Tuesday, January 14, 2014

Toán Biệt Hải Ðổ Bộ Lên Ðảo Hoàng Sa / Trong Cuộc Hải Chiến Ngày 19-1-1974



Ðể tưởng nhớ Biệt Hải Nguyễn Văn Vượng và các Anh Linh Chiến Sĩ VNCH đã tử trận trong cuộc hải chiến Hoàng Sa.

Cuộc hải chiến Hoàng Sa đến nay đã trên 36 năm. Với thời gian và tuổi tác có khi người viết đã không còn nhớ hết được tất cả sự việc xảy ra lúc đó. Kính mong quí Hạm Trưởng và những người tham dự sẵn lòng bỏ qua. Ðồng thời xin được bổ sung những điều còn thiếu sót trong bài viết.

Phần I – Tường thuật của Biệt Hải Nguyễn Châu


Sau khi chương trình Việt Nam hóa chiến tranh được thành hình thì Trung Ðội Dân Sự Chiến Ðấu đóng ở trên đồi Hoa Sim được giải tán. Trung Ðội này trước đây chuyên lo phụ trách về vấn đề phòng thủ an ninh những nơi như Bộ Chỉ Huy Sở Phòng Vệ Duyên Hải (SPVDH/NKT/BTTM), Căn Cứ Trần Hưng Ðạo của Lực Lượng Hải Tuần và Trại 9 của Lực Lượng Biệt Hải (còn gọi là Blackrock).  Ðồi Hoa Sim sau đó được chuyển giao cho các toán Biệt Hải, còn Trại 9 của Biệt Hải ở Sơn Trà thì được Bộ Chỉ Huy Biệt Hải bàn giao lại cho các Chiến Ðoàn Công Tác, thuộc Nha Kỹ Thuật/BTTM trú đóng.

Từ ngã ba Tiên Sa (Ðà Nẵng) đi ra, vừa qua khỏi trạm gác Ðài Kiểm Báo Không quân (còn gọi là Cầu Trắng) là trông thấy căn cứ Ðồi Hoa Sim, được đặt trên một mỏm núi khá thấp, nằm về bên phải và cách Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải của Phó Ðề Ðốc Hồ Văn Kỳ Thoại một con đuờng. Trước đây, Phó Ðề Ðốc Thoại đã từng là vị Chỉ Huy Trưởng của Sở Phòng Vệ Duyên Hải khi còn ở cấp bậc Trung Tá. Trái ngược với một số tin tức bên ngoài đơn vị cho rằng Lực Lượng Biệt Hải (LLBH) đã được giải thể khi Hoa Kỳ rút quân về nước năm 1972. Thực tế đã cho chúng ta thấy rằng sau khi được dời về trú đóng trên Ðồi Hoa Sim, các công tác hoạt động của Lực Lượng Biệt Hải vẫn còn tiếp tục và trực thuộc Sở Phòng Vệ Duyên Hải/Nha Kỹ Thuật cho đến ngày cuối cùng. Bằng chứng là sau ngày đi công tác Hoàng Sa về ngày 10 tháng 4 năm1974, tôi nhận được văn thư  của Sở mang số 0259/TTM/NKT/SPVDH/CTCT, tuyển chọn tôi (Nguyễn Châu) trong số 132 chiến sĩ xuất sắc nhất của QLVNCH trên toàn quốc để về thủ đô Sàigòn tham dự ngày Quân Lực 19 tháng 6 năm 1974.

Trở lại việc Biệt Hải tham chiến Hoàng Sa, trong thời gian tôi đang nghỉ phép vào một buổi sáng đẹp trời thì nhận được lệnh từ Bộ Chỉ Huy Biệt Hải nhắn, cho biết phải cấp tốc trở về trình diện đơn vị gấp để chuẩn bị đi công tác. Kinh nghiệm trước đây cho tôi biết mỗi lần được gọi khẩn cấp như thế này thường là những công tác hết sức khó khăn. Chẳng hạn như chuyến đi cứu các phi công Hoa Kỳ bị bắn rơi tại sông Cam Lộ, Quảng Trị – Ðông Hà vào tháng 4 năm 1972 trong Mùa Hè Ðỏ Lửa.  Lúc đó, toán của tôi chỉ có năm, sáu người nhưng đã phải len lỏi qua mặt mấy sư đoàn Bắc Việt đi vào địa điểm công tác để đưa được hai phi công Hoa Kỳ trở ra an toàn. Mãi cho đến nay vẫn còn hú vía! 

Sau khi nhận được tin lòng tôi cứ thấp thỏm suy nghĩ, không biết chuyện gì đã xẩy ra? Tôi vội mang quần áo, hôn phớt các con rồi từ giã bà xã lặng lẽ ra xe. Khi vào đến trại thì mới biết anh em trong toán đang chuẩn bị súng đạn xuống tàu để ra công tác Hoàng Sa trong vài giờ tới.

Chuyến đi này có 24 nhân viên Biệt Hải, trong số đó có Chỉ Huy Trưởng Biệt Hải là Thiếu Tá Hồ Xuân Thành, Trưởng Toán Nguyễn N. và tôi, Toán phó kiêm Tiền Sát viên Toán. Tất cả đều trang bị toàn súng AK-47.  Ngoài ra, mỗi người còn được phép mang thêm mấy khẩu M-72.  Ðược biết chiếc HQ-4 Trần Khánh Dư sẽ phụ trách chở toán Biệt Hải của chúng tôi tới địa điểm công tác.

Trong khi toán nhận lệnh đi Hoàng Sa thì tôi không có mặt ở trong trại.  Do đó, trước khi sắp sửa lên xe, tôi được Chỉ Huy Trưởng Hồ Xuân Tành. và Trưởng Toán Nguyễn N. cho biết sơ qua tình hình trên các hải đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa.  Ðược biết trên các hải đảo này hiện đang có một trung đội Ðịa Phương Quân và một số chuyên viên khí tượng của VNCH trú đóng.  Lần này, toán Biệt Hải nhận lệnh đổ bộ để lấy lại chủ quyền và kiểm soát các vị trí trên đảo, nơi đang có những đơn vị của Hải quân Trung Cộng chiếm giữ.

Chiếc Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư  HQ-4 do Hạm Trưởng Vũ Hữu San được lệnh khởi hành. Rời bến tàu Bộ Tư Lệnh Vùng I Duyên Hải vào sáng sớm hôm đó.  Ðến xế chiều thì vị trí của tầu không còn cách xa hải đảo Hoàng Sa là bao. Nghĩa là hiện chiếc HQ-4 đang nằm trong phạm vi của nhóm đảo Cam Tuyền và Quang Hòa.  Vào buổi chiều cùng ngày, 17 tháng Giêng năm 1974, Khu Trục Hạm HQ-4 đã bắt gặp hai giang thuyền của Hải Quân Trung Cộng đang giả dạng làm các ghe thuyền đánh cá. Trên đài chỉ huy, Hạm Trưởng liền cho tàu chạy đến gần để tìm cách kiểm soát.  Trong khi đó toán Biệt Hải cùng một số thủy thủ, tất cả đứng trên thành tàu chăm chú theo dõi đều nhận thấy hai giang thuyền Trung Cộng có nhiều điểm đáng nghi ngờ.  Ngay lúc đó, Ðài Chỉ Huy trên HQ-4 phóng loa kêu gọi hai giang thuyền này ngừng lại nhưng họ vẫn tỉnh khô và phớt lờ!  Trong ý tưởng của anh em Biệt Hải lúc ấy rất muốn được cấp trên cho phép nhảy xuống để làm phận sự lục soát các giang thuyền này, tương tự như những chuyến Loky soát ghe bắt người tại vịnh Bắc Việt trước đây.
Lúc này, chiếc HQ-4 và một chiếc giang thuyền của Trung Cộng đều đã chạy chậm lại, khoảng cách cuối cùng cách nhau không quá một thước! Tuy nhiên, lệnh của Hạm Trưởng không cho anh em nhảy xuống tầu Trung Cộng lục soát. Bất thình lình, một con sóng lớn ập đến khiến hai chiếc tàu húc mạnh vào nhau.  Chiếc tầu của Trung cộng thấp hơn nên lan can tầu của chúng bị hư hại khá nặng.  Do đó, các thủy thủ Trung Cộng dưới tàu nổi nóng, một số xắn cao tay áo, còn một số thì cởi hẳn áo ra vất xuống sàn tàu, ra dấu thách thức thủy thủ và toán Biệt Hải chúng tôi nhảy xuống đánh tay đôi với chúng. Ðứng trên tàu, toán Biệt Hải thấy vậy liền cởi áo và kêu gọi đám thủy thủy Trung Cộng ở dưới tầu trèo lên nếu chúng muốn đọ sức. Ðây là màn khẩu chiến đầu tiên trong buổi chiều hai bên gặp nhau! Sau đó, chiếc HQ-4 và giang thuyền Trung Cộng tiếp tục tìm cách chạy ghìm nhau một lúc lâu sau mới dứt.
 
        Hôm sau, ngày 18 tháng 1 năm 1974 lúc xế trưa, toán Biệt Hải gồm 24 người, gồm cả Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng Biệt Hải đi theo công tác. Tất cả súng đạn đầy đủ nhận lệnh xuống ba chiếc hobo chạy thẳng hướng vào đổ bộ lên đảo Cam Tuyền (Robert). Sau khi đi lục soát một vòng không thấy có quân Trung Cộng trú đóng và  toán Biệt Hải đã khám phá và tịch thu được một lá cờ của Trung cộng hơi cũ, cùng một tấm bảng chủ quyền viết bằng chữ Hán, nét mực còn mới cắm trên đảo trước khi toán Biệt Hải đổ bộ vào. 


Ngoài ra, không còn thấy dấu vết gì khác. Nơi này cây cối lưa thưa mọc cao không quá đầu người và một số cỏ gai nhọn chết khô lâu ngày, được gió biển cuốn tròn nằm lăn lóc trên mặt đất san hô và vô số phân chim! Tất cả những chi tiết trên đảo đã được vị Chỉ Huy Trưởng Biệt Hải thông báo ra cho Hạm Trưởng ngoài tầu biết.  Sau khi toán Biệt Hải đi ra và lên hết trên tầu rồi thì một số anh em Hải Quân lại được lệnh đổ bộ vào để canh giữ đảo Cam Tuyền. Chiếc HQ-4 được lệnh tiếp tục chạy sang hải phận của đảo Quang Hòa (Duncan).  Suốt đêm đó, trên tầu đã cho mở nhiều bản nhạc hùng ca, toàn lời hay ý đẹp như để nhắc nhở bổn phận của người lính Hải Quân/QLVNCH phải hết sức giữ gìn lãnh hải và hải đảo Hoàng Sa do tiền nhân để lại dù có phải hi sinh tánh mạng đã làm nức lòng người nghe, trong đó có toán Biệt Hải chúng tôi.

         Sáng sớm ngày 19 tháng giêng năm 1974, lúc 5 giờ 40 sáng, toán Biệt Hải tiếp tục nhận lệnh đổ bộ lên đảo Quang Hòa (Duncan). Toán Biệt Hải của chúng tôi đã vào được đến bờ nhưng trời còn tối nên tất cả được lệnh nằm trên bờ biển chờ trời sáng. Phần lính gác Trung Cộng có lẽ không ngờ toán Biệt Hải đổ quân ban đêm nên không để ý và không hay biết gì cả. Trước khi xuống thuyền vào đảo, chúng tôi được cấp trên cho biết trên đảo hiện đang có quân Trung Cộng trú đóng. 

Ðến nơi, thừa lúc trời còn tối, tôi liền dẫn vài anh em đi một vòng lục soát trong phạm vi của toán, để có gì khi đụng trận sẽ dễ dàng bảo vệ nhau hơn.  Lúc 7 giờ 30 sáng, mặt trời hướng đông bắt đầu ló dạng, tôi, trong nhiệm vụ tiền sát, đi đầu mon men dò dẫm đã phát giác ra được một giao thông hào do quân Trung cộng đào sẵn.  Tôi tiếp tục dẫn toán đi lên. Nhưng vừa đi được khoảng 60 hoặc 70 mét thì gặp quân của Trung cộng đang đứng chận đầu.  Hai bên thấy mặt nhau nhưng không bên nào nổ súng. Phía trước mặt, chúng tôi đã nhận diện được quân số của Trung Cộng khá đông. Tất cả chúng đều nằm dưới các hầm phòng thủ trong tư thế sẵn sàng tác chiến và chăm chú nhìn chúng tôi ra vẻ nghi ngờ, không biết chúng tôi là phe nào?  Lý do là vì cách trang phục của toán Biệt Hải hao hao giống bộ đội du kích Bắc Việt, kể cả vũ khí trang bị.

       Khi khoảng cách hai bên cách nhau không tới bốn mét thì lúc này có một số cấp chỉ huy và lính Trung Cộng rời hầm phòng thủ vừa đi ra, vừa nói bằng tiếng Hoa và đồng thời lấy tay ra dấu đuổi toán Biệt Hải chúng tôi rời khỏi phạm vi hải đảo.  Ý chúng muốn nói đảo Quang Hòa thuộc chủ quyền của Trung cộng, muốn chiếm thì đi sang đảo khác! 

Ngược lại, toán Biệt Hải của chúng tôi cũng ra dấu đáp trả, ý nói đảo này thuộc chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa quân Trung cộng phải rời khỏi đảo.  Một bên tiếng Tầu, một bên tiếng Việt, lúc đầu không ai hiểu ai.  Có lúc lời qua tiếng lại rất hăng, hai bên đã quơ tay đụng nhau.  Rất may, trong toán Biệt Hải có một người Việt gốc Hoa tên Trần A Lộc, nói và hiểu được tiếng Hoa sành sõi đứng ra thông dịch.  Nãy giờ, hai bên đứng khẩu chiến với nhau đã gần một tiếng.  Tình thế lúc bấy giờ hết sức căng thẳng, nhất là quân Trung Cộng nhờ sự thông dịch biết được toán Biệt Hải chúng tôi đang đứng trước mặt quyết tâm dành lại chủ quyền trên đảo của chúng.  Một số lính Trung Cộng liền có thái độ rất hung hăng, nhưng rất may cuộc chạm súng của đôi bên đã không xẩy ra. Nếu không, sự thiệt hại của Biệt Hải chắc chắn không phải là nhỏ. Thấy vậy, trưởng toán N. liền hội ý với vị Chỉ Huy Trưởng Biệt Hải và ông đã gọi ra tầu, báo cáo cho Hạm Trưởng để trình bày nội vụ.  Vị chỉ huy ngoài tầu ra lệnh cho toán Biệt Hải rút lui.  Trước khi đi, tôi đã tìm một nhánh cây khô buộc lá cờ Việt Nam Cộng Hòa vào rồi cắm xuống trước mặt bọn chúng.


Ít phút sau, toán Biệt Hải xuống thuyền đi ra được nửa chừng thì gặp toán Hải Kích Người Nhái của Trung úy Ðơn từ ngoài chạy vào.  Chúng tôi liền mở máy liên lạc và cho Trung úy Ðơn biết tình hình của quân Trung cộng ở trên bờ.  Sau khi toán Biệt Hải lên được tầu HQ-4 thì bỗng nhiên nghe tin toán Hải Kích của Trung Úy Ðơn vừa có hai người bị tử thương ở phía ngoài bờ biển khi thuyền vừa chạy vào nhưng chưa lên bờ.  Biết tình thế hiện tại thế nào cũng đánh nhau, tôi đề nghị Chỉ Huy Trưởng Biệt Hải lên đài chỉ huy trình với Hạm Trưởng: - Khi nào sẵn sàng khai hỏa thì cho HQ-4 chạy sát gần tầu của Trung Cộng, khoảng cách từ 50 m đến 100 m để toán Biệt Hải chúng tôi dùng M-72 bất ngờ triệt hạ các tàu của chúng. Theo ý tôi, đây là cơ hội bằng vàng để tiêu diệt bọn lính Trung Cộng. Nhưng ý kiến của tôi không được Hạm Trưởng chấp thuận. Ngoài ra, Hạm Trưởng còn cho biết khi nào có hải chiến thì sẽ dùng súng lớn và chạy cách xa tầu Trung cộng khoảng 300 mét.

Khoảng hơn mười giờ sáng thì lệnh khai hỏa bắt đầu.  Khẩu đại bác 125 ly của HQ-4 ở giữa boong, gần đầu mũi tầu chỉ bắn được 9, 10 qủa đạn thì bị trở ngại tác xạ. Ngay lúc đó, tôi bị một mảnh đạn văng trúng vào đầu, máu chẩy xuống che đầy hai mí mắt. Tôi đứng nấp sau khẩu súng lớn đã bị hư hại, lấy khăn lau sạch vết thương rồi tìm y tá nhờ băng bó. Sau đó trở lại vị trí các ổ súng lớn trợ giúp các pháo thủ.  Trong lúc hai bên đang giao tranh dữ dội, quay mặt lại, tôi thoáng thấy Biệt Hải Nguyễn Văn Vượng bị thương khá nặng, đang được anh em dìu vào phía trong.  Cuộc hải chiến kéo dài ba mươi phút sau mới chấm dứt. Chiếc HQ-4 được lệnh rời khỏi vùng chiến, quay mũi theo hướng Nam đi về Ðà Nẵng. Khi tầu đã đi được hơn mấy tiếng đồng hồ và đã khá xa quần đảo Hoàng Sa thì bỗng nhiên không hiểu vì một lý do gì, HQ-4 lại được lệnh phải trở lại vùng hải chiến với tàu của Trung Cộng lúc buổi sáng! 


Nghe tin này, một số anh em bị thương nặng tỏ vẻ xúc động. Một số anh em khác tuy bị thương nhưng còn khả năng tác chiến thì được lệnh sẵn sàng trở vào vị trí.  Toán Biệt Hải lúc ấy được đặt dưới quyền của Hạm Trưởng, đưa bổ sung vào các chỗ khiếm khuyết trên tầu tùy theo khả năng. Phần tôi tuy bị thương nhưng vẫn được giao xử dụng một cây đại liên 50. Sau khi nhận lệnh, chiếc HQ-4 quay đầu trở lại theo hướng đông bắc, trực chỉ quần đảo Hoàng Sa để tái nhập cuộc. Tuy nhiên sau khoảng hơn một tiếng hải hành, HQ-4 lại được lệnh quay trở về Ðà Nẵng lần thứ nhì. Toán Biệt Hải chúng tôi nghe loáng thoáng lý do đang có máy bay MIG và tầu chiến của Trung Cộng từ Hải Nam bay qua trợ chiến quân đội của chúng trên quần đảo Hoàng Sa.

Mãi sau này, sau khi đã định cư tại Hoa Kỳ, chúng tôi mới biết được nội vụ của lý do khiến chiếc HQ-4 phải đột ngột quay trở lại Ðà Nẵng lần thứ nhì như sau:  “Tùy viên Quân sự Hoa Kỳ tại Sàigòn (DAO) cho biết radar của Ðệ Thất Hạm Ðội ghi nhận một số phóng lôi hạm (guided missile frigate) và chiến đấu cơ MIG của Trung Cộng từ Hải Nam đang tiến về phía Hoàng Sa. Bộ Tư Lệnh Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa sau đó yêu cầu Ðệ Thất Hạm Ðội trợ giúp, nhưng không thành công. Các chiến hạm của Việt Nam Cộng Hòa được lệnh rút bỏ quần đảo Hoàng Sa (Kiem Do and Julie Kane, Counterpart, A South Vietnamese Naval Officer’s War – Ðất Mẹ)”.

Khi HQ-4 đang trên đường xuôi Nam thì Biệt Hải Nguyễn Văn Vượng từ trần.  Một phần vì vết thương anh qúa nặng, phần nữa vì trên tầu thiếu phương tiện và thuốc men cấp cứu nên anh đã vĩnh viễn ra đi, để lại người vợ cưới chưa được bao lâu và đứa con chưa tròn năm tuổi.  Cuộc hải chiến hào hùng của các chiến sĩ Hải Quân, các toán Hải Kích Người Nhái và toán Biệt Hải thuộc Sở Phòng Vệ Duyên Hải thuộc Nha Kỹ Thuật tại quần đảo Hoàng Sa ngày 19 tháng 1 năm 1974 đã nói lên ý chí và sự quyết tâm của người lính QLVNCH, quyết chiến đấu để giữ gìn lãnh hải do tiền nhân để lại, không bao giờ sợ hãi trước đoàn quân xâm lăng của Trung Cộng.
Phần II – Tường thuật của Biệt Hải Nguyễn Trâm
Buổi chiều ngày 18-1-1974, Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt HQ-16 do Hạm Trưởng Lê Văn Thự chở một toán Hải Kích, trong đó có một số Biệt Hải thuyên chuyển về đã có mặt trong vùng đảo Hoàng Sa, cùng phối hợp với HQ-4, HQ-5 và HQ-10 để thi hành nhiệm vụ bảo vệ các hải đảo. Ðêm đó, toán Hải Kích được sắp xếp nằm ngủ trong một góc phòng ăn của HQ-16. Hôm sau, vào lúc 4 giờ 30 sáng ngày 19 tháng 1 năm 1974, chúng tôi nghe nhiều tiếng chân thủy thủ trên tàu lần lượt bước vào phòng ăn. Tất cả đứng tập họp riêng tại một góc để nghe vị sĩ quan chỉ huy ân cần nhắc nhở anh em hiện diện trên tàu HQ-16:  “- Chúng ta phải quyết tâm chiến đấu nếu tình thế bắt buộc để bảo vệ lãnh hải của phần đất tổ quốc Việt Nam trước sự gây hấn của Hải quân Trung Cộng. Nếu chúng ta muốn được an bình trở về xum họp với gia đình thì mọi người phải hết sức bảo vệ con tàu bằng tất cả nhiệm vụ và tinh thần của mình.” Tiếng của sĩ quan chỉ huy vừa chấm dứt, ai nấy đều hô to “Quyết Chiến!”. Sau đó, mọi người được lệnh giải tán trở về nhiệm sở. Tuy chúng tôi đang nằm cách xa họ hai cái bàn ăn, nhưng vì đã nghe được từng cử chỉ, từng lời nói của vị sĩ quan chỉ huy nên linh cảm được những sự chẳng lành, đang nhen nhúm xẩy ra trong giờ phút định mệnh sắp tới.

Sáng sớm tinh sương hôm đó, toán Hải Kích được lệnh vào vị trí tác chiến. Tất cả mọi người đi lên và chia nhau nằm vào hai phía trái-phải trên trần tầu. Ngoài vũ khí cá nhân, mỗi người còn mang thêm một số súng M-72 đặt sẵn bên cạnh. Phía đằng sau phòng lái cách chiếc HQ-16 chừng 800 thước hoặc xa hơn một chút, chúng tôi nhìn thấy chiếc HQ-10 rất rõ, đang cùng với HQ-16 hỗ trợ lẫn nhau trong trường hợp khi xãy ra hữu sự.  Khoảng 6 giờ sáng, lợi dụng lúc mặt trời đang nhá nhem, một chiếc tầu Trung Cộng bất ngờ từ sau chạy tới, cố ý húc vào hông phải chiếc HQ-16 khá mạnh đến nỗi vị trí chỗ nằm của chúng tôi ở trên trần bị xê dịch.  Mọi người nhìn xuống dưới tầu Trung Cộng thấy một viên sĩ quan đang đứng theo thế nghỉ phía ngoài mặt phòng lái, hai tay để chắp sau lưng, bên hông đeo một lưỡi kiếm lủng lẳng.  Viên sĩ quan này cuối cùng bị ngã theo sức dội của thân tầu, và đồng thời chúng tôi nghe nhiều tiếng nói của Hải quân Trung Cộng từ dưới vọng lên nhưng không hiểu họ muốn nói gì?  Sau đó, chiếc tầu của Trung cộng xả hết tốc độ chạy nhanh tới phía trước tìm cách chận đầu chiếc HQ-16 lại. Nhìn cử chỉ đầy hống hách và xấc xược của chiếc tàu Hải quân Trung Cộng vừa rồi, tôi thầm nghĩ giá các chiến đỉnh PTF của Lực Lượng Hải Tuần chở các toán Biệt Hải ra Bắc nay còn mới tương xứng với tốc độ các tàu này của bọn chúng.

Theo bài viết “Người Ra Biển Bắc” của Hạm Trưởng Trần Ðỗ Cẩm thuộc Lực Lượng Hải Tuần thì:  “Khinh tốc đỉnh Nasty có vỏ bọc bằng ván ép nhiều lớp đặc biệt, trọng tấn 75 tấn, dài khoảng 80 bộ, rộng 24.7 bộ.  Tầm nước 3.7 bộ phía trước, 6.10 bộ chỗ chân vịt sau  lái, có thể chuyên chở 18 tấn hay 6,100 gallons dầu cặn.  Tầm hoạt động lên đến 1,000 hải lý với tốc độ tiết kiệm. Máy tầu thuộc loại Napier & Deltic của Anh, 18 xy-lanh.  Vận tốc đường trường khoảng 35 gút, vận tốc tác chiến tối đa có thể lên đến 50 gút khi tầu mang thêm nhiều nhiên liệu. Về vũ khí, Nasty được trang bị 1 súng cối 81 ly trực xạ gắn thêm đại liên 50 trước mũi. Sân sau lái đặt khẩu đại bác 40 ly, hai bên hông ngang đài chỉ huy gắn đại bác 20 ly.” Trong suốt thời gian hoạt động tại vùng duyên hải miền Bắc, các tầu của Hải Quân Bắc Việt ít khi nào dám xuất hiện đối đầu với các chiến đỉnh PTF  Lực Lương Hải Tuần thuộc SPVDH/NKT của VNCH.
       
Gần 8 giờ sáng ngày 19 tháng 1 năm 1974, toán Hải Kích trên chiếc HQ-16 được lệnh chuẩn bị để đổ bộ vào đảo Quang Hòa (Duncan). Chúng tôi sửa soạn xong một chiếc thuyền hobo thì được lệnh ngừng lại vì tin cho biết toán Hải Kích trên HQ-5 đổ bộ vô bờ trước đã có hai người bị tử thương gồm Trung Úy Ðơn là Trưởng Toán và Hải Kích Ðỗ Văn Long. Trong thời gian này HQ-16 và tầu của Trung Cộng hai bên vẫn chạy kềm nhau.  HQ-16 luôn bị các tầu của Trung Cộng tìm cách chận đầu ngăn cản. Lúc này, tất cả họng súng trên tàu của HQ-16 đều nhắm về hướng các tầu Trung Cộng. Trưa ngày 19 tháng 1 năm 1974, lúc hơn 10 giờ sáng, tất cả được lệnh khai hỏa.  Khẩu đại bác 125 ly ở đầu mũi chiếc HQ-16 nhắm bắn vào các tầu Trung Cộng.  Cùng lúc đó, hướng trước mũi tầu HQ-10 và phía sau phòng lái HQ-16 bên phải đã thấy một tầu của Trung Cộng bị trúng đạn.  Chiếc tầu này hiện đang quay lòng vòng trên biển. Ðồng thời, khói trên đài chỉ huy HQ-10 bắt đầu bốc lên và tầu đã ngưng chạy. Một lúc sau, trên mặt biển phía hông phải chiếc HQ-10, gần vị trí của tầu Trung Cộng bị bắn có nhiều cụm khói mầu vàng, đỏ, xanh từ mặt biển bốc lên kèm theo với tiếng người la ơi ới lẫn trong tiếng đạn của hai bên bắn nhau nổ chát chúa. Trên không, từng lằn đạn chíu chít qua lại đã bít kín một vùng biển, thỉnh thoảng phát ra nhiều tiếng hú như để cổ võ người lính Việt Nam Cộng Hòa trong giờ phút lịch sử hãy chiến đấu anh hùng để giữ gìn lãnh hải của tổ tiên mà Hải Quân Trung Cộng đang trắng trợn cướp đoạt.

Tất cả súng cá nhân của toán Hải Kích mang theo hiện không xử dụng được vì mục tiêu tầu địch quá xa. Trái lại, những khẩu đại pháo và các khẩu đại liên 50 lúc này mới thực sự có khả năng quyết định chiến trường. Không lâu sau, bên cạnh tôi đã có hai Hải Kích bị thương kể cả tôi nữa là ba, trong đó có một người bị khá nặng. Chúng tôi chia nhau dìu người bạn bị thương nặng từ trên trên tàu đi xuống về phía sau lái tránh đạn.  Ở đó, hiện đã có một số thủy thủ bị thương, vừa nằm vừa ngồi, tất cả đã được băng bó. Ðúng vào lúc này, tôi thấy chiếc HQ-16 nghiêng hẳn về một phía và máy bên trái đã bị hư, không còn chạy được nữa! Bình thường tầu đã chạy chậm, bây giờ hư thêm một máy nên càng chạy chậm hơn. Cùng lúc đó, dưới hầm máy tiếng viên Sĩ Quan Phòng Tai hối thúc anh em đặt máy bơm nước vào các vị trí để hút nước ra ngoài, đồng thời lấy một số nệm ngủ đem bít kín vào các lỗ đạn bắn xuyên thủng vào hông tàu.  Lúc này, thấy nước đã chẩy thấm ướt dưới thềm phòng ăn. Không bao lâu, tiếng chuyên viên từ dưới hầm hét lên ra vẻ vui mừng, báo cáo đã khống chế được các lỗ thủng không cho nước vào, và đồng thời các máy bơm nước cũng đang hoạt động tốt. Nghe tin này, ai nấy đều hết sức phấn khởi. Tất cả sự vui mừng đang hiện rõ trên từng khuôn mặt của các thương bệnh binh..

Cuối cùng, chiếc HQ-16 tuy còn một máy nhưng vẫn ung dung thoát ra khỏi vùng giao tranh.  Tuy nhiên, chiều hôm đó anh em chúng tôi rất đau lòng khi phải bỏ lại chiếc HQ-10 một mình trơ trọi trong vùng đảo Quang Hòa, Hoàng Sa ngày 19 tháng 1 năm 1974.  Sau một đêm lênh đênh trên biển, sáng ngày hôm sau, Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt HQ-16 đã cặp bến an toàn tại bến tầu của Bộ Tư Lệnh Vùng I Duyên Hải, Tiên Sa – Ðà Nẵng.

Tôi bỗng nhớ lại bài thơ hào hùng của danh tướng Lý Thường Kiệt Mà tôi đã thuộc lòng khi còn đi học:                                   
                    Nam quốc sơn hà nam đế cư,
             Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư,
             Nhữ hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
 Nhĩ đẳng hành khan thủ bại hư.
                                         
                                           nghĩa là:
     
       Sông núi nước Nam vua Nam ở
 Rành rành định phận tại sách trời,
       Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm ?
       Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
 

  Biệt Hải Nguyễn Châu và Nguyễn Trâm


No comments: