Bốn cuộc triệt thoái lịch sử của QLVNCH
Từ ngàn xưa cho đến thời
đại ngày nay, trong tất cả binh thư đông tây, những nhà quân sự mưu lược cùng
có một nhận định chung, những cuộc tấn công đánh địch, chiến thắng dễ dàng hơn
là cuộc triệt thoái, rút lui bảo toàn được lực lượng.
Trong các cuộc tiến đánh chiếm lĩnh mục tiêu, bất cứ cấp chỉ huy nào từ đơn vị
nhỏ đến đại đơn vị đều phải điều nghiên địa hình, nắm biết rõ sự tương quan lực
lượng giữa ta và địch nên khi đánh địch, giành phần thắng chắc chắn và dễ dàng
hơn. Vì vậy, trong Tôn Tử Binh Pháp đã có khái niệm chíến lược, chiến thuật như
là khuôn vàng thước ngọc mà các nhà quân sự nào cũng phải quan tâm, chiêm
nghiệm, đại ý: Biết người biết ta, trăm trận đánh trăm trận thắng. Biết người
không biết ta (hay ngược lại) với kết quả một thắng một bại. Còn không biết
người và cũng không biết ta, như kẻ mù khi điều quân, không hiểu rõ khả năng
của mình và khả năng của đối phương, chắc chắn trăm trận đánh trăm trận thua.
BỐN CUỘC TRIỆT THOÁI LỊCH SỬ KHI MIỀN NAM ĐANG HẤP
HỐI.
Từ đầu tháng 3 năm 1975, khi chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không được Quốc Hội
Hoa Kỳ chấp thuận viện trợ 300 triệu Mỹ kim và cũng từ ngày giờ đó, miền Nam
Việt Nam đang đi vào cảnh hấp hối, không còn cơ may xoay đổi được tình thế,
cuộc chiến đang hồi ngặt nghèo, bi thảm về phía VNCH.
Với Hiệp Định Balê quái ác ký ngày 21 tháng 1 năm 1973 cộng với cái gọi là Việt
Nam Hóa Chiến Tranh để Hoa Kỳ rút quân hay nói cách khác “Bỏ Của Chạy Lấy
Người” mà người Mỹ khoác cho danh từ hảo: rút quân trong danh dự. Như vậy, Hoa
Kỳ bỏ mặc chính phủ, dân chúng và QLVNCH từng là đồng minh thân thiết với họ
làm tiền đồn chống cộng cho thế giới tự do… đang bị khan kiệt tiếp liệu về quân
dụng, kinh tế… để đương đầu với CSBV được tập đòan cộng sản quốc tế trang bị,
tiếp tế đầy đủ và tiến quân công khai vào xâm chiếm miền Nam.
Cuộc tấn công của CSBV đánh chiếm Ban Mê Thuột vào ngày 10 tháng 3 năm 1975, mở
màn cho sự sụp đổ hoàn toàn cả Quân Khu II do Thiếu Tướng Phạm Văn Phú làm Tư
Lệnh.
Trong vòng 45 ngày từ ngày 16 tháng 3 đến ngày 29 tháng 4 năm 1975 với 4 cuộc
triệt thoái, rút quân lịch sử đầy bi thương đã đưa đẩy miền Nam Việt Nam vào
con đường bại vong về tay cộng sản Bắc Việt (CSBV), đánh dấu bằng ngày
30.4.1975.
1- Cuộc Triệt Thoái Thứ
Nhất: Thiếu Tướng Phạm Văn Phú
Sau cuộc họp lịch sử ngày
14.3.75 tại Cam Ranh với đầy đủ các vị đầu não ở trung ương: Tổng Thống, Thủ
Tướng, Tổng Tham Mưu Trưởng, Phụ Tá Quân Sự… Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tự
quyết định, chỉ thị Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đang là Tư Lệnh Quân Đoàn II và
Quân Khu II, rút bỏ Cao Nguyên gọi là tái phối trí lực lượng ở vùng duyên hải
để tương lai tái chiếm lại Ban Mê Thuột, Kontum và Pleiku… Kế hoạch cuộc triệt
thoái Kontum, Pleiku được soạn thảo một cách vội vàng.
Hai ngày sau cuộc họp tại Cam Ranh, ngày 16.3.1975, cuộc rút quân bắt đầu và chọn
đường liên tỉnh lộ số 7 nhỏ hẹp, nối Pleiku và Phú Yên, thay vì dùng quốc lộ 19
nối liền Pleiku với Qui Nhơn vì đã bị CSBV chiếm đóng nhiều nơi nên không thể
sử dụng ngay được. Cuộc triệt thoái này đã bị thất bại ngay từ đầu vì lệnh của
cấp trên và ngay cấp thừa hành cũng vấp phải sự yếu kém, không ước tính được
tình hình diễn tiến cuộc rút quân quy mô nhất từ trước đến lúc bấy giờ của nền
đệ nhất và đệ nhị Cộng Hòa miền Nam Việt Nam. Kế hoạch triệt thoái của Tướng
Phạm Văn Phú đã tan vỡ từ khi bị quân CSBV chận đánh ở đèo Tuna, phía đông Phú
Bổn.
Cả Quân Khu II bị thất thủ kéo theo Quân Khu I và sau đó cả miền Nam Việt
Nam. (Trách Nhiệm Làm Mất Miền Nam VN - Lữ Giang - Những Biến Cố Cần Được Ghi
Laị do Hội HO Sacramento xuất bản năm 1996). Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh
chiến trường Quân Khu II và là cấp chỉ huy trực tiếp trách nhiệm cuộc triệt
thoái bi thảm nhất trong 4 cuộc triệt thoái lịch sử trong chính thể Việt Nam
Cộng Hòa.
Sinh vi tướng, tử vi thần, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đã can đảm chọn cái chết
hào hùng, tuẫn tiết tại Sài Gòn khi đoàn quân xâm lược của CSBV tiến chiếm Thủ
Đô VNCH ngày 30.4.1975
2- Cuộc Triệt Thoái Thứ Hai: Trung Tướng Ngô
Quang Trưởng
Ngày 13.3.1975, trong một
cuộc họp tại Sài Gòn, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cho Trung Tướng Ngô Quang
Trưởng Tư Lệnh Quân Đoàn I & Quân Khu I biết sẽ rút hết SĐ Dù và SĐ Thủy
Quân Lục Chiến về làm lực lượng tổng trừ bị và ra lệnh cho Tướng Trưởng rút
quân về phòng thủ vùng duyên hải từ Huế tới Chu Lai.
Ngày 19.3.1975, QLVNCH rút khỏi Quảng Trị, về lập phòng tuyến ở Mỹ Chánh, giữa
Huế và Quảng Trị. Tướng Trưởng vào Sài Gòn gặp Tổng Thống Thiệu trình bày kế hoạch
giữ ba “đầu cầu” (enclaves) Huế, Đà Nẵng và Chu Lai, Tổng Thống Thiệu chấp
thuận (Trích trong bài Trách Nhiệm Làm Mất Miền Nam của Lữ Giang, sách dẫn
thượng). Nhưng, tối 20.3.1975, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lại ra lệnh rút thêm
Lữ Đoàn 2 Dù về Sài Gòn. Như vậy, QK1 chỉ còn Sư Đoàn TQLC đang tăng cường,
Tướng Trưởng bối rối trước sự việc quân CSBV càng ngày gây áp lực nặng nề và 4 SĐ
trừ bị CSBV đang sẵn sàng vượt sông Bến Hải kết hợp với các đơn vị của CSBV đã
có sẵn ở QK I, tiến chiếm toàn bộ QK I. Ngày 21.3.1975, CSBV đã cắt đứt QL1 ở
Truồi, giữa Huế và Đà Nẵng và đóng chốt ở đèo Phú Gia. Đường bộ giữa Huế và Đà
Nẵng đã bị quân CS cắt đứt.
Ngày 25.3.1975, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng quyết định cho các đơn vị TQLC rút
ra cửa Thuận An. Sư Đoàn 1 BB, BĐQ và Địa Phương Quân được lệnh xuống cửa Tư
Hiền đề tàu Hài Quân đến đón. Hai đoàn quân rút lui đã tan rả tại 2 cửa biển
này, về tới Đà Nẵng chỉ còn 1 phần 3 quân số. Sự rút lui của SĐ2 tương đối
thành công hơn vì chỉ phải di chuyển từ Chu Lai ra bờ biển để được tàu Hải Quân
chở ra Cú Lao Ré ở gần đó và SĐ 2 về tới Bình Tuy, quân số cùng chỉ còn một
nửa.
Ngày 27.3.1975, tình hình Đà Nẵng vô cùng nghiêm trọng, CSBV pháo kích liên tục
gây bất ổn làm cho nhân tâm thêm xao xuyến. Hơn nữa, dân chủng từ Quảng Trị,
Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quãng Tín… đổ về đây quá đông. Khi tình hình Đà
Nẵng không còn kiểm soát được, Tướng Trưởng ra lệnh bỏ Đà Nẵng. Ngày 28.3.1975,
tàu Hải Quân đến Đà Nẵng đón binh sĩ và dân chúng, ưu tiên cho TQLC, đưa vào
Nha Trang, Cam Ranh, Vũng Tàu…
Ngày 29.3.1975, Quân Khu I hoàn toàn thất thủ.
Trung Tướng Ngô Quang Trưởng là vị Tư Lệnh Chiến Trường QK I với chỉ thị, lệnh
lạc của trung ương tiền hậu bất nhất làm cho Tướng Quân lừng danh nhất trong
QLVNCH đành phải bó tay để cho cuộc “di tản chiến thuật” của QK I chìm trong
cảnh hổn loạn.
Sư triệt thoái nhiều lúc không kiểm soát được, không thành công và Tướng Trưởng
khi về tới Saìgòn bị khiển trách, làm kiểm điểm… Mặc dù vậy, các nhà quân sự
ngoại quốc, đặc biệt là nhiều tướng lãnh Hoa Kỳ thông cảm và chấp nhận sự việc
triệt thoái toàn bộ lực lượng của QK I dù có nhiều cảnh hỗn loạn trên đường rút
quân. Nhưng, họ luôn chiêm ngưỡng và kính trọng Tướng Quân Ngô Quang Trưởng, uy
danh của ông vẫn sừng sững oai hùng trên trang quân sử VNCH và chiếm trọn sự
kính mến của nhiều người và đặc biệt của các chiến sĩ gần gũi và trực tiếp dưới
quyền ông.
Ngày 22.1.2007, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đã “giã từ vũ khí” tại Tiểu Bang
Virginia, ông ra đi để lại bao sự tiếc thương cho nhiều người.
Trên tờ nhật báo Sacramento Bee, mục Metro, của Thủ Phủ Sacramento, phát hành
ngày chủ nhật 28.1.07 đã đăng lại nguyên văn một bài viết của tờ nhật báo có
thể nói là tờ báo uy tín và lớn nhất Hoa
Kỳ, Washington Post
về một vị Tướng tài giỏi của QLVNCH.
Từ năm 1968, trong trận tổng công kích và nổi dậy của VC vào dịp Tết Mậu Thân
và cuộc chiến đẫm máu nhất trong quân sử QLVNCH mùa hè lửa đỏ 1972, Tướng Quân
(từ của nhà văn Phan Nhật Nam) Ngô Quang Trưởng đã chứng tỏ khả năng điều binh
của nhà quân sự nổi danh nhất của QLVNCH mà Đại Tướng Creighton Abrams, Tư Lệnh
các lưc lượng Hoa Kỳ tham chiến ở Việt Nam, khẳng định khả năng cầm quân của
Tướng Trưởng sẽ chỉ huy được cả sư đoàn chính quy của Quân Lực Hoa Kỳ.
Đại Tướng Norman Schwarzkopf, một tướng tài của Quân Lực Hoa Mỹ, từng là Tư
Lệnh Chiến Trường Bão Táp Sa Mạc ở Iraq vào thập niên 90. Trong cuốn hồi ký
autobiography xuất bản 1992, Đại Tướng Schwarzkopf đã viết về Tướng Quân Ngô
Quang Trưởng: Mr. Truong was “the most brilliant tactical commander I’d ever
known”, Tướng Schwarzkopf khi tham chiến ở Việt Nam với cấp Tá và từng làm Cố
Vấn Trưởng cho Đại Tá Ngô Quang Trưởng, mối thâm tình đó và ông biết rõ khả
năng điều động, chỉ huy đơn vị và sự liêm khiết của Tướng Trưởng, Tướng
Schwarkkopf nói rằng ông đã học hỏi nơi Tướng Trưởng, áp dụng trong cuộc chiến
ở Iraq và ông đã chiến thắng.
Trong hàng mấy mươi vị tướng lãnh chỉ huy các đại đơn vị trong QLVNCH, chỉ có
Tướng Quân Ngô Quang Trưởng là vị tướng được nhiều tướng lãnh Hoa Kỳ không tiếc
lời khen ngợi và kính trọng
3- Cuộc Triệt Thoái Thứ Ba: Thiếu Tướng Lê Minh
Đảo
Sau khi Quân Khu II và Quân
Khu I triệt thoái không thành công, các đơn vị tinh nhuệ của QLVNCH nay bị tan
tác và quân số khiển dụng của 2QK này không còn được một nửa, khí thế chiến đấu
giảm sút đáng kể. Quân của các đại đơn vị CSBV tự do di chuyển từ vùng vĩ tuyến
17, vùng cao nguyên và con đường mòn Hồ Chí Minh rộn rịp chuyển quân vào Quân
Khu III như chỗ không người. Nhiều SĐ chính quy của CSBV sau khi “bôn tập” về
vùng Xuân Lộc - Long Khánh, CSBV quyết “nhổ” mặt trận này để chúng nhanh chóng
tiến quân thẳng về Thủ Đô Sài Gòn. Những trận mưa pháo ngày đêm của cộng quân
rót vào Xuân Lộc, tỉnh lỵ Long Khánh, nơi có sự hiện diện của SĐ 18 BB dưới
quyền chỉ huy của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo. Nơi đây là nơi thử sức cuối cùng
giữa các đơn vị thiện chiến của CSBV và SĐ 18 BB cùng với các đơn BĐQ, ĐPQ, NQ,
Thiết Giáp, Pháo Binh… và các đơn vị tăng phái đã diễn ra một cuộc chiến dữ dội
nhất của tháng tư đen năm 1975. Vinh dự thay cho đơn vị thiện chiến SĐ 18 BB và
các đơn vị tăng phái, chận đứng được làn sóng tiến công vũ bão của CSBV về điểm
hẹn là Thủ Đô Sài Gòn.
Mặt trận Xuân Lộc – Long Khánh là nơi chôn vùi hàng chục ngàn chiến binh CSBV
và danh dự của QLVNCH đã được khôi phục mà nhiều ký gỉa chiến trường ngoại quốc
và Việt Nam không tiếc lời ca ngợi. Lúc bấy giờ, từ vĩ tuyến 17 xuyên qua lãnh
thổ QK I và QK II, đã nằm dưới quyền kiểm soát của CSBV, chưa kể hậu phương lớn
của toàn thể miền Bắc như bỏ ngõ, CSBV đưa hết quân vào cưỡng chiếm miền Nam
cho bằng được mà địa danh Xuân Lộc - Long Khánh là cửa ngõ dẫn về Thủ Đô Sài
Gòn.
Một con mãnh hổ SĐ 18 BB không thể đương cự được vơí một tập đoàn hồ ly vây
quanh. Vì vậy, dưới quyền chỉ huy của Tướng Lê Minh Đảo đã mở một cuợc triệt
thoái thành công thoát hiểm trước nanh vuốt của hàng chục SĐ quân CSBV định
nuốt trửng đơn vị tinh nhuệ này.
Tuy nhiên, SĐ 18 BB vừa thoát cảnh bị bao vây tiêu diệt, con đường bộ lui binh
ngắn, tương đối an toàn về hướng Biên Hoà và Sài Gòn. Cuối cùng cả đơn vị này
cùng chung số phận chung của các đơn vị QLVNCH đều phải vứt bỏ vũ khí, quân
trang, quân dụng và tan hàng, rã ngũ khi Đại Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu
hàng CSBV sáng ngày bi thảm 30.4.1975.
Người chỉ huy cuộc lui binh cùng đi bộ với các đơn vị của ông dù an toàn về tới
Sài Gòn, nhưng, sau đó, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo đã phải trả một cái giá đắt
trong lao tù cộng sản, ông đã gở đến hết lịch, đến cuốn thứ 17 và nay được định
cư ở Hoa Kỳ theo diện HO. tại Tiểu Bang Connecticut.
4- Cuộc Triệt Thoái Thứ Tư: Đô Đốc Chung Tấn
Cang
Thủ Đô Sài Gòn trong những
giờ phút hấp hối, khi các đại đơn vị CSBV áp sát tất cả bốn hướng đông, tây,
nam, bắc, sau khi SĐ 18 BB và Bộ Tư Lệnh QĐ III cùng các đơn vị trực thuộc di
tản về Sài Gòn từ đêm 28.4.1975. Xung quanh Thủ Đô Sài Gòn hàng chục SĐ CSBV
hiện diện, những trận mưa pháo vào phi trường Tân Sơn Nhất, nội thành Sài Gòn
và các đơn vị đồn trú trong lãnh thổ của Biệt Khu Thủ Đô. Saì Gòn náo loạn,
chính phủ mới của Đại Tướng Dương Văn Minh không biết phải làm gì để đối phó
với tình hình nguy kịch này. Lúc bấy giờ nhiều phái đoàn của cái goị là thành
phần thứ ba, các Nghị Sĩ, Dân Biểu gọi là thiên tả, đối lập hay xìu xìu ển ển,
thường chống chính quyền và kể cả phái đoàn chánh thức của chánh phủ Dương Văn
Minh – Vũ Văn Mẫu, chạy tới chạy lui vào Camp Davis trong khu vực phi trường
Tân Sơn Nhất để xin yết kiến xin xỏ VC tìm giải pháp. Nhưng, VC trên đà chiến
thắng, họ không “quởn” nói chuyện với các phái đoàn đó.
Trong bối cảnh, các đơn vị lớn nhỏ QLVNCH đang hiện diện trong nội thành Sài
Gòn và vùng ngoại ô, không nhận được lệnh lạc gì của cấp trên, Bộ Tổng Tham Mưu
hay cuả chính phủ mới. Các đơn vị trưởng còn bám trụ ở đơn vị, không vọt đi ra
biển hay đi bằng phi cơ thì tùy nghi quyết định lấy số phận của đơn vị mình,
tiếp tục chiến đấu đến viên đạn cuối cùng hay bỏ đơn vị về nhà hay tìm cách
vượt thoát ra biển Đông…
Ngày 29.4.75 Sài Gòn hổn loạn, cảnh người chen chúc đến Toà Đại Sứ Mỹ để hy
vọng được lên trực thẳng di tản hay người ta đổ xô xuống các bến tàu tìm chỗ để
ra đi khỏi Sài Gòn đang ngột ngạt dẫy chết.
Trong khi đó, Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang Tư Lệnh Hải Quân, ông mới về đảm nhận
chức vụ này chỉ được một thời gian rất ngắn. Với tầm nhìn của vị tướng lãnh
sáng suốt, sau khi 2 Quân Khu II & I thất thủ, Đô Đốc đã tự hoạch định một
phương cách bảo toàn lực lượng để có thế ứng phó với cơn dầu sôi lửa bỏng đang
ầm ập lao tới. Với tư cách là Tư Lệnh Hải Quân mới, ông thường xuyên mở những
cuộc họp tham mưu và những cuộc họp lớn có tất cả các đơn vị trưởng các Hạm
Đội, Vùng Duyên Hải, Vùng Sông Ngòi… đang có mặt tại 4 Quân Khu để Đô Đốc nắm
chắc những gì Hải Quân sẽ sử dụng hiệu quả khi có biến cố, cần tới.
Qua bài viết của Hải Quân Đại Tá Nguyễn Bá Trang được phổ biến trên các diễn
đàn sau khi Đô Đốc Chung Tấn Cang qua đời ngày 24 tháng 1 năm 2007 tại Thành
Phố Bakersfield - California, hưởng thọ 82 tuổi, chúng ta đọc không khỏi ngậm
ngùi thương cảm cho một vị Tướng Hải Quân kỳ tài vì có quá ít thời gian phục vụ
ngành chuyên môn của mình. Đô Đốc Chung Tấn Cang dù phục vụ trong Hải Quân,
thời gian chỉ có 5% cuộc đời binh nghiệp của ông, như Hải Quân Đại Tá Nguyễn Bá
Trang viết, nhưng, Tướng Cang biểu tỏ thiên tài của ông về sự chỉ huy, điều
động các đơn vị Hải Quân dưới quyền. Tướng Quân Cang tâm sự với người viết bài
này, cách đây 6 năm khi đến thăm ông vì tình thầy trò trong Quân Đội, ông nói
rằng rất tiếc, BTL Hải Quân đặt tại một địa điểm nhỏ hẹp tại Thủ Đô Sài Gòn, cách
biển khá xa mà Hải Quân là quân chủng cần vẫy vùng hoạt động hữu hiệu ở vùng
sông nước, biển cả. Lúc bấy giờ, tôi có ý nghĩ, cấp lãnh đạo quốc gia chưa có
tầm nhìn đúng về khả năng tinh nhuệ của quân chủng Hải Quân, họ phải hoạt động
ở trên mặt nước, khi đưa Hải Quân lên bờ là chặt tay chặt chân họ. Đô Đốc Cang
có ý ám chỉ về số phận của ông, là một Phó Đô Đốc (tướng lãnh 3 sao), cấp bậc
cao nhất trong Quân Chủng Hải Quân lại phải xa rời màu nước xanh biên biếc của
biển cả, ông không được phục vu hay chỉ huy ngành chuyên môn của mình một thời
gian quá dài.
Vật đội sao rời, có một thời gian ngắn, sau cuộc đảo chánh 1.11.1975, Đô Đốc
Chung Tấn Cang cũng được về làm Tư Lệnh Hải Quân và sau đó ông bị cho “lên bờ”,
ông đi lang thang trên bộ, giữ những chức vụ như Chỉ Huy Trưởng Trường Chỉ Huy
Tham Mưu ở tận Đà Lạt, cách xa Sài Gòn và xa biển cả mênh mông. Sau đó, Đô Đốc
Cang được đổi về làm Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô kiêm Tổng Trấn Sài Gòn - Gia Định
vài năm mà người viết bài này được may mắn làm việc dưới quyền của một vị Tướng
mà tôi kính trọng nhất trong cuộc đời binh nghiệp 13 năm của mình. Đô Đốc Chung
Tấn Cang đã chứng tỏ, đặc biệt là cựu chiến sĩ QLVNCH, rất hãnh diện có một vị
tướng tài, có tầm nhìn chiến thuật, chiến lược sâu rộng và Đô Đốc Cang xứng đáng
là vị tướng tài nhất trong QLVNCH về phương diện hành quân triệt thoái thành
công và tuyệt vời nhất
Trở lại cuộc triệt thoái của Quân Chủng Hải Quân, tất cả hạm đội được Đô Đốc
Chung Tấn Cang ra lệnh “Lên Neo”, nghĩa là sãn sàng tham dự cuộc hành quân triệt
thoái vĩ đại nhất của Quân Chủng Hải Quân và điểm hẹn là đảo Côn Sơn và Phú
Quốc. Lệnh hành quân triệt thoái lịch sử được ban ra vào ngày N tức là sáng sớm
ngày 29 tháng 4 năm 1975 trong khi chính phủ Dương Văn Minh – Vũ Văn Mẫu hết có
thuốc chửa, không ngăn chận được sự tiến quân như vũ bão, bôn tập, của CSBV về
cưỡng chiếm Thủ Đô Sài Gòn. Lúc này, Đô Đốc Chung Tấn Cang không nhận được bất
cứ một lệnh lạc gì của chính phủ của Bộ Tổng Tham Mưu. Tướng Quân Chung Tấn
Cang chứng tỏ khả năng nhìn xa hiểu rộng của một vị tướng tài trong QLVNCH, ông
đã có kế hoạch sẵn sàng chờ lệnh là thi hành, nhưng lệnh không có thì không lẽ
ông bó tay chờ CSBV đến tiếp thu BTL Hải Quân mà Tướng Quân đang ngồi ở đó. Đô
Đốc Chung Tấn Cang tự ý ra lệnh cho Hạm Đội cuả Quân Chủng Hải Quân Lên Neo và
tất cả những chiến ham, tàu tuần duyên, các giang đoàn còn khiển dụng nhổ neo
ra khơi theo lệnh của ông để khi được lệnh của thượng cấp là quay tàu về giải
cứu Sài Gòn. (Xin quý độc giả tìm đọc bài viết Một Thoáng Suy Tư của Hải Quân
Đại Tá Nguyễn Bá Trang, nguyên Tư Lệnh đơn vị Đặc Nhiệm Thủy Bộ 211 để biết rõ
về cuộc hành quân triệt thoái này).
Một hay hai ngày trước cuộc triệt thoái 29.4.75, một Phụ Tá Bộ Quốc Phòng Mỹ
cùng đi với một người Mỹ nói tiếng Việt rất giỏi đến thuyết phục Đô Đốc ra đi
bằng chiếc trực thăng họ đã lái tới đậu ở BTL Hải Quân. Nếu Đô Đốc Chung Tấn
Cang chỉ biết mình mà không lo đến sự an toàn sinh mạng của các chiến sĩ dưới
quyền và đồng bào, thân nhân của Hải Quân, lấy chiếc trực thăng cùng với gia
đình bay ra khơi, an toàn cho gia đình ông, dễ dàng quá. Nếu thế, chúng ta
không có gì để phải nói nhiều vế Đô Đốc Chung Tấn Cang. Chính Đô Đốc là người
anh hùng bảo toàn được tài sản quý giá hàng triệu triệu Mỹ kim của quốc gia
VNCH và của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ nữa không để lọt vào tay địch. Quan trọng
hơn, có trên 40 ngàn người VN đã được di tản an toàn đên bến bờ tự do, biết bao
gia đình nhờ có cuộc ra đi của vị chỉ huy “vô kỷ luật” chưa có lệnh của thượng
cấp mà tự ý cho lệnh Lên Neo mà ngày nay nhiều gia đình ăn nên làm ra.
Kết Luận:
Qua 4 cuộc triệt thoái, lui binh, cuộc rút quân của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo có
tầm vóc nhỏ hơn 3 cuộc triệt thoái khác ở cấp Quân Đoàn và Quân Đoàn cộng mà
cuộc triệt thoái do Đô Đốc Chung Tấn Cang điều động chỉ huy là cuộc triệt thoái
thành công và tuyệt vời nhất.
Về danh tiếng, Tướng Quân Ngô Quang Trưởng là người chỉ huy tài giỏi và thanh
liêm, ai cũng nghe danh và khi Tướng Quân Trưởng ra đi có biết bao người thương
tiếc và kể cả báo chí Mỹ cũng viết bài, đưa tin, chia buồn và vinh danh ông…
Tôi không có may mắn làm việc dưới quyền ông nên không dám có bài viết về Tướng
Quân Ngô Quang Trưởng.
Còn Đô Đốc Chung Tấn Cang, Tướng Quân sống âm thầm tại một nơi đìu hiu, ít
người Việt. Cuộc sống của Đô Đốc cũng lặng lẽ như bản tính của ông. Suốt cuộc
đời binh nghiệp, ông tỏ ra một cấp huy tài giỏi, thanh liêm, mẫu mực và đến khi
ông ra đi cũng lặng lẽ, ít có người viết về ông. May mắn có Hải Quân Đại Tá
Nguyễn Bá Trang đã viết một bài có thể gây sự chú ý, tôi chưa dám nói là làm chấn
động tâm tư tình cảm của nhiều người vì biết được sự thật về Đô Đốc Chung Tấn
Cang.
No comments:
Post a Comment