lý sự, ba hoa.

Lúc gặp lại nhau tại Sài gòn sau nhiều năm tháng bị tù đày cộng sản, tôi thấy anh hầu như vẫn chẳng mấy thay đổi. Vẫn thân hình gày gò, xương xẩu, tuy nét mặt có vẻ đăm chiêu hơn ngày nào. Tôi bảo anh: ”Tớ thấy cậu chẳng ốm đi chút nào”. Ân cười bảo: “Chỉ còn toàn xương thôi, không thể ốm thêm được!“ Anh cũng như bao sĩ quan khác, khi được thả ra khỏi trại giam CS, đều bị cuộc sống thực tế đánh cho những đòn chí tử. Anh đi buôn phụ tùng xe đạp cũ ở chợ Trương minh Giảng kiếm sống qua ngày. Cuộc vật lộn với sinh kế để tự tồn và cưu mang gia đình chiếm trọn vẹn những suy tư của anh. Trong một lần thù tạc trước khi lên đường, anh tâm sự “Mai mốt gặp lại nhau, xếp đặt xong công việc gia đình để vợ con không oán trách chúng mình đã vô trách nhiệm, tụi mình sẽ tính lại món nợ đời với mấy tên cán quốc này!”
Anh sang Hoa kỳ theo diện HO sau tôi gần vài tháng. Từ tiểu bang Washington State, anh điện thoại báo cho tôi biết trong giọng nói vui vẻ hồn nhiên “Gia đình tau qua đây hơn một tuần rồi, trên này đang mùa mưa, chán quá, dưới đó cụ mi ra sao?” Sau đó chẳng bao lâu, tôi được tin anh anh bị stroke, mê man bất tỉnh trong lúc đang chơi cờ tướng với cùng một ông bạn HO gần nhà. Bạn bè kêu cấp cứu và đưa anh vào bịnh viện thì đã quá trễ. Qua điện thoại với cháu gái lớn của anh ít giờ sau, tôi nghe tin anh mất!
Thượng đế thật dị kỳ. Trong suốt quãng đời binh nghiệp vào sinh ra tử, từ một chuẩn úy bộ binh tốt nghiệp khóa 12 Thủ Đức, anh thăng tới cấp đại tá trong quân lực trong vòng 12 năm. Các cấp bực anh mang hầu hết là tại mật trận. Súng đạn quân thù bủa vây tứ hướng, anh vẫn nhởn nhơ vào ra dỡn đùa. Mười ba năm khổ sai hành hạ, anh vẫn bình an trở về. Bây giờ đây, bước chân lên đến xứ sở tự do chưa đầy năm, chưa kịp hít thở cảm nhận hương vị ngọt ngào của tự do thì anh trở về với cát bụi! Anh đã ra đi trong âm thầm bình thản vì ít ra anh cũng đã thực hiện được một điều tâm nguyện đưa cả gia đình tới nơi mong muốn. Anh đã làm được những điều tốt đẹp cho tương lai của gia đình anh mà trong thời gian quân ngũ, cuộc chiến tàn khốc đã không cho phép anh rảnh rang suy nghĩ đến nó. Anh là một trong những anh hùng quân đội thực sự làm tôi kính phục. Can trường, bình dị, thẳng thắn là đức tính của anh. Thời gian rồi sẽ xóa mờ những hình ảnh hào hùng của anh trong lòng những người lính từng chiến đấu bên anh. Nhưng thực ra điều ấy nào có nghĩa gì, khi chính bản thân anh bước vào, và bước ra cuộc chiến chỉ vì mong mỏi làm tròn trách nhiệm đối với Tổ quốc, dân tộc.

Hồi tưởng lại những ngày tháng 4 năm ấy. Hình ảnh những trận chiến không cân sức, giữa một lực lượng cộng quân được bổ sung từ những đại đơn vị hậu bị từ miền Bắc với các đơn vị của ta đã quá mệt mỏi qua những tháng ngày chiến đấu liên tục. Giữa một lực lượng được trang bị đầy đủ những chủng loại vũ khí hiện đại, đối đầu với một đạo quân bị gò bó, hạn chế trong việc tiêu thụ đạn dược, tiếp liệu. Giữa một bên có hậu phương ổn định với một bên hậu phương luôn bị khuấy đảo bằng đủ mọi thứ thù nghịch. Và quan trộng hơn hết, giữa một bên, người chiến binh quốc gia có thể mất tất cả mọi thứ thân yêu trên đời với một bên người lính cộng sản không có gì để mất ngoài trừ sự khốn nạn ma quái của đảng luôn đeo đẳng bên mình.

Người lính VNCH, đã có biết bao mỹ từ viết về họ trước khi cuộc chiến kết thúc. Và cũng có không biết bao điều vu khống, bôi lọ, thậm chí xuyên tạc trút vào họ sau cuộc chiến. Quái gỡ hơn nữa, đạo quân ấy còn bị bôi xoá khỏi cuộc chiến tranh khốc liệt hơn 20 năm ấy như thể nó đã không tham dự, không có mặt! Những sử gia cộng sản và Hoa Kỳ thường nói đến cuộc chiến Việt Nam là cuộc đối đầu giữa cộng sản và “đế quốc” Mỹ, chứ không phải là cuộc chiến tranh tự vệ giữa nước VNCH, và cuộc xâm lược ngu xuẩn cuả cộng sản miền Bắc.

Tháng Tư sẽ cứ mãi là một tháng Tư Đen cho đến bao giờ những người cộng sản nhận thức ra một điều thật đơn giản: Những ngày tháng ấy lẽ ra không bao giờ nên xẩy ra trong lịch sử dân tộc. Họ đã thực sự làm một quyết định sai khi họ cho rằng dân tộc, đất nước chỉ là phương tiện để họ bước tới một thứ thiên đường theo con đường không tưởng do một chủ thuyết ngoại lai áp đặt.
Đầu tháng Giêng năm nay, khi đọc tin tức trên Web, bất ngờ tôi nhận được thêm thông tin về cái chết của đại tá Thông. Anh đã tự sát trong trận đánh cuối cùng tại Bình Định và được bác sĩ Nguyễn công Trứ và Dương văn Anh chôn cất tại cột cờ quân y viện Quy Nhơn cùng 46 người khác. Trước đó, khi còn trong trại tù cộng sản tôi cũng đã được nghe đồn về anh đã tuẫn tiết nhưng là ở tại một nhà thờ nào đó trong thành phố Quy Nhơn khi cùng thuộc hạ rút về tử thủ tại nơi này. Cái chết của đại tá Thông làm tôi nhớ tới một niên trưởng khóa 16 khác tôi quen biết, trung tá TQLC Nguyễn xuân Phúc, Lữ đoàn trưởng lữ đoàn 369, hy sinh trên bãi biển Hội An trong lúc rút quân lên tàu. Tôi cũng nhớ tới cái chết của người bạn cùng khóa, Đại tá Võ Toàn, Trung đoàn trưởng trung đoàn 1/ SĐ1 BB. Toàn hy sinh cùng tướng Nguyễn văn Điềm, Tư lệnh Sư đoàn 1 BB, trên chuyến bay từ miền Trung về Nam.
Những bạn hữu thân quen, những niên trưởng đáng kính của tôi đã nằm xuống trên quê hương. Họ đã cống hiến cả sinh mạng của mình cho đất nước với niềm tin vào sứ mệnh bảo vệ đồng bào chống lại cái ác độc phi nhân. Thế hệ chúng tôi đã làm hết sức trong khả năng hữu hạn của mình. Chúng tôi vào quân ngũ với tấm lòng trong sáng và nhiệt tình của tuổi thanh xuân. Chúng tôi đã chiến đấu không ngại hy sinh gian khổ trong suốt cuộc chiến tranh. Đồng đội chúng tôi hoặc đã nằm lại trên quê hương trong các nấm mộ được chôn cất tử tế, bằng các nghi lễ trang nghiêm, hoặc bỏ thân xác trên các ghềnh đá ven rừng hốc suối, trên vùng núi non hiểm trở không được ai biết tới. Những người may mắn thoát ra khỏi cuộc chiến cũng mang biết bao vết thương vẫn mãi còn rỉ máu trong tâm hồn. Suy cho cùng, cũng may mắn còn những người sống sót trở về để viết về các anh cho những thế hệ tiếp nối biết tới những nét kiêu hùng cuả cha anh họ trong cuộc chiến đấu chống lại cái chủ nghĩa phi nhân của cộng sản trên đất nước mình.

Những ngông cuồng, huyễn tưởng của giới cầm quyền và cái đảng ma quái hiện nay ở trong nước chắc chắn sẽ chấm dứt trong một ngày nào đó. Dân tộc tôi sẽ hồi sinh để sống trong tự do và hạnh phúc. Lịch sử đất nước tôi sẽ được viết lại một cách công bằng và trung thực. Tấm gương hy sinh của các anh, những người con tuấn kiệt của dân tộc sẽ được biết đến và trân trọng.

Tôi vững tin như thế.

Tác Giả: Song Vũ  

Lễ Khánh Thành Cột Cờ VNCH đầu tiên ở tiểu bang Georgia 2013 & Kỷ Niệm Ngày Quân Lực VNCH 19/6




Xin chia sẻ cùng quý vị những hình ảnh hôm Lễ Khánh Thành Cột Cờ VNCH đầu tiên ở tiểu bang Georgia & Kỷ Niệm Ngày Quân Lực VNCH 19/6
https://www.facebook.com/media/set/?set=a.550585651666429.1073741840.100001449974214&type=1&l=46bfafbca6

Vào ngày 16 tháng 6 , 2013 vừa qua, Cộng Đồng Việt Nam Georgia đã cùng với các anh cựu chiến sĩ Mũ Đỏ làm Lễ Khánh Thành Cột Cờ VNCH đầu tiên tại tiểu bang Georgia và Kỷ Niệm ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 19/6, 2013 và Father's Day

Young Huynh
Vice President of Vietnamese Community of Georgia External Affairs












Thursday, July 25, 2013

Ông giáo sư dạy Sử


 
Tác giả - Vương Mộng Long
- Cựu học sinh Trung-Học Trần Quý Cáp, Hội-An. - Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 20 Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam. - Chức vụ sau cùng: Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân. - Từ 1975 tới 1988 tù “cải tạo” (13 năm) từ Nam ra Bắc. - Từ 1993 định cư tại Thành Phố Seattle, Tiểu Bang Washington, USA. - Năm 2003 tốt nghiệp University of Washington, cấp bằng B.A SocialSciences and Communication. - Gia cảnh hiện nay: Một vợ, 4 con, 1 cháu nội, 3 cháu ngoại.
Một chiều cuối năm 1998 tôi vào Trường University of Washington (UW) để đón đứa con gái áp út tan giờ học. Tình cờ tôi nhìn thấy một ông già đứng chờ xe bên bến Bus. Có lẽ ông cụ lớn tuổi hơn tôi nhiều. Hỏi chuyện, tôi mới hay, ông cụ đã qua tuổi bảy mươi, ăn tiền hưu, và đang học môn Truyền Thông (Communication) năm Senior. Tôi chợt nghĩ, thời gian này mình cũng không bận lắm, tại sao không trở lại trường? Ít ra cũng học thêm được vài điều hay. Thế là, hôm sau tôi nộp đơn xin trắc nghiệm trình độ Toán và Anh Văn để xếp lớp tại Shoreline Community College (Shoreline C. C.).
So với các trường đại học cộng đồng quanh vùng, thì học phí của Shoreline C. C. tương đối nhẹ.Thật là, không có gì diễn tả nổi niềm vui sướng tột cùng của tôi buổi đầu được cắp cặp trở lại trường làm học trò. Ba mươi lăm năm sau khi rời ghế nhà trường (1963) để tình nguyện vào quân ngũ, tôi đâu ngờ còn có ngày được ngồi dưới lớp nghe lời thầy giáo giảng? Xung quanh tôi là những người trẻ tuổi vừa qua bậc trung học.Tôi làm việc mười tiếng đồng hồ một ngày, bốn ngày một tuần lễ. Ngày, ngày, vừa tan sở, tôi lại vội lái xe tới lớp. Từ ấy, tôi làm việc full-time, đi học full-time, bận bịu vô cùng. Học kỳ (quater) đầu tiên, tôi ghi danh một lớp Toán, và hai lớp Anh Văn, mỗi lớp 5 tín chỉ (credit). Tôi miệt mài trong công việc suốt ngày, và chuyên cần trong học tập mỗi đêm. Vào mùa thi, tôi thức trắng hai, ba đêm là thường. Tôi ghi danh full-time để thúc đít thằng con út. Thằng nhỏ sợ ông bố theo kịp, nên phải gắng chạy có cờ để thoát lên đại học bốn năm.
Một niên khóa trôi qua. Con đường học hành của tôi đang có vẻ rộng mở thênh thang, thì bỗng dưng lại quẹo vào một khúc quanh, chỉ vì mùa Fall 2000 tôi đã ghi danh lớp History 274 “U.S. and Vietnam”. Tôi “lấy” lớp Sử Ký này với mục đích tìm hiểu xem cuộc chiến tranh vừa qua đã được các sử gia Mỹ ghi chép lại như thế nào? Từ đó, hy vọng biết được phần nào, nguyên nhân vì sao, giữa đường, Mỹ đã bỏ rơi Việt-Nam, vì sao chúng ta đã thua trận.
Người từ lâu độc quyền phụ trách lớp Sử 274 là thầy Dan. Trong thời gian dài cả chục năm qua, ông giáo kỳ cựu này đã đào tạo hàng ngàn môn sinh. Những học trò của ông sau khi chuyển tiếp lên trường đại học bốn năm, đã trở thành những Thạc Sĩ, Tiến Sĩ. Lâu lâu họ lại ghé về trường xưa, thăm ông thầy cũ.
Lớp “U.S. and Vietnam” mùa Fall 2000 có chừng hơn hai chục học viên, trong đó da trắng chiếm đa số. Có bốn học trò gốc Châu Á, gồm hai anh Tàu lục địa, một cậu bé H’Mong và tôi. Bạn đồng lớp với tôi còn nhỏ lắm. Họ trẻ hơn mấy đứa con tôi nhiều.
Tôi cứ tưởng rằng những tài liệu lịch sử mà các thầy giáo đem truyền bá, phải nằm trong chương trình đã kiểm duyệt và cho phép của Bộ Giáo-Dục Hoa-Kỳ. Nhưng thực tế không phải vậy. Nền giáo dục của Mỹ đã đi vào tự trị từ lâu. Thầy giáo có toàn quyền lèo lái, hướng dẫn con thuyền học vấn chở học trò mình tới bất kỳ bến bờ nào mà thày đã chọn. Thầy giáo chỉ định sách giáo khoa nào thầy sẽ dạy để chúng tôi mua. Thầy phổ biến những tài liệu nào mà thầy ưng ý.Trong hai phần ba thời gian đầu của học kỳ Fall 2000, mỗi khi nói tới phong trào Việt-Minh, ông giáo sư dạy Sử không ngớt ca tụng HCM như một lãnh tụ tài ba, và vô cùng sáng suốt đã khôn khéo hướng dẫn dân tộc Việt -Nam tới chiến thắng thoát ách đô hộ của Đế-Quốc Pháp.
Thầy khẳng định rằng, chính phủ Hoa-Kỳ là nguyên nhân cuộc chiến tranh Đông-Dưong lần thứ hai (1954-1975). Vì theo lời thầy, thì HCM đã năm lần gửi mật thư cho Tổng Thống Harry Truman để xin thần phục và hợp tác, nhưng Tổng Thống Harry Truman đã từ chối. Thầy cho rằng người Mỹ đã lầm lẫn trợ giúp quân Pháp trở lại tái chiếm Đông-Dương trong khi cao trào dân chủ, đấu tranh giành độc lập đang lan tràn trên toàn thế giới, và chủ nghĩa thực dân đã lỗi thời.
Chúng tôi đã được cho xem những đoạn phim cũ về trận Điện-Biên Phủ, về Hiệp- Định Geneve, và về cuộc di cư năm 1954. Với những trận có âm vang quốc tế như Plei-Me, Khe- Sanh, Kontum, Bình-Long, Long-Khánh vân vân… chúng tôi chỉ được thấy những cảnh thương vong của quân đội Đồng-Minh và Việt-Nam-Cộng-Hòa. Trận Mậu-Thân, chỉ là cảnh …nhà cháy, dân chạy loạn. Tất cả những “tư liệu” này đều có thực, nhưng thầy Dan chỉ trưng bày những phần có lợi cho Việt-Cộng. Tôi chưa nghe được từ miệng thầy một lời nói tốt nào cho phía Việt-Nam Cộng-Hòa. Thầy mô tả Quân- Lực Việt-Nam Cộng-Hòa như một đội quân kém cỏi về cả tổ chức lẫn khả năng tác chiến. Với thầy Dan, chiến tranh Việt-Nam chỉ là một gánh nặng cho ngân sách Quốc- Phòng Hoa-Kỳ, một sự phí phạm công quỹ. Đã có đôi lần tôi dơ tay nêu ý kiến bênh vực quân đội ta, chính quyền ta, thì ông chỉ cười, chỉ tay vào quyển Sử dày cộm,
“Book said!”
Cứ cái điệp khúc “Sách dạy!” đó, ông thầy phản chiến đã lịch sự gián tiếp nhắc nhở cho tôi hay rằng, tôi là một học trò, còn ông là một vị giáo sư nói có sách, mách có chứng.
Thầy hùng hồn thuật lại những lần thầy tham gia biểu tình chống chiến tranh thời 1960s và nặng lời đả kích lệnh động viên ngày đó, đã đưa hàng trăm ngàn thanh niên Hoa-Kỳ vào chỗ chết.
Kết quả hai lần khảo hạch giữa học kỳ (Mid-Term) tôi đều lãnh điểm (F) bởi vì tôi chỉ làm trót lọt phần A, B, C khoanh, còn về bài tiểu luận (essay) thì tôi bị loại thẳng tay.
Cả hai bài đều lãnh điểm KHÔNG (0) chỉ vì tôi đã viết không hợp ý ông thày. Ngặt một điều là, lớp History 274 này bị tính điểm đem lên trường đại học bốn năm. Bị đánh rớt lớp này thì giấc mơ chuyển tiếp lên University of Washington của tôi sẽ thành mây khói.
Tôi theo học lớp này đúng vào lúc nhà trường đang sôi sục với cuộc vận động bầu cử Tổng Thống. Ông thầy dạy Sử không phải là người độc nhất có ác cảm với chiến tranh, mà Tiểu-Bang Washington tôi đang cư ngụ cũng là thành trì của Đảng Dân-Chủ. Tâm sự này kiếm cả trường chắc cũng chẳng có ai thông cảm!
Thời gian này lòng tôi thật muộn phiền. Tôi tự trách rằng, mùa Fall 2000 có thiếu gì lớp tương đương với History 274 mà sao tôi lại nộp mạng vào cái lớp chết tiệt này? Đúng là bỏ tiền ra ghi danh để ngồi nghe người ta chửi mình, chửi quân đội mình. Càng nghĩ tôi càng thấy tức! Thằng con trai thấy ông bố rầu rầu bèn lân la hỏi chuyện. Khi hiểu nguồn cơn nỗi buồn của tôi, nó mới cho tôi hay, năm ngoái nó cũng ghi danh học lớp này, và đã bị một “vố” đau. Để thoát thân, từ bài thi thứ nhì nó phải viết theo ý ông giáo. Vất vả lắm nó mới kiếm được đủ điểm.
Sau ngày có kết quả khảo hạch kỳ thứ nhì, tôi bỏ công xuống thư viện nghiên cứu, sao chép những tài liệu sử liên quan tới chiến tranh Việt-Nam. Tôi không màng đến vấn đề chuyển tiếp lên University of Washington nữa. Tôi chờ, nếu có cơ hội là tôi sẽ “choảng nhau” với ông giáo phản chiến này một trận, rồi muốn ra sao thì ra.Tôi lục lạo kệ sách loại chọn lọc (preference) và tìm được một quyển Sử-Ký, trong đó, chứa đựng nhiều tài liệu ghi chép rõ ràng những thành quả mà Việt-Nam Cộng-Hòa đã thực hiện được. Trong số những tài liệu quý giá đó, có cả một bài đề cập tới đơn vị tôi, Liên Đoàn 2 Biệt-Động-Quân. Tôi vui mừng và cẩn thận photo copy những c thu nhận được để dùng làm bằng chứng khi cãi lý với ông giáo sư dạy Sử. Tôi cũng tận dụng thời gian rảnh cuối tuần để sắp xếp cho có thứ tự những điều cần tranh luận. Tôi ghi sẵn những câu phê bình, những câu chất vấn thẳng thắn với thầy Dan về cung cách giáo dục học trò của ông, và về những tài liệu mà ông đã dùng để trợ huấn.Buổi học áp chót của mùa Fall chúng tôi có một giờ đầu thi A, B, C khoanh. Sau đó thày giáo phát đề bài làm ở nhà. Thời gian còn lại, thày sẽ giảng gợi ý cho bài tiểu luận. Bài tiểu luận sẽ phải giao nộp vào đầu giờ buổi học cuối cùng.Vừa nghe chuông giải lao, tôi tiến tới bàn ông giáo Sử. Dù trong bụng đã chuẩn bị sẵn một mớ ngôn từ đao to búa lớn cho một cuộc đấu khẩu sống mái, nhưng tôi vẫn dằn lòng, nhỏ nhẹ,
- Thưa giáo sư. Xin giáo sư vui lòng cho phép tôi được trình bày với ông đôi điều liên quan tới sự giảng dạy của ông trong thời gian vừa qua. Tôi có thể làm phiền ông vài phút được không?
Thầy Dan niềm nở, - Dĩ nhiên là được. Ông có điều gì cần cứ nói.
Thấy câu chuyện đã mở đầu trót lọt, tôi mạnh miệng, - Thưa giáo sư, tôi là một người Việt-Nam tị nạn. Tôi là một cựu sĩ quan của Quân-Đội Việt-Nam Cộng-Hòa. Tôi còn nhớ trong bài giảng đầu tiên, thầy có nhắc đi, nhắc lại rằng, phi vụ đầu tiên của pháo đài bay B 52 trên Cao Nguyên Việt-Nam là vụ oanh tạc Thung Lũng Ia-Drang.Thầy có biết không? Cũng vào ngày hôm đó, tôi đang tập dượt lễ mãn khóa sĩ quan Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam. Và mười năm sau, trước khi tàn cuộc chiến, vùng đất mà tôi chịu trách nhiệm trấn giữ cũng bao gổm cả cái Thung Lũng Ia-Drang đó.
Thầy chỉ biết tới những trận đụng độ đẫm máu trong thung lũng Ia-Drang qua báo chí, truyền thanh, và truyền hình.Còn tôi là người đã lặn lội mười năm ở đó, đã nhiều lần bị thương đổ máu ở đó, đã rơi lệ vuốt mắt cho nhiều đồng đội nằm xuống ở đó. Trong số những người nằm xuống ấy, không thiếu những thanh niên Mỹ đồng trang lứa với thầy. Nơi đó chúng tôi chiến đấu quên mình từng ngày, vì nền độc lập của đất nước tôi, và vì quyền lợi của nước Mỹ.Thầy chưa từng khoác áo nhà binh, chưa một lần có mặt trên chiến trường. Suốt đời thầy không hiểu nổi thế nào là niềm kiêu hãnh của một người lính chiến, thế nào là lòng khát khao chiến thắng, thế nào là tình huynh đệ chi binh.
Suốt đời thầy không hiểu được vì sao hơn hai chục thương binh què quặt của một đơn vị Biệt Động Quân Việt-Nam Cộng- Hòa phải mở đường máu rút lui mà vẫn cưu mang theo ba người lính Mỹ, trong đó có hai người bị trọng thương; và vì sao một đại tá Hoa-Kỳ đã đưa thân che chở cho một thương binh Việt-Nam để rồi ông bị mảnh đạn vỡ đầu.Mạng lưới truyền thông thiên Cộng khổng lồ của Hoa-Kỳ đã tiếp tay với bộ máy tuyên truyền của Cộng-Sản Quốc-Tế cố tình xuyên tạc, bóp méo tất cả những c liên quan tới nguyên nhân, diễn tiến, và hậu quả của cuộc Chiến-Tranh Việt-Nam. Từ đó, tên Việt-Cộng khát máu HCM đã được tô vẽ, đánh bóng thành một vị lãnh tụ đức độ anh minh.
Chính tên sát nhân này và đảng Cộng-Sản Việt-Nam đã giết oan không biết bao nhiêu đồng bào vô tội của tôi trong suốt thời gian ba mươi năm chiến tranh. Nằm trong số hàng trăm ngàn nạn nhân bị giết, tù đầy, thủ tiêu, cha tôi và chú tôi cũng bị chặt đầu trôi sông trong thời gian đó. Nếu chế độ Cộng-Sản là tốt đẹp, thì đã không có một triệu dân miền Bắc di cư vào Nam sau Hiệp-Định Geneve năm 1954, và sẽ chẳng có những cuộc vượt biên bi thảm của hàng triệu thuyền nhân trên biển bỏ quê hương sau khi Miền Nam rơi vào tay Cộng-Sản năm 1975. Thầy chỉ mới thấy hình bé gái Kim Phúc trần truồng, vừa khóc vừa chạy, thân mình phỏng cháy vì bom Napalm của quân Đồng-Minh đánh lầm vào nhà dân, mà thầy đã thấy xót xa, cho rằng quân Đồng-Minh tàn ác.
Nếu thầy ở vào vị trí của tôi, không hiểu thầy sẽ nghĩ sao? Ngày 18 tháng Tư năm 1974, sau khi tái chiếm Căn Cứ Hỏa-Lực 711, Pleiku, tôi đã tận mắt chứng kiến một cảnh dã man chưa từng thấy. Trong một căn hầm trú ẩn đầy ruồi nhặng, trên chiếc giường tre là cái xác trần truồng của một người vợ lính. Chị bị Việt-Cộng lột hết quần áo, bị hãm hiếp, rồi bị đâm chết bởi nhiều nhát lưỡi lê, ruột gan lòi lòng thòng. Trên nền đất, máu đọng thành vũng. Trong góc hầm là xác đứa con trai hai tuổi của nạn nhân. Cháu bé bị trói hai tay, hai chân bằng dây dù và cũng bị hàng chục nhát lưỡi lê đâm vào bụng, vào ngực. Hai người này vừa theo chuyến xe tiếp tế của đơn vị lên thăm chồng và cha của họ được vài ngày. Họ đã không kịp chạy khi Việt-Cộng tràn ngập căn cứ trưa 15 tháng Tư năm 1974.
Câu chuyện vừa tới đây thì hết giờ giải lao, học trò trở lại lớp. Ông giáo vỗ vai tôi, - Ông cứ ngồi đây, ta sẽ tiếp tục.
Rồi ông lớn tiếng cho phép lớp nghỉ sớm, để học trò có thời gian chuẩn bị bài thi viết. Chờ cho người học trò sau cùng ra khỏi cửa, thầy Dan nói nhỏ với tôi,
- Ông hãy tiếp tục câu chuyện của một nhân chứng sống. Tôi mong được nghe thêm. Tôi không ngần ngại, tiếp lời,
- Cám ơn giáo sư. Tôi chỉ nói những gì thấy tận mắt, nghe tận tai, và những gì xảy ra cho chính bản thân và gia đình tôi để thầy có một nhận định chính xác về cuộc chiến tranh Việt-Nam đã ảnh hưởng như thế nào đối với người dân Việt. Tôi tâm sự với thầy Dan rằng, tôi là một học trò tốt nghiệp trung học vào đúng thời điểm đất nước lâm nguy nên tôi đã tình nguyện vào quân ngũ để cứu nước. Tôi tóm lược cuộc đời chinh chiến của mình cho ông giáo nghe. Tôi thấy thầy Dan đặc biệt lưu tâm tới những chiến dịch xảy ra trên Tây-Nguyên, và ông có vẻ rất quen thuộc với những địa danh Ban-Mê-Thuột, Pleiku, Plei-Me, Đức-Cơ, Kontum. Nghe tôi nói ở Tây-Nguyên chiến trận, chết chóc xảy ra hàng ngày, ông vội hỏi,
“Mỗi lần ra trận, ông có sợ không?”
Tôi cứ tình thực trả lời, Sợ chứ! Vào chỗ chết, ai mà không sợ? Nhưng tinh thần trách nhiệm đã làm cho tôi quên cái sợ.Thấy ông giáo sư có vẻ muốn nghe truyện chiến trường, muốn hiểu tâm tư người đi trận ra sao, tôi đã không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của tôi trong trận Dak-Tô năm 1969. Cuối trận này tôi đã phải mở khói đỏ yêu cầu máy bay đánh ngay trên đầu mình để cùng chết với quân thù. Vào giờ phút tuyệt vọng nhứt của trận đánh đó, tôi đã nghĩ gì, tôi cũng thổ lộ cho ông giáo biết. Ông giáo sư đã từng nghe nói tới cái tên “Đường Mòn HCM” nhưng chưa bao giờ ông ngờ rằng đó là cả một hệ thống đường giao thông chằng chịt che dấu dưới rừng già dọc Trường-Sơn. Tôi đã chia sẻ với ông những cảm giác hồi hộp, căng thẳng của người có cái kinh nghiệm đi toán Viễn-Thám săn tin dọc biên giới Việt-Miên-Lào từ Khâm-Đức tới Bu-Prang vào những năm 1972-1973.
Ông cũng rất hứng thú khi nghe tôi thuyết trình về kỹ thuật bắn xe tank mà Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đã áp dụng trong trận Xuân-Lộc tháng Tư năm 1975. Trận Xuân-Lộc này ông có nghe qua, nhưng ông không ngờ, một trong những cấp chỉ huy trực tiếp của trận đánh lừng lẫy ấy đang ngồi trước mặt ông. Tôi không quên nói tới những lần dừng quân bên xóm làng quê nghèo nàn, nhận những bát nước chè xanh, những củ khoai luộc của đồng bào tôi đem ra mời mọc. Tình quân dân cá nước ấy đã là những liều thuốc bổ giúp tinh thần chúng tôi mạnh mẽ hơn khi đối mặt với quân thù.Tôi thuật lại cho thầy nghe, trong tình thế hoàn toàn tuyệt vọng, chúng tôi đã chiến đấu kiên cường như thế nào.
Và sau khi biết rằng chỉ trong vòng một tháng cuối cùng, chín mươi phần trăm của quân số hơn năm trăm người thuộc Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đã chết vì tổ quốc, thì ông giáo đã giơ hai tay lên trời, lắc đầu thốt ra hai tiếng,
“Trời ơi!”
Thầy Dan cũng muốn tìm hiểu xem, sau khi mất nước thì số phận của tôi và gần một triệu quân nhân, công chức chính quyền Việt-Nam Cộng-Hòa ra sao. Ông đã trố mắt ngạc nhiên khi biết ra rằng, từ sau tháng Tư năm 1975, khắp đất nước tôi, “Trại Cải Tạo” đã mọc lên như nấm. Cái tên “Re-Education Camp” mà ông đã nghe qua, trên thực tế chỉ là những trại tù khổ sai. Những “học viên” trong các trại đó sống không khác gì những con vật, quằn quại với cái đói. Họ bị ép buộc làm việc tới kiệt lực. Tinh thần bị khủng bố, căng thẳng liên miên bởi những buổi ngồi đồng học tập, phê bình, bầu bán. Tôi thú thật với ông giáo rằng, trong thời gian đó, tôi chỉ nghĩ tới tự do; làm sao để tìm lại được tự do, dù có chết cũng cam lòng. Ông giáo đã tỏ ra say mê theo dõi truyện hai lần tôi trốn trại thất bại, cùng những cực hình mà tôi phải gánh chịu. Tôi cũng không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của vợ tôi ngày đó, một nách bốn đứa con thơ dại, vất vả, tảo tần nuôi con, chờ chồng trong 13 năm tôi bị giam giữ, tù đầy.
Tôi cho ông giáo biết tôi là người sinh ra tại Miền Bắc Việt-Nam. Tháng 7 năm 1954 gia đình tôi đã cùng gần một triệu người khác di cư vào Nam để trốn lánh Cộng-Sản. Tôi cặn kẽ phân tích cho thầy rõ, sau Hiệp-Định Geneve năm đó, hai miền Nam, Bắc Việt-Nam đã thành hai quốc gia, độc lập và có chủ quyền, có biên giới. Chính HCM và đảng Cộng-Sản Việt-Nam đã chủ trương, phát động và điên rồ theo đuổi một cuộc chiến tranh tiến chiếm Miền Nam . Quân đội và nhân dân Việt-Nam Cộng-Hòa chỉ làm nhiệm vụ tự vệ. Quân Mỹ và Đồng-Minh vào Việt – Nam là để phụ giúp chúng tôi chống lại một cuộc xâm lược từ phương Bắc.
Chúng tôi thất trận không phải vì chúng tôi kém khả năng, thiếu tinh thần chiến đấu, mà vì người Mỹ đã phản bội, nửa đường rút quân, cắt viện trợ. Từ khi người Mỹ rút lui, chúng tôi bị bó chân bó tay, bụng đói mà vẫn phải chiến đấu. Trong khi đó, Miền Bắc lại tràn ngập lương thực, quân dụng, quân nhu, và vũ khí viện trợ từ khối Cộng. Thời gian khởi đầu chương trình Việt-Nam- Hóa chiến tranh, còn được cung ứng vũ khí, lương thực dồi dào, chúng tôi đã chứng tỏ khả năng có thể cáng đáng bất cứ nhiệm vụ nào của quân đội Đồng-Minh bàn giao lại.Để chứng minh điều này, tôi mở tờ copy từ quyển History của thư viện, trong đó có sơ đồ các cánh quân Việt-Nam Cộng-Hòa vượt biên tiến chiếm miền Bắc Cam-Bốt trong chiến dịch Bình Tây 1, 2, 3 cuối năm 1970 của Quân Đoàn II. Tôi chỉ cho ông cái dấu hiệu quân sự hình tam giác có chữ R ở giữa, cạnh trên có ba cọng râu, bên trái là con số 2,
- Đây! Thưa thầy, cuối năm 1970, tại vùng 2 Chiến Thuật, chúng tôi đã đánh đuổi quân Bắc Việt tới bờ đông của sông Mê-Kông trên đất Miên. Ngày đó tôi là người chỉ huy một đơn vị trực thuộc Liên-Đoàn 2 Biệt-Động-Quân. Tôi đã đánh chiếm thành phố Ba-Kev, và đóng quân tại nơi này một thời gian. Chúng tôi đã chứng tỏ rằng khả năng chiến đấu của chúng tôi đã hơn hẳn quân đội Bắc Việt. Nhưng những năm sau, viện trợ cắt giảm dần. Mặc dầu tinh thần của chúng tôi không suy giảm, nhưng chiến đấu trong cảnh thiếu thốn thường xuyên, chúng tôi vất vả lắm. Tôi xin đan cử ra đây một so sánh để thầy thấy rõ sự khác biệt.
Trước khi Mỹ rút, tháng 6 năm 1968, có một lần tôi đang dàn quân tiến chiếm một ngọn đồi thì Bộ Chỉ Huy Task Force South của Mỹ ở Đà -Lạt đã bắt tôi ngừng lại để chờ pháo binh và không quân yểm trợ. Tôi đã nhận được một phi tuần hai phi xuất F4C và sau đó là một hỏa tập tám trăm quả đạn đại bác 105 ly trên mục tiêu trước khi xung phong. Mục tiêu đó chỉ rộng bằng diện tích khuôn viên trường Shoreline C. C. này. Chỉ hơn một năm sau khi Mỹ rút, tháng 8 năm 1974, tiền đồn Plei-Me do tôi trấn giữ đã bị một lực lượng địch đông gấp chín lần vây hãm 34 ngày đêm. Plei-Me cũng chỉ rộng bằng trường Shoreline C.C. thôi. Vậy mà mỗi ngày chúng tôi đã hứng chịu từ một ngàn tới hai ngàn viên đạn pháo cối của địch. Để chống lại, ngoài hai khẩu 155 ly của quân bạn yểm trợ từ xa, tôi chỉ có hai khẩu đại bác 105 ly. Vì tình trạng khan hiếm, tôi chỉ được phép bắn theo cấp số đạn giới hạn là bốn viên cho mỗi khẩu súng một ngày. Chiến đấu trong tình trạng thiếu thốn như thế, chúng tôi vẫn chiến thắng. Thầy nghĩ sao về chuyện này?
Chúng tôi đã chiến đấu cho chính nghĩa như thế đấy, chúng tôi đã hy sinh như thế đấy, và chúng tôi đã bị bỏ rơi như thế đấy. Tôi cũng không hiểu vì sao người Mỹ phản chiến, trong đó có thầy, lại xuống đường tranh đấu, cổ vũ cho kẻ thù của chúng tôi, và ngược đãi chiến binh của chính nước Hoa-Kỳ? Thầy ơi! Sao thầy lại nỡ nhẫn tâm như thế! Thầy đã tiếp tay với kẻ thù, đâm sau lưng thân nhân và bạn bè đồng minh của thầy. Nhân dịp này, tôi cũng chuyển lại cho thầy nghe tâm sự của anh Bill, một bạn cựu quân nhân Mỹ trở về từ Việt-Nam năm 1973. Anh Bill hiện nay (2000) là Supervisor của hãng mà tôi đang làm việc. Đây là lời của anh ấy,
“Bạn có cảm thông nỗi đau đớn của chúng tôi ngày đó không? Hôm chúng tôi cặp bờ Everett , Washington, dân chúng Mỹ, kể cả những người thân, tiếp đón chúng tôi bằng cách dơ cao ngoắc ngoắc ngón tay giữa! Đi đâu chúng tôi cũng bị nhìn với đôi mắt khinh khi. Bao nhiêu ê chề nhục nhã đổ lên đầu người thua trận. Thua trận đâu phải lỗi của chúng tôi? Có bạn tôi đã buồn mà tự tử. Rồi tôi bị giải ngũ. Thời gian ấy kiếm được một việc làm là điều khó khăn trần ai. Hãng xưởng nào cũng không mặn mà với những hồ sơ xin việc của những cựu chiến binh. Cũng may, có người bạn học thời Mẫu Giáo đã giới thiệu tôi vào làm việc cho hãng này. Lương hướng thời ấy chỉ có 3 USD một giờ cũng đã khiến tôi mừng quá lắm rồi.”
Sau câu chuyện này, tôi chuyển sang phê bình cách giảng dạy của ông thầy, tôi nói thẳng với ông giáo sư rằng, bao năm nay ông đã bóp méo lịch sử của cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam và Bắc Việt-Nam, làm như thế ông đã phạm tội đối với lịch sử. Cách giảng dạy của ông đã gieo vào trí óc học trò những thành kiến sai lầm đối với Việt-Nam Cộng-Hòa, làm giảm giá trị sự trợ giúp của chính phủ và nhân dân Hoa-Kỳ đối với nước tôi.Cuối cùng, tôi hỏi ông giáo,
-Thầy còn nhớ, năm ngoái, có một cậu bé Việt-Nam, mặt mày sáng sủa, lông mày rậm, tóc hớt kiểu nhà binh theo học lớp Sử 274 này không?
- Nhớ chứ! Mỗi lớp chỉ có vài học trò Á Châu, dĩ nhiên là tôi nhớ!
- Cậu bé Việt-Nam đó chính là thằng con út của tôi! Năm ngoái, bài tiểu luận đầu của nó bị điểm KHÔNG (0) vì nó viết theo quan điểm của một người dân Miền Nam. Những bài sau nó phải đổi cách viết, để thầy cho điểm khá hơn. Tôi là cha nó; tôi là một trong những người chứng kiến, tham gia và trực tiếp gánh chịu hậu quả của cuộc chiến tranh vừa qua;tôi không thể làm như con tôi được. Tôi đã nói hết những đều cần nói với giáo sư, và tôi sẵn sàng chấp nhận hậu quả.
Ông thầy dạy Sử như bừng tỉnh cơn mơ,
- Tôi tin lời ông, vì chẳng có lý do gì để ông nói dối. Có điều là, từ đó tới nay, hơn hai mươi năm dài, kể từ ngày những gia đình Việt-Nam đầu tiên tới định cư ở Hoa-Kỳ, chưa ai nói cho tôi nghe những điều này. Có thể, người ta muốn quên đi quá khứ, hoặc là người ta không có can đảm nói ra. Tôi đã hiểu, và tôi phải cám ơn ông. Ông quả là một chiến binh thực thụ.
Nghe được những lời nói chân tình từ miệng ông giáo sư, lòng tôi cảm thấy ấm áp lạ lùng. Trước mắt tôi, ông đã thành một người bạn đồng minh, ông đưa bàn tay hộ pháp ra cho tôi bắt,
“Thưa người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!”
Đêm ấy trên đường về nhà, lòng tôi rộn ràng như thuở nào giữa sân vận động Pleiku, sau chiến thắng Plei-Me, tôi đã đứng trước một đoàn hùng binh, quần áo hoa rừng, nhận những vòng hoa rực rỡ, tai nghe bản nhạc “Bài Ca Chiến Thắng” do ban quân nhạc Quân-Đoàn II hòa tấu.
Ngày chấm dứt mùa Fall năm 2000 ông thầy dạy Sử tươi cười trao cho tôi bản tổng kết cuối khóa, trên đó điểm trung bình (GPA) lớp History 274 của tôi ghi 4 chấm (4.00).
Cuối mùa Spring 2001 tôi dự lễ cấp văn bằng tốt nghiệp A. A. nơi vận động trường có mái che của Shoreline Community College. Khán đài đông nghẹt thân nhân. Vợ tôi và bốn đứa con tôi cũng có mặt ngày hôm ấy. Khi người điều hành gọi tên tôi lên bục để nhận văn bằng, cả hội trường đều ngạc nhiên vì thấy nơi hàng ghế giữa của khu giáo sư có tiếng ai gào lên như tiếng sấm,
“Long! I’m proud of you!”
Đến lúc bà Hiệu Trưởng bắt tay tôi thì ông giáo Dan đứng dậy, bắc loa tay hướng về sân khấu, “My soldier! I’m loving you!”
Ông là một người cao lớn. Trong chiếc áo thụng đen, trông ông dềnh dàng như nhân vật chính trong phim “Người Dơi”.
Những người có mặt trong hội trường buổi ấy đều quay mặt nhìn về hướng ông giáo, ai cũng ngạc nhiên vì hành động phá lệ của một ông thầy xưa nay nổi tiếng là mô phạm. Thấy ông giáo Dan réo tên tôi ầm ầm, vợ con tôi và những khán giả ngồi trên khán đài cũng vỗ tay, reo hò, la hét theo. Hai năm sau, khi tốt nghiệp B.A. từ University of Washington, tôi về thăm và báo cho ông biết, ông vui lắm.
Từ đó cho tới khi tôi ngồi viết lại những giòng này (2011) hàng chục ngàn học trò đã tới, rồi giã từ Shoreline Community College. Và chắc chắn, hàng trăm lượt người trẻ tuổi đã đi qua lớp History 274. Mười một năm qua, tôi vẫn nhớ buổi tối năm nào, tôi với ông giáo sư dạy Sử đã ngồi tâm sự với nhau. Lời khen của ông, mà tôi quý như một tấm huy chương, vẫn còn văng vẳng,
“Thưa người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!”
Seattle tháng 7 năm 2011 Vương Mộng Long-K20

Wednesday, July 24, 2013

Chim Bay Về Biển


Xin phép chuyển đến các chiến hữu kính quý và những vị từng thương yêu  lính VNCH,
bài viết về một đồng đội đã luôn làm chúng tôi hãnh diện, quí mến.
=================================
 


Chim Bay Về Biển

(thay vòng hoa tiễn biệt Hải-Âu Phan Công Minh)

Một mai chim bỏ bay về biển

Ta đứng một mình ngó nhánh sông

Ta khóc nhìn theo giòng nước chảy

Nghe trăm ngọn sóng vỗ trong lòng

(Sương Mai)

  Buổi chiều, mùa hè Bắc Âu thường có những ngày mưa, ảm đạm. Tôi nhận được thư của bạn Dương văn Hiệp, giám đốc Đài Phát Thanh Nationwide Viet Radio (NVR) từ Hoa Thịnh Đốn, người em họ thương quí của Minh, báo tin Phan Công Minh vừa mới ra đi, trước đó chừng một tiếng đồng hồ. Lòng tôi chùng xuống, điều mất mát lớn lao ấy đã cho tôi cái cảm giác trống rỗng, mọi thứ chung quanh bỗng dưng đều trở thành vô nghĩa. Ngoài trời dường như gió đã ngưng thổi, một cơn mưa hạ vừa đổ xuống những hàng thông đứng lặng yên như chịu tang. Cơn mưa rào đến ào ào nhưng dứt sớm. Đứng trên bao lơn nhìn ra phía trước. Cả một vùng không gian tĩnh lặng. Trước mắt tôi chỉ còn một điểm cử động duy nhất: cánh chim. Cánh hải âu lẻ loi, thư thả, nhịp đôi cánh như hai mái chèo của con thuyền nhỏ trên dòng sông tĩnh mịch, rồi từ từ mất hút giữa không trung. Bất chợt, tôi hình dùng đến Phan Công Minh, một cánh chim Hải Âu (*) vừa trở về với biển.

  Đầu mùa đông năm ngoái, khi vừa sang Cali thăm mấy cô con gái và trốn cái lạnh Bắc Âu, nghe tin Minh bị ung thư gan, trong thời kỳ hóa trị, tôi gọi hỏi thăm. Minh sụt cân, chỉ còn khoảng 30 kg. Vậy mà vẫn vui cười sốt sắng:

  -Nếu dưới đó anh em gặp nhau, có gì vui, hú một tiếng em sẽ bay xuống ngay.

  Tôi cười :

  -Minh còn yếu, cần giữ gìn sức khỏe.

  Minh bình thản và lễ phép như bản tính ngày nào:

  -Em đã qua bao nhiêu năm lăn lộn ngoài chiến trường. Cái chết như đến bất cứ lúc nào. Sống được tới bây giờ là số mạng đã lớn lắm, nên em chẳng màn đến chuyện tử sinh.

  Chúng tôi, đám bạn bè cùng đơn vị thường xuyên gọi cho Minh, gởi cho Minh những bài thuốc dân gian về trị bệnh ung thư. Minh cho biết đã dùng lá đu đủ và thấy hiệu quả, nhưng lúc trồi lúc sụt. Có lúc yếu quá, Minh không dùng điện thoại được, nhưng  bảo cháu Mẫn, trưởng nam thương quí, gọi chúng tôi, cho biết tình hình. Khỏe lại một chút, Minh lại bắt đầu gởi email thăm hỏi, chuyển những tin tức về các cuộc đấu tranh của những người trẻ ở quê nhà, và tâm sự bao điều với anh em. Hai tuần sau lại im lặng. Một thứ im lặng đáng sợ, như ngày xưa, Minh dắt toán viễn thám nhảy vào  vùng địch. “Im lặng vô tuyến” là dấu hiệu địch đang ở rất gần, nguy hiểm.  Bỗng mới đây, cháu Mẫn gọi báo:

  -Ba cháu đã yếu lắm, chắc không còn nhiều thời gian. Các chú, bác sắp xếp có thể lên gặp ba cháu lần cuối cùng!

  Lúc nhận được tin này, vợ chồng tôi đang ở thăm hai người bạn tù tại thành phố Bruxelles, Vương Quốc Bỉ. Tôi điện thoại cho anh Ngô Văn Xuân, ông anh cả khả kính và hết lòng của đơn vị, cùng Mai Xuân Bê, người bạn thân cùng quê, cùng trường thời trung học và cùng đơn vị sau này, thúc dục đi thăm Minh. Tin tức được nhanh chóng chuyền đi đến rất nhiều anh em khác. Nhưng tất cả quyết định không đi nữa, vì Minh đã quá yếu và gia đình đang bận rộn chuẩn bị hậu sự cho Minh.  Sự có mặt của bạn bè anh em trong lúc này chỉ gây thêm phiền toái cho gia đình, vợ con Minh. Rồi cũng chỉ ba hôm sau, mọi sự đã kết thúc. Phan Công Minh đã thực sự nhắm mắt, sau khi nhắn nhủ với vợ con và nhắn gởi lời vĩnh biệt anh em, đồng đội cũ. Yêu cầu duy nhất của Minh là muốn bạn bè ở Cali gởi lên một lá cờ VNCH để vợ con phủ trên di thể và hỏa táng theo Minh.


  Sinh ra và lớn lên ở Phan Thiết. Trước khi bước chân vào quân trường Thủ Đức, Minh là một học sinh ưu tú của trường trung học Phan Bội Châu. Tốt nghiệp Khóa 27 Thủ Đức, Minh xin được về phục vụ tại Trung Đoàn 44BB, lúc ấy bản doanh đặt tại trại Lý Thường Kiệt Sông Mao, cách Phan Thiết khoảng 60 cây số về hướng Bắc.

Tình nguyện vào Đại Đội 44 Trinh Sát, vào thời kỳ đơn vị này đang nổi danh,  tạo nhiều chiến thắng vẻ vang, dưới sự chỉ huy của Trung úy Trần Công Lâm.

  Sau khi tốt nghiệp Khóa Viễn Thám tại TTHL/BĐQ Dục Mỹ, Minh về đơn vị nắm trung đội Viễn Thám. Với khả năng bén nhạy và tính gan dạ liều lĩnh, Minh tiếp tục tạo nhiều chiến công, và được cân nhắc lên làm Đại Đội Phó Tác chiến (khi ấy có Đại Đội Phó CTCT do Th/úy Nguyễn văn Lễ, tốt nghiệp Khóa 1/ĐH.CTCT đảm trách). Cùng với trung úy Trần Công Lâm, một đàn anh, xuất thân Khóa 18 Thủ Đức, một đại đội trưởng “ngoại hạng”, đại đội phó Phan Công Minh liên tục tạo thêm nhiều chiến thắng lẫy lừng. Chiến công của ĐĐ 44 Trinh Sát đã đưa Trung Đoàn 44 trở thành đơn vị xuất sắc nhất của Quân Đoàn II trong suốt mấy năm liền. Minh đựợc thăng cấp đặc cách và nhận rất nhiều huy chương tưởng thưởng.

  Đầu tháng 2/1972, toàn bộ Trung Đoàn di chuyển khẩn cấp lên An Khê để thay thế vị trí của Đơn vị  101 Không Kỵ Hoa Kỳ rút quân về nước, và giải toả một số căn cứ của Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn, dọc theo đèo An Khê trên QL 19, bị Cộng quân tạo nhiều vòng đai vây hảm.

  Đến nơi đúng vào chiều mồng một Tết, Đại Đội 44 Trinh Sát được chỉ định làm lực lượng chính đánh vào sau lưng địch. Chỉ trong hai hôm , tất cả các căn cứ Đại Hàn đều được giải tỏa. Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng TMT, và Đại Tướng Tư Lệnh Lực Lượng Đồng Minh Đại Hàn tại VN bay lên An Khê để mừng chiến thắng và ngợi khen các đơn vị tham chiến, đặc biệt là Đại Đội 44 Trinh Sát.

  Ngày 24/4/72, căn cứ Tân Cảnh thất thủ khi Bộ Tư Lệnh của Sư Đoàn 22BB bị địch quân tràn ngập và vị Tư Lệnh, Đại Tá Lê Đức Đạt đã vùi thây nơi chiến địa. Ngày 13/5 toàn bộ Trung Đoàn 44BB có lênh di chuyển khẩn cấp lên phi trường Pleiku để được không vận lên Kontum và ngay sau đó đã liên tiếp tạo nhiểu chiến thắng lẫy lừng giữ vững được Kontum trong suốt mùa hè đỏ lửa. Trung Đoàn 44BB trở thành một trong những đơn vị thiện chiến nhất của QLVNCH trong năm 1972 khói lửa. (theo bản xếp hạng của Bộ TTM)

  Đại úy Trần Công Lâm được điều sang làm Tiểu Đoàn Trưởng TĐ3/44 , bàn giao Đại Đội 44 TS lại cho Trung úy Phan Công Minh, người đại đội phó mà anh rất tin tưởng quí mến. Với một chiến trường cam go, mà lực lượng địch gồm những Sư Đoàn Thép 320, Sư Đoàn 2 Sao Vàng, lúc nào cũng có nhiều ưu thế hơn ta từ quân số đến vũ khí, chiến xa, Đại Đội 44 TS dưới tài chỉ huy của Phan Công Minh đã chứng minh rất hùng hồn về khả năng của chính mình cũng như của đơn vị bách chiến bách thắng này.

  Đặc biệt,  Minh đã chỉ huy Đại Đội đánh một trận thần tốc, chỉ bằng lựu đạn và cận chiến, giải cứu cho một đơn vị BĐQ /BP bị vây trên đỉnh núi ChuPao. Minh bị thương nhưng vẫn tiếp tục điều quân, vừa phá vòng vây cứu nguy cho đơn vị bạn, vừa diệt những cái chốt cuối cùng, khai thông QL 14, để lực lượng chiến xa của Lữ Đoàn II KB lên tăng cường cho mặt trận và hộ tống đoàn xe tiếp tế, lần đầu đến Kontum kể từ khi cuộc chiến khởi đầu. Tướng Trần văn Hai, nguyên Chỉ huy trưởng BĐQ, lúc ấy là TLP/ QĐII đã đến QYV Pleiku ôm lấy người đại đội trưởng trẻ tuổi tài ba gan dạ Phan Công Minh ngay khi vừa mới được tản thương về, và gắn lon đại úy cùng anh dũng bội tinh với nhành dương liễu cho Minh tại đây. Lúc ấy Minh vừa tròn 25 tuổi.

  Sau khi xuất viện, Minh được điều động về làm Tiểu Đoàn Phó 3/44 cho Trần Công Lâm. Hai anh em từng sống chết bên nhau ở ĐĐ44TS bây giờ gặp lại nhau ở cấp chỉ huy của một tiểu đoàn thiện chiến. Nhưng “trong chinh chiến có mấy người trở lại”, tháng 12/1973, người “hùng” vang danh một thời Thiếu tá Trần Công Lâm đã anh dũng hy sinh trên đỉnh núi Ngok Wang đìu hiu gíó hú. Minh tạm thời XLTV Tiểu Đoàn. Hai tháng sau, Sư Đoàn bổ nhậm một vị thiếu tá từ trung đoàn khác sang làm tiểu đoàn trưởng, nhưng không bao lâu, anh ta bất ngờ được thuyên chuyển đi nơi khác, Tiểu Đoàn Phó Minh lại lên thay, Quyền Tiểu Đoàn Trưởng, tiếp tục chỉ huy đơn vị. Chiến trường ngày càng  ác liệt hơn sau khi Hiệp Định Paris vừa ký chưa ráo mực. Bọn CS tráo trở ngang nhiên vi phạm trước sự bất lực của Hoa Kỳ và các quốc gia ký tên trong bản hiệp định bất công, ngu xuẩn ấy. Minh bị thương trong một trận chiến đẫm máu. Sau khi xuất viện, được người anh cả trung đoàn, Trung tá Ngô văn Xuân, người luôn thương yêu quí mến Minh, kéo về làm Trưởng Ban 3 (Hành Quân) cho Trung Đoàn.

  Giữa tháng 3/75, thành phố Ban Mê Thuột, mất vào tay giặc. Trung Đoàn từ Hàm Rồng-Pleiku, lần lượt được trực thăng vận khẩn cấp xuống  Phước An trong kế hoạch tái chiếm thành phố này. Minh theo BCH Trung Đoàn trong đợt đầu tiên. Khi cuộc đổ quân chưa hoàn tất thì Pleiku và Kontum có lệnh di tản. Hơn một nửa đơn vị còn kẹt lại ở Pleiku phải triệt thoái theo con đường “tử lộ” 7.B. Hai tiểu đoàn gần như bị xóa sổ và hai người bạn tiểu đoàn trưởng đã tự sát không để lọt vào tay giặc.

  Khi đại quân với cả trung đoàn xe tăng của Cộng quân từ Ban Mê Thuột tràn xuống Phước An theo QL 21, ông Tân Tư Lệnh SĐ23BB mới nhận chức, vừa cất cánh rời khỏi ngọn đồi Chu Cúc sau một cái bắt tay đầu tiên vội vã với vị Trung Đoàn Trưởng, Cộng quân bao vây và tràn ngập nơi BCH Trung Đoàn được bảo vệ chỉ một đại đội trinh sát đang tạm đóng quân chờ lệnh. Với khả năng và kinh nghiệm điều quân cùng sự gan dạ can trường trong bao nhiêu năm binh nghiệp, vị Trung Đoàn trưởng và anh Trưởng Ban 3 chỉ còn khả năng tìm lối thoát, bảo toàn cho binh sĩ dưới quyền.  
  Đó cũng là thời điểm kết thúc oan nghiệt cho số phận một Trung Đoàn BB thiện chiến và của hai vị Sĩ quan chỉ huy bách chiến bách thắng, chưa hề nghĩ có một ngày phải đành buông súng.

  Sang Mỹ theo diện HO, Minh cùng gia đình sống âm thầm ở một thành phố ngoại ô New York, nơi có bãi biển rất đẹp, để mỗi chiều Minh ngồi nhìn ra biến khơi mà tưởng nhớ tới quê nhà, hình dung tới bao nhiêu khuôn mặt anh em đống đội cũ, kẻ chết, người sống, đang trôi dạt muôn phương, nhưng tất cả đều đã từng cùng Minh anh dũng xông pha chiến trận, từng vui đùa yêu thương trên nỗi chết. Tất cả cũng như Minh, từng có một thời sống rất đáng sống. Minh từng ước ao trở thành cánh chim Hải Âu, bay ra biển khơi tìm về các chiến trường xưa, nghe lại tiếng hò reo chiến thắng của những anh em đồng đội cũ.

  Mỗi lần có tin bạn bè ở xa tới, gặp mặt nhau ở một nơi nào đó trên nước Mỹ, là Minh đều có mặt. Vẫn trầm ngâm, ít nói, uống rượu không biết say, và luôn kính trên nhường dưới, biết anh biết em như thuở còn trong lính.

  Sang Mỹ, Minh làm hai job, thời gian còn lại chưa đủ cho một cơn say, nhiều đêm thức trắng như thuở ngồi trong rừng suốt đêm chờ địch. Lo lắng, sắp xếp cho vợ con có đời sống, học hành ổn định xong, cũng là lúc Minh phải chiến đấu với căn bệnh ung thư quái ác. Và vẫn sống vui vẻ thanh thản cho đến giờ phút từ biệt thế gian này.

  Trước khi nhắm mắt, Minh đã cố gắng nở một nụ cười, khi nghĩ là mình sắp trở về chiến trường xưa, gặp lại bao nhiếu bạn bè đồng đội đã hy sinh trong những năm tháng bên nhau cùng chiến đấu, và chưa hề chiến bại.

  Từ đây, đám bạn bè còn lại, mỗi lần gặp nhau, dù rượu XO cũng sẽ trở nên nhạt thếch và những nụ cười sẽ không tròn, bởi thiếu Phan Công Minh, một đồng đội, một người bạn, một người anh em mà hai chữ yêu thương , ngưỡng mộ, dường như vẫn chưa đủ để diễn đạt được hết lòng mình.



  Tạm biệt, và hẹn gặp Minh ở một nơi an bình vĩnh cửu. Không còn có chiến trường, tiếng súng, và không có hận thù giữa những con người.

Phạm Tín An Ninh


London 21/7/2013

(*) "Hải-Âu" là danh hiệu của đơn vị (TRĐ. 44BB)