Monday, August 24, 2020

- Tướng "Sáu Lèo" Nguyễn Ngọc Loan

    (Viết để bái vọng hương linh Tướng Nguyễn Ngọc Loan, người đã một thời đảm nhiệm chức vụ Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia VNCH)
    Ở tuổi bảy mươi, người ta thường nghĩ đến hưởng nhàn, quên đi mọi sự đời để vui chơi đây đó cho khoẻ cái thân già. Tôi thì khác, tuổi càng cao, ký ức thời gian càng cuồn cuộn dâng lên, lôi kéo hồn tôi tìm về quá khứ, một thời mà tôi đã sống và làm việc cùng với bạn bè, cấp trên, cấp dưới của tôi trong cái gia đình Cảnh Sát Quốc Gia đầy nhọc nhằn vất vả ấy.
    Hơn bốn chục năm đã trôi qua, lòng tôi vẫn mang nặng những hoài niệm về một vị Tướng, người đã một thời đảm nhiệm chức vụ Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia và Cục Trưởng Cục An Ninh Quân Đội.
    Ông có cái tên gọi lên êm ái như tên của một nữ nhân, nhưng giới truyền thông và bạn bè đương thời thường gọi ông bằng một biệt danh “Sáu Lèo”. Chẳng biết biệt danh này do đâu mà có, nghe như đượm chất khôi hài, thế mà ông vẫn hề hà chấp nhận như một cái tên trời cho. Đó là Tướng Nguyễn Ngọc Loan!
    Ngày ông về làm trưởng tộc gia đình CSQG, tôi chỉ một lần được thấy ông mặc quân phục ka-ki màu vàng, đội chiếc mũ chào mào và đeo hững hờ cặp lon ba bông mai bạc trên đôi vai gầy guộc khi ông bước lên lễ đài trong buổi bàn giao. Sau đó, chẳng biết ông để quên cặp lon ở đâu mà chỉ thấy ông đến nhiệm sở trong bộ cảnh bèo nhèo, quần dài, áo sơ mi cộc tay và đôi dép nhựa lẹp xà lẹp xẹp.
    Ngay cả khi lên cấp Tướng trang phục cũng vẫn thoải mái như vậy. Có ai cắc cớ hỏi ông ngôi sao để đâu, ông chỉ tủm tỉm trả lời:
    - “Ngôi sao tớ gửi trên trời!”
    Thời gian đó, tôi đang làm việc tại sở Tâm Lý Chiến dưới quyền chỉ huy của Chánh sở Võ Lương, một Quận trưởng CSQG có nhiều thâm niên công vụ và dày dạn kinh nghiệm. Ông vừa có tài ứng biến lại vừa khéo léo trong cách ứng xử với mọi người.
    Tôi và thi sĩ Quách Đàm phụ trách soạn bài vở cho chương trình phát thanh hằng tuần của CSQG trên đài Saigon. Anh Quách Đàm, ngoài tài viết đầy truyền cảm mà nhiều thính giả đã được thưởng thức mỗi khi anh cất tiếng lên trong chương trình Thi Văn Tao Đàn do anh Đinh Hùng làm chủ sự. Con người tài ba đó lại mang một cái tật “bất cần đời”, không xu nịnh cấp trên, không bon chen danh lợi để đến khi nhắm mắt lìa trần cũng vẫn chỉ là một Phó Thẩm Sát Viên nhỏ bé.
    Tướng Loan ngồi chức vụ chưa được bao lâu thì miền Trung và thủ đô Saigon bỗng bùng lên những cuộc chống đối chính phủ do Thích Trí Quang phát động nhằm hạ bệ Tướng Nguyễn Cao Kỳ ra khỏi chức vụ chủ tịch Uỷ Ban Hành Pháp Trung Ương.
    Miền Trung ồn ào biểu tình, lính tráng công chức thi nhau rã ngũ đào nhiệm! Thành phố Saigon, vang động hò hét xuống đường, phố xá ngổn ngang bàn thờ Phật!
    Trước cảnh dầu sôi lửa bỏng, Tướng Loan đã tức tốc điều động một số sĩ quan An Ninh Quân Đội và một số viên chức CSQG ra miền Trung để thay thế những cấp chỉ huy nhút nhát bạc nhược hoặc bị lôi cuốn vào những âm mưu đen tối. Những người được ông tuyển chọn đều có đầy đủ khả năng ứng phó và lòng can đảm dám gồng mình chấp nhận những hậu quả rủi ro đến với bản thân. Điển hình cho những nhân tố tích cực này là Quận Trưởng Võ Lương được bổ nhiệm Giám đốc Nha CSQG Vùng I, Quận Trưởng Trần Minh Công giữ chức vụ Trưởng Ty CSQG Đà Nẵng.
    Tại thủ đô Saigon, tướng Loan đã cương quyết làm tròn sứ mạng của mình không phải bằng cách ngồi tại văn phòng chỉ tay hò hét ra lệnh mà bằng cách đưa cá nhân mình vào nơi sôi động. Vị Tướng không giày không lon đó đã chấp nhận những ngày giờ sống bụi đời trên đường phố, sát cánh cùng đội ngũ nhân viên, trực tiếp nhận trách nhiệm và chia xẽ nỗi gian nan nhọc nhằn cùng thuộc cấp. Từng nơi từng lúc, ông tiến thẳng đến đám đông cuồng nộ, giải thích thuyết phục ai về nhà nấy, đồng thời kính cẩn vái lạy trước các bàn thờ Phật, xin phép được đưa ảnh tượng hương khói trở lại chùa chiền cho xứng đáng với vị trí trang nghiêm thờ phượng.
    Bóng đen u ám của một biến cố ngậm ngùi đã được xua đi, Saigon và miền Trung lại rạng lên những tia sáng thanh bình.
    Lần đầu tiên tôi được tháp tùng Tướng Loan là dịp đi theo ông Chánh Sở Tâm Lý Chiến làm tin cho buổi phát quà Trung Thu tại Cô Nhi Viện Gò Vấp.
    Khi xe chúng tôi vào trong sân Cục An Ninh Quân Đội, đã thấy Tướng Loan ngồi chờ sẵn trên xe Jeep lùn của ông, miệng phì phèo điếu thuốc, tay cầm chai bia 33 lắc qua lắc lại. Ông Dẫn tiến đến đứng nghiêm toan giơ tay chào thì Tướng Loan phất tay như ra hiệu bảo về xe đi và nói:
    - “Thôi, mình đi chứ.”
    Lúc sắp khởi hành, Tướng Loan bỗng xuống khỏi xe, tiến về phía chúng tôi và nói với tài xế của ông Dẫn:
    - “Chú em ra ngồi phía sau, để tớ lái xe cho ông Chánh Sở.”
    Trước một tình huống quá bất ngờ, ông Dẫn bị lúng ta lúng túng, chỉ còn biết ngồi cứng người như tượng gỗ, hai tay thu gọn trong lòng bắp vế. Tôi và tài xế đã phải nín cười đến đau cả bụng.
    Tới cổng Cô Nhi Viện, Tướng Loan rời bỏ tay lái, lè phè lê đôi dép nhựa đi cạnh ông Chánh Sở uy nghi sắc phục lon mũ chỉnh tề đang giơ tay chào hàng quân tiếp đón. Thình lình, ông Trưởng Chi Gò Vấp, người phụ trách dàn chào chạy đến bên tôi hỏi nhỏ:
    - “Nghe nói có Chuẩn Tướng đến, sao giờ này chưa thấy?”
    Tôi chỉ tay về phía trong và nói:
    - “Ông Tướng kia kìa, người mặc thường phục đó.”
    Trưởng chi thảng thốt kêu lên:
    - “Chết cha! Tôi cứ tưởng đó là anh tài xế của ông Chánh Sở!”
    Tướng Loan là vậy đó! Một con người bình dị, không câu nệ hình thức, không đặt nặng lễ nghi.
    Hôm đó, chính vị Tướng Tổng Giám Đốc CSQG là người đã tạo nên một bầu không khí đầy ấm cúng, sưởi ấm những tâm hồn trẻ thơ sớm mang một số phận hẩm hiu từ lúc chào đời khi ông đến trọ chuyện nâng niu vỗ về và tặng quà cho từng em nhỏ. Câu ví: “Tướng Loan hiền như ma-sơ” có lẽ từ đó mà ra.
    ……..
    Vào những ngày tháng giữa năm 1967, thời kỳ tiền bầu cử Tổng Thống, tôi được tướng Loan gọi ra gặp riêng ông hai lần tại cục An Ninh Quân Đội để gợi ý cho tôi viết một số bài quan điểm liên quan đến cuộc vận động bầu cử đồng thời ông cho biết một số kỹ xão sẽ áp dụng trong việc thông tin tuyên truyền yểm trợ cho một liên danh. Tôi xin mạn phép không kể ra đây vì người được ông ủng hộ đã làm ông quá thất vọng đến nỗi có lúc ông phải kêu lên “đem bắn tên đó cho rồi.”
    Đối với người bạn đồng minh Hoa Kỳ, tướng Loan không tin cậy cho lắm từ khi CSQG bắt một tên có dấu tích là một tên cán bộ cộng phỉ nội tuyến trong Toà Đại Sứ Hoa Kỳ mà toà đại sứ này cứ khăng khăng đòi thả. Bực mình vì người Mỹ quá xen sâu vào nội bộ Việt Nam nói chung và hoạt động của CSQG nói riêng, Tướng Loan xin từ chức, nhưng Tổng Thống Thiệu không chấp thuận.
    Nhưng ngày giáp Tết Mậu Thân, trong lúc đồng bào đang nô nức chuẩn bị đón Xuân, Tướng Loan đã âm thầm cùng đoàn tuỳ tùng rong ruổi đến thăm các ty CSQG xa xôi hẻo lánh, những nơi được mệnh danh là chốn khỉ ho cò gáy, ngày đêm phải đương đầu với những áp lực quấy phá của lũ khủng bố phiến cộng bạo tàn. Phước Long, Bình Long, Kiến Tường, Kiến Hoà, Ninh Thuận, Quảng Đức, Hậu Nghĩa là những nơi tôi được theo gót chân ông.
    Mỗi buổi sáng, chúng tôi tụ tập tại tư dinh của ông trong trại Phi Long, Tân Sơn Nhứt để rồi từ đó lên hai chiếc trực thăng đến các nơi trên. Ông đến để nắm rõ tình hình địa phương, để thăm hỏi nhân viên các cấp và để tặng chút tiền làm tiệc Tất Niên cho anh em.
    Đến bất cứ đơn vị nào, ông đều đi quanh xem xét hệ thống phòng thủ và cho ý kiến tại chỗ. Với các đơn vị có nhiều vọng gác xây bằng bê-tông kiên cố, ông nhẹ nhàng nhắc nhở:
    - “Nước mình nghèo, phải đánh giặc theo lối nhà nghèo, ụ bê tông cứng nhưng không chịu đựng loại đạn xuyên phá, tốt hơn nên dùng nhiều bao cát vừa đỡ tốn kém lại vừa an toàn.”
    Những ngày giờ đi theo, tôi thấy ông sống và làm việc như một con thoi, quên cả giờ giấc với gia đình, quên cả những cơn đau bao tử và quên cả những hiểm nguy đến với bản thân.
    Một lần, ngồi trên máy bay, dáng vẻ mỏi mệt, ông che miệng ngáp dài rồi nói một cách tự nhiên:
    - “Tối hôm qua tớ chẳng ngủ được chút nào, bà ấy cằn nhằn cả đêm chỉ vì làm việc mà quên đi lời hứa về đúng giờ để cùng ăn một bữa cơm với gia đình.”
    Hình như cách ăn uống của ông cũng đơn giản như cách ăn mặc. Trong các bữa ăn tại các ty CSQG hoặc tại các toà Tỉnh Trưởng, tuy có đủ thịt cá, rượu Tây thuốc Mỹ trên bàn, tôi vẫn chỉ thấy ông nhâm nhi một tô hủ tiếu hoặc tô bún canh bên cạnh chai bia 33 và gói thuốc lá Ruby màu hồng.
    Nói về máu “liều” của Tướng Loan chắc ít ai bì kịp. Tôi nhớ lần đến thăm Ty CSQG Hậu Nghĩa, sau khi dùng bữa cơm khét do Đại Tá Tỉnh Trưởng Mã Sanh Nhơn thết đãi, ai ai cũng chuẩn bị lên trực thăng ra về. Lúc đó vào khoảng 3 giờ chiều, bỗng Tướng Loan đổi ý, ông bảo hai phi công lái trực thăng về trước để ông và đoàn tuỳ tùng dùng đường bộ cho thoải mái. Cái quyết định “bốc đồng” đó đã báo hại Trưởng Ty Ngô Văn Huế phải một phen hết vía chỉ vì con đường độc đạo đó thường bị bọn khủng bố cộng phỉ gài mìn phục kích bất ngờ.
    Trời cuối Đông, mặt trời muốn đi ngủ sớm thế mà Tướng Loan cứ nhất định phải ghé thăm một đơn vị Cảnh Sát Dã Chiến nơi mà các nhân viên của ông đã oanh liệt chống trả một cuộc tấn kích của giặc thù vào đêm hôm trước. Ông đến bắt tay từng chiến sĩ, ngợi khen tinh thần quả cảm và ghi công trạng của tất cả mọi người.
    Chiều hôm đó, khi về đến nhà, ông kéo chúng tôi vào một căn phòng nhỏ, chỉ vào hai thùng giấy lớn và khoe:
    - “Đây là số pháo hồng do một người bạn ở Hồng Kông gửi biếu.”
    Nói xong, ông tự tay mở một thùng phát cho mỗi người ba phong, ngoại trừ Thiếu Tá Tiến, Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh đang ngẩn tò te chìa tay ra hỏi:
    - “Còn phần của em đâu?”
    Tướng Loan không đưa pháo mà còn cười hỏi lại:
    - “Cậu hả? Chuyện đó tính sau. Cậu về tắm rửa sạch sẽ rồi lên đây cùng tôi khuân thùng pháo đây ra dinh Độc Lập để hai ông Thiệu, ông Kỳ làm gì thì làm, nhà mình thấp lè tè treo vào đâu.”
    Thiếu Tá Tiến vừa gãi đầu vừa quay sang chúng tôi phân bua:
    - “Các cậu thấy chưa, Chuẩn Tướng thấy tôi đẹp trai nên đi đâu cũng kéo theo.”
    Tướng Loan tảng lờ như không nghe, nhưng miệng lại tủm tỉm cười thích thú.
    Rồi Xuân Mậu Thân đã trở về! Xuân đến từng nhà, Xuân vô giáo đường, Xuân lên đình chùa, Xuân vào lăng miếu. Hương Xuân tràn ngập mọi nơi. Tiếng Xuân vang vọng trên đài, ngọt ngào đi vào lòng người bằng những lời thơ cung nhạc chúc tụng một năm mới an khang hạnh phúc.
    Nửa đêm về sáng của ngày đầu năm, giữa lúc khói hương thiêng liêng còn đang nghi ngút thì bỗng nhiên từng loạt âm thanh của súng đạn vang lên khiến ai nghe cũng phải bàng hoàng kinh động.
    Thoạt đầu, tôi cứ nghĩ đó là một cuộc đảo chánh nên vội vặn radio để nghe tin tức. Im lặng và im lặng! Đài không phát ra một tiếng nói hay một lời ca. Trong khi đó, từng loạt đạn vẫn tiếp tục vun vút bay trên nóc nhà kèm theo tiếng la oai oái “Vi Xi! Vi Xi!” của những người lính Mỹ đóng quân trong khu nhà của bà Bút Trà trên đường Nguyễn Huệ cạnh bên con hẻm nhà tôi. Đêm đó, tiếng trẻ thơ cứ thét lên, sau mỗi loạt súng nổ, tôi vội đem hai cháu nhỏ, nhét chúng nằm sát dưới chân cầu thang còn mình và vợ ngồi bó gối ngay bên cạnh để chờ trời sáng.
    Khoảng sáu bảy giờ sáng, đài bỗng vang lên tiếng nói của Phó Tổng Thống Kỳ, nội dung vắn tắt cho biết bọn khủng bố việt cộng đã bội phản những cam kết hưu chiến trong ba ngày Tết, xua quân tổng công kích 32 tỉnh lỵ và thủ đô Saigon. Tướng Nguyễn Ngọc Loan đã đích thân chỉ huy lức lượng Cảnh Sát Dã Chiến và Quân Đội quét sạch bọn giặc cướp cộng phỉ ra khỏi Đài Phát Thanh Saigon từ lúc 4 giờ sáng.
    Tôi vừa mở cửa đã thấy bốn tên cán binh cộng phỉ tay ghìm súng AK, băng đạn quấn quanh mình, đứng khuất trong hè nhà tôi và các nhà đối diện, mắt đăm đăm nhìn ra đường cái. Không hiểu sao lúc đó tôi lại tỏ ra rất bình tĩnh, bình tĩnh quan sát trang phục của bọn chúng và còn thầm nghĩ bọn chúng là những binh sĩ thuộc một đơn vị chính quy nào đó chứ không phải là bọn du kích thổ phỉ.
    Cùng lúc, một số đông đồng bào từ trong các hẻm sâu phía trong ùn ùn bồng bế dắt dìu người già con trẻ chạy ra, mặt người nào cũng xanh như tàu lá. Họ vừa đi vừa thông báo cho mọi người biết bọn khủng bố việt cộng về nhiều lắm, tràn ngập trong khu Cây Quéo, khu phía sau chùa Quảng Đức, khu gò mả và khu đường rầy dẫn đến Cầu Hàng.
    Tôi vội quay vào nhà, quơ quào ít quần áo rồi cùng vợ con lên xe máy đến nhà người quen ở chợ Tân Định. Đến nơi, tôi mới chợt nhớ để quên bóp giấy tờ ở nhà, đành phải một mình quay lại.
    Về tới đầu hẻm, một người cùng xóm ở phía ngoài khuyên tôi đừng vào vì mới tức thì có mấy nhân viên Cảnh Sát sắc phục đã bắn nhau với bọn khủng bố việt cộng ở phía trong. Lúc đó, trực thăng võ trang đã xuất hiện. Hai con chuồn chuồn bay lên xà xuống khạc đạn ào ào vào những mục tiêu. Đạn dưới bắn lên, đạn trên bắn xuống, trận chiến cứ thế tiếp diễn vô cùng ngoạn mục. Tôi rời khỏi xóm mà lòng cứ nơm nớp lo sợ căn nhà mình bị ăn đạn phá.
    Đến Tổng Nha CSQG, tôi nhận lệnh đi cùng một nhiếp ảnh viên lên vùng Ngã Bảy nơi tướng Loan đang trực tiếp chỉ huy các đơn vị Cảnh Sát và Quân Đội bao vây cô lập và tiểu trừ các đám giặc cướp cộng phỉ xâm nhập. Ông mắc đồ trận, áo giáp khoác ngoài, đầu không nón sắt, sông pha vào nơi súng nổ đạn rơi như một người lính can trường không nề nguy hiểm.
    Phải nói rằng, trận chiến nơi đây đã diễn ra ác liệt ngay từ những giây phút ban đầu trên một địa hình rộng lớn bao gồm các khu vực Phú Thọ, Nguyễn Tri Phương, hẻm Chuồng Bò, Vườn Lài...
    Khởi đầu, bọn việt cộng tấn công vào doanh trại của Biệt Đoàn 222 Cảnh Sát Dã Chiến ở góc đường Nguyễn Văn Thoại và Trần Quốc Toản giữa lúc toàn thể nhân lực ứng chiến được điều động đi giải toả Đài Phát Thanh Saigon, số nhân viên phòng thủ còn lại khoảng hơn bán tiểu đội. Lợi dụng thời cơ, bọn việt cộng tập trung lực lượng ào ạt xua quân từ phía vườn ươm cây ở góc đối diện toan chiếm cho bằng được doanh trại này. Nào ngờ, các chiến sĩ CSDC đã bình tĩnh nã từng loạt đại liên khiến bọn chúng không sao vượt qua ngã tư, đành phải mang theo một số đồng bọn thương vong rút về khu chợ Thiếc.
    Cũng thời gian đó, một số lớn bọn việt cộng nằm vùng cùng các tên chỉ điểm giả dạng nhân dân nổi dậy chia nhau chặn đường chặn ngõ lùng xục trong các khu dân cư bắt bớ một số Quân Nhân, Cảnh Sát và Công Chức dem ra xử bắn với lời kết tội “có nợ máu với nhân dân”.
    Tôi có một người em họ là Đại Úy Quân Y cũng bị bắt vào đêm đó. Chúng lột trần em tôi, trói rặt cánh khuỷu toan đem xử bắn. Trong lúc thế cùng, em tôi la lên:
    - “Tôi là Bác Sĩ Quân Y bị trưng dụng vào quân đội, không hề có nợ máu.”
    Tên chỉ huy nghe vậy, bèn nói:
    - “Nó còn dùng được, đưa nó ra chỗ thương binh.”
    Lúc băng bó cho các tên cán binh khủng bố cộng phỉ, em tôi đã lẩn vào nhà dân trốn thoát. Ngày 1-2-1968, Tướng Loan đã xử bắn tên khủng bố cộng phỉ Nguyễn Văn Lém tức Bảy Lém, bí danh Ba Lốp ngay trên đường phố khu Ngã Bảy để rửa hận cho những đàn em của ông đã bị tên này sát hại dã man.
    Ngay chiều hôm đó, tôi rủ hai người bạn phóng viên báo ngoài đánh một vòng đảo qua Dinh Độc Lập, Toà Đại Sứ Mỹ trên đại lộ Thống Nhất. Hai phóng viên cho biết có chụp một vài hình ảnh những tên khủng bố việt cộng bị chết trên lề đường và trong khuôn viên Toà Đại Sứ.
    Từ đó chúng tôi xuống đường Hai Bà Trưng nồi rẽ vào đường Phan Thanh Giản tìm về xa lộ. Bên lề con lộ thênh thang, năm bảy xác những tên khủng bố cộng phỉ nằm ngửa trơ trơ với sợi dây thừng cột cứng ở cổ chân. Bọn chúng được đồng đội kéo đi, nhưng nửa chừng bị bỏ lại.
    Đến khu Hàng Sanh, chúng tôi rẽ về khu Lăng Tả Quân tiến đến đường Ngô Tùng Châu để nhập vào khu Cây Quéo. Đường xá trong khu vực này vắng teo vắng ngắt, cả ba chúng tôi bắt đầu thấy lạnh xương sống khi phát hiện ra một số xác những tên bộ đội cộng sản xâm lược nằm rải rác khắp mọi nơi trong vườn ngoài ngõ. Tôi run cả người, chỉ muốn quay lại. Nhưng trót vào sâu rồi, đành chịu. Ba xe gắn máy của chúng tôi cứ luân phiên đổi chỗ, anh nào cũng muốn mình vào giữa.
    Bất ngờ, từ trong căn nhà có khu vườn rộng vang lên tiếng gọi:
    - “Các chú ơi! Xin vào giúp một tay.”
    Chúng tôi vừa ngừng xe, một bà và hai thiếu niên chạy ra kéo chúng tôi vào nhà, chỉ cho thúng tôi thấy hai xác khủng bố việt cộng đặt trên bộ ván gõ với tờ giấy viết nguệch ngoạc “nhờ đồng bào chôn cất giùm”
    Bà giơ tay phàn nàn:
    - “Thiệt là khổ! Chết rồi thì để bên ngoài cho xong, đem vào nhà làm chi cho đám nhỏ sợ hết hồn hết vía. Bây giờ tôi nhờ các chú khiêng họ ra ngoài đường để chính quyền chôn cất.”
    Anh em chúng tôi làm giúp bà, lòng thấy áy náy tội nghiệp cho những người lính bên kia bị bọn đầu sỏ độc tài xô đẩy họ vào nơi tử địa.
    Mặt trận vùng ngã Bảy đã gần như đi vào kết thúc. Cộng quân ở nơi này, một số bị bắt, một số ra chiêu hồi, số còn lại co cụm trong khu dân cư đong đúc như cá nằm trong rọ chờ ngày bị tóm.
    Khi Tướng Loan ra lệnh cho Cảnh Sát và Quân Đội khai pháo dứt điểm toàn bộ thì cái đám tàn binh ngoan cố đó đã giở một thủ đoạn đê hèn, táng tận lương tâm. Chúng khống chế cư dân không cho ra ngoài đồng thời dùng xăng đốt nhà gây nên những đám cháy mịt mù khói lửa để trà trộn trong dân tìm đường tẩu thoát. Nhiều xe cứu hoả đước điều động đến. Lúc đầu, các nhân viên chữa cháy rất rụt rè e ngại chưa dám áp sát vào nơi súng đạn thét gầm, tướng Loan đã phải giựt lấy vòi rồng phun nước lên cao khống chế từng cơn bão lửa. Hình ảnh hiên ngang đó, tôi đã dùng làm bìa cho Nguyệt San Rạng Đông trong số báo đầu năm Mậu Thân.
    Hàng trăm cán binh địch đã bị bắt lôi ra tập trung trước tiệm đò gỗ trên lề đường Minh mạng trong trận đánh cuối cùng ở khu vức ngã Sáu trước sự chứng kiến của tướng Loan. Ông đi loanh quanh quan sát từng người. Thấy ai bị thương nặng, ông nhắc nhở nhân viên Y tế băng bó gấp cho họ và chuyển đến bịnh viện ngay.
    Ngày hôm sau, Tướng Loan đã cùng Đại Tá Đô Trưởng Văn Văn Của đến thị sát mặt trận tại Quận 8 bên kia cầu chữ Y. Phái đoàn đã dùng con đường đi qua cầu xóm Củi men theo đường Phạm Thế Hiển tiến đến ty CSQG quận 8. Đây là một ty CSQG nằm ở vị trí ven đô trên một diện địa trống trải đồng ruộng mênh mông và sông rạch chằng chịt.
    “....Khởi đầu, cộng quân dàn binh ngay trên đồng ruộng ở phía sau ty, bắn hạ một nhân viên Cảnh Sát gác trên chòi cao đồng thời dùng B40 chóc thủng một lô cốt ở góc trái phía sau với ý đồ cho vài đắc công chui qua lỗ hổng tung lựu đạn và trái phá gây náo loạn phía trong trước khi xua quân chiếm lĩnh mục tiêu. Một vài nhân viên Cảnh Sát “điếc không sợ súng” đã bò ra lô cốt phục sẵn phía trong tỉa từng tên một và lấy xác chúng chèn vào lỗ hổng. Đội hình phòng thủ trong ty đã được củng cố, bình tĩnh chống lại từng đợt tấn công để chờ lực lượng tiếp viện. Trời gần sáng, trực thăng võ trang xuất hiện đổ rốc-kết và đại liên lên đầu giắc khiến chúng phải rúc vào các khu dân cư ẩn náu và rút về khu vực phường Rạch Ông mang theo một số thương vong đồng đội chất lên ghe thuyền luồn trốn trong các kinh rạch.....”
    Trên đây là lời kể lại của Phó Ty Khưu Ngọc Đa, một người bạn cùng khoá 14 Biên Tập Viên Rạch Dừa với tôi, trong lúc đoàn xe di chuyển từ ty CSQG đến vùng Rạch Ông.
    Anh Đa đang thao thao bắt tuyệt, bỗng một loạt đạn AK vun vút lướt trên nóc xe, anh vẫn giữ vững tay lái tiếp tục mối theo phái đoàn và quay sang tôi cười khì khì sảng khoái như thầm hỏi tôi “sợ không?”
    Chiến cuộc tại thủ đô Saigon đã hoàn toàn chấm dứt sau ngày hôm đó, nhưng lòng tôi vẫn không sao quên được những hình ảnh điêu tàn do Cộng quân gây ra. Hình ảnh thương tâm mà tôi không thể nào quên là hình ảnh một gia đình năm người co quắp ôm nhau chết cháy tại khu Nguyễn Thiện Thuật gần chợ Bàn Cờ...
    Gần một tháng sau, tôi và một nhiếp ảnh viên lại được một dịp theo chân tướng Loan phi hành ra Huế. Chuyến đi vỏn vẹn có một ngày. Ông trở về cái nơi chốn mà ông đã sống trong những ngày niên thiếu không phải để tìm lại cảnh xưa chốn cũ mà là để chia xẻ những đau thương mất mát của tất cả mọi người ở chốn Cố Đô.
    Vừa ra khỏi phi trường Phú Bài, Tướng Loan đã cùng Giám Đốc Võ Lương bắt tay vào việc ngay. Ông đến thăm các đơn vị Cảnh Sát, ngậm ngùi nhìn những nấm mồ chôn tạm ngay trong khuôn viên của cơ quan. Ngay sau đó, ông cùng các viên chức CSQG địa phương rong ruổi trên đại lộ Lê Lợi vượt qua cầu Bạch Hổ, men theo bờ sông Hương, vượt qua cửa Thương Tứ đến chợ Đông Ba rồi qua Gia Hội để động viên tinh thần những nhân viên Cảnh Sát Quốc Gia đang tham gia xây dựng cư xá Tình Thương. Đây là một công trình do ngành CSQG đài thọ từ A đến Z mà Tướng Loan coi đó như một món quà trao tặng đến các gia đình đồng bào nạn nhân chiến cuộc đang gặp quá nhiều khó khăn.
    Chiều về, khung cảnh cố đô mới ảm đạm làm sao! Phố xá thưa thớt bóng người, nhà nhà cửa đóng then cài. Đất Thần Kinh ủ rũ như một người bịnh chưa hồi lại sức. Cầu Tràng Tiên gục đầu trên mặt Hương Giang như cùng thì thầm thổn thức tiếc nuối cho những ngày thơ mộng thuở nào:
    Tôi đứng trên đầu cầu phía chợ Đông Ba nhìn xuống phía dưới thấy hai em gái nhỏ khoảng chín mười tuổi mặc áo màu hồng đang đưa đôi bàn tay bốc từng bụm cát đắp lên hai ngôi mộ mới. Tự nhiên tôi thấy tim mình se thắt lại, thầm cầu mong đó không phải là chỗ ở của cha mẹ các em.
    Sau một đêm không ngủ, sáng hôm sau chúng tôi lại theo gót tướng Loan trở về Saigon. Tôi vội ghi bài ký sự “Một ngày ở Huế” cho số báo tới với hai câu thơ mộc mạc mở đầu:
    Ngày xưa Huế đẹp Huế mơ
    Bây giờ Huế bị xác xơ điêu tàn.
    Cuộc tấn công của bọn cộng phỉ vào những ngày Tết Mậu Thân 1968 đã kết thúc với những kết quả vô cùng thê thảm và nhục nhã cho bọn chúng. Hơn sáu mươi ngàn tên cán binh đối phương bị loại khỏi vòng chiến kéo theo bao nhiêu sinh mạng của đồng bào vô tội bị chúng sát hại man rợ và để lại một đống hoang tàn trên khắp miền Nam tự do và cũng không hề có bất cứ cuộc tổng nổi dậy nào như bọn chúng mộng du ngáo đá hoang tưởng
    Vài tháng sau, bọn lãnh đạo ngoan cố bất nhân cộng sản miền Bắc lại xua đám tàn quân tiến hành một trận tấn công
    đợt hai giữa lúc nhân dân miền Nam còn đang thổn thức ngậm ngùi sau cơn ác mộng ngày Xuân.
    Tướng Loan, một lần nữa cùng lực lượng Cảnh Sát Thủ Đô xuất trận vào lúc 4 giờ sáng tiến thẳng về trại gà Thanh Tâm bên xa lộ ngăn chặn không cho địch quân tấn chiến Đài Phát Thanh Saigon.
    Tám giờ sáng hôm đó, tôi và một nhiếp ảnh viên được lệnh lên đường thu lượm tin tức. Đến cầu Phan Thanh Giản, thấy súng bắn rát quá, người tài xế nhất định quay xe trở lại. Ba giờ chiều cùng ngày, tin tức từ Trung Tâm Hành Quân cho biết Tướng Loan đã bị trúng đạn gẫy chân và được đưa về điều trị tại bệnh viện.
    Để giữ vững tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ đang chiến đấu và đánh tan các lời đồn đãi bất lợi, Thiếu Tá Chánh Văn Phòng đã cho chụp một bức hình tướng Loan đang nằm trên giường bệnh, nói trong máy bộ đàm phổ biến trên các nhật báo với lời chú thích “Mặc dù bị thương, Tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tổng Giám Đốc CSQG vẫn tiếp tục chỉ huy các lực lượng hành quân truy quét bọn giặc cướp việt cộng.
    Cùng thời gian này, một biến cố đau lòng đã xảy ra tại Trường Phước Đức trên đường Khổng Tử thuộc quận 5 Chợ Lớn. Khoảng bốn năm giờ chiều, bộ tham mưu hành quân CSQG đang họp tại trường này bỗng lãnh một trái đạn rocket từ trên trực thăng Mỹ bắn xuống gây tử thương cho Đại Tá Luân, Giám Đốc Nha CSQG Thủ Đô; Quận Trưởng Nguyễn Ngọc Xinh, Phụ Tá Giám Đốc Nha CSQG Thủ Đô; Thiếu Tá Lê Ngọc Trụ, Trưởng Ty CSQG quận 5 cùng một số sĩ quan khác bị thương trong đó có Đại Tá Trần Văn Phấn, Trưởng Khối Nhân Huấn thuộc Tổng Nha CSQG cụt một chân.
    Tôi đến làm bản tin lễ truy điệu tại hội trường nha CSQG Saigon mà lòng không sao kìm được nỗi xúc động bồi hồi khi thấy Thủ Tướng Trần Văn Hương đứng trước các quan tài đầm đìa nước mắt. Ít ngày sau, Tướng Nguyễn Ngọc Loan âm thầm rời khỏi chức vụ và Đại Tá Trần Văn Hai về thay thế.
    Phần tôi, sau một lần họp với Thiếu Tá Trần Hữu Kinh, Chánh Văn Phòng Đặc Biệt của Đại Tá tân Tổng Giám Đốc, tôi cũng xin rút lui khỏi việc làm báo để đi một nơi xa xôi làm công tác khác.
    Từ đó, tôi không có dịp gặp lại Tướng Loan nữa, nhưng trong lòng vẫn luôn luôn nhớ về ông, một tôn trưởng đầy quí mến trong gia đình Cảnh Sát Quốc Gia VNCH. 
    (Sài Gòn trong tôi/ Chu Kim)

Chim Đã Bay - Phạm Thành Châu

Điểu hoàn nhân diệc chi
(Người vắng bóng rồi, chim đã bay)

Lý Bạch

Năm 1985, tôi ra khỏi tù cải tạo. Trên xe lửa từ Bắc vô Nam, bạn đồng hành cũng là đồng tù với tôi là anh Thi.
Có một nguyên tắc là trong tù không được hỏi nhau về gốc gác. Làm gì, ở đâu, cấp bậc..." Và chuyện gia đình nữa. Ngay cả khi biết rõ về một người nào đó, tuyệt đối cũng không cho người khác biết. Thế nên, trong tù, tuy cùng chung lán, chung đội lao động, nằm cạnh nhau, tôi cũng không biết gì nhiều về anh Thi. Khi lên xe lửa, tôi mới hỏi”Anh về đâu"" ”Tôi về Sài Gòn" ”Vợ con còn ở đó"" ”Có lẽ vậy".
Nghe ”Có lẽ vậy", tôi thấy là có vấn đề nên ngưng ngay và tự giới thiệu ”Tôi cũng về Sài Gòn, ngã ba Cây Quéo" ”Tôi về Hoàng Hoa Thám" ”Vậy là mình ở gần nhau". Trong tù anh Thi lúc nào cũng vui vẻ, nhưng khi ngồi trên xe lửa, anh thường nhìn qua cửa sổ vẻ đăm chiêu. Mỗi hoàn cảnh, người tù phải đối phó một cách riêng. Về đời, bao nhiêu khó khăn đang chờ đợi, khác hẳn trong tù, vì bất lực nên phải gạt hết mọi suy nghĩ để cười mà sống. Người tù, muốn sống sót, nhất là những người không được gia đình thăm nuôi như anh Thi, phải đạt đến cái tâm cảnh của một thiền sư. Phải giữ tinh thần cho vững, phải quên tất cả, không nghĩ đến những gì ngoài tầm tay của mình, phải biết cười với người khác thì mới khỏi âu sầu, sinh bịnh, để rồi bị khiêng đi chôn.
Gần tối, xuống xe lửa, chúng tôi đi bộ về nhà. Ngang qua một tiệm phở, còn chút tiền, chúng tôi ghé vào. Thấy anh Thi có vẻ tư lự, tôi tìm cách cho anh ta vui nên khi phở bưng ra, tôi xoa tay chào tô phơ û”Chà! Hơn mười năm mới gặp lại mầy". Anh Thi chỉ mỉm cười nhưng cũng sốt sắng cầm đũa.
Trong lúc trò chuyện với chủ hàng phở, chúng tôi mới biết hôm đó là ngày ba mươi tết. Khi ra đường, tôi đề nghị sẽ cùng đi đến nhà anh trước, để biết nhà, sau nầy dễ thăm nhau, sau đó tôi mới về nhà mình. Anh ngần ngừ một lúc rồi đồng ý.
Đến đường Hoàng Hoa Thám, chúng tôi vào một con hẻm tối mù. Nhờ ánh đèn các nhà hai bên, chúng tôi dò dẫm đi được một quãng ngắn thì anh Thi bảo ”Anh đứng đây chờ tôi. Trước đây chúng tôi ở nhờ bên gia đình vợ, hiện nay không hiểu tình trạng ra sao" ”Vâng. Có gì anh ra cho tôi hay”
Nói thế nhưng chờ anh ta đi được mấy bước, tôi cũng đi theo, không cho anh ta biết. Anh ta đến một căn nhà gạch nhỏ, còn để đèn, tần ngần một lúc rồi gõ cửa, nách vẫn kẹp cái bọc đồ tù. Một chị đàn bà bồng con đi ra, theo sau là một thằng bé trên mười tuổi. Tôi nghĩ, nếu đó là vợ anh Thi, thì chị ta đã có chồng khác rồi, vì đứa bé trên tay chị ta, độ vài tuổi, không thể là con anh Thi được. Chị đàn bà nói gì đó. Anh Thi không trả lời, quay gót bước ra. Tôi lùi lại chỗ cũ, làm như không thấy gì.
Anh ta yên lặng qua mặt tôi. Tôi quay nhìn, thấy chị đàn bà bồng con và thằng bé ra đường đứng nhìn theo. Ra đường lớn, anh Thi hỏi tôi”Anh có thể cho tôi trọ đỡ một đêm được không"” Tôi sốt sắng ”Được chứ! Nhưng đây không phải nhà của tôi. Trước ba mươi tháng tư năm 1975, tôi đưa vợ con từ ngoài Trung vào ở nhờ người bà con, sau đó vợ con tôi về lại ngoài Trung, sống với gia đình bên vợ. Tôi sẽ nói với chủ nhà, nếu họ không chịu thì tôi với anh ra ngủ lề đường, rồi sẽ tính sau".
Chúng tôi, mỗi đứa ôm một gói đồ tù, quay lại ngã ba Cây Quéo. Khi tìm được nhà người bà con thì thấy nhà đóng cửa, tắt đèn tối thui. Gõ cửa, không ai mở. Họ đi vắng cả rồi.
Hai đứa tôi trở ra, lang thang xuống chợ Bà Chiểu xem chợ tết. Bánh trái, áo quần đầy chợ, tràn ra cả lề đường, người chen lấn nhau. Chúng tôi qua cầu Sắt, lên chợ Đa Kao, qua chợ Tân Định, ra đường Hai Bà Trưng rồi ngồi nghỉ mệt trên hiên nhà người ta. Chuyện trò một lúc, thấy đã khuya, chúng tôi lấy dép làm gối, rồi mặc cho muỗi đốt, chúng tôi vừa đói vừa mỏi chân, ngủ vùi một giấc. Hôm sau tỉnh dậy thì trời đã sáng.
Ngày tết ở Sài Gòn, đường phố vắng hoe, chỉ mấy gia đình kinh tế mới ngủ lề đường gần đó đang cuốn chiếu, gấp mùng, bỏ vào bị cói, đem gửi đâu đấy rồi tản mác khắp nơi để kiếm sống. Hai đứa tôi ngồi vấn thuốc hút, chuyện trò một lúc thì đứng lên, đến chợ Tân Định, tìm vòi nước, súc miệng rửa mặt xong mua mỗi đứa một ổ bánh mì không nhân (rẻ tiền), vừa đi vừa trẹo trạo nhai. Thật ra, tôi và anh Thi cũng có vài người thân quen ở Sài Gòn, nhưng mồng một tết mà mang thân tàn ma dại đến nhà người ta, chẳng ai vui. Thời đó, ít ai dám rây với tù cải tạo. Đa số bà con, bạn bè, thấy tù là họ làm mặt lạ, chứa trong nhà thì sợ công an đến hỏi thăm.
Suốt ba ngày tết, mỗi ngày chúng tôi chỉ ăn một ổ bánh mì không nhân, tối ngủ hiên nhà người ta, sáng dậy đi. Đi rã chân thì ngồi bên đường nghỉ một lúc rồi đi tiếp. Cứ lang thang mà chẳng biết đi đâu" Sài Gòn ngày tết vắng vẻ và buồn quá!
Chiều mồng ba tết, chúng tôi quyết định trở lại nhà người bà con ở Cây Quéo. Hóa ra, gia đình đó vẫn ở chỗ cũ, những ngày cuối năm mọi người đều ra chợ bán dưa hấu. Họ đang cúng đưa ông bà. Chúng tôi được tiếp đón rất thân tình, vui vẻ. Họ đem thức ăn trên bàn thờ xuống, giục chúng tôi đi tắm. Anh con trai lớn biếu chúng tôi, mỗi người một bộ đồ, cũ nhưng sạch sẽ, mặc vào, soi gương, thấy như vừa lột xác, thành người văn minh, hoạt bát.
Trong lúc ăn uống, chủ nhà hỏi chuyện gia đình, hỏi dự định sinh sống ra sao" Khi nghe anh bạn tôi nói bị vợ bỏ, không cho vô nhà, chủ nhà bảo, nên thông cảm cho người đàn bà, chân yếu tay mềm, chồng bị tù không biết ngày nào về hay bỏ xác trong tù, trong khi con cái phải cần cái ăn mới sống.
Lần đầu tiên, sau hơn mười năm, chúng tôi mới được thưởng thức một bữa cơm ngon lành nhờ không khí thân mật, ân cần của gia đình ân nhân đó. Có một tâm lý kỳ lạ mà phải mấy năm sau, người tù mới bớt bị ám ảnh, đó là thấy dọn nhiều món ăn, cứ thắc mắc sao không để dành cho ngày mai mà lại dọn cả lên, phí quá! Vì trong tù ngày nào cũng chỉ một ít khoai mì (hoạ hoằn mới có cơm), cùng với ca nước muối, lõng bõng vài cọng rau. (Sau nầy qua Mỹ, sống sung túc, trong bữa ăn chúng tôi cũng chỉ dọn vài món là tối đa).
Sau bữa ăn, chủ nhà bảo, chúng tôi cứ ở lại đây, khi nào có việc làm, kiếm được tiền thì muốn ở đâu tùy ý. Chúng tôi xin được ngủ dưới đất hay sau hè cũng quí rồi. Chủ nhà cho biết, nhà quá chật, nhưng có cái chuồng heo, nuôi heo nhưng bị bịnh dịch, đã bán hết cả, bây giờ chuồng bỏ trống, sẽ gác trên vách chuồng một cái sạp, làm chỗ ngủ tạm. Chủ nhà cũng quen với công an khu vực, hi vọng sẽ không bị làm khó dễ.
Thế là chỉ vài tuần sau, chúng tôi đã có việc làm. Tôi bán vé số bên đường chỗ Bộ Xã Hội cũ, trước nhà thờ Đức Bà. Anh Thi, vốn cao lớn, lúc ra tù ốm trơ xương, sau nhờ được ăn uống đầy đủ, trở nên mạnh khỏe, nên hành nghề đạp xích lô. Tất cả là nhờ mọi người trong gia đình đó tận tâm giúp đỡ.
Sáng sớm, chúng tôi dậy, ra đầu ngõ uống li cà phê rồi lên đường kiếm sống, buổi chiều, chúng tôi về nhà ăn cơm. Mỗi tháng chúng tôi gửi chủ nhà ít tiền. Vợ tôi được tin chồng ra tù, bèn dẫn con vào thăm. Vợ tôi khuyên nên ở lại Sài Gòn, không khí dễ thở hơn (cô sẽ tìm cách vào với tôi sau), đừng về ngoài Trung, chính quyền địa phương rất khó khăn. Bạn tôi thỉnh thoảng có đến trường gặp thằng con, (là thằng bé mà tôi thấy hôm anh ta đến nhà vợ) cho ít tiền ăn quà và dặn đừng cho mẹ nó biết. Anh ta dự định sẽ đón con về ở chung, nhưng không cách nào thực hiện được vì chính bản thân anh ta còn chưa biết sẽ ra sao"
Đến đầu năm 1990, có chương trình HO đi Mỹ. Với tôi thì lo hồ sơ không khó khăn lắm, nhưng anh Thi thì bị kẹt vì vợ anh ta không cho mượn hộ khẩu để làm giấy tờ. Anh ta đến năn nỉ vợ, hứa lập danh sách vợ, các con và cả bà mẹ vợ nữa để cùng đi, khi đến Mỹ anh ta sẽ làm giấy li dị để chị ta về lại Việt Nam làm hôn thú đón chồng sau qua Mỹ. Nhưng nói gì, chị ta cũng nhất quyết lắc đầu, mời anh ta ra khỏi nhà. Không cho mượn là không! Cuối cùng nhờ chạy chọt, hồ sơ anh ta cũng được chấp nhận, trong đó có tên thằng con.
Nhờ người bạn tù vượt biên qua trước bảo trợ, gia đình tôi và anh Thi được qua cùng tiểu bang, nhà gần nhau. Vừa đến Mỹ là anh Thi lăn lưng vào việc kiếm tiền. Anh ta làm hai jobs ”Tôi phải có một căn nhà cho con tôi. Phải chuẩn bị tiền nong khi nó vào đại học. Lúc ở Việt Nam, nó đã bị đói khổ, bị đánh đập, nay nó phải được đền bù".
Thời đó, khoảng thập niên 1990, nhà ở Mỹ còn rẻ. Bạn tôi mua nhà, sắm xe mới cho con, nhưng anh vẫn lùi xùi như lúc còn ở Việt Nam. Anh ta đi làm từ sáng sớm, gần khuya mới về. Thằng con anh ta, đi học về là đến thẳng nhà tôi ăn cơm. Vợ tôi còn bới thức ăn để nó mang về cho bố nó.
Sau bao nhiêu năm tù đày, nay được đến xứ tự do cùng gia đình, chúng tôi dốc hết sức lực còn lại để kiếm tiền cho con cái theo đuổi việc học hành. Mục tiêu, ước vọng của chúng tôi là các con nên người, đủ sức đua chen với đời. Khi đứa con anh Thi tốt nghiệp đại học, có việc làm ổn định, theo đề nghị của chúng tôi, anh ta chỉ làm một job. Buổi sáng, tôi và anh ta ra tiệm cà phê ngồi chuyện trò, cuối tuần, chúng tôi nấu nướng, cùng với các bạn khác, ra sau nhà ăn uống, chuyện trò.
Thấy anh Thi độc thân, chúng tôi dự định tìm cho anh ta một người đàn bà, làm bạn, để giúp đỡ, nương tựa nhau trong quãng đời còn lại.
Vợ tôi có một cô bạn, chủ một tiệm nail (làm móng tay), tuổi trên bốn mươi, chồng chết đã hơn năm năm nay, tính tình đàng hoàng, hiền lành, dung nhan còn đẹp đẽ, hấp dẫn. Với chủ ý cho anh Thi và cô bạn tìm hiểu nhau nên mỗi khi tổ chức ăn uống cuối tuần, chúng tôi mời cô ta đến chung vui, rồi làm như vô tình, sắp xếp cho hai người ngồi gần nhau.
Khi biết anh Thi còn cô đơn, cô ta không còn e ngại, giữ kẽ nữa mà vui vẻ góp chuyện với mọi người. Anh Thi, đã bớt trầm tư mà trở nên hoạt bát, lịch sự tiếp món ăn cho cô ta, đôi khi lại thì thầm như có chuyện riêng tư với người đẹp. Khoảng vài tháng sau, theo thường lệ, vợ tôi gọi điện thoại mời hai người đến dự bữa cơm gia đình thì cả hai đều trả lời rằng bận việc, không đến được. Hóa ra họ đưa nhau đi nhà hàng.
Cô bạn tâm sự với vợ tôi ”Em thấy vẻ mặt ảnh buồn buồn, em thương quá! Em mời ảnh đi ăn riêng để tìm hiểu tâm sự ảnh, nhưng ảnh chỉ cười bảo, tính ảnh vậy thôi chứ không có gì đáng nói.”Vợ tôi trấn an ”Chị đừng bận tâm. Mấy ông ”mất nước” lâu lâu xụ mặt, thở ra, nhưng sau đó lại vui vẻ như thường. Ông xã em cũng vậy. Nhưng theo yêu cầu của chị, để em hỏi ông xã em, xem anh ta có chuyện gì ấp ủ trong lòng mà không nói ra" ”Chị có biết gì về cô vợ trước của ảnh không" Theo ảnh kể thì cô ta đối xử rất tệ bạc với ảnh khi ảnh đi tù về. Có thật vậy không"" ”Chuyện nầy thì chắc chắn, vì ông xã em ra tù cùng một ngày, cùng đến nhà vợ anh ta, ông xã em thấy tận mắt chị ta đuổi ảnh, không cho vô nhà. Dù sao em cũng sẽ hỏi lại thằng con ảnh xem nội vụ ra sao rồi sẽ báo với chị sau" ”Em thương ảnh thì em cũng chấp nhận hoàn cảnh, tâm sự của ảnh. Em chỉ muốn biết để an ủi ảnh, làm cho ảnh vui. Chị biết không, khi có em bên cạnh, ảnh rất vui, thương em và chiều chuộng em nhiều lắm" ”Vậy thì được rồi. Biết ảnh thương yêu chị là đủ rồi. Người đàn ông nào cũng vậy, mình hết lòng, hết dạ với họ thì dù có tâm sự, chuyện riêng tư họ cũng bỏ hết mà về với mình, chỉ biết một mình mình thôi. Chị yên tâm mà vui với ảnh. Cứ thắc mắc, lo lắng hoài chi cho mệt trí. Đời người có bao lâu đâu. Vui lên đi chị ơi!”
Cô bạn nhắc đến chuyện tư lự của anh Thi, chúng tôi mới nhớ lại, khi đến nhà chúng tôi ăn cơm, nhiều lúc, đang chuyện trò, anh ta bỗng nhiên ngưng nói, trông như người mất hồn. Ăn xong, anh ta mang lon bia ra sau nhà, đứng một mình cả giờ đồng hồ.
Tuy nói thế nhưng vợ tôi cũng gọi thằng con anh Thi đến để hỏi về mẹ nó ở Việt Nam hiện nay ra sao, có thường liên lạc với ba nó không" Thằng nhỏ kể ”Mấy lần mẹ con bên Việt Nam gọi điện thoại cho con, nhờ con thưa với ba con, xin ba con tha thứ và bảo lãnh cho mẹ con qua đây để săn sóc cho ba con. Mẹ con nói hiện nay ở Việt Nam, mẹ con không có khó khăn gì về đời sống, chỉ sợ ba con đã lớn tuổi, khi đau ốm không ai săn sóc, lo cơm nước. Mẹ con có dặn là đừng gởi tiền về, mẹ con không nhận đâu. Mẹ con cứ nhắc con thưa với ba con nhiều lần mà con không dám. Một lần con chỉ thưa với ba con là mẹ con có gọi điện thoại hỏi thăm. Chỉ mới chừng đó thôi mà ba con nổi nóng, ba con la ”Nói bà ấy đừng gọi điện thoại qua đây nữa. ”Một buổi tối, mẹ con gọi điện thoại nhằm lúc ba con ở nhà, ba con bắt máy. Không biết mẹ con nói gì mà ba con la hét vào máy như người nổi cơn điên ”Xin xỏ gì" Lỗi phải gì" Bát nước đổ xuống đất rồi, có hốt lại được không" Bà đừng hòng năn nỉ, khóc lóc vô ích. Bà thử xét lại lương tâm bà đi. Từ nay tôi cấm bà không được gọi điện thoại cho thằng con tôi, không được gọi điện thoại về nhà nầy. Bà nhớ chưa" Tôi cấm bà. Tôi cấm bà!...”
Ba con đập cái điện thoại bể tan rồi ngồi ôm đầu, gục xuống. Con sợ quá, vào phòng đóng cửa lại. Từ đó, thỉnh thoảng mẹ con chỉ gọi điện thoại cho con hỏi thăm chuyện ăn uống, sức khỏe ba con ra sao, nhưng dặn đừng nói lại với ba con, sợ ba con giận"
”Con có nói với mẹ con về chuyện ba con có bạn gái chưa""”Hôm trước con có kể là ba con vừa quen được một bà, hai người thường đưa nhau đi ăn tiệm. Mẹ con hỏi tính tình người đàn bà đó ra sao" Công việc làm ăn của bà ta thế nào" Có để ý săn sóc cho ba con không hay chỉ đưa nhau đi ăn rồi ai về nhà nấy" Mẹ con hỏi nhiều lắm, sau đó mẹ con nói cũng mừng cho ba con, mong cho hai người sống chung để ba con có người săn sóc, lo lắng miếng ăn giấc ngủ. Ba con đi tù về, tuổi cũng lớn rồi, sức khỏe suy yếu, cần có người đàn bà bên cạnh. Mẹ con vừa nói vừa khóc. Không hiểu sao con cũng khóc theo. Con rất nhớ mẹ con nhưng ba con cấm con về Việt Nam thăm mẹ con. Ba con giận mẹ con nhiều lắm"
”Con có biết gì về người chồng sau nầy của mẹ con không"" ”Lúc con ở chung với mẹ con, ổng chẳng tử tế gì với con. Bị bỏ đói và bị bợp tai, đá đít hoài, nhưng con biết thân phận, im lặng chịu đựng. Lần trước, mẹ con gọi điện thoại kể với con rằng hai người đã chia tay, ông ta đi đâu mất, không hề gặp lại. Con chỉ nghe vậy thôi chứ không hỏi thêm".
Vợ tôi gọi đến cô bạn kể rằng, Anh Thi coi bộ thù chứ không chỉ giận cô vợ ở Việt Nam và đề nghị hai người nên về sống với nhau. Cứ đi ăn tiệm rồi ai về nhà nấy mãi sao" Cô bạn nói ”Có mấy lần ảnh mời em về nhà, nhưng em cũng chỉ đến thăm một lát rồi về. Em có bàn với ảnh, nếu muốn sống chung thì nên cưới hỏi đàng hoàng. Em không muốn bị dị nghị nầy nọ. Ảnh nói cũng được, nhưng còn ngại, nếu cưới hỏi, làm hôn thú thì ảnh không muốn rắc rối chuyện của cải, tài sản của em. Ảnh sợ mang tiếng mà các con em cũng không bằng lòng" ”Nếu vậy thì làm một buổi tiệc nho nhỏ ở nhà hàng, mời bà con, bạn bè đến dự, coi như ra mắt để hợp thức hóa chuyện hai người sống chung nhau”
Tiệc cưới hôm đó có khoảng năm mươi người tham dự, gồm bạn bè và cả con cái của hai người. Thế là cô ta dọn về ở với anh Thi. Những ngày đầu, hai người có vẻ hạnh phúc lắm. Cô ta thường gọi điện thoại kể chuyện sinh hoạt trong gia đình, việc nấu nướng, săn sóc, chiều chuộng nhau. Hai người còn đưa nhau đi du lịch bên Châu Âu nữa. Thấy họ vui vẻ, thân ái, quấn quít nhau như vợ chồng trẻ, chúng tôi cũng mừng.
Nhưng rồi, khoảng một năm sau, cô ta gọi điện thoại tâm sự với vợ tôi ”Lối rày hình như ảnh trở lại vẻ suy tư, lơ đãng. Em nói chuyện với ảnh cả buổi, ảnh ậm ừ mà chẳng biết em nói gì" Buổi tối, ăn cơm xong, ảnh đem bia ra sau nhà, ngồi uống một mình, đến khuya mới vô. Em chẳng hiểu ra sao cả!"” Vợ tôi tưởng chuyện chẳng có gì quan trọng nên an ủi” Ông xã em cũng thường uống rượu một mình. Đàn ông đôi khi thích suy nghĩ những chuyện trên trời dưới đất. Em cũng thường để cho ổng những phút riêng tư, coi như tôn trọng họ vậy thôi chứ không sao đâu. Chị đừng để ý đến!"
Không ngờ, một buổi chiều, đi làm về, tôi thấy cô vợ của anh Thi ngồi tỉ tê, mếu máo với vợ tôi. Hỏi ra mới biết là vì anh chồng uống rượu mà cô ta giận, xách va li về nhà mình. Khi đi ngang nhà tôi, cô ta ghé vào tâm sự. ”Vợ chồng, tuy chưa sống với nhau đủ để có cái nghĩa thì cũng có cái tình. Em thương ảnh, ảnh biết nên cũng tỏ vẻ chiều chuộng, săn sóc, lo lắng cho em, nhưng em linh cảm như ảnh làm bổn phận. Em thấy như xa cách, như không thật tình. Em với ảnh đâu còn trẻ dại, sống với nhau là để sau nầy nương tựa nhau, giúp đỡ nhau trong lúc tuổi già, ốm đau, bịnh hoạn, vui buồn có nhau thì những gì riêng tư thầm kín cũng nên cho nhau biết để an ủi, chia sớt nhau mới nhẹ lòng. Vậy mà em hỏi. Sao ảnh buồn" Ảnh lắc đầu. Em giận quá mới nói ”Em về nhà, cho anh được yên tĩnh mà suy tư". Vậy là em xách va li về đây. Có lẽ hồn vía ảnh bị cô, bà nào bắt mất rồi chị ơi!". Vợ tôi vọt miệng”Dám ảnh bị hồn ma bóng quế nào ám rồi. Phải mời thầy đến cúng, cho bùa trừ ma...”Tôi la vợ tôi ”Em hay tin nhảm nhí!” Rồi tôi trấn an cô vợ bạn ”Vợ chồng trẻ nhìn tương lai toàn màu hồng, thấy cuộc sống dễ dàng quá, nhưng đến tuổi gần về chiều thì mất tự tin, bị ám ảnh bởi tuổi già với những bất trắc, bịnh hoạn, tử biệt sanh ly nên thường lo sợ, buồn phiền vu vơ. Tôi với ông xã chị bị tù cả chục năm, tâm trí không còn bình thường nữa, khi về với xã hội vẫn còn vụng về trong cư xử. Hơn nữa ảnh đã trải qua quá nhiều đau khổ vì chuyện gia đình, nay có chị bên cạnh là một an ủi lớn cho ảnh. Chị yên tâm. Ngoài chị ra, ảnh không thương yêu ai đâu. Nên trở về mà lo cơm nước, kẻo ảnh bị đói tội nghiệp". Cô có vẻ xiêu lòng nhưng vẫn lắc đầu. Tôi bảo ”Hay là chị cứ ngồi đây. Tôi đến kêu ảnh qua rước chị".
Tôi ra xe, vợ tôi chạy theo, thì thầm ”Tối nào cũng say mềm rồi lăn ra ngủ! Hỏi ảnh có phải vì chuyện đó thì tìm cho ảnh ít thuốc ”Tôi phì cười ”Cũng có thể. Để anh xem.”
Tôi lái xe qua, đẩy cửa bước vào. Anh Thi đang ngồi uống bia, nhìn cái TV., chỉ chiếu hình chứ không có tiếng nói. Cũng không chắc anh ta nhìn cái màn hình hay nhìn vách tường sau TV.
Tôi ngồi xuống bên cạnh. Anh ta mở cho tôi một lon bia. Tôi yên lặng cầm lon bia. Một lát, tôi nói ”Bà xã anh qua nhà tôi...".
Anh ta vẫn nhìn cái TV .”Tôi biết. Trước sau gì bả cũng bỏ tôi. Tôi muốn xin lỗi bả từ lâu"
”Tôi thấy hai người đâu có gì trở ngại...”
Anh ta lắc đầu như muốn xua đuổi một ý nghĩ, muốn ngăn mình đừng nói ra một điều gì. Tôi nói ”Qua nhà tôi đón bả về", rồi yên lặng chờ đợi.
Anh Thi cầm lon bia lên nhưng lại để xuống, bàn tay rung lên nhè nhẹ. Rồi bỗng anh ta ôm mặt, cúi xuống.
Một lúc thật lâu, anh ta thở ra, giọng lạc hẳn ”Tôi thương nhớ vợ tôi. Tôi không thể nào nguôi thương nhớ vợ tôi".
Phạm Thành Châu

Friday, August 21, 2020

Liên Ðoàn Người Nhái - Lê Quán

Như mọi người đều biết lịch sử Việt Nam có kể rằng khi xưa chúng ta có người nhái Yết Kiêu nổi tiếng vì đã làm cho quân Tàu thất điên bát đảo trong các trận trên sông Lô, sông Bạch Ðằng v.v... Suốt trong thời gian đô hộ của người Pháp, Hải Quân Pháp chưa bao giờ đào tạo người nhái Hải Quân, vì vạạy ít có ai biết người Nhái là gì và hoạt động của họ ra sao. Ngay cả thời kỳ đầu tiên Quân Ðội Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam họ cũng chưa chịu cho Việt Nam gởi nhân viên sang Hoa Kỳ thụ huấn về ngành này.
Tổng Thống Ngô Ðình Diệm và Tổng Thống Tuởng Giới Thạch nguyên là hai người bạn chí thân. Nhân dịp thăm viếng Ðài Loan của Tổng Thống Diệm vào đầu năm 1960, Người Nhái Ðài Loan đã biểu diễn cho Tổng Thống Diệm và phái đoàn tháp tùng xem những ngón nghề đặc biệt của họ tại bờ biển Cao Sùng. Sau khi đã chứng kiến cuộc thao diễn. Tổng Thống Diệm đã hết sức thích thú, ông quay sang hỏi Hải Quân Thiếu tá Lâm Ngươn Tánh, "Hải Quân Việt Nam đã có cái ni không ?". Ông Tánh trả lời, "Dạ thưa Tổng Thống không có". Tổng Thống Diệm bèn xoay qua nói với vị Tổng Tư Lệnh Quân Ðội Ðài Loan, "Sau khi về nước thế nào tôi cũng gửi một số người qua Ðài Loan nhờ các ông huấn luyện dùm về ngành này". Vị Tổng Tư Lệnh Quân Ðội Ðài Loan vui vẻ nhận lời.
Hải Quân Trung tá Hồ Tấn Quyền, Tư Lệnh Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa lúc đó đã nhận được chỉ thị của Tổng Thống Diệm lo tuyển mộ nhân viên đủ sức khỏe và bơi lội giỏi để gửi đi du học Ðài Loan. Trong một buổi sáng đẹp trời tôi được lệnh trình diện Trung tá Quyền ngay lập tức. Ông Quyền bảo tôi, "Anh lội giỏi, tôi sẽ gửi anh qua Ðài Loan học Nguời Nhái". Tôi nghe được đi Ðài Loan học Người Nhái thì rất ngạc nhiên vì không biết người nhái là cái gì. Nhưng nghe nói được đi học thì cũng khoái chí nên nhận lời.
Vào tháng 7 năm 1960, chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa gửi một toán người lên đường du học Ðài Loan trong đó có 8 người gốc Hải Quân, trong đó có ông Lâm Nhựt Ninh, 5 người gốc Ðịa Phương Quân và 3 người gốc Lực lượng Ðặc Biệt 77, tổng cộng là 16 người, gồm 2 Sĩ Quan, 14 Hạ Sĩ Quan và Ðoàn viên. Sau 5 tháng huấn luyện tại Cao Sùng, Ðài Loan, có 14 người trúng tuyển và 2 người rớt vì thể lực yếu kém.
Hai tháng sau khi mãn khóa ở Ðài Loan về, Hải Quân Việt Nam có tổ chức một cuộc thao diễn ở Vũng Tàu để Tổng Thống Diệm duyệt khán. Báo chí dạo đó đã loan tin đầy đủ về cuộc biểu diễn của Người Nhái này.
Mặc dầu Hải Quân Hoa Kỳ chưa chấp thuận huấn luyện Người Nhái cho Hải Quân Việt Nam tại Hoa Kỳ, nhưng sau khi họ được biết có một số nhân viên đã được huấn luyện ở Ðài Loan về thì họ khai thác ngay. Hải Quân Hoa Kỳ đã gửi nhân viên và dụng cụ Người Nhái từ Hoa Kỳ sang để huấn luyện bổ túc cho 8 người nhái của Hải Quân Việt Nam và 3 người của Lực lượng Ðặc Biệt 77 trong hai tháng tại Nha Trang. Mục đích của cuộc huấn luyện này là để học cách đột kích phá hoại các chiến hạm cuả hải quân của Bắc Việt tại miền Bắc.
Trong lần đầu tiên bí mật đột kích phá hoại tại Hòn Cọp, Bắc Việt, toán Người Nhái đã được chia làm 2 tổ, mỗi tổ 2 người. Họ xuất phát từ Ðà Nẳng bằng ghe Hải Thuyền trong một đêm tối trời vượt sông Bến Hải tiến tới Hòn Cọp với dụng cụ lặn và mìn từ tính nổ chậm. Tổ thứ nhất của Hải Quân là anh Lê Văn Kinh và Nguyển Hữu Thảo, tổ thứ nhì thuộc Lực Lượng Ðặc Biệt 77 với các anh Nguyễn Văn Tâm và Lê Văn Chuyên. Trong khi đặt mìn vào tàu của Bắc Việt không hiểu lý do nào, mìn nổ quá sớm trong lúc các Người Nhái đang trên đường lội ra khơi để rút lui. Vì lý do đó mà họ bị phát giác, anh Lê Văn Kinh bị bắt, còn 3 người kia không chịu đầu hàng bắn vào quân Bắc Việt và đã bị sát hại ngay tại trận. Sau đó độ một tuần lễ, trong một buổi phát thanh đã nói rằng, "Một thanh niên vạm vỡ miền Nam ra trước tòa án nhân dân khai rằng...". Ðó là anh Lê Văn Kinh, tòa án VC xử khổ sai chung thân và nghe nói anh được phóng thích vào năm 1980 và trở về miền Nam với một chân bị tàn phế vì bị tra tấn bằng điện.
Năm 1961 Người Nhái Hải Quân Việt Nam với sự hợp tác của Người Nhái Hoa Kỳ đã huấn luyện một khóa Biệt Hải tại Ðà Nẵng với 35 khóa sinh. Năm 1963 Khóa I Người Nhái tại Nha Trang được khai giảng với 41 người đều tốt nghiệp. Khóa II Người Nhái cũng được tổ chức tại Nha Trang vào năm 1965 với 48 người tốt nghiệp. Khóa III Người Nhái được tổ chức tại Vũng Tàu với 45 người tốt nghiệp vào năm 1968. Sau đó Khóa IV - V - VI được tổ chức tại Cam Ranh với tổng số khóa sinh thụ huấn khoảng 150 người cho cả ba khóa.
Năm 1970 vì sự thiếu hụt trầm trọng của Sĩ Quan Người Nhái cho nên Bộ Tổng Tham Mưu đã chấp thuận cho Liên Ðội Người Nhái đến Trường Bộ Binh Thủ Ðức để tuyển mộ. 20 sĩ quan bộ binh đã được tuyển mộ, họ được gửi đến Trường Anh Ngữ Quân Ðội học tiếng Anh và sau đó được Hải Quân Hoa Kỳ gửi đi thụ huấn khóa đặc biệt Người Nhái SEAL (Sea, Air and Land). Trong số 20 sĩ quan chỉ có 11 người tốt nghiệp và sau khi về Việt Nam chiến đấu một thời gian, hơn phân nửa đã tử trận.
Năm 1968 Hoa Kỳ đã chấp thuận cho Hải Quân Việt Nam gửi sĩ quan và nhân viên đến Mỹ và Phi Luật Tân để thụ huấn về các khóa như trục vớt (salvage) chuyên vớt các tàu chìm; khóa tháo gỡ chất nổ EOD (explosive ordinance disposal), chuyên tháo gỡ chất nổ và bảo vệ các chiến hạm đậu và neo trong các sông rạch và các hải cảng, chống Người Nhái địch đặt mìn phá hoại; khóa UDT (Under water demolition team) chuyên phá hủy các chướng ngại vật tại các bờ biển và hải cảng cũng như đặt mìn phá tàu địch.
Kể từ ngày có ba đơn vị được thành lập vào năm 1970 thì Liên Ðội Người Nhái được đổi danh hiệu là Liên Ðoàn Người Nhái. Do đó Liên Ðoàn Người Nhái có ba đơn vị chính thức và mỗi đơn vị chịu trách nhiệm hoạt động theo những ngành chuyên môn riêng biệt của họ.
Ðơn vị Hải Kích SEAL (Sea, Air and Land) chuyền về đột kích bất thần vào các sào huyệt của địch, đơn vị này đã tạo được rất nhiều chiến công oanh liệt. Họ đã tấn công chớp nhoáng vào các mật khu của địch, nhất là trong lúc có buổi hợp mặt của các cán bộ cao cấp của địch, Họ đã đánh và giải thoát các tù binh. Họ đã ngụy trang với quần áo bà ba đen và trang bị súng AK 47, đội nón cối, đi dép Bình Trị Thiên giống hệt như quân Việt Cộng để hoạt động trong lòng đất địch. Nhiều khi họ đã len lỏi vào hàng ngũ địch, ngồi ăn cơm với chúng mà chúng không biết. Ðã nhiều lần họ đột kích bí mật vào lãnh thổ miền Bắc bằng xuồng cao su và bơi từ ngoài khơi vào bờ. Trong thời gian cuộc chiến Việt Nam kéo dài đơn vị này đã làm cho Việt Cộng ăn không ngon, ngủ không yên, vì không còn biết đâu là nơi an toàn.
Miền Nam nước Việt có nhiều sông rạch vì vậy Việt Cộng lúc nào cũng tìm cách làm tắc nghẹn các thủy lộ của chúng ta bằng cách đánh chìm tàu bè của chúng ta để cản trở sự lưu thông bằng đường thủy. Vì vậy mỗi lần có tàu chìm ở đâu là Ðơn vị Trục Vớt được cấp thời phái tới để giải tỏa lưu thông. Ðơn vị này đòi hỏi người chỉ huy phải giỏi tính toán, biết nhiều vê kỹ thuật và có nhiều kinh nghiệm.
Vào năm 1968 cho tới khi chấm dứt chiến tranh Việt Cộng tăng cường phá hoại bằng cách thả Người Nhái đột kích phá hoại các tàu bè của ta và Ðồng Minh neo và đậu tại các bến, và trong các sông ngòi. 
Ðơn vị Tháo Gỡ Chất Nổ (EOD) đã hoạt động chống Người Nhái địch một cách rất hữu hiệu. Họ đã bắt sống và tiêu diệt nhiều Người Nhái địch và tháo gỡ nhiều trái mìn nổ chậm do Người Nhái Việt Cộng đặt vào tàu bè của ta.
Tóm lại để trở thành một Người Nhái? Phải có đầy đủ sức khỏe, phải lội ít nhất là 2 hải lý, và có đủ sức khỏe để chịu đựng bền bỉ suốt 18 tuần lễ huấn luyện cơ thể và tinh thần.
Những môn huấn luyện chánh thức gồm có: bơi lội, thể dục, chạy bộ, cận chiến, mưu sinh, nhảy dù, chất nổ, thám sát bờ biển, phá hủy chướng ngại vật, đột kích, chèo thuyền cao su, lặn sâu 130 bộ Anh. Trong 18 tuần lễ huấn luyện này đặc biệt có một tuần lễ được mệnh danh là tuần lễ "địa ngục" (hell week). Tuần lễ này là tuần lễ thứ ba và bắt đầu từ 8 giờ sáng thứ hai và chấm dứt vào 4 giờ chiếu thứ sáu. Nói vế tuần lễ này thì đọc giả phải cố gắng hình dung ra đời sống ở địa ngục so với đời sống ở trần gian. Suốt cả tuần lễ khóa sinh được ăn nhưng không được ngủ. Suốt này bị bắt buộc chạy bộ, bơi lội, chèo thuyền v.v... Huấn luyện viên quấy rầy và hành hạ thân thể khóa sinh tới mức tối đa và không ngưng giây phút nào. Suốt cả tuần lễ mặc dầu được cho ăn nhưng không ai ăn uống gì được cả vì quá mệt mỏi. Mỗi bữa ăn chỉ giỏi lắm là ăn được hai miếng là cùng. Phần nhiều khóa sinh chỉ lấy một múi cam hay chanh để bỏ vào miệng ngậm cho đở đói khát rồi mau mau rời bàn ăn để đi tìm chỗ ngả lưng một tí. Nhưng khi vừa nằm xuống chưa đầy một phút là nghe tiếng còi ré lên và phải chạy ngay đến chỗ tập họp. Tất cả phải vội vã đến cho nhanh chóng vì mỗi lần trễ là phải bị phạt ít lắm là 50 cái "hít đất". Tôi còn nhớ trước tuần lễ Ðịa Ngục một ngày, ông xếp nhà bếp có đi hỏi từng người một là muốn ăn món gì để họ nấu. Người thì đòi ăn tôm hùm, người thì đòi ăn "beef steak" v.v..., toàn là những món cao lương mỹ vị, nhưng khi tới bữa ăn thì chỉ có nước ngồi mà ngó những món ăn ngon lành đã dọn sẵn nhưng chẳng ai thèm đụng tới. Nội trong tuần lễ này có độ 50 đến 60 phần trăm khoá sinh bị loại, vì không chịu đựng nổi sự hành hạ thể xác cũng như tinh thần.
Tôi còn nhớ một tác động mạnh về tâm lý mà các huấn luyện viên đã dạy cho khóa sinh như sau: Một hôm nọ, tất cả khóa sinh được dẫn cả ra bờ biển, cho chạy trên cát nóng độ gần 3 tiếng đồng hồ. Dĩ nhiên là cả bọn mệt lả. Sau đó họ dẫn tất cả về trường và tập họp lại. Ông Ðại úy Chỉ huy trưởng hỏi mọi người: "có ai mệt không?" Tất cả đều im lặng, ngoại trừ một khóa sinh dơ tay lên nói: "Tôi mệt!". Ngay khi đó vị Ðại úy ra lệnh giải tán tất cả vào trong nghỉ, và dẫn một mình anh khóa sinh dơ tay ra bãi biển và bắt chạy tiếp 2 giờ nữa cho đến khi anh ta chạy không nổi nữa mới cho về trường. Sau khi tập hợp cả lớp lại ông Ðại úy đã giảng một bài học về tâm lý như sau: "Tôi dư biết tất cả các anh mệt, sức con người có hạn. Nhưng có một điều quan trọng mà các anh phải luôn luôn nhớ là dù có mệt mỏi về thể xác đến đâu đi nữa thì tinh thần của chúng ta không được mệt mỏi, như vậạy đừng bao giờ nói đến mệt cả. Khi nào đuối sức hoặc bị thất bại ê chề đừng gục đầu xuống, hãy cố gắng ngửng đầu lên và nở nụ cười". Kể từ ngày đó và suốt đời tôi không bao giờ quên câu chuyện này. Nếu có ai hỏi tôi "Anh có mệt không?" lúc nào tôi cũng nói là không.
Về số thương vong và tổn thất vì bị thương của Liên Ðoàn Người Nhái lúc nào cũng cao so với khóa sinh tốt nghiệp. Do đó không thể đầy đủ khóa sinh để cung ứng cho sự thiếu hụt tại các đơn vị. Việc đào tạo Người Nhái lại càng ngày càng khó khăn vì nguy hiểm và đòi hỏi quá nhiều yếu tố. Vì thế trong các khóa huấn luyện sau này số người tình nguyện tham gia rất hiếm.
Sau khi chấm dứt chiến cuộc chỉ còn độ 40 phần trăm Người Nhái sống sót. Trong số này một phần ba được di tản qua Hoa Kỳ. Số còn lại hiện đang được Việt Cộng khai thác bằng cách bắt họ làm huấn luyện viên cho các khóa Người Nhái đang được tổ chức tại Việt Nam.
Lê Quán

Thursday, August 20, 2020

Không Bao Giờ Quên – Mũ Xanh Nguyễn Đăng Hòa.

HƯƠNG GIANG là biệt danh của Cựu Trung tá Nguyễn Đăng Hòa.
Anh sinh ngày 16/1/1938 tại Phan Rang . Năm 12 tuổi Anh được gởi vào Trường Thiếu Sinh Quân của QLVNCH tại Thị xã Vũng tàu.
Sáu năm lớn lên trong quân ngũ, Anh được đề cử tham dự khóa 2 Sỉ quan tại trường Đồng Đế Nha trang năm vừa tròn 18 tuổi. Ra trường với cấp bậc Chuẩn úy và tình nguyện về Binh chủng TQLC . Anh được đưa về phục vụ tại TTHL/TQLC . Tháng 11/1963 Anh tham dự khóa học Căn bản TQLC tại Quantico , Virginia , Hoa kỳ. Trở về nước Anh giữ chức vụ Trưởng ban Quân huấn tại TTHL/TQLC. Năm 1964 Anh xin về TĐ5/TQLC và làm Trưởng ban 3 ở cấp bực Tr/U. Từ tháng 6/1966 đến 6/1969 Anh ở TĐ4/TQLC với chức vụ Đại đội trưởng và Trưởng ban 3/TĐ. Cuối năm 1969 Anh dự học Khóa Tham Mưu Trung cấp tại Đà lạt. Anh có một thời gian ngắn phục vụ tại BCH/LĐ258/TQLC. Giáng sinh năm 1969 , Anh về làm Tiểu đoàn phó /TĐ4/TQLC. Từ tháng 4/1972 đến tháng 1/1975 Anh làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/TQLC. Sau đó Anh về chỉ huy TĐ8/TQLC cho đến ngày 30/4/1975.
Anh là người tham gia vào Quân đội từ năm 12 tuổi và là con người của chiến trận nên đã nhận lãnh Đệ ngũ đẳng ở cấp bực Đại úy và Đệ tứ đẳng Bảo quốc Huân chương sau trận tái chiếm Quảng trị. Anh có 28 huy chương Anh dũng bội tinh kể cả 3 Chiến thương bội tinh và 3 Anh dũng bội tinh với V device của Hoa kỳ.
Anh có 12 năm 6 tháng trong những nhà tù CS. Anh cũng là cây bút khá nổi tiếng với Truyện Cơn lốc dài , tập truyện ngắn Vẫn còn niềm tin . Anh có nhiều truyện và Thơ được đăng trên các sách báo Việt ngữ ở Hải ngoại.
Anh qua Mỹ theo diện HO. Hiện đang định cư tại thành phố Des Moines tại Tiểu bang IOWA với vợ và 3 con gồm 2 gái + 1 trai.
***************
Tiểu Đoàn 1 TQLC (Quái Điểu) Mùa Hè Đỏ Lữa 1972.
Xin được làm một nhân chứng nói lên sự thật oai hùng của binh chủng Thủy Quân Lục Chiến nói riêng và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nói chung, đã tạo được lịch sử trong cuộc chiến tranh Việt Nam.
Và để tô đậm thêm Quân sử hào hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.… Phá Tam Giang vào một sáng mù sương Ngày 11 tháng 7 năm 1972.Dù đang là mùa hè nhưng trời Huế vẫn còn sương mù, một làn khói mỏng giăng đầy, bao phủ cả một vùng Vân Trình rộng lớn.Trên cánh đồng vừa mới gặt, mùi rạ thơm thoang thoảng, nếu có thêm vài cô thôn nữ xinh xắn của mẹ Việt Nam nữa là ta đã có một hình ảnh đồng quê thanh bình của bao năm cũ….
Gia đình Quái Điểu hơn 700 tay súng đã sẵn sàng tại bãi bốc chờ lên trực thăng đi vào đất địch.Những chàng Kinh Kha thời đại đang ưu tư về cuộc đời và đang chờ đón một tương lai không mấy rạng rỡ.
Đúng 7 giờ sáng, chiếc trực thăng HU IB của chỉ huy đáp xuống cạnh nhà thờ 2 chuông Điền Môn, bốc tôi và cố vấn Mỹ bay thẳng ra biển Đông.
Để tránh phòng không địch, trực thăng đã phải bay trên biển và ở cao độ vừa tầm cho chúng tôi quan sát thành phố Quảng Trị và quận lỵ Triệu Phong, nơi Tiểu đoàn 1 Quái Điểu sẽ phải đổ bộ để tái chiếm.
Quận Triệu Phong nằm về phía Đông Bắc cổ thành Quảng Trị khoảng 2 cây số, là quê hương của tên đồ tể Lê Duẩn, môn đệ kế vị già Hồ đã về chầu Diêm Vương. Vì vậy không dễ gì địch để QLVNCH nhất là những chàng Quái Điểu TQLC chúng tôi tái chiếm lại Triệu Phong.
Những túi lửa B-52 chiều ngang 1 cây số và chiều dài 3 cây số được lóe lên từng chập, và khi các chùm bom chạm đất thì lửa bốc cháy cùng những tiếng nổ phụ rền vang một góc trời….
Tại đây địch cũng sẵn sàng nghênh đón chúng tôi.
Đơn vị bạn gần nhất vẫn còn ở tuyến sau Mỹ Chánh mịt mù. Chúng tôi sẽ phải nhảy trên đầu địch, đánh thọc sâu vào lòng địch, bóp ngay yết hầu chúng, buộc chúng phải nhả Cổ thành Quảng Trị mà chúng đã chiếm giữ hơn 3 tháng qua.
Sư đoàn Dù đã gặp phải muôn vàn khó khăn và thiệt hại nặng nề khi tái chiếm Quảng Trị.
Có lẽ thượng cấp quên đi cửa ngõ Triệu Phong, nơi mà việt cộng phải giữ với bất cứ giá nào, để bảo vệ huyết lộ dẫn ra Cửa Việt bằng đường bộ và đường thủy dọc theo sông Thạch Hãn.
Nhờ huyết lộ này mà chúng có thể tiếp tế cũng như tải thương và thay quân rất dễ dàng.
Lúc đúng 12 giờ 5 phút ngày 11 tháng 7 năm 1972, ngày mà suốt đời tôi không bao giờ quên được.
Trước khi lên máy bay, Tướng Trưởng và Tướng Lân đến bắt tay và chúc chúng tôi thành công.
Lời nói của Tướng Lân, Tư lệnh Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến như một luồng điện chạy dài theo xương sống tôi :
– Danh dự này, tôi giao cho anh và Tiểu đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến.
Riêng Đại tá Bảo, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 147 nhìn chúng tôi như một người cha nhìn những đứa con thân yêu đang đứng bên bờ vực thẳm.
Ông rơi nước mắt nói với tôi lời giã biệt :
Có 32 chiếc trực thăng đổ quân, gồm 17 chiếc CH-53 chở được 60 người và CH-46 loại Chinook chở được 20 người. Chiếc của tôi đi bị lãnh 4 viên phòng không, tưởng chừng như rớt.
Vừa rời khỏi trực thăng, tôi đã được chào mừng bằng một trái 57 ly không giật, vì chung quanh tôi là một rừng antenne truyền tin.
Tôi bị thương ở đùi phải, máu ướt đẫm.
Viên Trung úy Hải quân Mỹ bị lòi ruột ra ngoài trông thật khiếp, nhưng vẫn còn sống.
Đau đớn cho Tiểu đoàn chúng tôi là 1 chiếc trực thăng bị rớt và nổ tung sau đó 2 phút lại chở nguyên Trung đội Quân y, 60 người chỉ sống sót 12 trong đó có Bác sĩ Hoàn.
Ông đã lao được ra ngoài cửa cấp cứu, nhưng phải 2 ngày sau mới bò về được Bộ chỉ huy Tiểu đoàn với thân hình cháy phỏng nặng.
Chúng tôi không lấy được xác những người bị chết vì chiếc máy bay này thuộc Bộ chỉ huy Tiểu đoàn và đã mang theo 47 trái mìn chống chiến xa và tất cả đã tan tành theo chiếc máy bay.
Đáng lẽ tôi đã gởi xác theo chuyến đó rồi, nhưng tới phút chót cố vấn Mỹ lại rủ tôi đi trên chiếc CH-46 để khi xuống bãi thoát ra thật nhanh, tránh được phòng không địch.
Ngay phút đầu, sau khi hoàn tất cuộc đổ quân, chúng tôi đã bị thiệt hại hơn 200 người vừa chết vừa bị thương.
Người cố vấn Mỹ còn cho tôi biết trong số 32 máy bay trực thăng, có 29 chiếc trúng đạn và 2 chiếc rớt, một nổ tại chỗ và một rớt ngoài biển.
Cuộc đổ bộ này đã được báo chí xem như cuộc đổ bộ Inchon tại Đại Hàn năm xưa.
Tướng Lân được triệu về Dinh Độc Lập để thuyết trình về cuộc đổ quân cho Hội đồng An ninh Quốc Gia.
Mọi người hồi hộp theo dõi bước chân của bầy Quái Điểu gan lì.
Cánh đồng Triệu Phong đã trở thành bãi chiến trường khốc liệt. Xe tăng việt cộng phối hợp với bộ binh của chúng bắt đầu rời vị trí phòng thủ để rượt đánh chúng tôi, và những chiếc trực thăng vũ trang Cobra của phe ta đã táo bạo săn đuổi chúng như những con diều hâu hung dữ.
Riêng Tiểu đoàn 1 Quái Điểu lúc bấy giờ tan tác như bầy gà lạc mẹ, mạnh ai nấy đánh, dùng chiến thuật cá nhân phối hợp từng tổ nhỏ cố bám lấy bờ sông Vĩnh Định là chi nhánh của sông Thạch Hãn để làm điểm tựa, giữ lấy mạng sống mong manh.
– Mày cố gắng giữ gìn anh em, khuyên họ nên đọc kinh cầu nguyện theo Đạo giáo của họ !
Tiểu đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến với biệt danh Quái Điểu được trực thăng bốc từ nhà thờ 2 chuông Điền Môn bay ra Triệu Phong, bất thần đổ trên đầu địch, giữa những đám ruộng trước Quận lỵ.
Tuy bãi đáp đã được B-52 dọn cỏ suốt 2 tiếng đồng hồ, với 33 phi vụ đã cày nát từ Đông Hà đến Quảng Trị, mà gia đình Quái Điểu vẫn được con cháu Bác và Đảng dàn chào long trọng.
Súng phòng không 23 và 37 của địch bắn lên như pháo bông.
Đại đội 4 Tiểu đoàn 1 do Đại úy Trịnh Văn Thềm chỉ huy, lãnh nhiệm vụ đổ bộ trước.
Hai chiếc trực thăng khổng lồ CH-54 chạm đất một cách bất ngờ nên thoát được phòng không địch.
Hai con sông này đã nuôi dưỡng Quận lỵ Triệu Phong, làm cho nó trở nên trù phú và sầm uất nhất tỉnh Quảng Trị, giờ đây đang ôm ấp che chở cho những toán Quái Điểu lạc bầy.
Nhờ vào súng M-72 chống chiến xa ta đã bắn hạ được một số tăng địch, có những chiếc bốc cháy cách xa ta chỉ 50 thước, làm cho anh em an tâm hơn và tin tưởng vào loại vũ khí cá nhân hiện đại và tối tân này, mỗi Đại đội chỉ được trang bị 12 trái thôi.
Những hố bom trở thành vị trí chiến đấu lý tưởng cho binh sĩ mình.
Họ đứng thẳng, tỳ súng vào miệng hố nhắm vào từng đợt sóng biển người của bọn Việt cộng khát máu mà bắn.
Đại đội 1 của Đại úy Bùi Bồn đã dùng con sông Vĩnh Định như một chỗ tựa tốt để chống trả từng đợt xung phong của địch cũng như yểm trợ cho các Đại đội 2, 3 và chỉ huy còn đang phơi mình trên bãi đáp.
Kết quả sơ khởi Đại đội 1 đã tịch thu 10 cây súng 37 ly phòng không của địch đã đặt hàng ngang tại bìa làng.
Trời đã vào đêm, bóng tối đồng lõa với tội ác của địch qua những đợt cắn lén nhưng cũng là người bạn chân tình che chở cho chúng tôi, hạn chế tầm quan sát của địch nên chúng chỉ dùng pháo đe dọa vu vơ.
Đến 10 giờ Tiểu đoàn mới nắm được tay nhau, lập thành một phòng tuyến tạm thời.
Chỉ còn Đại đội 4 của Đại úy Thềm bị cô lập phải tự phòng thủ bảo vệ riêng, nhưng xét về mặt chiến thuật thì rất có lợi cho Tiểu đoàn.
Một cái chốt khổng lồ làm tiền đồn cho đơn vị tại Chợ Sãi, dùng Pháo binh và Hải pháo ngăn chận sự di chuyển của địch từ Cổ thành Quảng Trị qua quận Triệu Phong, cũng như quan sát được thủy lộ dẫn ra Cửa Việt.
Chiếm và giữ được Triệu Phong thì sớm muộn gì tỉnh Quảng Trị cũng sẽ trở về vùng đất Tự do.
Thường thường đánh nhau với những đơn vị chính quy tuy chém giết thả giàn mạnh được yếu thua nhưng thích hợp với người quân tử.
Một cuộc chiến tranh quy ước, có lúc đánh lúc nghỉ, ăn uống, tiếp tế, tải thương, thay đổi lối đánh cho phù hợp trận liệt, rồi trở lại đánh tiếp.
Nhưng với bọn Việt cộng, các cấp chỉ huy của chúng có được đào tạo ở một Quân trường nào đâu !
Đã vậy đầu óc lại bị Bác Đảng nhồi nhét hận thù đầy ắp nên chúng hăng say chém giết… từ chú du kích nhỏ bé không biết gì gặp lúc đàn anh chết nhiều quá, cũng nhảy ra thay thế chỉ huy. Vì vậy Việt cộng chỉ biết dùng một chiến thuật rừng với lối đánh lén, cắn lén !
Triệu Phong lúc bấy giờ là vùng địch kiểm soát nên họ có nhiều lợi thế hơn ta.
Chúng rình rập, tấn công không ngơi nghỉ cốt làm cho quân ta mệt, tinh thần căng thẳng, quân số tiêu hao dần mòn.
Nếu không có tinh thần cao và khả năng điêu luyện sẽ bị chúng đốn ngã dễ dàng.
Tiểu đoàn 1 Quái Điểu đang đi trên đoạn đường chông gai ấy.
Đến 11 giờ đêm, quân ta tạm ngưng chém giết, mọi người lục ba-lô lấy cơm sấy ra nhơi.
Ngồi trong hố cá nhân, chẳng cần cấp chỉ huy ra lệnh hay kiểm soát đôn đốc, ai nấy cũng đề cao cảnh giác và sẵn sàng lâm chiến vì đã quá quen thuộc với những đòn đen tối hạ cấp của lũ chuột Việt cộng.
Đêm khuya yên tĩnh, bỗng có tiếng la hét vang dội từ phía Chợ Sãi, nơi Đại đội 4 của Đại úy Thềm phòng thủ riêng.
Một đoàn xe tăng địch với đèn pha sáng trưng, dàn hàng ngang cùng Bộ binh chạy theo bên hông xe vừa bắn vừa hô xung phong.
Tôi đã chuẩn bị trước các yếu tố tác xạ tiên liệu Pháo binh và Hải pháo, 42 khẩu pháo 105 ly nhả đạn cùng lúc và liên tục cộng với hàng ngàn trái hải pháo loại 500 cân Anh khổng lồ, khi nổ chụp lúc chạm nổ, trút lên đầu địch.
Vặn tần số truyền tin nội bộ của Đại đội 4 tôi theo dõi trận đánh, nghe các Trung đội trưởng liên lạc với Đại đội trưởng lòng tôi yên tâm được phần nào và cảm phục sự gan lì của họ.
Trên máy SCR-25 vang lên giọng nói bình tĩnh của Thiếu uý Tánh khi anh liên lạc với Đại úy Thềm :
– Thần Phong hãy yên tâm, chiếc tăng đầu còn cách chúng tôi 100 thước, tôi đã ra lệnh từng tổ 3 người sẵn sàng M-72 nghênh chiến….
Hiện giờ chiếc gần nhất chỉ còn khoảng 50 thước, chờ kết quả, sẽ có một số cua rang muối (chiến xa địch) để tặng Thần Phong và Hương Giang (danh hiệu của tôi).
Thiếu úy Tánh nói tiếp trong sự hồi hộp của tôi :
– Tôi bắn thử một viên M-72 chống Chiến xa, kết quả tuyệt vời, chính tôi cũng không ngờ đạn vừa ra khỏi nòng là một tiếng nổ long trời, con cua trước mặt tôi đã nổ tung và bùng cháy.
Tất cả các Trung đội đều an tâm và phấn khởi, từng tổ tam tam chế đã dùng M-72 cải tiến để đưa đoàn cua của Bác vào chảo rang. Đại đội trưởng đã gọi máy về Tiểu đoàn tặng tôi có đến hàng chục con cua. Riêng Hạ sĩ Ích, Tiểu đội phó dùng M-79 phóng lựu, một mình anh đã rang 3 con cua ngon lành.
Song song với Đại đội 1 và 4, sự chiến đấu gan dạ của Đại đội 2 của Đại úy Duật và Đại đội 3 do Trung úy Vàng Huy Liễu chỉ huy đã tạo sức mạnh vô song cho gia đình Quái Điểu.
Sư đoàn 312 của Việt cộng với quân số gấp 10 lần hơn đã không nuốt được Tiểu đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến kiên cường.
Qua hai ngày song đấu, địch đã được tăng viện nhưng không vì thế mà áp đảo được quân ta.
Cấp chỉ huy Việt cộng đã đánh giá sai lầm về Tiểu đoàn 1 Quái Điểu, và cho đấy là một miếng mồi ngon chúng chỉ cần nhe nanh là đã nuốt chửng được ngay.
Việt cộng đâu ngờ gặp phải một miếng mồi lửa, tạo nên bởi sự đoàn kết sắt đá, gắn bó keo sơn cùng sự chiến đấu bền bỉ gan dạ của anh em binh sĩ ta.
Và chúng cũng không lường được lòng yêu nước tràn đầy của những người lính Việt Nam Cộng Hòa trước sự tồn vong của đất nước.
Tiểu đoàn 1 Quái Điểu đã tổ chức được vị trí phòng thủ kiên cố bằng máu xương và sức mạnh tinh thần của mình cộng với sự yểm trợ hùng hậu mà chưa bao giờ Quân lực Hoa Kỳ xử dụng trên chiến trường Việt Nam
– Trình Thiếu tá, Trung úy Kỳ thuộc Đại đội Viễn thám vừa bắt được 2 nữ du kích Việt cộng, tịch thu 2 khẩu súng các-bin tại nhà mình đang đóng quân !
Thì ra căn hầm cư trú của 2 cô bé du kích chỉ cách hầm đóng quân của tôi và cố vấn Mỹ độ 1O thước, trong vòng 24 giờ qua các cô muốn giết chúng tôi lúc nào chẳng được.
Vì thế tôi đến gặp 2 cô và được biết họ cũng như hầu hết thanh thiếu niên Quảng Trị bị kẹt lại sau khi quân ta rút về tuyến Mỹ Chánh đã bị Việt cộng đoàn ngũ hóa và trang bị thành tổ “dân quân chiến đấu”.
Hai cô còn cho biết họ là nữ sinh trường trung học Nguyễn Hoàng và có người anh cả là Đại tá làm việc tại Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng Hòa.
Tôi liền cởi trói, bảo lãnh 2 cô và gia đình họ rồi hứa sẽ đưa ra vùng tự do sau cuộc đổ bộ này.
Từ đó 2 cô là những người phục vụ đắc lực cho đơn vị tôi về tình hình du kích tại địa phương.
Nhờ vậy mà chúng tôi đã thanh lọc và bắt giữ cũng như tịch thu rất nhiều tài liệu và vũ khí.
Thế mới hay, trong cuộc chiến, yếu tố “tranh thủ nhân tâm” cũng quan trọng không kém, và còn tiết kiệm được xương máu anh em.
Riêng Thiếu-Úy Lâm Văn Diệp, Trung-Đội-Trưởng trung đội 1, Đại Đội 3, Tiểu-Đoàn 1 Quái Điểu,
Trung đội của Thiếu úy Diệp thay vì nhảy xuống bãi đáp, trực thăng lại thả lộn vào… bộ chỉ huy một tiểu đoàn đặc công địch. Nên thay vì chơi nhau bằng súng, trung đội đành phải chơi bằng lưỡi lê và M26.
Trung đội của Thiếu-Úy Diệp là Trung đội của… thế kỷ 21, là Trung đội gốc toàn những tay sát thủ, nên chỉ chưa đầy cái chớp mắt, các quan lớn quan bé của bộ chỉ huy đặc công Vẹm đã được mời về thăm ông bà ông vải.
Rồi sau đó Trung đội xếp hàng 1, Thiếu úy Trung đội trưởng làm lính khinh binh đi đầu, Chuẩn úy Trung đội phó làm lính bắn xe tăng đi hàng thứ 2 và đơn vị mở đường máu, và đoàn quân đi trong vòng vây của giặc.
Sau mười mấy ngày đêm đánh đấm tưng bừng với VC,
Trung đội đến được bến sông Vĩnh Định, chi nhánh của sông Thạch hãn, bên kia sông là vùng an toàn, nơi đóng quân của Tiểu-Đoàn 2 Trâu Điên…
Sau 15 ngày chiến đấu quên ăn quên ngủ, Tiểu đoàn 2 Trâu Điên đã giao tiếp được với Tiểu đoàn chúng tôi nhưng cách nhau bằng con sông Vĩnh Định. Vì không dùng được trực thăng nên tôi phải nhờ đơn vị bạn này tải thương bằng những bè chuối buộc dây kéo qua sông !
Sau đó Tiểu đoàn 1 Quái Điểu được đưa về Huế, chúng tôi như những người về từ cõi chết, râu tóc rậm rạp như người rừng, mắt sâu như vực thẳm, tiều tụy như những bệnh nhân lâu ngày. Chúng tôi những người lính Thủy Quân Lục Chiến đã dành phần đời trai trẻ của mình cho những chuyến đi dài không mệt mỏi: từ tuyến đầu của con sông Thạch Hãn, được chọn làm giới tuyến ngăn địch cho đến vùng đầm lầy sông Ông Đốc, chặng đường cuối của Quê hương hoặc lặn lội vùng biên giới Miên Lào với núi rừng trùng điệp… với một mục đích duy nhất là bảo vệ Quê hương thân yêu khỏi lọt vào tay quân Cộng sản khát máu, bạo tàn.
Mũ Xanh Nguyễn Đăng Hòa. / FB Lê Duy Đài

Monday, August 17, 2020

Năm Căn trong Chiến tranh Việt Nam - Trần Lý

Đề Đốc Trần Văn Chơn với các sĩ quan Hải quân VNCH và Hoa Kỳ tại căn cứ Hải quân Năm Căn (Ảnh của brownwater-navy)

Chiến tranh Việt Nam có rất nhiều địa danh xa lạ, người Việt miền Đồng bằng sông Cửu Long sẽ biết Cửa Bồ Đề, Năm căn nhưng chắc sẽ không quen với Cửa Việt như người Xứ Quảng và.. ngược lại ! Bài Cửa Việt (của Trần Lý) đã giới thiệu một Căn cứ Hải quân VNCH tại địa đầu giới tuyến, bài này xin ghi lại vài.. điều nhỏ của một Căn cứ tại miền cực Nam của VNCH..

(Bài cũng chỉ xin giới hạn về Năm Căn, tuy cũng còn nhiều sự kiện lịch sử về An Xuyên Cà Mau như Đầm Dơi, Cái Nước, Biệt khu Hải Yến..)

Năm Căn , tên xa lạ với các chiến sĩ Bộ binh, Không quân VNCH nhưng lại quen thuộc với các quân nhân Hải quân.. vì được ‘bổ nhiệm’ đi Năm Căn là đến một nơi “không có ai muốn phục vụ ‘  (lời HQ Đại tá Nguyễn văn May, vị Tư lệnh sau cùng của Vùng V Duyên hài)…

https://live.staticflickr.com/65535/50118830732_e6c4d9359a_z.jpg                 

Bản đồ Tỉnh An Xuyên của Việt Nam Cộng Hòa ấn hành.

Bài viết xin chia thành ba phần chính

  • Năm Căn : 1954-1968 .. Vùng xôi đậu..
  • Năm Căn : 1969- 1971 .. Chiến dịch Sea Float và Sea Anchor
  • Năm Căn : 1971-1975.. Căn cứ Bộ Tư lệnh Vùng 5 Duyên hải
  • Vài đặc điểm địa lý

VNCH : Năm Căn là một trong 6 Quận của Tỉnh An Xuyên (5 quận còn lại gồm Cái nước, Đầm dơi, Quản long, Sông Ông đốc và Thới Bình).

Quận Năm Căn có 5 xã: Năm căn, Tân An, Tân Hưng Đông, Thuận Hưng và Viên An

Phi trường Năm Căn: Tại Bán đảo Cà Mau và phi trường cuối cùng của lãnh thổ VNCH về phía Nam. Cách Saigon 228 km về phía Tây-Nam, cách phi trường Quản Long 50 kh về phía Nam/Tây-Nam, phi đạo dài 2800 ft.

Về những con sông (đề cập trong bài) :

  • Sông Cửa Lớn , dài 58km, rộng 600m và sâu 12m; bắt nguồn từ sông Ông Trang Sông còn được gọi là ‘Đại môn giang’ , nối với sông Bồ Đề (nhánh này chảy ra Cửa Bồ Đề tại Biển Đông .. Sông  Cửa Lớn chảy về hướng Tây và  đổ vào Vịnh Thái Lan tại Mũi Ông Trang..Xóm Ông Trang là tụ điểm dân cư nơi ngoài cùng của sông Cửa Lớn
  • Sông Bảy Háp, nối hai khu vực Bắc và Nam bán đảo Cà Mau, dài 48 kh, bắt đầu từ Kinh Đội Cường chảy qua các vùng  Đầm Dơi, Cái nước, Phú tân và Năm căn sau đó đổ ra Vịnh Thái Lan, rộng 150-200m , sâu khoảng 4-5 m nhưng càng ra biển thì  sông càng cạn..Cửa sông Bảy Háp còn gọi là Gò công, Rạch cheo. Nơi cửa Sông có Xóm Rạch Thung..Kinh Cái Nháp nối ngang hai sông Bảy Háp và sông Cửa Lớn

Năm Căn : 1954-1968 :

Vùng Năm Căn thuộc Tỉnh An xuyên bị bỏ phế suốt từ 1954 đến 1963, hầu như không có Chính quyền Quốc gia, Quận Năm Căn và các xã, tuy có ..tên nhưng trên thực tế không có các đơn vị hành chánh. Tỉnh An xuyên chỉ có vài cuộc hành quân tại các Quận Đầm Dơi, Cái Nước (hai Quận này thành lập năm 1955 và có Chi khu bảo vệ bởi các đơn vị Bảo an (sau đó là Địa phương quân).

Di chuyển từ Tỉnh lỵ Cà Mau xuống Năm Căn phải dùng đường thủy.

Dân Năm Căn sinh sống bằng nghề đốn củi. hầm than, đánh cá, lấy mật ong phải chịu sự kiểm soát của VC, đóng thuế.. tuân theo quy luật sinh hoạt của ‘Làng Rừng’

Từ thập niên 1960. Tỉnh lộ 12 nối Năm Căn với Thị xã Cà Mau không còn dùng được, bỏ phế hoang tàn. Thị trấn Năm Căn, cũng không có nguồn cung cấp nước ngọt, sau khi bồn chứa nước từ các giếng đóng ( French cisterns) bị phá hủy trong các cuộc giao tranh..Nước uống phải hứng từ nước mưa hoặc do ghe chở (đổi nước) đến bán lại.

Lịch sử của Đảng bộ Cà Mau ghi một ‘Chiến thắng’ kỳ lạ, ngoài sách vở (!) , ngày 11/11/1959, ghi Tiểu đoàn Ngô văn Sở VC đánh thắng TĐ 3 Bác Ái của Phủ Tổng thống VNCH (?) [TĐ tưởng tượng !} khi TĐ này hành quân tuyên truyền vào Xã Thanh Tùng trên sông Cái Ngay..bị VC phục kích.. diệt và bắt sống 150 quân VNCH (?) thu nhiều vũ khí..VC gọi đây là Chiến thắng Bến Dựa.. và dựng ‘bia kỷ niệm’ (!)

Chiến dịch SÓNG TÌNH THƯƠNG (1963)

Hải sử Tuyển tập, trang 78, ghi lại :

Khai diễn ngày 3 tháng 1 năm 1963

Mục đích của cuộc Hành quân là ‘Tái chiếm và Bình định khu vực Năm Căn “

Thành phần tham dự gồm Hải quân và TQLC VNCH :

  • Hải quân gồm 1 Dương vận hạm (LST), 4 Hải vận hạm (LSM), 2 Giang pháo hạm (LSIL), 1 Trợ Chiến hạm (LSSL), 1 Giang đoàn xung phong và 2 Duyên đoàn.
  • TQLC gồm 2 Tiểu đoàn và 1 Bộ Chì huy Liên đoàn..

Cuộc Hành quân được chia thành 2 giai đoạn :

  • TQLC đổ bộ tại Xóm Mới (mỏm Cà Mau), hành quân khai thông tại phía Nam Sông Cửa Lớn , sau đó HQ và Hài thuyền vào tái chiếm Năm Căn

(Giang đoàn Xung phong khai thông thủy lộ Đầm Dơi-Năm Căn)

  • Xây dựng và tái lập Quận Năm Căn;  bình định các khu vực chung quanh..

Hải sử Tuyển tập không ghi lại các cuộc đụng độ cũng như kết quả của cuộc Hành quân. Tác giả Nguyễn văn Ơn trong bài “HQ Đại tá Hồ Tấn Quyền với Chiến dịch Sóng Tình Thương” (bencublog.wordpress.com) ghi lại nhiều chi tiết hơn về Chiến dịch này..

Các Chiến hạm :

  • Dương vận hạm HQ500 Cam Ranh  thả neo tại Xóm Mới trên Sông Cửa Lớn, làm Tổng Hành dinh cho Chiến dịch  (do ĐT Quyền làm Tư lệnh)
  • Các Hải vận hạm HQ402 Lam giang và HQ404 Hương giang làm trạm tiếp liệu lưu động..
  • Giang pháo hạm HQ330 Lôi công và Trợ chiến hạm HQ225 Nỏ thần yểm trợ hải pháo, dọn bãi đổ quân..
  • Giang đoàn 22 Xung phong khai thông thủy lộ..
  • Đội Hải thuyền (Hòn Khoai) tăng phái 10 ghe Kiên giang để chuyển quân. đổ bộ

Lực lượng bộ chiến :

  • TĐ 2 TQLC
  • 1 Trung đội Người nhái HQ  chia thành 4 toán xung kích
  • 1 Tr đội Quân Y/Dân sự vụ HQ

Lực lượng CQ hoạt động  tại Năm Căn là Đại đội Quyết Thắng (TĐ 306 U Minh) và Du kích địa phương (khoảng 1 đại đội)

Kết quả cuộc Hành quân (chấm dứt ngày 28 tháng 2-1963) là ‘gom được hơn 3 ngàn dân về lại 15 xã ấp.. lập lại Quận Năm Căn..”

Quận Năm Căn dự trù nằm bên bờ Bắc sông Cửa Lớn, tại vùng đất giữa Rạch Năm căn và Kinh Ngang. Xóm Hàm Rồng cũng được chọn làm địa điểm cho dân hồi cư.

QUAN NAM CAN

Quận Năm Căn (Ảnh của manhhai).

  • Sau năm 1963

Chiến dịch Sóng Tình thương tuy tái lập chủ quyền Quốc gia tại Năm Căn nhưng vùng kiểm soát rất hẹp, chì vài xóm ấp quanh Thị trấn Năm Căn. Sau cuộc đảo chánh 1 tháng 11 năm 1963, Năm Căn lại trở về tình trạng mất an ninh..

Năm Căn, một ốc đảo nhỏ do Chính quyền Quốc gia kiểm soát, trong một khu vực thưa thớt dân cư , cũng bị CSBV chiếm sau Trận Tổng Công kích Mậu Thân 1968, thành khu vực “Giải phóng”. Dân nếu thuộc thành phần ‘ưa’ Quốc gia , phải di chuyển xa hơn về phía Bắc khoảng 17km, lập thành tụ điểm “Khu Năm Căn mới”..Khu vực Quận cũ trở thành ‘khu oanh kích tự do’, nơi trút bỏ bom đạn của phi cơ sau các cuộc không kích không tìm được mục tiêu..Năm căn ‘cũ’ hầu như thành bình địa sau khi B-52 thả bom vào năm 1968…

Trước khi có Chiến dịch Market Times, Năm Căn là một điểm tiếp nhận vũ khí và vật liệu do CSBV chuyển vào từ Miền Bắc chi viện cho quân BV hoạt động trong khu vực đồng bằng Sông Cửu Long..CSBV cũng xây dựng nhiều ‘công binh xưởng’ chế tạo bom mìn tại Năm Căn , từ các bom đạn chưa nổ thu hồi được..Các trạm thu thuế đánh vào than và củi của CQ cũng góp phần vào chiến phí của họ..

Dân Năm Căn, sinh hoạt dọc ven sông rạch, là người.. không cần khuynh hướng chính trị ! sống theo thời và không.. dám theo phe nào. Tuy nhiên theo ‘cách nhìn’ của Chính quyền VNCH thì.. đại đa số là Việt cộng hay theo phe Cộng: lều tranh hay chòi trên cọc đều bị đốt trong các cuộc hành quân đột kích; thuyền và xuồng bị  chặn xét và oanh kích nếu gặp di chuyển trên sông rạch..; đăng và đáy bắt cá dựng trên sông rạch bị phá hủy.

Hành quân SEA FLOAT và SEA ANCHOR

Từ cuối năm 1968, các Khinh tốc đỉnh (Swift boat) của HQHK đã mở nhiều cuộc thám sát vào Năm Căn từ các sông Cửa Lớn và sông Bồ Đề..

Các PCF liên tục đột kích vào các cơ sở hậu cần CQ trong toàn vùng Năm Căn

Tháng 12 năm 1968 : Lực lượng Người Nhái Mỹ (Navy Seal) và Việt (LDNN) đã mở cuộc hành quân Bold Dragon IX  thám sát khu vực sông Cửa Lớn, khám phá được các chướng ngại vật VC dựng để ngăn sông : 12 rào cản trong đó có 3  hàng rào cản được đóng ngang sông , các cọc gỗ dựng hình tam giác, đóng suốt bề ngang dòng sông, trên cọc còn giăng cả lưới thép. Người nhái và cả trực thăng không phá nổi các vật cản này..

Hành quân  Silver Mace 1 nhằm phá hủy hết các rào dựng trên sông..Đây là  một cuộc hành quân đầu tiên loại ‘Sông-Biển’ phối hợp, huy động một lực lượng giang đỉnh đủ loại, khởi hành từ Bình Thủy (Cần Thơ) ngày 16 tháng 12-1968, gồm các monitors, ASPB, ATC , có một đại đội Xung kích DSCĐ (Mike Force), tháp tùng, di chuyển theo đường sông đến Rạch Giá, các chiến đỉnh sẽ ra biển và chạy theo ven biển để đến Cửa Sông Bảy Háp (Square Bay) và sau đó vào Sông Cửa Lớn. Cùng lúc này một lực lượng yểm trợ-tiếp vận gồm các Chiến hạm USS Mercier (APB-39), USS Satyr (ARL-23) và USS Iredell County (LST-839) đi từ Biển Đông quanh Mũi Cà Mau và thả neo tại Vịnh Thái Lan , cách Square Bay khoảng 4.5 miles ngoài khơi. Trên chiến hạm Mercier có thêm một Toán 30 chuyên viên gài và hủy chất nổ dưới nước (UDT) cùng thêm 1 đại đội Mike Force. Biển động và bùn lầy nơi Cửa sông Cửa Lớn làm chậm cuộc hành quân..Đến 19 tháng 12, một đoàn viên hải thuyền mới dẫn được đoàn chiến đỉnh tiến vào sông..

Các Đại đội MIKE lo phòng vệ các vị trí để các toán UDT phá hủy toàn bộ 12 rào ngăn CQ dựng trên sông..Chỉ vài cuộc đụng độ nhỏ với du kích địa phương. Lực lượng hành quân phá hủy nhiều cơ sở, hầm hố trú ẩn, tịch thu một số lượng thực phẩm gồm gạo, cá khô..Một VC bị giết, 9 tù binh bị bắt.

Hành quân Silver Mace chấm dứt ngày 22 tháng 12, với kết quả là thủy lộ đi Rạch Giá được khai thông.. Các chiến đỉnh về thả neo, nghỉ ngơi tại các chiến hạm nổi đậu ngoài khơi..

Trong những tháng đầu năm 1969, các đơn vị xung kích thuộc Chiến dịch Market Time tiếp tục thăm dò khu vực Năm Căn. Các lực lượng Mỹ gồm SEAL, UDT có Mike Force tháp tùng ; và các lực lượng VNCH gồm ĐPQ, Hải thuyền tiếp tục các cuộc đột kích có các phi cơ trực thăng vũ trang và phi cơ khu trục yểm trợ oanh kích..

  • 28 tháng 2 : 3 PCF thám sát Vùng Cái nước theo Cửa Bảy Háp, có 2 Trung đội ĐPQ cùng theo.. Đoàn chiến đỉnh phá hủy 30 thuyền VC, một căn cứ hậu cần gồm 20 cơ sở, hầm trú ẩn , hủy 12 tấn gạo, 2 máy khâu ; thu 6 súng cộng đồng, một B-40, nhiều đạn dược; diệt 10 VC..
  • 12 tháng 3 : 4 PCF , chở theo quân Mike, xâm nhập Cửa Lớn, đột kích khu Cái Nháp, đến rạch Cái Ngãi.. CQ phản ứng bẳng thả mìn trôi và súng nhỏ từ bờ..Cuộc đột kích phá hủy 14 ghe, một thuyền lớn.. phá 5 cơ sở..

Tháng 4 năm 1969, Hành quân Silver Mace II khai diễn với mục tiêu mở rộng lớn hơn : “lùng và diệt” các đơn vị CS cùng các cơ sở hậu cần trong toàn khu vực’. Cuộc Hành quân mới này huy động một lực lượng quan trọng hơn, phối hợp Hải quân Việt-Mỹ (HQ Mỹ có 29 chiến đỉnh thuộc RAS 13 và 13 PCF, HQ Việt có 25 chiến đỉnh), Bộ binh, TQLC VN ( Chiến đoàn B gồm Bộ Chỉ huy,  2 Tiểu đoàn 4 và 6 cùng Pháo đội B) và các đơn vị KQ HK.

Các đơn vị Việt Mỹ tập trung tại Cửa Bồ đề và đổ bộ vào sông Cửa Lớn :TĐ 4 TQLC tiến theo sông Cửa Lớn ; TĐ 6 đổ vào Xã Tân An..(TĐ 1 thay cho TĐ 6 ngày 12 tháng 4). TQLC tảo thanh một khu vực rộng bao gồm các vùng rạch Ông Quyền, Bà Thanh, Cái chồn, Dương Keo, Cái Nháp và cả Đầm Dơi .. dọc ven sông Cửa Lớn..

HAI QUAN HOA KY VA TQLC VNCH PHOI HOP HANH QUAN TAI NAM CAN CA MAU

Hải quân Hoa Kỳ và Thủy quân lục chiến VNCH phối hợp Hành quân “lùng và diệt” tại Năm Căn, Cà Mau (Ảnh của cố vấn hải quân Hoa Kỳ).

Cuộc đụng độ đáng kể nhất là cuộc tảo thanh Dương Keo ngày 12 tháng 4 của TĐ 6 TQLC do 8 PCF yểm trợ, chạm súng với 2 đại đội CQ trang bị đủ loại súng nặng kể cả đại liên 30 và 50, B-40, Súng không giật..(xem dưới)

Ngày 12 tháng 4 : một cuộc hành quân phối hợp 8 chiếc PCF, chở theo toán UDT Mỹ cùng 1 TĐ TQLCVN tảo thanh khu vực Sông Dương Keo; lúc 5 giờ 30 chiều, khi vượt cửa sông khoảng 4 km. lực lượng hành quân đã bị 2 đại đội CQ phục kích, nổ 2 quả mìn gài sẵn bên bờ rạch, và bắn đủ loại súng kể cả B40 vào đoàn PCF. PCF-43 trúng đạn ngay đợt đầu vào phòng lái, Tr úy Droz, chỉ huy chiến đỉnh tử trận.. chiếc PCF mất định hướng phóng vào bờ, không thể điều khiển. Thủy thủ đoàn tuy bị thương  và UDT lập một chu vi phòng thủ tạm bên bờ rạch quanh chiếc tàu bị hư hại. Các PCF-5 và 31 bao quanh bảo vệ, dưới làn đạn CQ..Ngay 5 phút sau, trực thăng Seawolf, từ các chiến hạm neo nơi cửa sông đã bay đến yểm trợ và làm im tiếng súng CQ. Các nhân viên của PCF-43 được tải thương.. chiến đỉnh này tiếp tục cháy và phát nổ khi đám cháy lan đến chất nổ của UDT mang theo tàu..Trong trận này HQHK mất 3 nhân viên, 33 bị thương.. TQLCVN có 2 tử trận và 13 bị thương, Ngoài PCF-43 bị chìm và phá hủy, còn có 3 chiếc khác bị hư hại. CQ có 18 bị hạ..

Ngày 16 tháng 4 : Một cuộc phục kích của CQ  trên sông Cửa Lớn bị phi cơ trực thăng trinh sát phát giác.. Đoàn chiến đỉnh VN  được thông báo kịp thời gọi pháo binh oanh kích gây nhiều tiếng nổ phụ trong vùng, sau đó một ĐĐ của TĐ 6 TQLC vào vùng tảo thanh nhưng CQ rút chạy..

Hành quân Silver Mace II chấm dứt ngày 18 tháng 4. (TQLC VN chuyển sang vùng Chương Thiện)

Tổng kết : có 7 cuộc chạm súng; 38 CQ bị hạ (21 xác bỏ lại); 47 thuyền và 209 cơ sở bị phá hủy; tịch thu 4400 đạn đủ loại, 380 vũ khí..một số người tình nghi bị giữ..

Trong các tháng 5 và 6 -1969, lực lượng PCF của HQHK , dùng quân Mike theo tàu, tổ chức nhiều cuộc đột kích phá hủy nhiều cơ sở hậu cần, kho lương thực, xưởng đóng thuyền của CQ trong vùng quanh sông Cửa Lớn, các công binh xưởng cũng bị phá hủy

(ngày 15-6, chặn bắt ghe hậu cần VC tịch thu 1000 viên đạn AK-47, 12 súng B-40, 5 thùng đạn, 3 mìn dưới nước, 5 mìn loại claymore, 25 lựu đạn và 20 đuôi rocket..)

(ngày 16-6 đột kích hầm chôn dấu vũ khí CQ tại 10km Tây-Bắc làng Năm căn cũ đụng độ với 1 Tr đội CQ; hủy 10 ghe, phá 5 cơ sở, 9 hầm chiến đấu, hủy 600kg gạo.. hạ 2 VC và bắt sống 2)

Các cuộc hành quân đột kích vào Năm Căn trong khoảng thời gian 6 tháng đầu năm 1969 phải tùy thuộc vào sự yểm trợ của các chiến hạm dùng làm căn cứ tiếp liệu neo ngoài khơi, không thể vào sát cửa sông vì cát, bùn..

Bộ Tham mưu MAC-V đã bàn thảo kế hoạch cần có một căn cứ yểm trợ và tiếp vận trên đất liền nếu muốn có sự có mặt ‘thường trực’ của Chính quyền VNCH tại Năm Căn      Một căn cứ tại cửa sông Cửa Lớn hay Bồ Đề là thích hợp nhất vì có thể kiểm soát phía Vịnh Thái Lan bọc vòng Mũi Cà Mau và tránh được các cơn bão trong mùa gió ..’Gió mùa’. Hơn nữa, bình định được Năm Căn là phá được một vùng CSBV cho là ‘bất khả xâm phạm’, chặn được tiếp liệu và nguồn kinh tế của CS cung cấp cho vùng đồng bằng sông Cửu Long.. và sẽ là một chiến thắng chính trị  quan trọng cho Chính phủ VNCH đồng thời đem dân về cùng Chính quyền Quốc Gia ..

Đô đốc Zumwalt, được sự ủng hộ của HQ VNCH, đã mạnh dạn lập kế hoạch dựng một Căn cứ HQ  Việt-Mỹ tại Năm Căn. Kế hoạch này.. không được các Vị Chỉ huy VNCH và các Cố vấn Vùng 4 CT..ủng hộ (đúng hơn là chống đối) vì cho rằng ; ‘bình định xong.. sẽ không giữ nổi (!), Năm Căn ..không có giá trị kinh tế, dân chúng..trong vùng đã theo VC từ lâu đời.. Với các nhà Quân sự Bộ binh  Vùng 4 thì tốt nhất là.. củng cố các khu vực đang nằm trong quyền kiểm soát của VNCH..

Kế hoạch của HQ, bị Bộ Chỉ Huy Quân Sự Mỹ từ khước : không lập một căn cứ .. trên bộ, nhưng các hoạt động ‘sông-biển’ thì tùy.. HQ quyết định ! Đô đốc Zumwalt chọn cách khác : “lập một Căn cứ nổi, neo nơi Cửa sông”

Ngày 15 tháng 5 -1969 CTF-115 đề nghị lập một Căn Cứ Di động Tiền tiêu, Yểm trợ Chiến thuật hay MATSB = Mobile Advanced Tactical Support Base, neo tại giữa cửa Sông Cửa Lớn gần khu vực Năm Căn cũ (nơi ĐĐ Zumwalt định chọn làm căn cứ trên đất liền). Dựa trên kinh nghiệm thu được trong Hành quân Giant Slingshot, Căn cứ nổi sẽ được xây dựng trên các xà lan (ammi ponton) nối kết..Chương trình này (về phương diện tâm lý chiến(!) được đặt tên là ..”mở chợ” (Market Place), quảng cáo cho sự kiện Chính phủ VNCH trở lại Năm Căn.. mở chợ nổi (!) mời dân ra sinh hoat

(Ammi ponton là xà lan được hàn thêm khung thép để làm mái che chịu đựng nổi sức nặng của vài lớp bao cát, chống được các mảnh đạn cối khi bị pháo kích.. Vòm mái khum giống mu rùa nên còn gọi là ‘turtle ammi’ ; các khoang trống của xà lan dùng chứa nước ngọt)

Dự án ban đầu là MATSB cần đủ chỗ để yểm trợ cho 6 PCF,, một toán tâm lý chiến, 10 thông dịch viên của HQVNCH, một bộ Chỉ huy thu gọn, một chiến hạm LSIL của HQVN để bảo vệ Chợ nổi..nơi sinh hoạt cho khoảng 60 nhân viên dân sự..5 chiếc xà lan có thể tạm đủ (một chiếc dành..làm Chợ !). Bộ Chỉ Huy HQHK chấp thuận không chỉ 5 mà cho đến.. 9 xà lan, dành một chiếc làm sàn đáp trực thăng vũ trang..và cho thêm một LST yểm trợ, neo trong Vịnh Thái Lan..và sau đó do thêm nhu cầu nên tổng cộng số ammi ponton lên đến 11 chiếc.

MATSB được ráp tại Nhà Bè, mái các nhà và cơ sở được gia tăng sức chống được đạn súng cối khi bị pháo kích, hai bên vách đặt bao cát chống đạn súng nhỏ bắn từ xa, các vị trí đặt súng phòng thủ và súng cối được thiết trí, tuy nhiệm vụ bảo vệ Căn cứ nổi được giao cho các PCF, LSIL và trực thăng vũ trang Seawolf.. Sau khi hoàn tất MATSB được 3 chiến hạm LSD của Hạm đội 7 kéo về vị trí ngoài khơi gần cửa Sông Cửa Lớn.

Ngày 25 tháng 6-1969, Hành quân Sea Float / Trần Hưng Đạo III khởi động ..và đoàn tàu LSD, tàu kéo.. do 6 PCF hộ tống đã đến vị trí định trước lúc 9 giờ sáng. Công việc thả neo Sea Float dù dòng nước triều chảy siết đến 8 knots vẫn tiến hành. Sea Float được cột chặt vào 6 chiếc neo loại 9000 lb (dùng cho các Tuần dương hạm), có thêm các khối bê tông giúp sức..Dòng nước chảy siết được xem là một hệ thống phòng thủ và là chướng ngại thiên nhiên chống đặc công nước của CS, thêm vào đó là một hệ thống cảm ứng điện tử, thả nổi từ xa ghi nhận các di chuyển của các vật lạ  hay thả trôi về phía căn cứ.

Sea Float là nơi “đóng quân’ và sinh hoạt của hơn 700 quân nhân Mỹ, còn thêm thủy thủ đoàn của một LCIL (hay LSSL tùy sự biệt phái) của HQ VNCH và một chiến hạm PG (USN) có nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho Căn cứ. SeaFloat có một bộ chỉ huy với các đơn vị tình báo, viễn thông, tiếp vận.. một biệt đội trực thăng vũ trang UH-1B (toán HA(L)-3 Seawolf; ngoài ra có thêm các chiến đỉnh sông rạch của RAG Mỹ, RAID Việt, PCF, các đơn vị SEAL/UDT với các phương tiện riêng (MSF=Mobile Support Team)..các thuyền máy của Hải thuyền VN..Trang bị tự vệ của Sea Float gồm 4 cối 81mm , 6 đại liên 50, 10 M-60 và đủ loại vũ khí cá nhân..

( SEAL có các chiến đỉnh riêng gồm 2 chiếc LSSC và một MSSC,một HSSC. Đây là các loại thuyền nhôm gắn máy, dài 36 ft trang bị radar, nhiều súng đại liên có khả năng di chuyển nhanh và chở được 16 quân cùng các vũ khí cá nhân)

Một trong những khó khăn ban đầu của Sea Float là nước ngọt cho sinh hoạt,, phải do các LSM chở từ Nhà Bè : mỗi chuyến cung cấp được chừng 32 ngàn gallons.

Các phản ứng đầu tiên của CSBV là thả truyền đơn theo dòng nước.. dọa binh lính Mỹ-Việt.. Đài Hà Nội dọa ngày 17 tháng 7 sẽ đánh chìm Sea Float !..tuyên truyền với dân làm củi là sẽ..diệt căn cứ này không lâu ! Nhưng 6 tuần đi qua mà MATSB .. chưa bị phát súng tấn công nào của VC ?

Đô Đốc Zumwalt tin rằng cần có sự cộng tác của HQVNCH để Chiến dịch thành công, Ông muốn có một Sĩ quan HQVNCH  làm Phụ tá Chỉ huy Căn cứ . Phía HQVNCH không tìm (?) được một SQHQ có cấp bực tương xứng, nhận nhiệm vụ thường trực nên giao trách nhiệm này (thêm) cho Vị Tư lệnh HQ Vùng 4 Duyên Hải. Ông này không ‘mặn mà ‘ lắm nên chỉ định một SQ thuộc quyền .. ra “Chợ nổi’ (như bị phạt?).

CS ra lệnh cấm dân đánh cá, làm rừng, làm than.. ra Chợ nổi, tuy nhiên dân càng ngày càng đến Căn cứ nhận quà, thực phẩm.. được giúp sửa chữa máy đuôi tôm, mài dao, rựa (nhờ một máy mài dao từ Mỹ mang sang), riêng dịch vụ khám bệnh, chữa răng,  phát thuốc..sau đó gia tăng nhờ các Bệnh viện hạm của HQVNCH

Ngày 26 tháng 7, Chiến dịch ‘phụ’ từ SeaFloat bắt đầu vào sâu hơn trong Sông Cửa Lớn đến giao điểm Cửa Lớn và Kinh Cái Nháp cách Căn cứ nổi khoảng 10km. Đoàn chiến hạm vào trong sông gồm 2 PCF cùng LSIL và tàu bệnh viện của HQVN.. đến điểm hoạt động buổi sáng và rút về vào  buổi chiều..

Hoạt động của quân Việt-Mỹ gây nhiều trở ngại cho các cán bộ thu thuế CS thay đổi việc đi lại của thuyền bè nơi cửa sông : Con số thuyền từ trung bình 102 chiếc mỗi ngày trong 5 ngày đầu của Sea Float, tăng lên 159 thuyền qua lại từ tháng 8 và kích thước thuyền bè cũng lớn hơn, nhất là thuyền chở củi..Tính đến 26 tháng 8, 316 gia đình đã bày tỏ ý muốn tái định cư trong khu vực hoạt động của Sea Float..

SEA FLOAT HAI QUAN HOA KY SONG CUA LON, NAM CAN

Sea Float Hải quân Hoa Kỳ trên sông Cửa Lớn, Năm Căn (Ảnh của brownwater-navy).

Tuy nhiên vẫn còn nhiều trục trặc bất đồng giữa các cấp Chỉ huy Việt-Mỹ ! Tư lệnh Vùng VN, không biết vì lý do nào, không cho phép Tiểu khu An Xuyên yểm trợ bộ binh cho các cuộc hành quân đột kích của HQHK (?).. Bên phía Mỹ đành ‘tuyển mộ’ một lực lượng ‘riêng’ gồm 50 nhân viên ‘chiêu hồi’ (bí danh là Toán 66), cũng được huấn luyện thêm để bảo vệ MATSB, các chiến binh chiêu hồi này và gia đỉnh được cung cấp vật liệu xây dựng một ‘làng’ riêng trên bờ, tại Ấp ‘Năm Căn cũ’,  riêng 15 gia đình được chọn và  cho tạm trú ngay trên MATSB..(HQVNCH không.. tin tưởng nhóm này)

Ngày 2 tháng 8, Sea Float tổ chức hành quân ‘riêng’,mượn quân Biệt kích Mike Force của LLĐB HK : 175 quân Mike đã hành quân tảo thanh trong suốt một tháng bằng trực thăng vận từ Sea Float vào ven sông, lập một căn cứ trên bờ và tảo thanh khu vực quanh vùng Sông Cửa lớn, với các kết quả rất tốt cho việc bảo vệ MATSB..

Chương trình tiếp tục sử dụng Mike không được Bộ TTM đồng ý..Bên HQVNCH giúp bằng tổ chức cho Sea Float  một đại đội ‘biệt động quân -Hải quân’ (ranger-VNN)..

Đại đội này, do một HQ Tr úy chỉ huy, có nhiệm vụ rất giới hạn, chỉ hành quân dọc ven sông, vào sâu nhất là 1km và chỉ hoạt động.. trong một tháng (?). Đại đội này được huấn luyện tại Nhà Bè do TQLC VN trong 2 tháng và thực tập tại Đặc khu Rừng Sát và Bến Lức trong 1 tháng.. sau đó ngày 6 tháng 9 được gửi đi trợ giúp Sea Float !

Toán quân này.. không giúp gì được cho nhu cầu của Sea Float ! (Cố vấn Mỹ than phiền về trở ngại ngôn ngữ và kỷ luật. cùng khả năng quân sự.. của toán quân).. nên hoàn trả đơn vị này về cho HQVN.. chỉ sau 1 tuần lễ !

Sự kiện ‘thiếu quân’ (thích ứng với nhu cầu chiến trường) đã đặt Chiến dịch Sea Float vào một tình thế khó xử ! nhất là lúc này (9-69) hơn 500 dân đã tụ về sinh sống quanh khu vực ‘Năm căn cũ’, không có sự bảo vệ của Chính quyền VNCH..Ngoài ra sự vắng mặt  thường trực của các lực lượng tuần tra sông rạch, sẽ giúp CQ hoạt động trên Kinh  Cái Nháp có cơ hội phục kích, gài mìn các chiến đỉnh dễ dàng hơn

Tỉnh trưởng An Xuyên miễn cưỡng gửi một lực lượng tạm gồm 2 trung đội ĐPQ và một toán Thám sát Tỉnh (PRU) đến giữ an ninh.. trong 2 tuần ! Thời gian qua và không có quyết định chính thức : Các nhà quân sự BB VNCH Vùng 4 bác bỏ kế hoạch ‘bình định Năm Căn’ vì không đủ phương tiện và lực lượng quân sự cần thiết (?) Tiểu khu An Xuyên không đủ sức bảo vệ an ninh cho 5-600 dân tại Năm Căn cũ nếu không được Chính phủ VNCH yểm trợ ! Rút lui Sea Float và giải tán dân (đang muốn về với Chính quyền Quốc Gia) sẽ là một thất bại tâm lý nguy hại cho VNCH !

Đến giữa tháng 10-1969, số dân tụ về gia tăng đến trên 3 ngàn người.. Đô Đốc Zumwalt nhất quyết bảo vệ thành quả của HQ và dự trù huy động các lực lượng HQ Việt Mỹ , dùng các lực lượng xung kích của HQVNCH như Hải thuyền, và sử dụng tối đa các đơn vị SEAL và UDT.. Sau cùng cố gắng của Ông đã được Tướng Abrams .Tư lệnh Quân Mỹ tại VN chấp thuận.. cho lập một Căn cứ hỗn hợp HQ Việt-Mỹ trên đất liền, nơi trú đóng của các PCF và một Duyên đoàn HQVN tại Năm căn cũ .. Đây là Chương trình Sea Anchor , khởi sự ngày 24 tháng 10-1969.

  • Cộng quân và Sea Float :

Không thể tấn công Sea Float bằng bộ binh hay pháo kích, CSBV dùng quân đặc công ‘nước’ để phá hoại Căn cứ nổi này, nhiều cuộc gài mìn vào các chiến đỉnh neo đậu tại đây đã xẩy ra :

  • 16 tháng Giêng : một quả mìn  tái chế từ một quả 750lb, chưa nổ,  gắn sẵn ngòi nổ điều khiển từ xa bị phát giác trên sông Cửa Lớn trên thủy lộ của các PCF .. bom bị toán UTD gỡ bỏ..
  • 21 tháng 4 năm 1970 : trận tấn công đầu tiên của đặc công nước CS đã diễn ra lúc 8 giờ 50 tối : các đặc công bị phát giác, quân trú phòng thả lựu đạn..5 giờ sau, 2 toán đặc công mình trần bị phát hiện khi dùng ống thở bơi lại gần xà lan kho đạn, lính gác bắn và thả lựu đạn nổ dưới nước tạo hơi ép.. Ngày 24-4, 4 xác CQ nổi lên lúc 2 giờ chiều. Khám tử thi, thấy các xác này trang bị lựu đạn Nga, ngòi nổ, dây nylon, ống thở khi đang lặn, mang các khối TNT từng bloc (gồm 250 gói 1/4 lbs) nối kết với 10 lbs thuốc nổ plastic.. (Các nhận xét cho rằng đây là toán đặc công từ miền Bắc xâm nhập)
  • 4 tháng 7 năm 1970 :  RID 45 di chuyển trên rạch Biên Nhan bị phục kích bằng RPG-7 và bom quăng (lance bombs).. ASBP 5162 đi sau cùng bị đánh chìm , 4 binh sĩ HQVN mất tích, 7 bị thương..Mỹ có một bị thương..
  • 6  tháng 7 năm 1970 : Chiến hạm yểm trợ (ARL 38) USS Krishna bị gài mìn khi đang neo tại Căn cứ nổi. Khối chất nổ gây một lỗ thủng 7m x 5m nơi khu vực phòng máy nhưng không đủ làm chìm tàu.. Tàu được tạm sửa và tự chạy được về Vũng Tàu.. sau đó về Hải Quân Công xưởng để sửa chữa lại .. Vụ nổ gây một binh sĩ HQHK tử nạn..
  • Ngày 30 tháng 7 năm 1970 . vào sáng sớm Trợ Chiến hạm (LSSL) HQ-225 Nguyễn Ngọc Tru,  neo tại phao phía Đông của Sea Float vỉ VC gài mìn dưới nước, mìn nổ bên sườn phải phía mũi tàu. Chiến hạm bị vào nước rất nhanh, chìm trong vài phút.. 17 binh sĩ HQVN mất tích. Một sợi dây nylon dài còn buộc theo tàu. Tàu chìm sâu dưới 3 thước nước, chỉ còn phần mũi nhô khỏi mặt nước vì còn cột vào phao neo..Tàu bị phế thải, không thể trục vớt được..
  • Sáng 18 tháng 8, một xác VC trôi vào ven bờ gần vị trí chọn để xây dựng Sea Anchor , ngực bị vỡ nát do sức ép của lựu đạn ngầm.. Xác được nhận dạng là một đặc công nước VC, có mìn trong hộp gỗ cột vào xác..có dây cuộn dài đến 70m.. khối mìn chứa 118 lbs TNT gắn sẵn 11 ngòi nổ..
  • Sáng 23 tháng 8, lính canh Chiến hạm PG 85 (USS Gallup) thả lựu đạn vào đám gỗ ván trôi gần tàu.. 2 VC nổi lên, một cố bơi đến phía tàu và bị bắn hạ tại chỗ, một bị thả thêm lựu đạn và mất dạng..Ngày 24, hai xác VC nổi lên, có lựu đạn cột trên người.

Trong năm 1970 HQ Việt-Mỹ, nhất là các toán SEAL liên tục tổ chức thám kích vào sâu trong các khu vực CQ kiểm soát..tấn công các căn cứ hậu cần, các nhà kho..

Số dân di chuyển ra Vùng QG kiểm soát lên đến 5200 người (tính đến tháng 8-1970)

  • Đêm 21 tháng Giêng 1970, Toán MiKe , 10 người do một SEAL dẫn đầu phục kích tại một điểm cách rạch Cái Nháp  50m trên đường giao liên của CQ, chặn đánh 1 ghe máy VC , ghe này trang bị nhiều B-40 và súng nhỏ phản ứng mạnh. Trận đánh chấm dứt với 14 xác CQ và vũ khí bỏ lại trong đó có xác 1 Tr úy CSBV xâm nhập.. Đây là lần đầu tìm được vết tích của quân chính quy BV hoạt động tại khu vực Sea Float.
  • Ngày 9 tháng 4 : SEAL dùng nhân viên Chiêu hồi, vào sâu 19km trong sông Cửa lớn, tấn công kho hậu cần CQ hùy 30 ghe, 3 máy phát điện. 200 kg gạo, 250kg thuốc, 800kg thực phẩm. Diệt 2 CQ, bắt sống 5 CQ..
  • Ngày 14 tháng 7 : Chiến hạm PG 90 (USS Canon) bị tấn công khi đang hộ tống Chiến hạm Tiếp vận USS Brule (AKL 28), các PCF 96 (HQ Mỹ) và PCF 3816 (HQVN) trong toán hộ tống cũng bị trúng đạn. Đoàn chiến hạm về được Sea Float an toàn, 6 CQ bị hạ; 2 Mỹ và 6 Việt bị thương..
  • Ngày 11 tháng 8 : PG-90  lại bị tấn công khi vào sông Bồ Đề , 25 km phía Đông Sea Float, tàu bị bắn trúng 8 quả B-40/41; tất cả 12 thủy thủ bị thương, nhưng rút lui được khỏi vùng bị phục kích. Chiến hạm về Xưởng sửa chữa Cam Ranh và sau đó về Guam ngày 27 tháng 8 để tu bổ lại..

Ban lịch sử của CSVN (tỉnh Cà Mau) ghi “Trận đánh tàu trên sông Tam giang tại Vàm rạch Chủ mưu năm 1970′,  CS lập một Di tích lịch sử (?).. ghi một chiến công (?) lạ lùng là :’Đội Du kích Kênh 17 phục kích tại Rạch Chủ mưu, chặn đánh đoàn tàu 09 chiếc, trong đó có 1 tiểu pháo hạm là sở chỉ huy mang số 228, chạy từ Năm Căn đến Cửa Bồ đề..Đêm 29 tháng 8-1970, VC bắn chìm chiếc 228 và 4 chiếc đi kèm, diệt 1 Tr tá Mỹ và hơn 240 tên địch.., bắn hỏng 1 trực thăng !!

(Chiến công quái lạ này.. không được Naval Report của HQHK .. biết đến ?)

  • Sea Anchor

Việc chọn vị trí xây cất Căn cứ Sea Anchor được tiến hành gấp rút . Vùng đất được chọn phải dùng các C-123 phun thuốc khai quang mở một vùng trống 1000m từ hai bờ.. Ba toán Công binh HQ Seabee của Lữ đoàn 3 HQ Kiến tạo được giao công tác, các xe ủi đất cỡ lớn, máy móc cơ giới nặng đủ loại được tập trung và đưa đến Côn Sơn bằng xà lan.,. Nguồn vật liệu xây cất như xi măng, cát, đá..sắt thép được huy động từ mọi nguồn. Các ‘nhà thầu’ dân sự Mỹ cũng được mời góp công..Số lượng cát trị giá đến 6 triệu đôla, được chở đến bằng xà lan lấp khu rừng ngập mặn chọn làm Căn cứ..Để chống sụt lở. Seabees đóng cọc thép-bê tông, chăng lưới sắt chặn bờ sông giữ cát..Một phi đạo tráng nhựa dài 910m được xây dựng.

Căn cứ Sea Anchor có 12 dãy nhà kiểu Butler , 41 ‘chòl loại ‘SEA hut’ , và các đơn vị gia cư chứa được 1000 người dành cho gia đình binh sĩ VNCH..

Thấy Công trình xây cất có vẻ ‘lớn’ Chính quyền Quận Năm Căn  đổi thái độ từ ‘lơ là’ sang cộng tác và đóng góp một toán Phát triển Nông thôn, một Trung đội ĐPQ, hai Cảnh sát, Ban hội tề cùng vài viên chức hành chánh xã. ấp .. và một toán vũ trang tuyên truyền..

Kế hoạch Sea Anchor càng phát triển và hai ấp mới HQVN đặt tên là các Ấp Trần Hưng Đạo 1 và 2 được xây dựng bên bờ phía Bắc của Sông Cửa Lớn tại vùng giữa  Năm căn Cũ và Rạch Cái Nháp. Dân về cư trú tại hai ấp này lên đến trên 9000 người (vào tháng 9-1970)

Sea Anchor nhận toàn bộ các cơ sở hoạt động của Sea Float vào tháng 9-1970 và Sea Float được tạm kéo về Đồng Tâm (?) và sau đó về Sông Ông Đốc (tháng 11-70)

Ngày 1 tháng 4 năm 1971 Hành quân Sea Anchor được HQ Hoa Kỳ chính thức bàn giao cho HQVNCH trong một buổi lễ  ký kết giữa Đ tá HQ Eugene Fincke và HQ Tr tá Nguyễn văn Tuyên. HQVNCH đặt tên Chiến dịch này là Trần Hưng Đạo IV. Tuy nhiên Căn cứ Năm Căn, nợi đặt Bộ Tư lệnh Hành quân của HQVN vẫn do HQ Mỹ điều hành đến khi HQVN tiếp nhận hoàn toàn Căn cứ..

https://brownwater-navy.com/vietnam/logo/sAnchor.gif

Huy hiệu hành quân Trần Hưng Đạo IV (SOLID ANCHOR) của Hải Quân VNCH và Hoa Kỳ (Ảnh của brownwater-navy)

  • Các hoạt động quân sự tại Sea Anchor :

Tháng 4 -1971, sau khi HQVN nhận trách nhiệm Hành quân THĐ IV, các cuộc đụng độ với CQ giảm thiểu đáng kể : tổng kết tháng 4 có 15 cuộc chạm súng với kết quả chung là 2 quân nhân HQ Mỹ và 18 HQVN bị thương. 30 VC bị hạ và 15 bị bắt. 1 vụ đặt mìn bị phát giác kịp thời. Đa số các cuộc đụng độ là CQ phục kích bắn B-40 vào vào các chiến đỉnh Việt Mỹ tuần tiễu trên sông Cửa Lớn, các chiến đỉnh phản pháo và trực thăng vũ trang oanh kích các vị trí phục kích..Trận đánh đáng kể nhất là ngày 14 tháng 4, 2 chiến đỉnh mở đường của RID 46 gồm 1 ATC (HQ 1276) và 1 ASPB (HQ6142) bị tấn công trên Kinh Cái Nháp : ASPB trúng 5 quả B-40 và bị chìm, thủy thủ đoàn gồm 6 HQVN bị thương được di tản an toàn..

Trong tháng này, các toàn SEAL, dùng các hồi chánh viên dẫn đường, tiếp tục các cuộc đột kích vào các cơ sở hậu cần VC, phá hủy kho gạo, kho lương thực, thuyền bẻ và bắt các cán bộ thu thuế VC.

25 tháng 4 : TĐ 42 BĐQ hoạt động phục kích tại Năm Căn đã chặn đánh một trung đội VC di chuyển bằng xuống.. Pháo binh từ Sea Anchor yểm trợ cho trận đánh..

Tháng 5-1971 : Các cuộc đụng độ tăng lên 38 vụ, 21 CQ bị hạ . Mỹ và Việt có 14 bị thương (5 Mỹ). . VC vẫn phục kích lẻ tẻ các chiến đỉnh, bắn B-40 rồi chạy khi bị phản pháo và phi cơ oanh kích , nguy hiểm nhất vẫn là khu Cái Nháp , VC thả mìn trôi liên tục (Alpha 5113 của HQVN chìm ngày 18-5). 10-5 hành quân hỗn hợp Việt Mỹ huy động Giang đoàn 44 Ngăn chặn, TĐ 42 BĐQ, PCF và trực thăng HK  vào một căn cứ VC trong khu vực Cửa Lớn. Pháo binh 105 và OV-10 yểm trợ. Kết quả hành quân diệt 10 VC, bắt sống 2; thu 12 mìn gài trên bộ, 24 lựu đạn, 11 bom liệng cùng dàn phóng; hủy 2 hầm, 4 ghe, nhiều gạo và cá khô. TĐ 42 BĐQ được HQ Mỹ tuyên dương thành tích hành quân..Bên sông Bồ Đề LSSL HQ228 bị tấn công ngày 29 tháng 5 khi di chuyển, từ bờ Bắc.bằng B40.. Chiến hạm phản pháo, gọi không yểm và ủi bãi..CQ bò chạy để lại 11 bom liệng và 17 dàn phóng, 8 bộ kích hỏa và cả bản kế hoạch ‘đánh tàu’ của CQ

Các tháng 6,7 và 8 /1971 : Các hoạt động của VC  vẫn là phục kích , bắn vào chiến đỉnh tuần tra rồi bỏ chạy. HQVNCH tập trung vào công tác trục vớt các chiến đỉnh bị chìm trên kinh Cài Nháp. (Alpha 5113 được trục ngày 1 tháng 7 và kéo về Đồng Tâm) Các đơn vị BĐQ tăng phái cho các cuộc hành quân : TĐ 32 thay thế cho TĐ 42  (17 tháng 6) sau đó TĐ 41 thay cho 32 (16 tháng 8).

Từ 15 tháng 8, Bộ Chỉ Huy Chiến dịch THĐ IV trực tiếp huy động các lực lượng cơ hữu (kể cả BĐQ tăng phái). Riêng trong tháng 8, trực thăng Seawolf bay 36 phi vụ yểm trợ, oanh kích phá hủy 7 cơ sở, 21 ghe, 9 hầm..HQVN gửi đến Năm Căn Chiến hạm sửa chữa (Cơ Xưởng nổi) HQ 9611 ( ex Y-R-71) , chuyên tu bổ các PCF.. Các Đơn vị SEAL Mỹ  hoạt động chung với các Người nhái HQVN và 3 chuyên viên đặc biệt Úc trong các cuộc đột kích vào nơi trú ẩn của các cấp chỉ huy VC..

Trong những tháng cuối năm 1971 ; Ngoài các vụ đụng độ ‘bình thường’  Tháng 10 (13 vụ), tháng 11 (8 vụ) có vài vụ đáng kể như:

6 tháng 10 ; phi cơ của Black Ponies thả 1 quả bom CBU-55 vào một địa điểm tại khu rừng ngập mặn nơi thường phát xuất các cuộc tấn công của CQ . Một ĐĐ BĐQ đã được đưa vào để đánh giá kết quả . Vụ thả bom gây 8 tiếng nổ phụ, 8 hang, ổ  và công sự sập nát, 3 chòi và 2 ghe bị hủy. Bom tạo một vùng trống trải rộng hơn 100m..và bom  được dự trù trong các cuộc tấn kích kế tiếp.. Ngày 20 tháng 10,Tuần duyên hạm  PGM 600 (Phú Dự) của HQVN bị tấn công khi vào sông Bồ Đề..Chiến hạm phản kích, CQ rút chạy.. 4 tháng 11 : Tuần duyên hạm PGM 610 (Định Hải)  bị phục kích khi vào sông Cửa Lớn, 15km phía Đông Căn cứ : CQ bắn 4-5 quả B-40 vào chiến hạm từ bờ phía Bắc.. bị phản pháo CQ bỏ chạy.. 17 tháng 11, RID 45 và 47 yểm trợ 2 ĐĐ BĐQ /TĐ 43 tảo thanh khu Cái Nháp..đụng độ nhẹ ..

22 tháng 11 HQ Tr tá Luật thay HQ Đại tá Thiều làm Chỉ huy Hành quân THĐ IV

Ngày 23 tháng 11, do tin báo của thợ rừng, TĐ 43 BĐQ hành quân vào kho vũ khí chôn dấu của VC trong khu Ấp Hàm Rồng. Khi tiến công và lục soát hạ 7 VC  khám phá 2 ghe , 8 súng phòng không 20 ly, 5 trung liên, 184 vũ khí cá nhân, 6 nòng súng cối 60/61 mm.. Số vũ khí này tuy cũ và rỉ sét nhưng khoảng 30% còn dùng được..

Năm 1972 HQ HK thu gọn các hoạt động và chuyển giao nhiều trọng trách lại cho HQVNCH .. Căn cứ Năm Căn bắt đầu bị CQ pháo kích : ngày 20 tháng 2 VC pháo 8 quả cối 82 vào ngoài rào phòng thủ, ngày 21 tháng 2.. thêm 3 quả..Cùng 21 tháng 2 một phi cơ trinh sát Mohawk của BB HQ đụng cột buồm Giang pháo hạm LSIL HQ 330 (Lôi Công)  đang neo tại Căn cứ.. phi cơ gãy cánh trái và rơi..2 quân nhân Mỹ tử nạn.

Ngày 7 tháng 7 Giang pháo hạm LSIL HQ-328 (Thần tiễn) khi neo tại một sà lan bên bờ Nam của sông Cửa Lớn, đối diện với Căn cứ Năm Căn , bị đặc công nước VC gài mìn sâu dưới nước . Chiến hạm bị nổ và chìm 30 phút sau . Không có tổn thất về nhân mạng của HQVNCH

Các cố vấn HK rời khỏi Năn Căn vào tháng Hai năm 1973

CAN CU HQAI QUAN NAM CAN

Căn cứ Hải Quân Năm Căn (Ảnh của brownwater-navy).

Bộ Tư lệnh VÙNG NĂM DUYÊN HẢI

  • Tổ chức

Hải sử Tuyển tập (HSTT), trang 233 ghi :

“Vùng 5 Duyên hải, Bộ Tư lệnh đóng tại Năm Căn, thuộc Tỉnh An Xuyên.”

Trực thuộc V5ZH  có các đơn vị cơ hữu sau đây :

  • Căn cứ HQ Năm Căn, nơi đặt Bộ TL
  • Tiền doanh Yểm trợ Tiếp vận  (đóng chung trong doanh trại Bộ TL)
  • Duyên đoàn 36, đóng tại Long Phú (Ba Xuyên)
  • Duyên đoàn 41 , đóng tại Hòn Khoai (Poulo Obi)
  • Đài kiểm báo 401, đặt trên Núi Hòn Khoai
  • Hải đội 5 Duyên phòng
  • Giang đoàn 43 Ngăn chặn
  • Giang đoàn 65 Tuần thám

(Ba đơn vị này đồn trú trong Căn cứ HQ Năm căn)

Các đơn vị tăng phái :

  • Một TĐ ĐPQ đóng tại Tân An, cách cửa Bồ Đề khoảng 10 km
  • 2 Trung đội pháo binh 105 : một tại CC HQ và một tại Tân An..
  • Một chiến hạm thuộc Hạm đội tăng phái.. bất thường..

Tác giả Nguyễn Tấn Đơn trong “Đặc san Hải sử” (Sydney) ghi :

“Vùng 5DH đồn trú tại Năm Căn, ranh giới bắt đầu từ Cửa Định An đến bờ Nam cửa sông Ông Đốc, được phân chia thành 7 vùng cận duyên và 2 cửa sông Năm Căn (từ cửa Bồ Đề đến cửa Bảy Háp), sông Đồng Cùng và Chi khu Năm Căn

Các Vị Tư lệnh : HQ Đại tá Phạm Mạnh Khuê, rồi Đ tá Nguyễn Công Hội và sau cùng là Đ tá Nguyễn văn May

  • Hoạt động

HQ Tr tá Trụ (xem dưới) nhận định về Năm Căn  (trang 31):..”đơn vị này ưu tiên dành cho những phần tử bất hảo, lính đào ngũ, vô kỷ luật hoặc thấp cổ bé họng.. Thật vô lý khi mà một quân nhân được thuyên chuyển đến một đơn vị, cảm nghĩ đầu tiên là họ bị đi đày..’

Ban biên tập HSTT trang 230 viết về Năm Căn :

“  Năm Căn có 1 TĐ ĐPQ của Chi khu Năm Căn tăng phái, đóng đồn tại Tân An,  mỗi ĐĐ chì có..dưới 45 quân, trải dọc bờ sông ra biển,  đạn dược thiếu hụt; đụng địch không dám bắn nhiều..vì phải tiết kiệm đạn..”.

“.. một sự èo uột, yếu đuối đến sợ hãi của các đơn vị đang phải đồn trú tại đây giữa lòng đất địch !”

HAI DOI 5 DUYEN PHONG

Hải đội 5 Duyên Phòng (Ảnh của brownwater-navy).

  • Vài sinh hoạt :

Một vài cảm nghĩ của các Chiến sĩ HQ từng phục vụ tại Năm Căn :

“ Năm căn đi dễ khó về

Khi đi tàu thủy, khi về trực thăng’

(lời ông Cù lần biển trong bài Hải đội 5 Duyên phòng -dongsongcu.wordpress)

Ông phụ trách HQ3906 của Hải đội 5 Duyên Phòng từ lúc V5DH chưa thành lập và chiến đỉnh này hoạt động tại Năm Căn lúc Sea Anchor đang xây cất)

Tác giả Nguyễn Mạnh Hùng trong Tập sách “Năm Căn vùng Xôi đậu’ đã ghi lại những sinh hoạt buồn thảm của các quân nhân HQ tại Năm Căn và cả vụ HQ-225 bị đánh chìm..

  • Ngày tan hàng :

– HQ Trung tá Trần Đình Trụ , Tư lệnh Phó Vùng 5 Duyên Hải ghi lại..trong “Việt Nam Thương Tín- Con tàu định mệnh” (www.vnnavydallas.com)

– Sáng 23 tháng 4 bà Trụ từ Saigon cùng 3 con xuống tìm Ông bằng trực thăng, cho biết tình hình Saigon rất nghiêm trọng.. Gia đình HQ đều sẵn sàng xuống tàu ra đi..

Ông Trụ ghi : “Thế mà ở Bộ Tư lệnh không ai cho dưới này hay. Bọn chúng ở Saigon chỉ biết thủ thân, đem con bỏ chợ, mấy ngàn sinh mạng ở đơn vị này đâu phải là ít” (trang 32, sdd)

Ông bay về Bộ Tư Lệnh HQ ngay sáng 24, dự trù về lại ngày 26-4, nhưng kẹt luôn không có phương tiện để có thể về lại Năm Căn (vợ và con..đều còn tại Năm Căn!).

3 giờ chiều 29 tháng 4 :Bộ TL HQVN xuống tàu.. Ông Trụ từ phòng HQBTL gọi về Năm Căn cho TL Vùng 5 DH.. thông báo tình hình  ! và đề nghị rút ra Hòn Khoai ! (trang 35), sau đó Ông đành theo tàu HQ di tản.. ?

Theo Ông thì : Cuộc lui binh vẹn toàn (danh từ của HSTT trang 511) đã.. quên (?) hay đúng hơn  bỏ rơi Vùng 5 Duyên Hải !

HQ Đại tá Nguyễn văn May (Tư lệnh V5ZH) chua chát hơn : (HSTT trang 236) .. Hai vị Chỉ Huy đại đơn vị của HQVNCH bị bỏ quên là : HQ  Đại Tá Nguyễn Bá Trang  (TL Lực lượng Thủy bộ) và Ông May (?) Sài gòn rút chạy và hai Ông.. không được thông báo !

Tối 29 tháng 4, qua thông báo của Ông Trụ (đang tại Bộ TL Hành quân của HQVNCH)

đến sáng  sớm 30-4 , Căn cứ Năm Căn mới rút toàn bộ.. 50 Chiến đỉnh cùng chạy về Hòn Tre ra biển theo đường sông Cửa Lớn.. Sáng 1 tháng 5 một buổi họp các Sĩ quan được tổ chức trên 1 PCF lênh đênh ngoài biển và quyết định là đoàn tàu phân tán một số đi ra hướng Tây dự định sang Thái, một số vào Rạch Giá và số lớn theo Đ tá May vào Hòn Tre để đầu hàng và bàn giao các Chiến đỉnh cho..vài  du kích VC.

(Ông Nguyễn văn Ơn, CHT Hài đội 5DP,  trong bài đã dẫn trên) ghi :’ ..’hết thực phẩm và cạn dầu, sáng ngày 4 tháng 5 năm 1975, ĐT May và tôi cập PCF vào Hòn Tre (hậu cứ Duyên đoàn 43) tìm tiếp tế, nhưng thất vọng vì đảo đã bị VC chiếm giữ tử chiều 30-4… Hai chúng tôi bị bắt giữ…”

Trần Lý 7-2020

Nguồn: Cảm ơn Mr. TL chuyển