Hình do một phụ nữ săn sóc Đại Tướng Cao Văn Viên vào những ngày cuối đời cung cấp trong tang lễ tại Washington D.C. Hoa Kỳ
(Courtesy of Hoa Pham)
Chương Thứ 16 thuộc
Cuộc Chiến Việt Nam: theo
Quan Điểm Các Tướng Việt Nam Cộng Hòa
*****
The Vietnam War:
An Assessment by South Vietnam’s Generals
Dec 1, 2010, by Lewis Sorley
(Texas Tech University Press)
LỜI TỰA
Bài biên khảo này trình
bày các biến chuyển chính yếu trong những năm và tháng cuối cùng của
Việt Nam Cộng Hòa. Đây không phải là một công việc dể làm. Gần một thập
niên trước khi Sài-gòn thất thủ vào ngày 30
tháng 4 năm 1975, tôi đã phục vụ trong tư cách Tổng Tham mưu trưởng Bộ
Tổng Tham Mưu của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Suốt những năm tháng đó,
tôi đã từng chịu trách nhiệm về công tác phát triển quân đội, cũng như
là cùng nhau chia xẻ các chiến thắng, cùng
luôn cả những lần thất bại. Tôi đã từng cực kỳ đau đớn, không khác gì
một người mẹ khi nhận tin con đã qua đời vì tai ương. Nổi đau thương mất
mát của tôi đã từng quá ư là tận cùng.
Sẽ thật đúng là một
chuyền buồn khi độc giả lần lượt đọc từ chương này qua chương khác của
bài biên khảo. Với tư cách là một người trong cuộc nên cũng là chứng
nhân, tôi tự thấy có bổn phận về đạo đức, là phải
tường trình mọi sự việc đúng như đã từng xẩy ra, hầu tôn trọng lịch sử
và mọi kẻ từng bỏ mạng vì một chính nghĩa mà họ hằng tin vào. Các biến chuyển đều đã được cố gắng viết xuống lại cho thật sát với sự hiểu biết
cá nhân có được của tôi, qua các lần phỏng
vấn những vị sĩ quan liên hệ và với các tài liệu có thể có được. Để đưa
cho được bài viết của tôi vào đúng với viễn ảnh lịch sử, tôi thiết nghỉ
cần phải bắt đầu với việc sơ lược về các sự kiện quân sự và chính trị
từng xẩy ra sau Trận Tấn công 1972 của Cộng
sản, và rồi là Thỏa ước Ba-lê đã được ký kết trong những tình thế nào.
Theo quan điểm của tôi thì thỏa ước này đã đánh dấu điểm ngoặc mà đã đưa
Nam Việt vào cái con đường tàn nhẫn bất khả đổi thay, từ từ biến thành
bên yếu thế, để rồi, cuối cùng cũng chỉ đành
phải sụp đổ hoàn toàn mà thôi.
• •
I. NHẬP ĐỀ
Khi Việt Nam Cộng Hòa
sụp đổ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 và chấm dứt sự hiện diện của mình
trên cương vị như là một quốc gia, thì thế giới nói chung – bạn lẫn thù –
đều ngở ngàng. Biến động đã quá ư là nhanh
chóng mà cũng tương đối khá dể dàng khi mà Cộng sản đã đánh chiếm được
Miền Nam Việt Nam, cũng đã khiến mọi người choáng váng, ngay cả bọn
địch, như là một việc không thể nào mà có thể tin được. Sao mà lại có
thể như vậy được? Mọi người đều đã tự hỏi. Vì sao
mà Nam Việt lại có thể tan hàng nhanh chóng như vậy? Chuyện gì đã xẩy
ra đối với quân lực Việt Nam Cộng Hòa, cái quân đội mà đã từng oai hùng
chống trả cả hai trận tổng tấn công khắc nghiệt của Cộng sản dạo 1968 và
1972? Vì sao mà một quân đội hùng mạnh như
vậy mà lại có thể tan rã dể dàng như vậy chỉ trong tháng ngày mà thôi?
Quá ư là lắm câu hỏi,
nhưng để giải đáp thì cũng lại quá ư là khó. Thật vậy, để trả lời một
cách cặn kẻ và vô tư tất cả các câu hỏi đó thì không phải dể gì đâu. Các
đau đớn kinh khủng gây ra bởi một sự mất mát
quá ư là bi thương sẽ có thể làm lu mờ hay thậm chí, còn có thể, bóp
méo cả sự thật đi. Rồi, thêm nữa, các mặc cảm tội lổi, hay các bản năng
tự tồn của những nhân vật chính yếu, cũng khiến khó phân biệt được khi
nào là sự kiện, khi nào chỉ là điều hoang tưởng
mà thôi, khi nào là sự thật hay chỉ là giả bộ. Trong khi các lý do quan
trọng nhất mà đã đưa đến sự sụp đổ vào lúc cuối cùng thì cũng đều có
thể được nhận ra ngay từ các biến chuyển mà đã dẫn đến nó, thì cũng từng
đã có nhiều nguyên nhân khác – một số thì
ẩn sâu và xa xôi, một số khác thì chưa từng hề được tường thuật, hay dù
chỉ đơn giản được ám chỉ đến trong các bài tường trình khác.
• •
Qua năm tháng . . .
viện trợ quân sự của Mỹ, và đôi khi, sự giúp đở của các đơn vị tác chiến
Hoa Kỳ, cũng đã giúp cho Việt Nam Cộng Hòa tổ chức được một lực lượng
tự vệ đủ khả năng tự trường tồn. Từ một quân đội
với quân số là 170.000 người, chỉ được trang bị bằng vũ khí lổi thời,
Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa cuối cùng đã trở thành một lực lượng cường
mạnh, được trang bị tối tân, với hơn một triệu quân nhân, không hề thua
kém bất kỳ quân đội của mọi quốc gia không cộng
sản tại Á châu nào cả. Không quân thì được xếp vào hàng thứ sáu trên
thế giới, và các sư đoàn tác chiến giỏi nhất thì cũng được đánh giá như
là không thua gì các đơn vị tương đương của Mỹ. Và cũng đúng là xui xẻo,
trong tiến trình thành lập, cái lực lượng
đáng nể này đã trở thành quá lệ thuộc vào ngân sách và trang bị của Mỹ
để có thể tự tồn tại, cũng như là đã phải cần không trợ của họ để có
thể giữ vững ý chí, cũng như là để có thể bảo vệ và răn đe chống lại một
cuộc tổng tấn công từ phuong Bắc. Không hề
có ai mà đã nghi ngờ khả năng chiến đấu của binh sĩ Nam Việt, và họ
cũng từng đã cho thấy như vậy! Nhưng qua tháng năm, họ đã bị phải học
cái kiểu ráng làm sao chu toàn trách nhiệm cho dể mà thôi, và tự tin là
quân trang quân dụng cứ sẽ mãi mãi là vô tận,
và khi mà có bất kỳ khó khăn gì, thì có cái “ông Anh Cả” cũng sẽ luôn
luôn hiện diện kề bên để “giải cứu mình” thôi. Đó chính là điều kiện tâm
lý mà đã từng giúp Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa giữ vững đượ tinh thần
cùng lòng tự tin, cũng như là đã từng giúp làm
yên lòng luôn cho người dân.
Vì vậy, khi Hoa Kỳ thay
đổi chính sách và quay qua để thương lượng rồi bắt đầu rút quân khỏi
Việt Nam chiếu theo cái chương trình hợp thời gọi là “Việt Nam hóa”, thì
Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa đã không được chuẩn
bị đầy đủ hầu có thể thế chổ trống, cả về phuong diện tâm lý lẫn vật
chất. Làm sao mà họ lạ có thể chu toàn được trách nhiệm – khi mà họ
không hề được tăng một cách cường đáng kể về số đại đơn vị tác chiến –
nói đúng ra là chỉ để thay thế bẩy sư đoàn, bốn
lữ đoàn cùng muôn trùng nào là đơn vị yểm trợ của các lực lượng Hoa Kỳ
từng đã tham chiến tại Việt Nam, đó là chưa kể đến các lực lượng đồng
minh khác? Không một chương trình huấn luyện, hay trang bị hoặc khích lệ
về chính trị nào mà lại có thể thực sự thành
công được để trám lổ trống bị bỏ lại, hay để làm dịu bớt được nổi bất
an đang từ từ lan tràn khắp nước. Các đơn vị của chúng tôi rồi thì cũng
đành phải trải rộng ra và rồi thì cũng phải gánh chịu cái hậu quả đương
nhiên sẽ phải đến mà thôi.
Cuộc tấn công của địch
vào năm 1972 đã tỏ lộ ra một cách bi thương tính cách yếu kém căn bản
của tiến trình Việt Nam hóa. Nếu không có được không trợ và khả năng di
động của Mỹ thì Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa đã
khó mà giữ vững được An Lộc, hay chống cự được tại Kontum hoặc tái
chiếm lại được Quảng Trị. Đa số các vùng từng bị mất thì cũng vẫn bị
mất, bởi vì nay thì chúng tôi cũng không còn khả năng để tái chiếm lại
được. Nhưng tuy nhiên, nếu vẫn còn hỏa lực của Không
quân Mỹ thì nói chung, cán cân quân sự vẫn duy trì được, và Việt Nam
Cộng Hòa vẫn có nhiều hy vọng để vượt qua cơn hiểm nguy được.
Rồi khi giờ đã điểm thì
mọi việc đều bị đổi thay. Thỏa Ước Ba-lê đã là lệnh khai tử của Nam
Việt. Giờ tan hàng đã điểm. Cũng ít ai mà lại đi thắc mắc về việc địch
huynh hoang là chúng đã chiến thắng; mà thật vậy,
chúng đã thắng hiệp đầu. Nay không còn quân đội Mỹ nữa thì địch bắt đầu
chuẩn bị đánh trận cuối. Nay thì chúng hoàn toàn rảnh tay rồi; không
còn không kích của Mỹ nữa, thậm chí cái hy vọng xa vời là chúng sẽ bị
trả đủa thì cũng không hề có. Cán cân quyền lực,
mà từng đã rất ư là bấp bênh với ngay sự hiện hữu của không lực Mỹ, thì
nay đã nghiêng rõ ràng về phía địch.
Câu hỏi liệu Mỹ rồi sẽ
có can thiệp hay không, đã là chủ đề lo âu nhất cho Việt Nam Cộng Hòa,
khi cuối cùng mình đành cam chịu phải chấp nhận Thỏa Ước Ba-lê. Quả thật
thì cũng không phải là chơi “trò áp lực nặng”,
khi mà Tổng Thống Thiệu đòi hỏi Mỹ phải tái can thiệp như là là điều
kiện để ông mới chịu phó thự thỏa ước. Đó đã chính là một đề tài với hậu
quả quan trọng mà khả dĩ sẽ quyết định giữa việc quốc gia sẽ còn tốn
tại được nữa hay không. Chăc có lẻ hơn bất kỳ
ai, ông đã nhận thức được là, nếu không có được lá chắn bảo vệ đó, thì
Việt Nam Cộng Hòa sẽ khó mà tự vệ được trước cuộc tấn công của các sư
đoàn chính quy Bắc Việt đang được trang bị tốt hơn rất nhiều. Không
những sự can thiệp này là cần thiết về phương diện
quân sự, mà khi bảo đãm như vậy, thì cũng như là nâng cao tinh thần của
quân đội chúng tôi. Quả thật thì cũng không thể nào mà dám nghỉ tới
việc “đấm đá ~ to hack” một mình mà không cần cái ông Anh Cả bảo vệ dùm
cho cả.
Niềm tin đã trở lại khi
cuối cùng, Tổng Thống Richard M. Nixon đã long trọng hứa hẹn là sẽ phản
ứng mãnh liệt trong trường hợp Thỏa Ước Ba-lê sẽ bị vi phạm. Việt Nam
Cộng Hòa đã xem đó như là một cam kết của chính
quốc gia Hoa Kỳ, mà hoàn toàn không ngờ một vụ như là Watergate, cùng
một Quốc hội nổi xung lên cũng sẽ thực sự ngăn cấm một cách hiệu quả
được mọi Tổng Thống Mỹ để khỏi phải thi hành một cam kết, cho dù là của
vị Tổng Thống tiền nhiệm.
Tới đầu 1975 thì địch
có vẻ chơi trò thấu cáy là chúng sẽ có thể đánh chiếm Phước Long được mà
vẫn không gây một phản ứng nào từ phía Mỹ. Chúng đã thắng và đã thật rõ
ràng là Mỹ nay đã quyết định dứt khóat nằm
ngoài vòng chiến rồi. Con đường đi bước nữa hầu tiến tới chiến thắng
cuối cùng của chúng nay thì rộng mở thinh thang mà thôi.
Nếu Thỏa Ước Ba-lê từng
là khởi điểm của sự xóa sổ của Nam Việt, và sự kiện Mỹ không can thiệp
đã từng là một tín hiệu nhằm khuyến khích địch xúc tiến kế hoặch tối
hậu, thì chính quyết định cắt giảm viện trợ quân
sự Mỹ đã từng đẩy nhanh biến cố đó, và khiến cho việc thất trận là
điều không tránh được nữa mà thôi.
Vì bị tổ chức để chỉ
chiến đấu được thôi với một nguồn tiếp liệu ở một mức độ nào đó, Quân
Đội Việt Nam Cộng Hòa đã bị bất ngờ và đã rất ư là khó khăn cho quân đội
khi phải ráng chu toàn trách nhiệm chỉ với một
mức độ tiếp liệu cực kỳ giảm sút từ phía Mỹ trong tài khóa 1975. Đây là
lần đầu tiên trong cuộc chiến, mà trong khi địch cứ càng ngày càng gia
tăng áp lực, thì lực lượng của chúng tôi lại lâm vào vị thế yếu. Nay thì
không còn ưu thế về hỏa lực và khả năng
lưu động nữa, các đặc điểm từng giúp duy trì cán cân chiến thuật trước
một kẻ địch luôn luôn nắm phần chủ động. Nay đã thật rõ ràng là điều tối đa mà quân đội
hy vọng có thể làm được, thì chỉ là ráng cầm cự, để chờ viện trợ quân sự Mỹ được tái lập lại cho chỉ bằng như trước kia mà thôi. Sự mỉa mai trong cuộc chiến gần như vô vọng này đã là ngay vị Tổng Thống
Hoa Kỳ nay thì đành bị bắt buộc phải năn nỉ xin Quốc hội chính điều mà Quốc hội cũng từng đồng ý chuẩn phê trong ngân sách của năm trước rồi. Yêu
cầu của Hành pháp đã không được thông qua, có lẽ vì nó đã bị gọi là bổ túc (supplemental) hay phụ thêm (additional) thay
vì là thuộc (integral), là điều mới đúng với sự thật.
Hành động cắt bỏ ngân
sách từng được chuẩn chi đã có một hậu quả bi thương không chỉ ở ngay
tại chiến trường, mà cũng vào luôn suy tư của các chiến lược gia Nam
Việt nữa. Họ vẫn nghỉ là khả năng giữ vững được
lãnh thổ hay không thì tùy thuộc trực tiếp vào mức độ viện trợ. Nay vì
bị cắt giảm quá mức thì cũng không thể nào duy trì “toàn vẹn lãnh thổ”
được nữa. Họ suy luận là nay tốt hơn thì nên
tùy thuộc cố gắng phòng vệ biên cương vào số viện trợ sẽ có được mà
thôi. Xem ra thì thật là đơn giản, nhưng nó quả thực phản ảnh đúng hiện
trạng. Bất
chấp mọi lý do có thể có được, thì quyết định
vào đầu 1975 của Tổng Thống Thiệu hầu tái phối trí lực lượng đã không
hề bị đưa ra chỉ vì cẩu thả hay không có lý do chính đáng. Nhưng cũng chính cái quyết định
đầy định mệnh này đã khởi động một loạt thất bại mà đã cùng nhau dồn lại đưa đến sự sụp đổ vào lúc cuối cùng.
Việc gây ra cho sự tan
hàng của Nam Việt đã là phương cách vội vàng và cẩu thả mà chiến dịch
tái phối trí đã được thi hành. Cho dù có được thi hành một cách cẩn thận
và chu đáo thì một cuộc rút quân với tầm mức
quy mô như vậy cũng rất ít có hy vọng thành công, trước cường lực cùng
khả năng đánh đuổi theo của địch. Quân sử thì tràn đầy ví dụ của bao vụ
quân lính bỏ chạy tán loạn; đó cũng là lý do tại sao các vị chỉ huy tại
chiến trường cực kỳ e ngại nếu bị lâm vào
hoàn cảnh phải làm như vậy.
Trong bối cảnh của cuộc
chiến Việt Nam, mà các khía cạnh chính trị lẫn quân sự cùng mắc méo rối
răm vào với nhau, một vụ rút quân như vậy thì rõ ràng là sẽ bị thất
bại, nếu mà không để ý lo đến các người dân mà
từ lâu nay, vẫn từng được quân đội bảo vệ và cũng là đối tượng của cuộc
chinh chiến đó. Quân đội của chúng tôi không hề hoạt động ở một mảnh
đất xa lạ nào cả; vai trò cùng sứ mệnh của họ khác xa với của một lực
lượng viễn chinh. Rút họ đi ra khỏi khu vực mà
không chuẩn bị di tản luôn người dân thì chắc chắn sẽ đưa đến tình
trạng họ cũng phải đào nhiệm mà thôi. Các lần thất bại tan hoang do tái
phối trí lực lượng tại Quân khi I và II đã từng cho thấy là không thể
nào mà tách người dân ra khỏi người lính được và
việc chuyển quân rồi thì sẽ bị tràn ngập bởi làn sóng di tản của người
dân cùng chạy theo mà thôi. Đây chính là những dữ kiện hầu giải thích
được nội vụ. Chúng cho thấy được sự tan vở về tinh thần lẫn vật chất của
một quân đội mà đã từng chiến đấu rất ư là
dũng cảm, mãi cho tới khi bị đem đi thí bỏ bởi những biến động nằm
ngoài tầm tay của họ mà thôi.
II. TÌNH HÌNH TRƯỚC THỎA ƯỚC BA-LÊ
Sau trận công kích 1972
của cộng sản, Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa đã được giao trách nhiệm tái
chiếm các lãnh thổ từng bị đánh mất. Tại Quân khu I, Chiến dịch Lam Sơn
đã được phát động với sự tham dự của Sư đoàn
I Bộ binh, Sư đoàn Dù, Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến, cùng nhiều đơn vị
yểm trợ khác. 1 Tới
ngày 15 tháng
8 năm 1972 thì thành phố và phần lớn lãnh thổ tỉnh Quảng Trị đã được
tái chiếm lại. Một phòng tuyến mới cũng được thiết lập dọc sông Thạch
Hãn, kéo dài mãi về hướng Đông để ra tới tận biển. Phản ứng của địch tại
Quảng Trị đã thật là dữ dội; cùng lúc, chúng
cũng đã phát động nhiều trận tấn công ở phía Nam của Quân khu I nhưng
đều thất bại.
Tại Quân khu II thì
nhiều chiến dịch đã được tổ chức để giải tỏa áp lực của địch chung quanh
Kontum và Pleiku, và để tái chiếm Thung Lũng An Lão trong tỉnh Bình
Định, cũng như nhằm khai quang các con đường chính,
kể cả Đường 14 giữa Kontum với Pleiku và Quốc lộ 19 với 21 . . . Tại
Quân khu III, các lực lượng bạn cũng được tăng cường và thành công giải
tỏa được áp lực đang đè nặng chung quanh An Lộc. Tuy nhiên, Quốc lộ 13
nối liền An Lộc với Lai Khê thì vẫn cứ chưa
khai thông được. Tại Quân khu IV thì tình hình hoàn toàn nằm dưới quyền
kiểm soát của chúng ta. Tất cả các vụ đụng độ chỉ xẩy ra ngay trên lãnh
thổ Kampuchia, tuy nhiên, vẫn còn một số thôn nhỏ trong tỉnh Chương
Thiện thì vẫn còn bị địch kiểm soát.
Nói chung thì tình hình
chiến sự trong nữa năm sau của 1972 đại khái phản ảnh một tình trạng
cân bằng giữa hai lực lượng đang đối đầu nhau trên chiến trường, trong
khi mà quân đội Mỹ vẫn cứ đang triệt để rút khỏi
Việt Nam. Tuy nhiên tới năm 1973, khi không còn không trợ của Mỹ nữa
(kể cả không trợ của hải quân Mỹ), thì lợi thế bắt đầu nghiêng về phía
Cộng sản.
Để đối phó về phương
diện chính trị trước tình trạng khẩn cấp trong năm 1972, chính phủ Việt
Nam Cộng Hòa cũng đã lấy nhiều quyết định quan trọng. Tình trạng quân
luật đã được ban hành trên toàn quốc, các điều
kiện để được miển dịch cũng bị cực kỳ hạn chế, và mọi nam công từ 17
đến 43 tuổi đều bị cấm xuất ngoại. Quốc Hội cũng đã chuyển giao toàn
quyền ra luật về quốc phòng và kinh tế quốc gia cho Tổng Thống trong
vòng sáu tháng, từ tháng 6 tới tháng chạp 1972. Một
luật báo chí nghiêm khắc hơn cũng đã được ban hành, và các cuộc bầu cử
xã ấp từng được dự liệu thì nay cũng bị hủy bỏ. Ngược lại thì các vị
tỉnh trưởng đã nhận được lệnh phải tái tổ chức các nền hành chánh địa
phương, cùng hoàn tất việc chỉ định các trưởng
làng và trưởng thôn trong thời hạn hai tháng.
Các Đề Nghị Trước Đó Về Hòa Bình
Nhìn dưới lăng kính
quân sự thì trận Công Kích Tết Mậu Thân 1968 đã là một sự thất bại toàn
diện của Cộng sản, nhưng về phương diện chính trị và trong một chừng mực
nào đó mà có liên hệ đến tâm lý quần chúng,
thì nó lại đã đem lại cho chúng cực kỳ là lợi thế. Việc Tướng William
C. Westmoreland yêu cầu thêm độ 200.000 binh sĩ đã cũng vô tình làm lợi
cho các quan điểm từng chủ trương là vấn đề Việt Nam quả khó mà giải
quyết cho được nếu chỉ bằng giải pháp quân sự
mà thôi.
• •
Tiếp theo chiến dịch
đánh sang bên kia biên giới Kampuchia và trận tấn công vào Lào, thì Hoa
Kỳ đã lấy hai quyết định nhượng bộ quan trọng: quân đội Mỹ sẽ rút đi
trong vòng sáu tháng sau khi ký kết được một thỏa
ước, và Tổng Thống Thiệu sẽ từ nhiệm một tháng trước khi có các cuộc
tuyển cử. Các đề nghị này thì cũng bị bác bỏ trong buổi [thương lượng]
vào ngày 3 tháng 5 năm 1971. Trong tháng 6, 7 và 8 thì [TS Henry]
Kissinger và [Lê Đức] Thọ đã cùng nhau gặp tới cả
là năm lần. Nhân những lần đó, thì mọi đề nghị từng được đưa ra của Mỹ
cũng đều bị Cộng sản bác bỏ, cho dù có được sữa đổi cách mấy đi nữa. Chỉ
rồi mãi tới buổi họp cuối vào tháng 9 năm 1971, thì Hoa Kỳ mới nhận
chân ra được là Cộng sản thực sự chỉ muốn kiểm
soát toàn Nam Việt, trước cả khi Mỹ rút quân đi mà thôi. Hoa Kỳ đã chỉ
khám phá ra được ý đồ thâm độc của Cộng sản mãi cả sau ba năm thương
thuyết trong vòng bí mật! Và cũng chính trong phiên họp đó, thì Bắc Việt
cũng ý thức được là quả Mỹ dứt khoát đang
mưu tìm một thu xếp hầu chấm dứt cuộc chiến, chớ không phải là chỉ để
che đậy cho một sự đầu hàng hoàn toàn mà thôi! 2
• •
Tình hình quân sự tại
miền Nam vào tháng 4 năm 1972 đã ở vào mức mà Mỹ e sợ là rồi thì Việt
Nam Cộng Hòa cũng sẽ phải sụp đổ hoàn toàn mà thôi. Lần nữa, Kissinger
lại đi gặp Thọ vào ngày 2 tháng 5 năm 1972, để
rồi, trước viễn ảnh của một tình hình ngày càng trầm trọng, bèn đề nghị
là nếu Bắc Việt chấp nhận một thỏa thuận ngưng bắn, cùng trả tự do cho
các tù binh Mỹ – duy chỉ hai điều kiện đó mà thôi và không cần gì nữa cả
– thì Mỹ sẽ rút hoàn toàn quân ra khỏi,
chỉ trong vòng bốn tháng mà thôi. Ấy vậy, cái đề nghị này lại vẫn bị
bác bỏ ngay tức thì, và Lê Đức Thọ cương quyết đòi hỏi là phải hủy bỏ
Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, để thay thế bằng một chính phủ liên hiệp.
Đề nghị này đối với chính phủ Mỹ thì cũng không
thể nào mà nuốt được thôi. Hoa Kỳ bèn tăng gia đáng kể việc không kích
các mục tiêu quân sự ở Bắc Việt và xúc tiến phong tỏa bằng mìn hải cảng
Hải Phòng, cùng các thủy lộ khác. Chỉ sau những lần can thiệp từ phía
Liên Xô và Trung Cộng, thì Kissinger cùng Lê
Đức Thọ mới lại tái họp vào tháng 8 . . . Nhân những lần họp đó, tuy
chúng vẫn cứ khăng khăng đòi hỏi Tổng Thống Thiệu phải từ nhiệm trước
khi có được một cuộc ngưng bắn, bọn Cộng sản cũng đã có được thái độ mềm
dẻo hơn, và nhìn nhận sựu hiện hữu của hai chính
phủ, hai quân đội cùng một thành phần chính trị riêng rẻ thứ ba. Chính
Phủ Cách Mạng Lâm Thời của Cộng sản trong miền Nam đã rõ ràng được Bắc
Việt xem như là đồng hàng với Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.
Thu Xếp cho Cuộc Ngưng Bắn
Ngày 16 tháng 8 năm
1972 thì TS Kissinger đã tới Sài-gòn. Ông bèn gặp Tổng Thống Thiệu và
giải thích cho thấy các áp lực chính trị tại Mỹ, cùng ảnh hưởng có được
của chúng trong lần bầu cử Tổng Thống sắp tới.
Ông ta cũng xác nhận là Tổng Thống Nixon quyết chí phải tìm cho ra được
một giải pháp với Cuộc Chiến Việt Nam mà thôi. Rồi vào ngày 11 tháng 9
năm 1972 thì Kissinger cùng Lê Đức Thọ lại tái họp tại Ba Lê. Lần này
thì mọi điều khoản mà hai bên đã từng thỏa
thuận trong tháng 7 và 8 cũng đã được viết xuống giấy trắng mực đen.
Nói tổng quát thì các thỏa thuận đã là: Do vì sự hiện hữu trong thực tế
của hai chính phủ, hai quân đội, cùng nhiều lực lượng chính trị khác tại
Miền Nam Việt Nam, vấn đề hòa giải quốc gia,
nếu [đã] thực sự sẽ xẩy ra, thì sẽ phải được thực hiện trong tinh thần
tương kính, và cả đôi bên thì đều cùng phải tránh tìm cách loại bỏ bên
kia. Nam Việt Nam sẽ không bị phải chấp nhận, hoặc một chế độ Cộng sản,
hay một chế độ thân Mỹ. Nhân đó, đây cũng
là lần đầu tiên mà Cộng sản đã tránh không còn đòi hỏi Chính phủ Việt
Nam Cộng Hòa phải bị loại bỏ trước đi.
Trong phiên họp kế vào
ngày 26 tháng 9 năm 1972, Bắc Việt bèn thêm vào các thỏa thuận việc
thành lập một Hội Đồng Hòa Giải và Hòa Hợp Quốc Gia. Viển ảnh xem ra có
vẻ tốt, và hy vọng là hòa bình sẽ thật sự phải
đến mà thôi . . . Đây cũng là lần đầu tiên mà Cộng sản đã chịu thảo
luận theo tiêu chuẩn tách rời giữa chính trị và chiến tranh. Bắc Việt và
Hoa Kỳ sẽ cùng chấm dứt chiến tranh bằng một tình trạng ngưng bắn tại
chổ, và một giải pháp chính trị cho Nam Việt
Nam cũng sẽ được thảo luận giữa đôi bên liên hệ. Đề nghị này thì cũng
đã được chuẩn bị sẳn bởi Lê Đức Thọ như là một bản thảo bằng Anh văn. Và
rồi như vậy thì cũng chấm dứt vụ thảo luận giữa cái hai ông điếc sau
bao nhiêu là tháng năm qua. 3
• •
Tôi còn nhớ rất ư là rõ
[TS Kissinger] đã tới Sài-gòn vào ngày 18 tháng 10 với dự định sẽ ở lại
hai ngày. Sáng hôm sau thì phái đoàn Mỹ với TS Kissinger, Đại sứ
Ellsworth, Tướng Creighton Ư. Abrams và Ông [William]
Sullivan đã tới Dinh Độc Lập để gặp Tổng Thống Thiệu. Bên phía Việt Nam
thì đã có Phó Tổng Thống Trần Văn Hương, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Bộ
Trưởng Ngoại Giao Trần Văn Lắm, Ông Nguyễn Phú Đức, Ông Hoàng Đức Nhã
và tôi.
TS Kissinger bắt đầu
buổi họp bằng việc đệ trình bản văn viết của thỏa ước cho Tổng Thống
Thiệu. Rồi ông ta giải thích và nhấn mạnh những điểm mà mình nghỉ là có
lợi cho Nam Việt. Ông ta nhấn mạnh là Hoa Kỳ cam
kết sẽ vẫn duy trì các căn cứ không quân tại Thái cũng như luôn cả Đệ
Thất Hạm Đội ở ngoài khơi Việt Nam, hầu răn đe mọi cuộc tấn công của
Cộng Sản. Nam Việt sẽ vẫn tiếp tục nhận được viện trợ kinh tế và quân sự
trong khi Hoa Kỳ cũng tin là, qua những thỏa
hiệp bí mật thì Liên Xô và Trung Cộng cũng sẽ cực kỳ giảm thiểu tiếp
liệu cho Bắc Việt và cho phép Hoa Kỳ rút quân cùng được nhận lại các tù
binh trong vòng danh dự.
TS Kissinger cũng nói
thêm nay quả đúng là thời điểm thuận tiện để đạt đến một thỏa hiệp vơi
Cộng Sản, bởi vì dù sao thì Nam Việt cũng đang có một quân đội với hơn
cả một triệu quân nhân, cùng đang kiểm soát được
85 phần trăm của tổng số 19 triệu người dân. Ông ta tin chắc là Nam
Việt rồi đây sẽ mở mang và bành trướng được trong thời kỳ hậu chiến.
Rồi TS Kissinger kết
luận là thỏa hiệp tốt và khả chấp. Tuy nhiên, ông ta cũng không đi vào
chi tiết về những vấn đề sẽ phải được giải quyết, và nhất là ông ta đã
không hề cho Nam Việt biết gị về lịch trình để
ký thỏa ức. Tổng Thống Thiệu bèn trả lời là mình sẽ nghiên cứu văn bản,
rồi đưa nó qua cho thơ ký riêng của ông là Hoàng Đức Nhã.
Một phiên họp nới rộng
khẩn cấp của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia của chúng tôi liền được triệu
tập, hầu nghiên cứu bản văn đó. Ông Hoàng Đức Nhã đã là thuyết trình
viên của buổi họp đó. Về phương diện quân sự, thì
sẽ là một tình trạng ngưng bắn và đâu thì ở đó. Trong khi các lực lượng
Mỹ và Đồng Minh sẽ bị rút đi, còn các căn cứ Mỹ ở Nam Việt cũng sẽ bị
tháo bỏ, thì lại hoàn toàn không nói tới gì về bộ đội Bắc Việt cả. (Đã
có ước lượng là có cho tới cả mười sư đoàn
Bắc Việt đang hiện diện tại Nam Việt. Thêm nữa, bộ đội Bắc Việt lại còn
chiếm cho tới từ 60 đến 80 phần trăm trong các đơn vị Cộng Sản địa
phương).
Với tư cách Tổng Tham
Mưu Trưởng, trong phiên họp đầu thì tôi cũng đã phát biểu là việc kiểm
soát ngưng bắn sẽ cực kỳ khó khan, và một tình trạng ngưng bắn đâu ở tại
đó theo kiểu ‘da beo’ thì cũng tiềm tàng nhiều
hiểm nguy tự tại. Sẽ không hề có được những vùng, hầu gom quân cũng như
là lằn ranh phân chia, và như vậy thì quân số địch sẽ được trụ lại
chính những nơi chúng hiện đang ở. Nhưng cũng không ai mà lại đi tin là
chúng sẽ không rời khỏi những khu đó. Theo bản
chất hiếu chiến tự tại, ngay sau khi ngưng bắn được công bố, thì chắc
chắn chúng cũng sẽ tự chia ra từng đơn vị nhỏ, hầu xâm nhập các thôn
làng, rồi sẽ cố gắng chứng tỏ sự hiện diện của chúng trên các tuyến
đường giao thông của chúng ta, cũng như là treo cờ
của chúng, hầu ráng chứng minh sự hiện diện của chúng. Về cái International Commission
of Control and Supervision (ICCS) ~ Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát
và Giám Sát, thì cũng rõ ràng là do Cộng Sản kiểm soát mà thôi. Với một
cuộc chiến không theo tập quán, mà không hề có những đường ranh rõ
rang, thì việc kiểm soát cả dân lẫn đất, sẽ khó
khăn mà đạt được. Và trong những hoàn cảnh cùng điều kiện tương lai,
thì lại càng thêm cực kỳ khó khăn và rắc rối mà thôi . . .
|
Đã thật chắc chắn rõ
ràng là Cộng Sản sẽ không tuân theo quy định ngưng bắn tại chổ. Cách xử
sự của chúng dạo 1954 thì cũng cho mọi người biết trước là chúng cũng sẽ
làm gì lần này mà thôi. Hơn nữa, các tài liệu
tịch thu được của địch vào ngày 10 tháng 10 năm 1972 trong một căn hầm
tại một quận thuộc tỉnh Quảng Tín cũng đã là bằng chứng cho sự kiện là
bộ đội và cán bộ Cộng Sản đang được học tập về các đề tài chính yếu từng
được thảo luận trong bản dự thảo của thỏa
ước, và cũng đã từng nhận được chỉ thị sẽ rồi phải phản ứng ra sao . . .
Tới đây thì vấn đề quân
sự quan trọng nhất vẫn là sự hiện diện của bộ đội Bắc Việt. Tình trạng
vào tháng 9 năm 1972 thì cũng phản ảnh một cách đại khái tương quan lực
lượng quân sự đôi bên. Nay thì khi các lực
lượng Hoa Kỳ sẽ bị tái phối trí mà không có được một sự rút quân tương
xứng của bên bộ đội Băc Việt, thì chắc chắn là cán cân sẽ phải nghiêng
về phía địch mà thôi.
Khi mà [đoạn bằng tiếng
Việt] bản văn [của thỏa thuận được đề nghị] được đem ra nghiên cứu thì
các thành viên của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia liền nhận ngay ra đó là bản
nguyên thủy từng được Băc Việt thảo ra và
rõ ràng không phải là bản chuyển ngữ của ấn bản tiếng Anh. Cú pháp và
danh từ được dùng đều dặc biệt thuần túy là của Cộng Sản Bắc Việt. Nó
gồm vài đặc điểm hiếm hoi và nhiều từ ngữ quan trọng không kém phần dể
gây tranh luận. Chẳng hạn như Quân Đội Hoa Kỳ
thì lại bị gọi một cách vắn tắt nhưng đầy vẻ khi dể như chỉ là Quân Mỹ
mà thôi, điều đã khiến bên Nam Việt phải nhắc nhở phái đoàn Mỹ là họ
phải yêu cầu phải được gọi bằng một danh xưng đàng hoàng hơn là Quân Đội
Hoa Kỳ. Đối với mọi người Việt có hiểu biết
tại Nam Việt thì cách gọi Quân Mỹ đã chỉ là xách mé và hổn hào, dù là
vẫn rất đúng đáng về tiêu chuẩn từ ngữ.
Một vấn đề quan trọng
hơn [về ngôn từ] đã là việc Hội đồng Quốc gia Hòa Giải và Hòa Hợp bị
định nghĩa như là một “cơ cấu hành chánh” và bị xem, với một ý đồ rõ
ràng đầy hiểm độc, là cơ
cấu chính quyền , có nghĩa là “trực thuộc chính quyền”. Như
vậy thật rõ ràng là Bắc Việt đã xem [đó] như là một cơ quan công quyền
với đầy đủ thẫm quyền, và chiếu theo thành phần tổ chức, thì cũng không
khác gì một chính phủ liên hiệp . . . Bản
văn bằng tiếng Việt cũng đã nêu ra ba quốc gia Việt Nam. Chỉ có hai
quốc gia là Bắc và Nam Việt Nam. Vậy thì cái quốc gia thứ ba là cái nào?
Nếu mà Nam Việt Nam sẽ phải là hai quốc gia, thì cũng có nghĩa là chủ
quyền của chính phủ Nam Việt cũng sẽ phải chia
xẻ với ai khác mà thôi. Đó đã chính là những vấn đề chính yếu.
Sau khi đã nghiên cứu
cẩn thận vào chi tiết, chính phủ của chúng tôi đã đi tới một đề nghị với
hai mươi sáu thay đổi cần phải có trong bản dự thảo. Trong khi các thảo
luận với phía Mỹ đang xẩy ra thì Tòa Đại Sứ
VNCH tại Hoa-thịnh-đốn, D.C. gởi về một bản tường trình là nhân một
cuộc phỏng vấn với các phóng viên ngoại quốc, Thủ Tướng Phạm Văn Đồng
của Bắc Việt có tuyên bố là tiến trình hòa đàm tại Ba Lê đang mang lại
nhiều kết quả tốt, và rồi sẽ có một chính phủ
liên hiệp chuyển tiếp gồm ba thành phần. Bản báo cáo này lại là lý do
khiến Tổng Thống Thiệu lại càng thêm cứng rắn chống đối vụ thỏa thuận
nhân hai buổi họp xẩy ra trong ngày 22 tháng 10.
• •
Về phía ông, thì Tổng
Thống Thiệu đã lên đài truyền thanh cùng truyền hình, để trình bày quan
điểm của mình, là vì sao mà chính phủ Nam Việt đã không thể nào mà chấp
nhận một liên hiệp được. Cùng lúc thì Bắc Việt
cũng không chịu lặng yên. Trong một chiến dịch tuyên truyền hung hăng
ồn ào, Bắc Việt đã công bố văn bản từng được thỏa thuận, và tiết lộ lịch
trình từng được cam kết vào ngày 8 tháng 10, và tố cáo là Tổng Thống
Thiệu đã phá họai nền hòa bình, cũng như là
đòi hỏi Hoa Kỳ phải ký thỏa ước vào ngày 31 tháng 10 năm 1972. Khi bị
đối mặt với các biến chuyển mới, thì TS Kissinger bèn tổ chức họp báo,
hầu giải thích văn bản của thỏa ước cho công luận Mỹ. Chính theo ngay
các từ do chính ông đã dùng thì “hòa bình đã
trong tầm tay” và chỉ còn cần phải đúc kết thỏa ước thêm trong một
phiên thảo luận nữa mà thôi với đại diện của Bắc Việt.
Suốt trong tháng 11
thì cũng đã có bao nhiêu là trao đổi văn thư giữa Sài-gòn và
Hoa-thịnh-đốn, nhưng cũng đã không hề có được một thay đổi quan trọng
nào cả trong văn bản thỏa ước. Thêm nữa, cùng trong thời
gian này thì các vận tải cơ C-5 Galaxy cùng các loại vận tải cơ khác
của Mỹ cũng có chở tới cho Sài-gòn một số lượng quan trọng về quân liệu
và quân dụng, kể cả chiến đấu cơ F-5 và A-37, vận tải cơ C-130A, trực
thăng, chiến xa M-48 và pháo 175 ly. Các căn
cứ Mỹ cùng trang bị, thì cũng đã được bàn giao nguyên vẹn lại cho
QĐVNCH. Nhờ các chuyển giao này, Bộ Tổng Tham Mưu đã thành lập thêm được
nhiều đơn vị pháo binh nặng, thiết giáp cùng phòng không. Nhiều phi
đoàn C-130A và F-5 mới cũng ra đời. Tuy nhiên cũng
có một số quân dụng từng được bàn giao thì cũng không thể sử dụng liền
được. Chúng chỉ được giao hầu sẽ được dùng như là thay thế, chiếu theo
các quy định về thỏa ước ngưng bắn. Chương trình tiếp vận này đã được
gọi là Enhance Plus (Tăng Cường Thêm) đã nhắm
vào cả hai mục tiêu quân sự lẫn chính trị . . .
Tổng Thống Nixon cũng
đã có nghiên cứu cẩn thận về những điểm tương phản từng bị chính phủ
VNCH nêu lên, và chúng ta phải công bình ghi nhận nơi đây, là thật sự
thì ông ta cũng đã có ra lệnh phải nghiên cứu chúng
lại.
• •
Ngày 9 tháng 11 thì vị
đại diện của Ki ssinger là Tướng Alexander M. Haig Jr. có tới Sài-gòn.
Ông ta mang đến một bức thư riêng của Tổng Thống Nixon, và cũng có nhấn
mạnh đến ý nghĩa của chương trình Enhance Plus
(Tăng Cường Thêm). Vì chính phủ của chúng tôi vẫn cứ khăng khăng không
chịu thay đổi lập trường, ông ta cũng cho biết là nếu Nam Việt cứ tiếp
tục từ chối ký kết, thì Hoa Kỳ sẽ bắt buộc phải cứ xúc tiến và ký kết
riêng rẽ với Băc Việt mà thôi. Một vài ngày
trước đó, vào ngày 5 tháng 11, thì Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cũng đã công bố
là Gia-nã-đại, Hung-gia-lợi, Indonesia và Ba-lan đều cùng đã đồng ý
trên nguyên tắc, là họ sẽ tham gia trong Ủy Ban International Commission
of Control and Supervision (ICCS) ~ Ủy Ban
Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát.
TS Kissinger và Lê Đức
Thọ gặp lại nhau vào ngày 20 tháng 11 tại Ba-lê . . . Trong lần họp này
với Lê Đức Thọ, thì TS Kissinger đã có trình bày các đòi hỏi của phía
VNCH và Hoa Kỳ. Mấy ngày đầu của phiên họp
thì cũng êm xuôi và phía bên kia có vẻ cảm thông. Tuy nhiên tới ngày 23
tháng 11, thì Thọ đâm ra cứng rắn khó khăn. Y bác bỏ mọi đề nghị của
phía Hoa Kỳ và tái đòi hỏi là chính phủ Nam Việt phải bị giải tán đi.
Hiển nhiên là y đã chỉ thi hành đúng các chỉ
thị mới nhận được từ Hà-nội mà thôi.
• •
Tới ngày 4 tháng chạp,
thì TS Kissinger lại gặp Lê Đức Thọ tại Ba-lê và khám phá ra là y vẫn
cương quyết không hề thay đổi nếu so với lần họp trước . . . TS
Kissinger rời Ba-lê vào ngày 13 tháng chạp . . . Lần
này thì có vẻ bế tắc . . . đã thật rõ ràng mà cũng quá ư là ưu tối
thôi.
Sau khi thảo luận với
Kissinger . . . Tổng Thống Nixon bèn gởi một công điện cho Hà-nội, cảnh
cáo là nếu trong vòng bảy mươi thứ tám [sic], 1► mà
họ vẫn không tái họp một cách nghiêm trang, thì Hoa Kỳ sẽ lại tái không
tạc. Sau khi không được đáp ứng một cách thuận lợi, Hoa Kỳ bèn khởi
động một trận không kích mạnh mẽ ở phía trên của vĩ tuyến 20, nơi mà các
vụ không tạc cũng đã được ngưmg lại từ dạo
cuối tháng 10. Khả năng tàn khốc của các B-52 đã khiến Băc Việt chịu
không nổi, và cũng chứng minh cho sự cương quyết của Hoa Kỳ. Theo tôi,
Bắc Việt đã bị bắt buộc phải trở lại bàn hội nghị
mà thôi. Kết quả là các trận không kích kịch liệt nhất của Mỹ nhằm đánh xuống Băc Việt đã bị chấm dứt vào ngày 30 tháng chạp.
Tám ngày sau đó, vào
ngày 8 tháng giêng năm 1973, TS Kissinger lại gặp Lê Đức Thọ. Mọi việc
lần này thì cũng khá hơn mà thôi . . . Tới ngày 14 tháng giêng thì TS
Kissinger đã có thể báo cáo được với Tổng Thống
Nixon là có tiến bộ trong cuộc đàm phán. Vào ngày hôm sau, thì đã có
các lệnh cho Quân đội Hoa Kỳ nhằm chấm dứt mọi hành động chống lại Bắc
Việt.
Tới ngày 16 tháng
giêng, thì Tướng Haig bèn bay tới Sại-gòn. Chính phủ Nam Việt cũng vẫn
còn phản đối về một số đề tài về nghi thức. Ấy vậy, vào
ngày 19 tháng giêng, thì chính phủ của chúng tôi đã bị thông báo là
không còn có thể thay đổi bất kỳ cái gì nữa cả, và thỏa ước sẽ phải được
chuẩn phê, để rồi chính thức ký vào ngày 27 tháng giêng tại Ba-lê bởi
bốn bên liên hệ. Tình
trạng ngưng bắn sẽ có hiệu lực từ 8 giờ sáng, giờ Sài-gòn, trong ngày 28 tháng giêng năm 1973.
Thêm vào đó, Tổng Thống
Nixon cũng có viết một lá thư riêng gởi cho Tổng Thống Thiệu trong ngày
21 tháng giêng. Nixon đã có cảnh cáo là nếu Nam Việt bác bỏ thỏa hiệp,
thì Hoa Kỳ vẫn sẽ ký riêng với Băc Việt và
hậu quả sẽ là, tất cả viện trợ cho Nam Việt rồi thì sẽ bị chấm dứt.
Nhưng nếu Nam Việt chịu ký thì, (1)
vị tổng thống Hoa Kỳ sẽ can thiệp mạnh mẽ hơn với Quốc
hội Hoa Kỳ hầu tiếp tục giúp đở Nam Việt, và (2) chính phủ Mỹ cam kết
sẽ “phản ứng kịch liệt ~ react vigorously” trước mọi vi phạm về ngưng
bắn của Băc Việt. Sau
nhiều phiên họp với Hội Đồng An NInh
Quốc Gia, và sau khi đã tham khảo với nhiều nhân vật trong chính quyền
cùng Quốc Hội, thì Tổng Thống Thiệu bèn viết thư chấp thuận với Tổng
Thống Nixon, mà trong đó thì ông cũng đã đề nghị cần có một cuộc hội
nghị thượng đỉnh ngay sau khi ký kết thỏa ước.
• •
Nói một cách khách
quan, thì quả Hiệp Ước Ba-lê đã không hề là hoàn hảo. Hoa Kỳ đã đạt được
một thỏa thuận hầu rút quân và đem về lại được các tù binh của họ. Cộng
sản đã được cho phép giữ bộ đội Bắc Việt trong
Nam, nhưng Nam Việt Nam thì vẫn hiện diện như là một quốc gia với chính
phủ của mình.
Các Phản Ứng của Nam Việt Nam
Dựa trên các tài liệu
tịch thu của địch và đặc biệt là các bài học từ thất bại của Hiệp Định
Geneva 1954, Bộ Tổng Tham Mưu đã biết được ý đồ của địch, nên cũng đã
hoàn tất một kế hoặch dự phòng với tên mật mã
là Trần Hưng Đạo II. Kế hoặch này đã soạn thảo và phát họa trong chi
tiết, mọi biện pháp sẽ cần phải có, khi địch chuyển động, và đã được
cung cấp phân phối xuống cho các cấp cùng khu vực, cũng như cho mọi tiểu
đoàn tác chiến. Cũng nhờ kế hoặch này, mà Nam
Việt đã không hề bị bất ngờ, và đã tiên liệu được, hầu chống trả mọi
mưu toan “dành đất và dành dân” của địch.
Về phương diện chính
trị, thì một chương trình phát triển nông thôn kéo dài năm năm cũng đã
được phát động, và một đảng chính trị với tên gọi là Đảng Dân Chủ đã
được thành lập, để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh
chính trị sẽ diễn ra về sau này. Các lãnh tụ của Đảng Dân Chủ đa số đều
là những công chức cấp cao trong chính quyền Nam Việt. Tới giữa năm
1973 thì chính quyền đã có phần được tái tổ chức lại. Sau cùng, hầu tăng
gia hiệu quả, cùng đẩy mạnh cho toàn dân biết
rõ thêm các chính sách quốc gia, chính phủ phát động trên khắp toàn
quốc một chương trình huấn luyện, mà đã được gọi một cách đầy tham vọng,
là cách mạng hành chánh. Mười lăm ngàn công chức, đại diện cho mọt tầng
lớp, đã hoàn tất mãn khóa huấn luyện này vào
giữa năm 1973.
III. TÌNH HÌNH QUÂN SỰ SAU CUỘC NGƯNG BẮN, 1973 – 1974
Trên nguyên tắc, thì
Hiệp Ước Ba-lê vào ngày 27 tháng Giêng năm 1973 đã chấm dứt cuộc chiến
tranh tại Việt Nam rồi. Ấy vậy, trong khi hòa bình thực sự đã đến tại
miền Bắc, thì cuộc chiến quân sự lại vẫn cứ tiếp
tục trong miền Nam. Đã không hề có được một điều khoản nào nhằm quy
định là bộ đội Cộng sản phải rút đi, mà cũng không hề có được một ghi
nhận nào là chúng rồi đây sẽ phải bị kềm giữ. Bắc Việt đã duy trì được
lực lượng lớn lao của chúng trong Nam, hầu yểm
trợ, cùng tạo điều kiện thuận lợi cho một thỏa thuận về chính trị trong
tương lai, mà đồng thời cũng để sẳn sàng ứng phó với mọi biến chuyển có
thể xẩy ra. Khi mà không có được guồng máy kiểm soát có hiệu quả của
quốc tế hầu bắt buộc thi hành cuộc ngưng bắn,
thì địch đã cứ cố tình vi phạm một cách công khai Hiệp Ước Ba-lê mà
thôi.
Chính Sách và Chiến Lược của Cộng Sản
Cuộc chiến kéo dài tại
Nam Việt Nam cũng đã gây nhiều thiệt hại nặng nề cho cả đôi bên, nhưng
Cộng sản thì lại đã bị ảnh hưởng nặng hơn rất nhiều. Nhân một lần phỏng
vấn bởi một nhà báo Ý, thì Võ Nguyên Giáp cũng
đã nhìn nhận cái con số thiệt hại hơn cả là nữa triệu bộ đội Bắc Việt.
Người bộ đội Bắc Việt, dù dạn dày bởi kỷ luật đảng và từng được tôi
luyện qua một tiến trình nhồi sọ nặng nề, cũng như là thường xuyên bị
theo dõi bởi các chính trị viên, thì lại, dù muốn
dù không, cũng ước mơ một nền hòa bình thật sự và cầu mong được về xum
hợp với gia đình của họ. Các nguồn tin từ những tài liệu bị tịch thu,
rồi các tù binh vá hồi chánh viên, cũng đã xác nhận sự kiện là vào tháng
10 năm 1972, khi cuộc ngưng bắn gần như là
sắp được hoàn tất, thì các bộ đội lẫn các cán bộ đều cùng rất ư là ‘hồ
hởi”. Họ đón nghe đài BBC và VOA mổi ngày và công khai thảo luận về sự
kiện là sẽ có được khả năng trở về Bắc. Tới ngày 28 tháng 10, khi mà
cuộc ngưng bắn đã không xẩy ra, thì mọi người
đều không dấu được nổi thất vọng của mình.
• •
Tin tình báo có cho
biết là, trong một buổi họp cấp tỉnh của Đảng vào tháng 3 năm 1973 . . .
họ đã đi đến kết luận, là cuộc cách mạng tại miền Nam chỉ có thể được
thành công bằng võ lực, xuyên qua một “blitzkrieg
~ tổng tấn công chớp nhoáng” theo kiểu kỳ năm 1968. (Đặc biệt đáng lưu ý
là hoàn toàn không hề nói gì tới vấn đề đấu tranh chính trị nữa cả) . .
. Tuy vậy, một hồi chánh viên đã cương quyết là cuộc tấn công chỉ sẽ
xẩy ra sau khi đã được cả Liên Xô và Trung
Cộng cho phép, y như hai kỳ 1968 và 1972 . . .
• •
Về phía chúng tôi,
trong suốt năm 1973 thì chúng tôi, một mặt đã ngăn cản được chiến thuật
“dành đất và dành dân” của địch, và mặt khác thì cũng đẩy mạnh chương
trình phát triển nông thôn. Dù sao thì đối với các
tiền đồn hẻo lánh xa xôi, Tổng Thống Thiệu cũng có ra chỉ thị là cấm di
tản. Với mọi giá, chúng cần phải được bảo vệ và duy trì. Như sau đó
thực tế đã cho thấy, chính sách này hợp lý về chính trị nhưng lại sai về
mặt quân sự. Địch đã thật là dể dàng để tập
trung lại cho được một số quân đông gấp năm hay sáu lần của quân ta tại
mọi tiền đồn xa xôi nào đó, để rồi với hỏa pháo yểm trợ mạnh mẻ, thì
cũng đã dể dàng tràn ngập căn cứ đó mà thôi. Khi đi cố gắng nắm giữ mọi
tiền đồn thì cũng như chỉ là đi đem thí một
số quân quan trọng mà đã có thể sẽ được sử dụng hữu ích hơn ở những nơi
khác nào đó. Nhưng thật sự thì lúc đó, chính phủ của chúng tôi đã vẫn
tin là trong một phạm vi nào đó, thì Thỏa Ước Ba-lê cũng sẽ vẫn được tôn
trọng. Và với việc duy trì các tiền đồn
đó, cho dù có tốn kém, thì cũng là bằng chứng hiển nhiên của quyền kiểm
soát của chúng tôi. Ngoài ra, chính sách bỏ trống các tiền đồn đó thì
cũng đồng nghĩa với việc dâng vào tay địch một số lớn lãnh thổ của quốc
gia mà thôi.
• •
IV. CÁC KHÓ KHĂN VÀ CÁC CHÍNH SÁCH, 1973 – 1974
• •
Ngay sau khi có ngưng
bắn thì chiến lược của chúng tôi đã gồm bốn mục tiêu chính. Trước hết và
quan trọng nhất, chúng tôi cương quyết giữ cho lãnh thổ được toàn vẹn,
cùng lúc, kiểm soát cho được toàn thể dân chúng.
Khi địch chiếm được nơi nào đó, thì quân đội phải đánh chiếm lại cho
được bằng mọi giá thôi. Thứ nhì, quân đội phải hoàn tất tái tổ chức, với
trọng tâm đặt nặng vào việc tái bổ sung và tái tân trang các đơn vị
từng bị thiệt hại nặng kỳ địch tấn công dịp 1972,
cùng tái lập một lực lượng tổng trừ bị đáng kể, và củng cố các lực
lượng địa phương. Thứ ba, thì quân đội phải cố gắng cải tiến cùng tối
tân hóa về mọi phương diện, nhưng đặc biệt là về tiếp vận, hỏa lực và
khả năng di động. Thứ tư, thì quân đội cũng phải
tiếp tục phụ giúp chương trình bình định và phát triển nông thôn, cùng
tham gia trong các dự án quốc gia khác . . . mà tất cả chỉ là nhắm vào
mục tiêu “ba tự lực” của chính sách quốc gia (tự phòng, tự quản, tự
lực).
Tổ Chức Quân Đội
• •
Vào tháng 3 năm 1974,
thì đã có một vụ chuyển đổi chức vụ trong số các sĩ quan cao cấp, và
Trung Tướng Nguyễn Văn Mạnh, trưởng phòng nhân viên Bộ Tổng Tham Mưu từ
mãi năm 1969, đã được chỉ định làm Tham Mưu Phó
đặc trách về bình định và phát triển, để thay Trung Tướng Nguyễn Văn
Là, nay về hưu vì lý do tuổi tác. Và Tướng Mạnh, sau thời gian phục vụ
trong chức vụ củ, thì cũng cần phải được thay thế. Trung Tướng Đồng Văn
Khuyên, mà lúc đó đang nắm Bộ Chỉ huy Tiếp vận
Trung Ương, đã được chỉ định, để thay Tướng Mạnh như là trưởng phòng
nhân viên Bộ Tổng Tham Mưu. Nguyên là một quân nhân trọn đời hy sinh cho
đất nước và rất ư là siêng năng, Tướng Khuyên đã chu toàn được nhiệm vụ
trong cả hai chức vụ đó mãi cho tới những
ngày cuối cùng . . .
• •
Nhằm để đánh trả mọi vi
phạm quy mô vào hòa ước của Cộng sản, thì một kế hoặch ứng chiến cũng
đã được soạn thảo ra bởi Bộ Tổng Tham Mưu cùng với USDAO (United States
Defense Attaché Office ~ Văn Phòng Tùy viên
Quân sự Tòa Đại sứ Hoa Kỳ). Đó đã là một thu xếp tuyệt mật mà theo đó, Hoa Kỳ đồng ý sẽ cung cấp cho quân đội của chúng tôi mọi yểm trợ thích đáng khi cần thiết. 2 ► Một
hệ thống liên lạc nóng đã được thiết lập giữa Bộ Chỉ huy Yểm trợ Hoa Kỳ
tại Nakhon Phanom ở Thái lan với Bộ Tổng Tham Mưu. Tổng hành dinh Không
quân, cùng cả bốn tư lệnh quân khu, đều được quyền trực tiếp sử dụng hệ
thống này.
Các chi tiết nhằm giải
thích về kế hoặch này đã được cung cấp cho các tư lệnh quân khu để giúp
họ kế hoặch hóa các chiến dịch hành quân, kể cả: 1) cập nhật hóa liên
tục các mục tiêu của B-52; 2) khởi động các
hệ thống tiền không trợ, được trang bị với máy phát tuyến tương xứng và
được điều hành bởi những nhân viên nói được tiếng Anh mà đã từng làm
việc với Không Quân Hoa Kỳ rồi; 3) trong trường hợp xẩy ra một vụ tổng
tấn công, các lực lượng của chúng tôi cần phải
chống trụ lại được cho tới từ 7 đến 14 ngày, thời gian khả dĩ nhằm đủ
cho Quốc hội Hoa Kỳ biểu quyết chấp thuận cho sử dụng hỏa lực không quân
Mỹ tại Nam Việt. Kế hoặch của Bộ Tổng Tham Mưu chung với USDAO cũng có
dự phòng và quy định trước các thủ tục sẽ
cần phải làm khi yêu cầu không trợ Mỹ. Rồi bất kể bao hứa hẹn quá ư là
rõ ràng, kế hoặch đối phó khẩn cấp này thì cũng đã không bao giờ được áp
dụng, bởi vì tầm mức quá ư là quy mô của các vi phạm của địch trong
những năm 1973 và 1974 đã không thể nào lại
có thể đưa đến được việc thi hành yêu cầu can thiệp này của Mỹ mà
thôi. Khi mà cần sự can thiệp đó thì các đơn vị Không Quân Hoa Kỳ đã không hề có mặt mà thôi.
Việc Giảm Thiểu Viện Trợ Quân Sự của Hoa Kỳ 3 ►
Vì từng đã bị
tàn phá suốt cả trong hơn một phần tư thế kỷ, nên Nam Việt Nam cũng đã
không có gì để gọi là đóng góp được, ngoài nhân lực và máu của chính
mình mà thôi. Nam
Việt đã phải lệ thuộc vào tài chánh cùng vật liệu của Mỹ, và yếu tố này
phần lớn đã quyết định cho kết quả của cuộc chiến mà thôi.Vào ngày 2
tháng 4 năm 1973 thì Tổng Thống Thiệu đã được Tổng Thống Nixon tiếp đón
tại Tòa Bạch Ốc Miền Tây ở San Clemente. Hai
vị lãnh tụ đã cùng nhau thảo luận về các vấn đề viện trợ kinh tế và
quân sự cho Nam Việt, cũng như là nghiên cứu vè hành vi tiếp tục vi phạm
ngưng bắn cùng tăng cường củng cố của Cộng quân. Chuyến viếng thăm này
đã nâng cao lòng tin tưởng của chúng tôi là
về tương lai, chúng tôi sẽ vẫn được Mỹ tiếp tục viện trợ trong thời hậu
chiến.
• •
Vào tháng 4 năm 1074
thì Tổng Thống Thiệu đã ra lệnh cho tôi đi Mỹ, trong tư cách là Tham Mưu
Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu, hầu mưu tìm ủng hộ cho thỉnh cầu viện trợ của
chúng tôi. Tại Ngũ-giác-đài, tôi đã thuyết
trình về tình hình quân sự tại Nam Việt, bằng cách chứng minh với những
tài liệu cùng hình ảnh nhằm cho thấy địch vẫn đang tăng gia vi pham,
cũng như tiếp tục chuyển quân cùng súng ống quy mô xuống miền Nam. Các
viên chức tại Ngũ-giác-đài đã nồng nhiệt bảo
đãm cam kết vẫn ủng hộ chúng tôi. Tiếc thay, Quốc hội Mỹ đã bác bỏ mọi
yêu cầu để được viện trợ bổ túc thêm và chỉ đơn giản chấp thuận một ngân
sách tối đa là 1 tỷ Mỹ kim cho tài khóa 1975, mà rồi sau đó, thì cũng
chỉ có 700 triệu là đã thực sự được chuẩn
phê mà thôi. Và số tiền này lại còn bao gồm luôn cả các sở phí dành cho
việc điều hành USDAO (46 triệu trong số 100 triệu từng đã được đề
nghị). Ngân sách cuối cùng được chuẩn phê đã là một cú xốc đối với quân
đội và nhân dân Nam Việt. Đã thật rõ ràng là cái
hố sai biệt kinh khủng giữa các nhu cầu hiện thực, khi mà so với tài
khoản được cho chuẩn phê thì sẽ không thể nào mà lấp bỏ đi được, bất
chấp dù sẽ có biết bao nhiêu là tự chế hay là điều hành ngân sách cho
tốt cách mấy đi nữa.
• •
[Cuối cùng], đã vẫn có
khả năng là Quốc hội sẽ tái xét lại quyết định của họ sau khi mà cái vụ
ồn ào về Tổng Thống Nixon lắng dịu xuống. Dù sao thì lòng tin tưởng nơi
Hoa Kỳ và uy tín của Hoa Kỳ cũng đã đang bị
thách đố, và cũng thật là hữu lý khi chờ đợi việc Nam Việt Nam rồi thì
cũng sẽ được cung cấp phương tiện, hầu có thể tự vệ, sau khi mà đã từng
có cho tới cả 45.000 thanh niên Mỹ cũng từng đã phải hy sinh tánh mạng
cũng chính vì cái chính nghiã đó mà thôi.
Rồi chính cũng vì chịu đặt niềm tin vào cái hy vọng cuối cùng này mà
quân đội cùng nhân dân miền Nam đã tuyệt vọng cố bám vào mà sống, và
cũng chinh nhờ niềm tin tưởng là rồi thì viện trợ thêm cũng sẽ có mà
thôi, nên họ đã kiên nhẫn chịu đựng biết bao là thiếu
thốn và cũng chấp thuận hy sinh thêm máu xương để bù trừ cho số đạn
dược thiết tử nhưng lại không hề bao giờ nhận được.
Một thỉnh cầu để có
thêm 300 triệu đã được đệ nạp vào ngày 2 tháng giêng năm 1975, và con số
này cũng đã được Tổng Thống Ford đề nghị tăng thêm lên đến 722 triệu
trong cố gắng cuối cùng vào ngày 11 tháng 4 năm
1975. Nhưng lúc đó thì Quốc Hội cũng cuối cùng đành đoạn bác bỏ đi, cho
dù, mọi việc xem ra thì cũng vô vọng mà thôi. Bản án tối hậu đã được
tuyên phán.
Con số 700 triệu dành
cho tài khóa 1975 thì cũng chỉ đáp ứng được có phân nữa các nhu cầu đã
rất ư là khắc khổ rồi của chúng tôi. Trong khi đó thì các chiến dịch do
địch phát động đã tăng gia hơn cả tới 70 %,
nếu so với năm ngoái.
• •
Những Điềm Báo Trước Cho Năm 1975
• •
Vào cuối năm 1974 thì
chính phủ chúng tôi đã có đi đến kết luận với một bản phân tách về tình
hình chiến sự. Một phiên họp thượng đỉnh đã được triệu tập tại Dinh Độc
Lập vào ngày 6 tháng chạp năm 1974, và cũng
như thường lệ, đã do Tổng Thống chủ tọa. Các thành viên của Hội Đồng An
ninh Quốc Gia đã có mặt, cũng như là toàn thể các vị chỉ huy quân khu
và bộ trưởng. Đã có dự liệu là trong năm 1975 thì địch sẽ rất có khả
năng phát động một cuộc tổng tấn công, nhằm trùng
hợp và cũng để phá hoại cuộc bầu cử tổng thống mà đã được dự liệu vào
tháng 10, và nhân cuộc tranh cử bầu tổng thống Hoa Kỳ trong năm 1976.
Cán cân quân sự thì rõ ràng nghiêng một cách thuận lợi về phía địch;
chúng đã tồn trử đủ quân nhu quân liệu để phục
vụ cho một cuộc tấn công với tầm mức quy mô trong một thời gian liên
tục kéo dài được tới cả mười tám tháng trời với một mực độ ác liệt tương
đương với kỳ 1972.
• •
Vì không có được chỉ
thị hướng dẫn đặc biệt nào của Tổng Thống, Bộ Tổng Tham Mưu đã phải tự
động chuẩn bị kế hoặch đối phó với dự đoán địch sẽ hành động ra sao
trong tương lai. Mối âu lo chính của chúng tôi đã
là làm sao mà tái lập cho được một thành phần tổng trừ bị khả dụng tức
thì nào đó.
• •
V. CÁI KHỞI ĐẦU CỦA HỒI KẾT THÚC
Suốt hai năm 1973 và
1974, địch đã không thành công để chiếm giữ cho được bất kỳ thủ phủ tỉnh
nào cả. Cũng có lúc này hay lúc khác, chúng có nhắm vào Kontum hay Tây
Ninh, nhưng cả hai đều nằm ngoài vòng tay với
của chúng. Do đó, chúng bèn quay về Phước Long, thủ phủ tỉnh cực bắc
nhất của Quân khu III, và đã chuẩn bị tấn công bằng hai sư đoàn bộ đội
được tăng cường thêm một trung đoàn bộ đội khác cùng một trung đoàn
tăng, một trung đoàn phòng không, một trung đoàn
pháo dã chiến, cùng nhiều đơn vị đặc công (thuộc công binh).
Dạo đầu tháng 10 năm
1974 thì Bộ Tổng Tham Mưu cũng đã đúc kết xong đủ tin tức về các chuẩn
bị cùng kế hoặcch của địch qua những tin tình báo, các điệp viên cũng
như là các tù binh, để tiên liệu được là địch sẽ
tấn công Phước Long. Tin tức này đã được thông tri rât nhiều lần cho bộ
chỉ huy Quân khu III, cũng như là bộ chỉ huy tiểu khu Phước Long, và
mổi lần như vậy, thì họ cũng đã được cập nhật hóa về các biến chuyển mới
nhất. Do
đó, thì đã không hề có vấn đề bất ngờ, khi cuộc tấn công của địch đã khởi sự vào cuối tháng chạp năm 1974.
• •
Bình thường thì Tỉnh
Phước Long cũng được tiếp tế bằng xe cam-nhông xuyên qua Xuyên Tỉnh Lộ
1A với Quốc lộ 14. Sản phẫm của địa phương thì cũng được chở về Sài-gòn
bằng cùng lộ trình. Tuy nhiên chỉ ngay một tuần
sau khi ngưng bắn, thì địch đã cắt đứt được con đường tiếp tế huyết
mạch này tại nhiều chổ. Sau đó thì trực thăng và phi cơ cánh quạt đã là
các phương tiện chính được dùng để tiếp tế cho thành phố cùng bốn quận
lỵ. Nhu cầu hàng tháng đã là từ 400 đến 500 tấn,
đa số là gạo, muối, đường, đạn dược và nhiên liệu. Bắt đầu từ tháng 8
năm 1974 thì Quân khu III có cố gắng phối hợp với Quân khu II để khai
thông Quốc lộ 14. Chiến dịch cũng có phần nào giúp nhẹ gánh cho công tác
không vận, mà sau đó thì chỉ còn phụ trách
về những món thiết yếu như là đạn dược, nhiên liệu cùng tiếp tế về y
khoa. Tuy nhiên vào ngày 14 tháng chạp năm 1974 thì quận lỵ Đức Phong mà
vị trí nằm vắt ngang con đường tiếp tế, đã bị Cộng sản tràn chiếm, và
Phước Long lại phải bị lệ thuộc vào không vận
để được tiếp tế mà thôi. Mà không vận thì lại ngày càng cực kỳ nguy
hiểm và không còn bảo đãm nữa được vì cường độ hỏa lực phòng không của
địch.
• •
Trận Phước Long đã bắt
đầu từ cuối tháng chạp năm 1974 và chấm dứt vào ngày 6 tháng giêng năm
1975 . . . Tối 30 tháng chạp năm 1974, Sư đoàn 7 bộ đội Bắc Việt cùng Sư
đoàn 3 vừa mới được thành lập cùng tấn công
vào quận lỵ Phước Bình, mà vị trí thì nằm ngay thuộc chu vi phòng thủ
tỉnh lỵ. Quân địch đã được sự tiếp sức của một trung đoàn tăng và pháo
binh. Trận chiến diển ra thật ác liệt từ sáng tới gần tối thì bộ chỉ huy
quận bị trúng pháo nặng và trung tâm hành
quân bị tiêu hủy.
• •
Tới 7 giờ sáng ngày 1
thì địch bắt đầu tấng công từ phía nam với sự yểm trợ của tăng vào thị
xã Phước Long, nhưng đã bị đánh chận lại được tại chân ngọn đồi dẫn lên
thị xã. Cùng lúc đó thì địch cũng bao vây và
lần này thì đánh chiếm được Núi Bà Rá, bất kể sự yểm trợ tối đa của
không quân ta. Liền ngay sau khi chiếm được Núi Bà Rá, địch bèn thiết
lập các tổ điều nghiên pháo và rồi các khẩu 130 ly của chúng bắt đầu bắn
trúng được thật là chính xác các mục tiêu trong
thị xã. Tám khẩu 105 ly cùng bốn khẩu 155 ly đã bị trúng hỏa lực chính
xác này của địch vá tới ngày 3 thì tất cả hoàn toàn không còn sử dụng
được nữa. Liên lạc với thị xã nhiều lần đã bị gián đoạn. Nhân khi trận
chiến đang tiếp diễn thì địch cũng đã bố trí
được nhiều ổ phòng không trên núi Bà Rá, và tình hình trở thành cực kỳ
là khó khăn cho không quân của ta, nhất là trực thăng, để có thể tới gần
được. Nhờ các vị trí phòng thủ tiện lợi cùng sự yểm trợ hữu hiệu của
không quân, binh lính trong thị xã đã thành
công đẩy lui được nhiều cuộc tấn công của địch có tăng yểm trợ tại chu
vi phòng thủ phía nam. Họ giữ vững được nguyên suốt ngày 2. Không quân
cùng bộ binh ta đã bắn cháy tới mười lăm tăng địch. Vị tỉnh trưởng đã
yêu cầu được di tản các thương binh cũng như
là được tiếp tế thêm về vật liệu, cùng được tăng cường thêm binh sĩ.
Tuy nhiên tới 6 giờ chiều thì trạm truyền tin chuyển tiếp của chúng tôi
trên Núi Bà Rá cuối cùng cũng đã bị đánh chiếm và liên lạc với thị xã
chấm dứt.
Cùng ngày đó, tức là
vào ngày 2, Tổng Thống Thiệu đã chủ tọa một buổi họp khẩn cấp tại Dinh
Độc Lập. Cùng hiện diện đã có Phó Tổng Thống Hương, Thủ Tướng Trần Thiện
Khiêm, Trung Tướng Đặng Văn Quang, phụ tá về
an ninh của Tổng Thống, Trung Tướng Trần Văn Minh, tư lệnh không quân,
Trung Tướng Dư Quốc Đống, tư lệnh Quân Khu III, Trung Tướng Đồng Văn
Khuyên, trưởng phòng nhân viên Bộ Tổng Tham Mưu và cũng là vị tướng chỉ
huy Bộ Chỉ Huy Tiếp Liệu Trung Ương và chính
tôi trong tư cách Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu. Đề tài thảo luận là
liệu có nên tăng cường cho Phước Long hay không, và nếu có, thì sẽ là
bao nhiêu về binh lính lẫn các phương tiện khác.
Trên cương vị là Tư
lệnh Quân khu III, Tướng Đống, sau khi thuyết trình ngắn gọn về tình
hình Quân khu III và đăc biệt là Phước Long, đã đề nghị ít nhất là cần
them một sư đoàn bộ binh hay Sư đàn Dù. Kế hoặch
của ông ta đã là một chiến dịch giải vây bằng cách trực thăng vận sư
đoàn đó vào ngay trong thị xã từ phía bắc với sự yểm trợ tối đa của
không quân chiến thuật cùng trực thăng và những phi vụ tiếp tế. Rồi thì
Tướng Đống tình nguyện xin từ chức với lý do là
mình bất tài trong việc cải thiện Quân khu III kể từ khi mình nắm quyền
cách đây đã ba tháng. Tổng Thống Thiệu đã tức thì bác bỏ thỉnh cầu này
và có vẻ quan tâm hơn về việc tái tăng cường. Kế hoặc đã được nghiên cứu
kỹ lưỡng nhưng rồi, cũng bị bác bỏ.
• •
Cuối cùng thì đã đi đến
quyết định là sẽ tăng cường cho Phước Long với những khả năng đang có
của Quân khu III mà thôi. Liên đoàn 81 Biệt cách Dù, xét qua kinh nghiệm
trận An Lộc năm 1972, cũng như khả năng tác
chiến trong rừng sâu mà do địch đang kiểm soát, đã được chọn cho sứ
mệnh này. Trách nhiệm của họ đã là phụ giúp bảo vệ chu vi phòng thủ phía
nam của thị xã, và ráng tái chiếm lại Núi Bà Rá.
• •
Vào lúc 9 giờ sáng ngày
6 tháng giêng năm 1975 thì địch lại tái tấn công và có tăng yểm trợ.
Cuộc chiến đã khốc liệt diển ra suốt cả ngày trời. Tới 11 giờ khuya thì
liên lạc với bộ chỉ huy tiểu khu bị mất nhưng
với biệt kích dù thì vẫn giữ được liên lạc vô tuyến. Tới giữa khuya,
lúc 0 giờ thì biệt kích dù chấm dứt bám trụ và từ từ rút ra khỏi thị xã .
. . Từ ngày 9 tới ngày 15 tháng giêng thì Bộ Chỉ Huy Liên đoàn 81 Biệt
cách Dù đã phải lo tổ chức hầu tìm và lo bốc
cứu chính ngay các binh sĩ của họ . . . Sau gần bốn ngày thì họ đã bốc
được 121 biệt cách dù bằng trực thăng. Như vậy thì liên đoàn cũng đã
thiệt mất đến cả phân nữa thực lực. Các binh sĩ cùng thường dân tại
Phước Long cũng đã thành công bỏ chạy trốn khỏi
địch khắp nơi để cùng nhau về với phía Quốc gia. Tổng số hơn 1.000
người gồm cả thường dân, cảnh sát, Địa Phương Quân và binh sĩ của Tiểu
đoàn 2 Sư đoàn 7 Bộ Binh, nhân đó, đã được cứu để được đưa về Sài-gòn. Nhưng
vị tỉnh trưởng, vị quận trưởng Phước Bình, vị tiểu đoàn trưởng và hơn
cả 3.000 binh sĩ thì đã không bao giờ về lại được vùng ta kiểm soát.
• •
Về phương diện quân sự,
khi đánh chiếm được Phước Long thì địch đã nới rộng được tầm kiểm soát
trong một khu vực lớn. Ba vùng đặt căn cứ hậu cần của chúng thì nay đã
được nối liền nhau thành một vòng cung được
khởi đầu từ biên giới Kampuchia, để rồi vắt ngang phía băc của Quân khu
III . . . Về phương diện tâm lý và chính trị, thì việc Phước Long, cái
tỉnh lỵ đầu tiên bị mất vĩnh viễn vào tay Cộng sản, đã là một cú xốc cho
cả người dân lẫn quân đội. Sự dửng dung
hoàn toàn của Hoa Kỳ, cùng các nước không cộng khác, trước mất mát đau
thương này, lại càng nhấn mạnh vào lòng hoài nghi của người dân Việt về
khả năng tồn tại của Hòa Ước Ba-lê. Nay thì chắc chắn không còn được cái
hy vọng là Mỹ sẽ triệt để trừng trị Băc
Việt khi chúng đã mặt dày mày dạn cố tình vi phạm thỏa thuận ngưng bắn.
Niềm tin của người dân vào quyền lực của quân đội cùng chính phủ cũng
bị cực kỳ rúng động. Đối với Cộng sản, thì vụ Phước Long đã không chỉ
đơn giản là một chiến thắng quân sự mà thôi.
Với chúng, cái chiến thắng về tâm lý và chính trị mới là quan trọng
hơn. Đó đã chính là cái bước đầu, để đi đến một cuộc chinh phục toàn vẹn về quân sự, sẽ được
quyết định một cách gan dạ nhưng rõ ràng là đã không hề sợ bất kỳ phản ứng nào từ phía Hoa Kỳ cả . . .
Ban-mê-thuột
Thiếu Tướng Phạm Văn
Phú, người từng chỉ huy Sư đoàn 1 Bộ binh từ tháng 10 năm 1970 đến tháng
7 năm 1972, đã thay Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn trong chức vụ Chỉ huy
trưởng Quân khu II vào tháng chạp năm 1974, theo
đề nghị của Phó Tổng Thống Nguyễn Văn Hương, khi ông ta đòi hỏi phải
cách chức Tướng Toàn vì những cáo buộc về tham nhũng. Có vẻ như Tổng
Thống Thiệu đã đành phải miển cưỡng nghe theo lời nài nỉ của vị Phó Tổng
Thống, vì ông biết là bất chấp các tố cáo đó,
thì Tướng Toàn cũng vẫn là một vị chỉ huy tại chiến trường cực kỳ có
khả năng. Tướng Toàn bị chuyển về nắm chức chỉ huy thiết giáp, và vào
ngày 5 tháng 2 năm 1975 thì cũng được bổ nhiệm để chỉ huy Quân khu III.
Ông thay Tướng Đống mà đã từ chức trong tháng
trước. Việc thay đổi chỉ huy tại Quân khu II cũng đã đóng góp vào các biến chuyển khiến cuối cùng, Quân khu II đã sụp đổ tan hàng.
• •
Các chuẩn bị cùng kế
hoặch của địch cho một trận tấn công quy mô vào Ban-mê-tjhuoojt nay đã
thật rõ ràng . . . Phòng 2 của Quân khu II đã đúc kết một cách đúng
đáng, với ước lượng là sớm nhất là vào trung tuần
của tháng 2, nhưng rủi ro thay, là cảnh cáo này đã không được vị chỉ huy Quân khu nghiêm túc cân nhắc, vì
ông ta vẫn nghỉ là hành động di quân của địch về Ban-mê-thuột cũng chỉ
là kế nghi binh, hay nhiều lắm thì cũng chỉ có tính cách thứ yếu, và
chính Pleiku mới là mục tiêu chính của chúng. Do đó thì quân số của Quân
khu II cũng đã phản ảnh đúng theo với suy nghỉ
của vị chỉ huy trưởng. Toàn thể Sư đoàn 23 Bộ binh đã được trải chung
quanh khu vực Pleiku, chỉ để lại bảo vệ Ban-me-thuột có một nhóm biệt
động quân cùng các đơn vị tỉnh . . . mà đa số toàn là người sắc tộc
Thượng. Vào
đầu tháng 3, khi được báo động là Sư đoàn 320 Bắc cộng đang kéo về
Ban-mê-thuột thì Quân khu II chỉ gởi về cho nơi đó một bộ chỉ huy đặc
nhiệm, cùng với một trung đoàn, là trung đoàn 53 của Sư đoàn 23 Bộ binh .
. .
Cùng lúc thì địch cũng
đã thành công đóng chốt khóa chận được lưu thông trên Quốc lộ 21 nối
liền Ban-mê-thuột về tới Nhatrang. Tiểu khu Khánh Hòa đã thất bại trong
cuộc hành quân nhằm giải tỏa và đường đã cứ bị
chận cứng . . . tại gần năm mười dặm Anh hướng đông của Ban-mê-thuột.
Tới ngày 5 tháng 3 năm 1975, thì địch tấn công và tràn ngập quận ly
Thuận Mẫn nằm trên Quốc lộ 14, độ chừng giữa Pleiku với Ban-mê-thuột. Do
đó, thì liên lạc giữa Ban-mê-thuột với Pleiku
cùng Bộ Chỉ huy Quân khu II, cũng như là với Nhatrang tại bờ biển, nay
cũng thực sự bị phá vở khiến cho Ban-mê-thuột hoàn toàn bị cô lập.
Trận Ban-mê-thuột đã
khởi đầu vào ngày 10 tháng 3 và chấm dứt ngày 18 cùng tháng. Vào những
giờ phút đầu trong ngày 10 tháng 3 thì Sư đoàn F-10 của địch, với yểm
trợ của tăng và pháo, đã bắt đầu giáp công ba mũi
vào thị xã.
• •
Trong đêm 10 thì địch
đã tăng cường thêm Sư đoàn 316. Địch bám sát bao quanh bộ chỉ huy đặc
nhiệm của Sư đoàn 23 và trận chiến càng ngày càng ác liệt. Vị chỉ huy
phó của Sư đoàn 23 tại hầm chỉ huy đặc nhiệm đã
phải yêu cầu được không trợ cận chiến. Không quân chiến thuật của chúng
tôi đã đánh bom thật chính xác và phá tan nhiều xe tăng địch. Nhưng
thật xui xẻo đã có một quả bị trúng vào ngay trung tâm hành quân chiến
thuật của sư đoàn và phá nát hoàn toàn mọi vật.
Từ đó thì liên lạc với Bộ Chỉ huy Quân đoàn hoàn toàn chấm dứt.
Tới ngày 13 tháng 3 thì
Liên đoàn 7 Biệt Động Quân đã được không vận từ Quân khu III lên Pleiku
và bàn giao cho Quân khu II để thay thế hai Trung đoàn 44 và 45 của Sư
đoàn 23, mà đã cùng được chuyển về Ban-mê-thuột
để ráng cứu thành phố đang bị bao vây, mà cũng có thể nói là gần như đã
do địch kiểm soát mất rồi. Vào ngày 14 tháng 3 hôm sau, thì một lực
lượng tiếp cứu gồm có Trung đoàn 45 và một tiểu đoàn của Trung đoàn 44
đã được không vận đến Phước An, một quận lỵ nằm
cách hai mươi dặm Anh phía đông của Ban-mê-thuột, nơi mà các binh lính
bảo vệ thành phố, mà nay đã tan hàng, cùng với thân nhân và gần như là
toàn thể dân chúng, cũng đang kéo nhau tề tựu về đó. Rồi thì đoàn quân
tiếp cứu đã tiến lên rất ư là chậm chạp, cũng
như các trận phản công đều vô hiệu, một phần cũng do tinh thần binh sĩ
vào lúc đó, mà đều cùng có gia đình đang bị kẹt và bỏ lơ trong quận lỵ
đó. Một số lớn quân nhân trong lực lượng tiếp cứu đã bèn đào ngũ để trở
về quận lỵ hầu tìm thân nhân của mình.
Tới ngày 16 tháng 3 thì vị chỉ huy Sư đoàn 23 bị thương nhẹ 2 ► và
đã được di tản rời khỏi chiến trường. Ngày 18 thì địch tràn chiếm được
quận lỵ Phước An, cái căn cứ cuối cùng khả dĩ dùng được để tiếp cứu
Ban-mê-thuột. Mọi giao tranh trong thành phố đã chấm dứt và toàn thể
tỉnh Đắc-lắc nay đã bị địch kiểm soát mất rồi.
• •
Hậu quả chính của việc
Ban-mê-thuột thất thủ đã là không có đủ lực lượng hầu bảo vệ thành phố
khi địch bắt đầu tấn công. Chúng đã đạt được bất ngờ về chiến thuật và
càng quan trọng hơh, là đã có được lợi thế vượt
trội vế quân số, qua sự kiện là đã có được tới cả ba sư đoàn bộ đội với
tăng và pháo yểm trợ.Vị
Tư lệnh Quân đoàn II đã thất bại không tái xét định lại được tình
hình lãnh thổ mình chịu trách nhiệm, dù đã có được trong tay tin tình
báo cụ thể về các vụ chuyển quân của Sư đoàn 320 và F-10 bộ đội Bắc cộng
về Ban-mê-thuột, mà cũng bỏ lơ luôn phân tích của Phòng 2 của mình,
cũng như cả luôn của Bộ Tổng Tham Mưu. Thành
kiến bất khả thay của ông đã khiến ông quyết chí là địch sẽ phải tấn
công Pleiku và Kontum, những mục tiêu lâu nay vẫn thường là chính của
địch.
• •
Quyết Định Éo Le của Tổng Thống Thiệu
Trong hai tháng đầu của
1975 đã có một số vị dân biểu Mỹ đến Nam Việt để tìm hiểu tình hình tại
chổ. Trước tình hình quân sự ngày càng xấu đi và viễn tượng của các
thảo luận sắp đến trong Quốc hội về đề tài viện
trợ bổ sung, chính phủ chúng tôi đã tổ chức tiếp đón một cách nồng hậu
các vị khách rất có ảnh hưởng đó. Các vị dân biểu Mỹ đã được thúc giục
phải ráng nhìn tận mắt tình hình kinh tế, chính trị và quân sự của Nam
Việt, trước khi họ sẽ biểu quyết sẽ chấp thuận
yêu cầu hay không. Do đó, mọi người đều đã chờ đợi với nhiều mong đợi.
Vị khách đầu đã là
Thượng nghị sĩ Sam Nunn, sau đó là dân biểu Paul N. “Pete” McCloskey với
Thượng nghị sĩ Dewy Bartlett. Rồi thì tới phiên bộ sậu chính, gồm cả
nhiều thượng nghị sĩ lẫn dân biểu. Bộ Tổng Tham
Mưu đã thuyết trình tường tận cho các vị quan khách đầu tiên về tình
hình hiện hữu của Miền Nam. Buổi thuyết trình đã chuyên chú vào các
thiếu thốn không thể nào vượt qua được, nếu mà sẽ không có được số 300
triệu Mỹ kim bổ sung và cũng chỉ rõ cho thấy mối
hiểm nguy cấp bách trước việc địch tấn công một cách công khai, một sự
kiện mà nay thì không ai lại có thể chối cải được nữa rồi. Các quan
khách sau cùng thì không có được thuyết trình báo cáo một cách chính
thức, nhưng vài vị dân biểu cũng đã có tới thăm
Bộ Tổng Tham Mưu, cũng như là phòng tiển lãm các vũ khí từng tịch thu
được của địch tại đó.
Các vị dân biểu tới
thăm thì cũng có những thành tích rất là khác nhau, và cũng được thể
hiện qua quan điểm của họ về vấn đề viện trợ bổ sung. Một số thì tán
thành, số khác thì lại chống đối. Một số thì đã tới
với một tinh thần cởi mở, trong khi số khác thì lại đầy thành kiến. Một
số thì đã thật là lịch lãm và khiêm nhường; một số khác thì lại rất ư
là thô lỗ và đầy vẻ khi dể. Và rồi cũng có những vị thật là hoàn toàn
dửng dưng và thờ ơ. Nhưng cho dù họ có đã ra
sao, hay họ có đã xử sự ra sao đi nữa, thì mọi vị đều cũng đã được
thành tâm nồng nhiệt đón tiếp mà thôi. Họ đã hoàn toàn được tự do đi xem
mọi nơi mà họ muốn, [và] tiếp xúc với bất kỳ ai mà họ muốn – thiên hay
chống chính phủ, người đang ở tù hay người không
đang ở tù.
• •
Nói chung, thì các quan
khách, khi ra đi, đã cùng để lại một cảm giác khá bi quan. Khắp nơi đều
lan truyền toàn là dự đoán và tin đồn mà thôi, mà đều bất lợi cho chính
nghĩa quốc gia. Tại ngay Hoa Kỳ thì chúng
tôi bị xui khiến để phải tin là chính phủ chúng tôi nào là tham nhũng
hết thuốc chữa, nào là bạo ngược và nào là quá sức áp chế. Tỉnh ngộ và
bối rối ngay bởi những khó khăn nội bộ về chính trị và kinh tế, Hoa kỳ
nay không còn có thể đóng góp cho nổ lực chiến
tranh nữa. Viện trợ thì hoàn toàn không có chút hy vọng được tăng thêm
nữa; ngược lại, viện trợ lại còn có khả năng bị cắt giảm thêm nữa, bởi
vì nay thì Mỹ đã chuyển hướng lưu tâm về Trung Đông mất rồi.
Đã không có ai mà tinh ý
nhìn thấy được rõ ràng mọi tín hiệu cùng các đầu mối như là Tổng Thống
Thiệu. Khi mà vị khách cuối đã ra đi, thì ông cũng đã biết là không còn
có chút hy vọng gì nữa vào cái con số 300
triệu Mỹ kim viện trợ từng xin được gia tăng. Ông cũng ý thức được là
tương lai chính sách viện trợ của Mỹ cho Nam Việt chỉ là cứ giảm dần mà
thôi. Và có vẻ là ông cũng đã quyết định rồi, chiếu theo kiểu suy luận
này. Ông đã đành phải chấp nhận thi hành điều
mà cách đây hai năm, ông đã cương quyết khăng khăng từ chối. Đó đã chính là nguyên nhân của tiến trình tái phối trí quân đội của chúng tôi.
Trận tấn công mãnh liệt
vào Ban-mê-thuột và phản ứng tương đối vô hiệu quả của Quân đoàn II đã
có vẻ là các chất xúc tác vào suy tư của Tổng
Thống Thiệu, nhân vật độc chiết từ lâu nay vẫn quyết định về mọi việc là phải điều hành cuộc chiến này ra sao. Tựu
chung, thì tổng quát chỉ là làm sao ráng chống đở trước bao là gian nan
khó khăn cứ
đang lần lượt xẩy ra. Bị ráng trải ra quá khả năng, để bao khắp trên
toàn lãnh thổ, đến mức phải dùng tới cả đơn vị trừ bị cuối cùng, quân
đội của chúng tôi thì nay cũng không thể làm gì khác hơn được, hầu có
thể thay đổi được các muôn trùng trở ngại khó khăn
đó mà thôi. Thêm nữa, việc viện trợ bị cắt giảm thì cũng, trong nhiều
khía cạnh, ảnh hưởng đến khả năng tác chiến của họ, và như ít khi đã
được thừa nhận, cũng đến luôn tinh thần của họ. Trước
những tình thế như vậy, đã thật rõ ràng là cần phải làm một điều gì đó, nếu muốn cho Nam Việt Nam vẫn tồn tại được mà thôi.
Trong một thời gian, Bộ
Tổng Tham Mưu, trong nhiệm vụ cố vấn và yểm trợ, đã chủ trương là quân
đội sẽ có nhiều hy vọng hơn để có thể chống cự lại, nếu mà sẽ chỉ phải
bảo vệ một phần lãnh thổ nhỏ hơn lại. Về phương
diện quân sự thì việc đó xem ra là một chủ trương hợp lý, nhưng về
phương diện chính trị, thì đó quả là điều cấm kỵ đối với lập trường “giữ
đất bằng mọi giá” từng bao lần đã được công bố bởi Tổng Thống Thiệu kể
khi có ngưng bắn. Chắc chấn là ông cũng đã phải
từng cân nhắc nhân những lần suy tư một mình. Tình hình càng ngày càng
bi đát thì cũng đã cho thấy phải làm gì mà thôi. Trước là Phước Long,
nay thì Ban-mê-thuột, mà chỉ có trong vòng hai tháng mà thôi. Rồi sẽ là
nơi nào đây? Rồi thêm nữa, dư vị đắng cay chua
chát mà quý vị trong giới lập pháp Mỹ đã để lại, thì vẫn mãi vươn vấn
đâu đây thôi.
Nên rõ ràng là ông ta
đã lấy quyết định xong rồi, khi Tổng Thống Thiệu mời vị Thủ Tướng, cùng
Trung Tướng Đặng Văn Quang, vị cố vấn về an ninh và tôi, cùng tham dự
một buổi ăn sáng tại Dinh Độc Lập trong ngày
11 tháng 3 năm 1975, ngay ngày sau khi Ban-mê-thuột bị tấn công. Sau
khi cà-phê và đồ ăn được dọn ra và các người phục dịch đều rút đi, thì
ông bèn lấy một bản đồ với tỉ lệ nhỏ của Miền Nam Việt Nam để bắt đầu
phiên gặp bằng việc điểm qua tình hình quân sự
mà mọi người chúng tôi thì đều cũng đã rất ư là am tường rồi thôi. Rồi
ông ta bèn tỉnh bơ nói: ”Chiếu theo sức mạnh cùng khả năng của chúng ta
hiện nay, thì chắc chắn không thể nào mà lại có thể giữ được và bảo vệ
mọi phần đất mà chúng ta mong muốn được”.
Đúng vậy, chúng ta cần phải tái phối trí các lực lượng, hầu nắm giữ
cùng bảo vệ cho được những vùng đông dân cư và phồn thịnh, mà thực sự
mới quả thực là thiết yếu cho chúng ta mà thôi.
Tuyên bố có tính cách
kết luận này đã gieo vào đầu chúng tôi cùng một ý nghỉ là nó cũng đã
từng được cân nhắc kỹ lưỡng xong rồi. Có vẻ như là lâu nay, ông ta đã
phải tạm giữ nó trong long, và nay thì muốn truyền
đạt chỉ cho ba chúng tôi mà thôi tại bàn ăn sáng này. Ông bèn chỉ vòng
chung quanh các vùng mình nghỉ là quan trọng. Chúng bao gồm toàn thể cả
Quân khu III và Quân khu IV, với vùng lãnh hải bao bọc. Vài khu vực hiện
đang bị địch chiếm đóng thì sẽ phải bằng
mọi giá đánh chiếm lại. Dù sao thì những vùng này cũng là tụ điểm của
các tài nguyên quốc gia như là gạo, cao-su, kỹ nghệ, v. v. . . Và đây
cũng là vùng đất đông dân cư lẫn màu mỡ nhất. Thêm nữa, vùng thềm lục
địa mới đây cũng cho thấy là có dầu. Đây chính
sẽ là vùng thiết tử bất khã xâm phạm của chúng tôi, thành lũy quốc gia
bất khã thay đổi: Sài-gòn, các tỉnh bao quanh và Đồng Bằng sông Mê-kong.
Rồi để tiếp tục kiểu
độc thoại đầy nhiệt huyết đó, Tổng Thống Thiệu lại đã tỏ ra kém phần
đoan chắc hơn, đối với tình hình của Quân khu II và Quân khu I. Rồi bằng
cách vung bàn tay quét rộng ra để chỉ cái vùng
mà mình muốn nói đến, ông tuyên bố là trên Cao Nguyên thì khu
Ban-mê-thuột quan trọng hơn cả Kontum và Pleiku cộng chung lại, vì lý do
trù phú hơn về kinh tế lẫn dân cư. Các tỉnh ven biển của Quân khu II
cũng vậy, vì được bao bọc bởi cái thềm lục địa đầy tiềm
năng giàu có. Còn với Quân khu I, thì nói chung, cũng chẳng qua chỉ là
“ráng giữ những gì có thể được” mà thôi. Rồi thì ông ta bèn diển tả ý
nghỉ của mình bằng cách gạch một vạch cắt ngang toàn lãnh thổ Quân khu I
tại nhiều chổ và khởi đi từ phía bắc để xuống
dần. Ông tuyên bố là nếu chúng ta đủ mạnh, thì chúng ta sẽ quyết chống
giữ lãnh thổ cho tới Đà-nẳng hay Huế. Còn nếu không, thì chúng ta sẽ tái
phối trí sâu xuống tận Chu Lai, hay cũng có thể cả xuống tận Tuy-hòa
luôn. Ông nhấn mạnh là theo kiểu này, thì chúng
ta mới có thể tái phối trí được các phương tiện của chúng ta [và] nắm
giữ cho được một phần quan trọng hơn của lãnh thổ quốc gia, với nhiều hy
vọng hơn, để tồn tại được như là một quốc gia hầu phát triển trong
tương lai.
Và là như vậy thôi, chỉ
bằng vài tuyên bố quá ư đầy quả quyết, một quyết định cực kỳ quan trọng
đối với tương lai đất nước đã bị tuyên phán. Hệ quả toàn diện thì vẫn
chưa được thấy rõ, nhưng chắc chắn là nó cũng
rồi sẽ gây theo biết bao nhiêu là khó khăn muôn trùng về phương diện
quân sự. Trong vai trò cố vấn quân sự cao cấp nhất, tôi tự thấy mình có
bổn phận phải bày tỏ lập trường của mình. Tôi đã bày tỏ đại khái như là
việc tái phối trí này sẽ quả thật là cần thiết,
và tôi cũng đã từng từ lâu chủ trương như vậy thôi. Nhưng sự thật là
tôi đã giữ kín quan điểm đó và vẫn xem đó như sẽ là một đề nghị không
đúng đáng. Trước hết, thì nó mâu thuẩn với chính sách quốc gia đương
thời, và sau đó, thì nó cũng rất có thể bị xem như
là dấu hiệu của chính sách chủ bại mà thôi. Tuy nhiên điều mà tôi tự kềm không nói ra, thì chính là tôi nghỉ nay đã quá trể để có thể thành công trong một cuộc
điều động quá ư là quy mô như vậy. Hơn
nữa, đối với tôi thì có vẻ như đó là một quyết định mà không hề cho
phép bất kỳ ai được quyền chống lại cả. Dù sao thì với tư cách là chỉ
huy trưởng của quân
đội, thì đặc quyền và nhiệm vụ của vị tổng thống là điều động cuộc
chiến. Chắc chắn là ông ta hiểu rõ điều ông muốn thực hiện.
Cho dù quá ư là cực kỳ
khác xa với cái chiến lược đương thời, đó vẫn đương nhiên là điều hợp lý
nhất mà mọi vị lãnh đạo có thể quyết định được mà thôi. Đã hơn cả hai
năm rồi, kể từ khi Thỏa Ước Ba-lê được ký kết,
và tình hình đã càng ngày càng sa sút với một mức độ đáng sợ. Điều chỉ
trích duy nhất đúng là tại sao Tổng Tống Thiệu lại chờ quá lâu. Trong
buổi họp, thì ông ta cũng không hề giải thích hay chỉ dẫn cho thấy vì
sao mình đã phải tiến tới quyết định này. Có
vẻ như đó chỉ là điều đương nhiên phải xẩy ra chiếu theo các biến
chuyển mà thôi. Trước kia, thì ông ta đã từng hy vọng sẽ có thể bám trụ
tại các vùng xa xôi thưa thớt dân cư. Khi Cộng sản vi phạm Thỏa Ước
Ba-lê thì ICCS và cả thế giới nói chung, sẽ nhận chân
ra được ai là thủ phạm mà thôi. Và nếu hành vi đó quá ư là lộ liểu, thì
Tổng Tống Thiệu hy vọng, hay đã bị gạt để hy vọng như vậy, là Hoa Kỳ sẽ
có lý do hợp pháp hầu có những phản ứng mạnh mẽ để mà đáp ứng, như là
Tổng Tống Nixon đã từng cam kết.
Tuy nhiên trong suốt cả
hai năm, thì Cộng sản vẫn đã tăng gia vi phạm cùng cường độ để trắc
nghiệm thăm dò mực độ sẳn sang phản ứng của Hoa Kỳ. Cũng đúng là khi còn
nắm quyền thì Tổng Tống Nixon đã thỉnh thoảng
có đưa ra lời cảnh cáo đối với Hà-nội. Nhưng kể từ sau cái ngày 8 tháng
8 năm 1974 mà ông đã từ nhiệm, thì lời hứa hẹn sẽ “phản ứng mạnh mẻ” đã
trở thành sáo ngữ mà thôi. Thậm chí cuộc tấn công vào Phước Long thì
cũng không gây ra được một đáp ứng nào về phía
Mỹ. Thái độ tiêu cực của đa số các nhà lập pháp từng đến thăm thì cũng
đã dẹp sạch đi mọi hy vọng rồi. Đã gần như chắc chắn là Quốc hội Hoa Kỳ
đang không muốn chiến tranh bị kéo dài hơn nữa, thì còn nói chi đến việc
chuẩn chi thêm ngân sách để tiến hành nó.
Tựu chung thì cả suy tư lẫn ngân quỷ của họ nay đều cùng đã dứt khoát
được chuyển sang trang khác mất rồi.
Quả là cũng không có
một lựa chọn nào khác hơn cho Tổng Tống Thiệu, nếu ông muốn ráng cứu cho
được những gì còn cứu được, khi mà vẫn còn phần nào hy vọng. Nhưng nay
thì cũng đã quá trể rồi. Việc tái phối trí lực
lượng, nếu có, thì đã phải được thi hành dạo nữa năm 1974 kia rồi. Còn
trể nhất thì cũng đã phải thực hiện sớm, ngay sau khi Tổng Tống Nixon từ
nhiệm. Vì ông là tác giả chính của Chương trình Việt Nam hóa cùng Thỏa
Ước Ba-lê, nên chúng tôi vẫn xem ông ta như
là viên chức Mỹ duy nhất, mà phải có trách nhiệm về tinh thần, là phải
triệt để thi hành ngưng bắn. Ông ta cũng nguyên từng là một nam nhi đáng
tin và đủ can đảm để có được những hành động gan dạ và mạnh mẽ khi cần
thiết. Chính
ra thì đã cần phải làm dạo đó rồi, còn không thì sẽ là không bao giờ khả thi được nữa mà thôi.
Bọn Cộng sản thì chắc
chắn cầu mong mọi thắng lợi về lãnh thổ, và các lằn phân chia vào lúc
ngưng bắn thì cũng vẫn có thể thương lượng được mà thôi. Hoàn cảnh của
chúng tôi sẽ khả quan hơn nhiều, với phần lãnh
thổ bị thu hẹp lại, nhưng được an toàn và bảo đãm hơn. Bố trí như vậy
thì cũng càng giống hơn với thỏa ước 1954: một lằn ranh mới, đôi bên gom
quân về lại từng phía, v. v. . . ; hai vùng thật khác biệt nhau rõ
rang, thay vì là những vùng ung thối theo kiểu
“da beo”. Đó mới chính là lý tưởng cho nền sinh tồn của chúng tôi.
Nhưng cũng có nhiều khả năng là Cộng sản sẽ bác bỏ thu xếp đó. Chúng
cũng từng thú nhận đã sai lầm khi chấp nhận chia đôi đất nước tại
Giơ-neo mà? Thì cũng lại càng ít có hy vong hơn nữa, là
kỳ này chúng lại đi chấp nhận cái giải pháp này. Dù gì đi nữa, thì
chúng cũng đã không phải chịu trải qua tới cả hai mươi năm chiến tranh
cùng khổ đau, để nay không có được gì cả.
Khi Ban-mê-thuột bị
thất thủ, thì tình hình đã quá ư là trễ tràn rồi. Rõ ràng một điều là
địch đang trên đà chiến thắng mà thôi. Điều khác, thì là chúng cũng đã
thành công đạt được ưu tiên đáng kể về quân số.
Vì bị trải ra quá rộng và thiếu thốn mọi điều, chúng tôi cũng đã không
thể rút bỏ vị trí mà không khỏi bị địch cứ bám theo và đe dọa thêm nữa.
Rồi lại thêm vấn đề dân
cư địa phương và thân nhân binh sĩ. Di tản họ được hay không cho kịp
lúc, chính là chìa khóa của thành công. Không một vị lãnh tụ quốc gia
nào mà lại điên khùng, để có thể cố tình, dù chỉ
trong ý nghỉ mà thôi, đầnh long bỏ lại người dân để địch sẽ toàn quyền
đối xử với họ. Tuy nhiên chính ưu tư để rang bảo tồn cho được lực lượng
quân sự sẽ đã buộc ông ta phải quyết định như vậy mà thôi. Nhưng kinh
nghiệm đã qua thì cũng đã cho thấy là phần
đông người dân Nam Việt thì đều cũng đã từng đâm đầu bỏ chạy trốn xa
bọn Cộng sản, mổi khi có thể được mà thôi. Và khi nói “dân cư” thì cũng
có nghĩa là nói đến gia đình binh sĩ, nguồn an ủi và nâng đở của người
lính. Không ai mà có thể nghỉ được là sẽ chia
cách họ được trong một thời gian dài, bởi vì truyền thống vẫn là họ
luôn luôn sinh sống chung với nhau. Điều này lại càng đúng, khi ta lưu ý
tới truyền thống quyến luyến gia đình của người Việt và các điều kiền
sinh sống rất eo hẹp của người quân nhân cũng
như là thân nhân của họ khi nói chung.Tất cả những điều kiện này đều
cần phải được cân nhắc kỹ lưỡng, khi bị đối diện với quyết định sẽ phải
đành chia cách binh lính với gia đình họ trong một thời gian dài.
Nay hồi tưởng lại, thì
chúng ta có thể tự hỏi là, liệu chăng, nếu không có vụ tái phối trí lực
lượng, thì Miền Nam đã có thể tồn tại chăng? Có thể có vẻ quá lố khi đưa
ra quan điểm vào lúc này, nhưng tôi nghỉ
là lúc đó, vẫn còn khá hy vọng. Có một điều là sự kiện tự làm để đánh
mất tinh thần binh lính cùng dân chúng – hậu quả trực tiếp của cuộc tái
phối trí bị thất bại, và cũng là chất xúc tác thực sự đưa đến cảnh tan
rã quá ư là nhanh chóng – sẽ đã không xẩy ra,
và chúng tôi gần như là sẽ vẫn còn nguyên vẹn các đơn vị, có thể trừ
một số thuộc Sư đoàn 23 Bộ binh mà thôi.
Cho dú sau khi
Ban-mê-thuột thất thủ thì địch cũng phải ngưng lại và rồi phải tính toán
kỹ càng trước khi lại mở một trận tấn công cũng quy mô như vậy tại Quân
Khu II. Quân đoàn II thì vẫn còn Sư đoàn 22 Bộ binh
và một lực lượng tương đương với hai sư đoàn tác chiến khác, cộng với
hai không đoàn, cũng như đủ quân nhu quân liệu tiếp tế hầu tiếp tục
chiến đấu cho qua suốt mùa khô. Nếu không có việc tái phối trí, thì theo
tôi, địch cũng đã không thành công chiếm được
ưu thế được nhiều như vậy tại Quân Khu I. Tình hình rồi thì sẽ cứ dậm
chân kéo dài tại chổ như trước đó, chỉ có thêm phần bấp bênh hơn, trước
thực tại là quân viện cứ đang bị giảm dần, cùng các khó khăn trong việc
tái lập một lực lượng tổng trừ bị. Nhưng
có điều chăc chắn là tình hình đã sẽ không trở thành quá xấu nhanh và
toàn bộ như vậy, nếu mà đã không có vụ tái phối trí quân đó.
Đó là viển ảnh về quân
sự trong tương lai gần. Sau trận Ban-mê-thuột, thì tôi có nghỉ là địch
rồi sẽ áp lực hầu thành lập một chính phủ liên hiệp, và rồi thì Tổng
Thống Thiệu sẽ cũng phải đành chấp nhận. Nhưng
cho dù như vậy, thì cũng đơn giản chỉ là một thỏa ước ngưng bắn tạm
thời mà thôi. Rồi thì Cộng sản cũng sẽ ráng dành thêm nhiều chiến thắng
quân sự khác, với ý đồ có thêm được những nhượng bộ khác nữa về chính
trị. Nhưng rồi liệu chăng Nam Việt sẽ có được
khả năng cầm cự được trước áp lực ngày càng tăng gia của địch trong
trường kỳ? Theo
tôi thì mọi sự đều lệ thuộc nơi con số viện trợ quân sự của Mỹ mà thôi.
Sự
kiện thật là lạnh lùng và đau đớn là nếu không có được thêm viện trợ bổ
sung thích đáng, thì quân đội của chúng tôi sẽ không còn nhiên liệu
cùng đạn dược vào tháng 6 năm 1975 mà thôi. 3 ►Liệu
có được một quân đội nào đó, để mà có thể vẫn đứng vững chiến đấu, mà
lại không có ngay được những nhu yếu tối thiểu hầu chiến đấu?
VI. CUỘC TÁN LOẠN TRÊN CAO NGUYÊN
Hai ngày sau cuộc gặp
mặt lịch sử tại Dinh Độc Lập mà nhân đó, chiến lược tái phối trí lực
lượng đã được thảo luận, Tổng Thống Thiệu bèn tỏ ý muốn gặp Thiếu Tướng
Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân khu II, tại tổng hành
dinh ở Pleiku. Lúc đó thì Ban-mê-thuột gần như đã hoàn toàn do Cộng sản
kiểm soát mất rồi và mọi cố gắng điên cuồng để tái chiếm của Quân khu
II thì cũng vô hiệu. Khi nhận chân ra nay không còn có thể chần chờ gì
nữa, trước khi cơ hội tái chiếm lại cho được
tỉnh lỵ quan trọng này bị bỏ qua, thì Tổng Thống Thiệu lại muốn tái
nghiên cứu tình hình hầu có thể cứu được nó. Pleiku thì cũng đang bị áp
lực địch đè nặng và cũng thỉnh thoảng bị địch pháo kích. Nên nơi đó quả
thực không thể là một nơi để vị tổng thống tới
thăm, mà lại càng ít thuận tiện hơn nữa cho một trao đổi quan trọng. Vì
lo sợ cho an toàn của tổng thống, tướng Phú đã có đề nghị một địa điểm
khác, và sau vài trao đổi, thì Cam-ranh đã được chọn. Cuộc gặp đã xẩy ra
vào ngày thứ sáu 14 tháng 3 năm 1975. 4 ►
Cuộc gặp thì cũng đã
thật là hợp với hoàn cảnh lúc đó. Nơi đó là một cấu trúc rất ư là đẹp
trên đỉnh một đồi cát. Cấu trúc đó đã được xây dạo 1966 bởi quân đội Hoa
Kỳ để tiếp đón Tổng Thống Johnson, khi ông ghé
lại để thăm binh sĩ Mỹ. Cũng những nhân vật từng hiện diện trong buổi
họp ba ngày trước tại Dinh Độc Lập đã tháp tùng Tổng Thống Thiệu tới
Cam-ranh: Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Trung Tướng Đặng Văn Quang và tôi.
Theo thông lệ thì nhân
những lần hội họp như vậy, vị tư lệnh quân đoàn cũng đã bắt đầu phải báo
cáo về tình hình quân sự giữa địch và ta trong vùng đảm trách của mình.
Theo như ông, thì tình hình đã biến chuyển
cực kỳ nghiêm trọng, và giọng điệu của ông cũng đã thật là bi quan. Mọi
tuyến đường trong Quân khu II, Quốc lộ 14,19 rồi 21 đều đã bị địch hoàn
toàn cắt đứng và không còn lưu thông được nữa. Huyết lộ chính yếu, Quốc
lộ 19, chạy xuyên ngang toàn lãnh thổ và
cũng là con đường huyết mạch nối liền Pleiku với Qui-nhơn nằm ở ven
biển, thì lại đã bị đóng chốt chận cứng tại Bình Khê bởi toàn bộ Sư đoàn
3 Bắc cộng; Sư đoàn 22 Bộ binh của chúng ta, với bốn trung đoàn dưới sự
chỉ huy đầy năng động của Chuẩn Tướng Phan
Đình Niệm, cũng đã thất bại giải toả địch đang bám trụ cứng tại các vị
trí của chúng.
• •
Sau khi tường trình
chấm dứt, thì Tổng Thống Thiệu bèn hỏi thẳng điều vẫn hằng bận tâm nhứt
của ông ta. Liệu có thể Tướng Phú đánh chiếm lại được Ban-mê-thuột hay
không? Như
dự liệu, vị tướng Tư lệnh Quân khu II đã không hề đưa ra được một lời trả lời cụ thể dứt khoát là sẽ được hay không.Ông
chỉ xin được tăng cường thêm. Quay về hướng tôi, Tổng Thống bèn hỏi
liệu có
bao nhiêu lực lượng có thể tăng cường cho Tướng Phú. Nhưng đúng ra thì
ông cũng đã phải biết trước rồi. Đơn vị trừ bị cuối cùng là Liên đoàn 7
Biệt Động Quân, thì cũng đã được gởi cho Tướng Phú theo yêu cầu của ông,
ngay từ khi các dấu hiệu địch sắp tấn công
vẫn đang xẩy ra. Hoàn toàn đâu còn gì nữa đâu.
Đây là điểm mốc cực kỳ
nguy kịch nhất trong toàn cuộc chiến. Trong canh bài cuối này, quân đội
của chúng tôi đang phải đối đầu trong trận thử lữa cuối cùng, trước một
kẻ thù mà cứ liên tục tố lớn thêm thôi. Các
đơn vị trừ bị chính duy nhất là Sư đoàn Dù và Sư đoàn Thủy Quân Lục
Chiến thì đã được phân bổ cho Quân khu I kể từ năm 1972. Rất sớm, cả
trước khi xẩy ra vụ Ban-mê-thuột, thì vì những lý do chính trị, Tổng
Thống Thiệu đã quyết định rút Sư đoàn Dù về trong
vùng Sài-gòn. Tân Lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến 468 mới được thành lập đã
sẳn sàng để lâm trận và sẽ cùng một Liên đoàn Biệt Động Quân thay thế
đơn vị Dù bị rút đi đó. Như vậy thì Quân đoàn I rốt cuộc có được hai lữ
đoàn trám chổ cho số ba lữ đoàn của Sư đoàn
Dù. Nhưng rồi quyết định gởi Liên đoàn Biệt Động Quân ra Vùng I lại bị
chính Tổng Thống Thiệu hủy bỏ khi phải đối phó với tình hình cứ biến
chuyển không ngừng. Lữ đoàn 3 thuộc Sư đoàn Dù đang được hải vận vô Nam
thì nhận được lệnh vào ngày 17 tháng 3 là phải
đổ bộ ở Nhatrang, và di chuyển tiếp đi Khánh Dương trên Quốc lộ 21
trong một chiến dịch khẩn cấp, hầu chận địch sẽ tiến về vùng duyên hải
sau khi Ban-mê-thuột bị thất thủ. Và chiến trận tại đó đã diễn ra thật
là khốc liệt trong các ngày kế tiếp, để rồi Lữ
đoàn 3 Dù bị tan tác, để rồi đã không bao giờ về lại Sài-gòn như đã
được dự tính.
Do đó, đúng vào lúc mà
lực lượng trừ bị quá ư là thiết yếu, thì Bộ Tổng Tham Mưu đã không còn
quân để gởi cho Tướng Phú. Nay thì có vẻ như là, khi nêu lên một câu hỏi
mà ông dư biết trước rất từ lâu rồi câu trả
lời, chính Tổng Thống Thiệu đã muốn mọi người phải nhận chân ra được
hoàn cảnh bế tắc mà chúng ta đang phải lâm vào, và điều gì sẽ phải quyết
định cho phản ứng kế tiếp của ông ta. Rồi lại lần nữa, y như nhân lần
điểm tâm cùng làm việc tại Dinh Độc lập vào
ngày 11 tháng 3, Tổng Thống Thiệu bèn đứng lên, tới bên cạnh một bản đồ
của Miền Nam, rồi trong khi Tướng Phú chăm chú nhìn, Tổng Thống Thiệu
bắt đầu giải thích cái chiến lược mới mà sẽ cần phải thi hành.Ông đã
dùng tay để vạch lên bản đồ cái vùng thiết yếu
mà Tướng Phú bắt buộc phải giữ cho được. Vì lý do kinh tế và dân cư,
Ban-mê-thuột cũng quan trọng hơn cả Pleiku cùng Kontum nhập chung lại.
Nay thì Quân khu II có bổn phận phải tái phối trí các lực lượng cơ hữu,
hầu làm sao phải tái chiếm cho được Ban-mê-thuột
bằng mọi giá. Đó là lệnh của Tổng Thống.
Rồi Tổng Thống Thiệu
bèn quay qua hỏi Tướng Phú liệu sẽ tái phối trí ra sao và tuyến đường
ông ta dự trù sẽ dùng để dưa quân về Ban-mê-thuột. Theo quan điểm của vị
Tư lệnh Quân khu II, thì Quốc lộ 19 dẫn đi từ
Pleiku về hướng đông để tới duyên hải thì đã bị khóa cứng mất rồi; sư
đoàn tinh nhuệ nhất của ông ta đã bị chận cứng tại Bình Khê trên Quốc lộ
14 nối liền Pleiku với Ban-mê-thuột theo hướng nam bắc, mà cũng bị đóng
chốt cứng tại Thuận Mẫn ở phía Bắc của Ban-mê-thuột.
Cũng có thể giải tỏa nơi đó, nhưng cũng sẽ cực kỳ khó khăn vì địch sẽ
được biết trước. Vì vậy, Tướng Phú cho biết là mình sẽ sử dụng Liên Tỉnh
lộ 7B. Đó nguyên là một tuyến đường phụ, tách ra từ Quốc lộ 14, ở hai
mươi dặm Anh hướng nam Pleiku, để rồi chạy
theo hướng đông nam, xuyên qua Hậu Bổn (Cheo Reo), để về Tuy hòa ở vùng
duyên hải. Nguyên từng là một con đường phụ chật hẹp và lồi lõm không
tráng nhựa, LiênTỉnh lộ 7B đã bị bỏ quên và không còn có thể sử dụng
được nữa. Trừ đoạn ngắn còn khả dụng từ Quốc
lộ 14 dẫn tới Hậu Bổn, thì cũng không ai mà có thể biết được sau đoạn
đó thì con đường sẽ ra sao cả. Tuy nhiên, cũng được biết là một trong
những cây cầu chính trên sông Ba ở hướng nam của Cũng Sơn, thì cũng đã
bị phá nát không thể nào tu bổ được nữa, và đoạn
cuối đường ở hướng tây của Tuy Hòa, thì cũng không còn khả dụng vì từng
đã bị gài mìn đầy dẫy bởi lực lượng Nam hàn nhiều năm trước đây.Tuy
nhiên cũng có vẻ là vị Tư lệnh Quân khu II vẫn đang biết rõ mình đang
cần phải làm gì. Ông ta tuyến bố là yếu tố bất
ngờ về chiến thuật mới là thiết yếu và đó cũng chính là yếu tố ảnh
hưởng mạnh vào quyết định của ông ta. Ông chỉ yêu cầu Bộ Tổng Tham Mưu
cung cấp cho các tiện nghi sẽ cần để dùng chuyển quân qua sông mà thôi.
Tôi đã liền tức khắc chấp thuận yêu cầu này.
Công trình di chuyển
một đoàn quân lớn cấp quân đoàn, cùng trang bị và xe cộ qua một con lộ
dài tới 160 dặm Anh, mà tình trạng tốt xấu gần như hoàn toàn không ai
biết được, mà lại còn đi xuyên qua toàn là núi
và rừng trên Cao nguyen, quả thật là một công tác phiêu lưu cực kỳ quy
mô. Yếu tố bất ngờ sẽ chỉ đạt được, nếu công tác chuyển quân được hoàn thành một cách nhanh
chóng và không bị ai ngăn trở. Nhưng
ngay một vị chỉ huy lạc quan cách mấy, thì cũng thể nào dám loại bỏ khả
năng là sẽ phải đụng địch và theo đó, thì cũng phải sẳn sàng vài giải
pháp để đối phó lại. Cuối
cùng thì nơi đó cũng là loại địa thế lý tưởng mà địch vẫn đã dùng để
đánh các trận phục kích đẫm máu nhất đối với quân đội Liên Hiệp Pháp
trong thời chiến tranh 1946-1954.
Trên cương vị tham mưu
trưởng, tôi tự thấy có bổn phận phải nhắc nhở Tướng Phú về những khó
khăn cùng hiểm nguy sẽ phải gặp và phải chuẩn bị các biện pháp bảo vệ an
ninh. Một cuộc chuyển quân với tầm mức quy mô
như vậy, lại phải xuyên qua một địa hình, cùng một chiều dài như thế,
đòi hỏi vị tướng phải bảo đãm cho được an toàn, cùng phòng vệ cho suốt
dọc lộ trình. Đoàn di chuyển cần phải được bố trí làm sao để, vừa có thể
bảo vệ thành phần dẫn đầu lẫn thành phần
ở đuôi, rồi luôn cả cho quân nhân ở giữa đoàn xe. Các chỉ huy trưởng
luôn luôn phải có đủ và sẳn sàng mọi phương tiện liên lạc vô tuyến, cũng
như là không trợ và không viện cận chiến những khi cần.
Cuối cùng thì cũng từng
đã có những bài học đáng giá mà người Pháp đã từng phải trả với giá quá
cao trong cuộc chiến Đông Dương thứ nhất. Tôi nhắc ông ta về lần Pháp
thất bại khi cố gắng rút binh lính khỏi Lạng
sơn vào năm 1947. Tôi cũng nhắc Tướng Phú vì sao mà, vào tháng 10 năm
1956, hai đoàn binh lính và quân xa chỉ huy bởi Đại tá Le Page và
Charton – đoàn đầu rút từ Thất khê để hướng về bắc, còn đoàn sau thì từ
Cao bằng rút về hướng nam – đều đã bị tiêu diệt
tại các chân đồi chung quanh Đồng khê dọc Đường Thuộc địa số 4. Cuối
cùng, tôi cũng có giải thích vì sao mà, cũng đúng theo với địa thế cùng
đường lộ mà đoàn quân của Tướng Phú sẽ phải di chuyển, Liên đoàn lừng
danh GM-100 của Pháp đã từng bị tàn sát trên
Quốc lộ 19 gần An khê trong tháng 6 năm 1954, và rồi số tàn quân còn
lại thì cũng bị quét sạch tại Đèo Chu-drek trên Quốc lộ 14. Đó chính là các bài học tang thương
đẫm máu mà mọi vị chỉ huy trên cái vùng Cao nguyên bội bạc của Miền Trung đều không bao giờ có quyền quên được.
Vào lúc cuối của phiên
họp và mọi người chuẩn bị ra về, bất thình lình Tướng Phú xin Tổng Thống
Thiệu một đặc ân. Bằng một giọng nói gần như là nài nỉ, ông xin cho
thuộc cấp là Đại tá Phạm Văn Tất, 5 ► chỉ
huy trưởng toàn thể lực lượng biệt động quân thuộc Quân khu II, được
đặc cách lên chuẩn tướng. Tôi thì không biết rõ cá nhân Đại tá Tất. Tôi
được nghe nói ông là một sĩ quan có khả năng, nhưng trên cương vị tác
chiến chỉ huy tại chiến trường, thì ông chưa
từng có được những thành tích đặc biệt nào về tài chỉ huy cả. Tuy tôi
cũng không có đưa ra lời phản đối nào, nhưng tôi có nghỉ là để cho hợp
lý, thì Đại tá Tất cần phải có được thành tích đáng kể trên chiến trường
trước đã. Tổng Thống Thiệu có vẻ phân vân;
ông nhần ngừ rồi bày tỏ quan điểm giống như của tôi. Nhưng Tướng Phú cứ
nài nỉ và cứ lặp đi lặp lại thỉnh cầu của mình với Tổng Thống mà rốt
cuộc cũng đành phải chấp thuận mà thôi. (Sau khi được thăng chức thì Đại
tá Tất được chỉ định chỉ huy đoàn quân được
tái phối trí. Sự kiện này đã giải thích được vì sao Tướng Phú đã cố đề
nghị nâng cấp cho người thuộc hạ thân cận nhất của mình. Hai
vị phụ tá là Chuẩn tướng Trần
Văn Cẫm và Lê Văn Thân thì đều bị giao cho những nhiệm vụ rất ư là mơ
hồ như là ‘giám sát ~ supervising’ toàn thể cuộc triệt thoái).
Về lại Sài-gòn thì tôi
gọi Chuẩn tướng Trần Đình Thọ, vị phụ tá trưởng Phòng 3 của Bộ Tổng Tham
Mưu và cho ông ta biết mọi chi tiết về cuộc họp vừa xẩy ra. Chánh Văn
Phòng là Trung Tướng Đồng Văn Khuyên lúc đó
thì đang ở ngoại quốc. Tôi ra chỉ thị cho Tướng Thọ phải theo dõi cuộc
triệt quân, cùng ráng giúp Tướng Phú, một cách kín đáo, bởi vì đây vẫn
là một chiến dịch tuyệt mật của Quân đoàn II, mà chỉ liên hệ đến các đơn
vị hữu cơ mà thôi. Đó cũng là một chiến dịch
tối mật, chiếu theo lệnh trực tiếp của ngay tổng thống trong tư cách là
tổng tư lệnh của quân đội cho một vị chỉ huy trưởng tại chiến trường. Do
đó, Bộ Tổng Tham
Mưu đã không được quyền tự xuất ban hành bất cứ lệnh lạc nào cả, trong
việc tái phối trí lực lượng binh lính và không lực thuộc vùng
Pleiku-Kontum, dù không có trực tiếp dính líu gì tới cuộc triệt thoái
đó.
Kế Hoạch của Tướng Phú
• •
Sứ mệnh được giao cho
Tướng Phú, đã là đem đa số các lực lượng đó [trong vùng Kontum – Pleiku
về Nhatrang và từ đó, phản công tái chiếm Ban-mê-thuột.
Kế hoặch căn bản của vị
tư lệnh Quân khu II, trong việc, nói đúng ra là rút quân khỏi Cao
Nguyên, đã dựa trên yếu tố sẽ làm địch bất ngờ. Chiếu theo vị chánh Văn
Phòng của ông ta, thì sau khi họp với tổng thống
tại Cam ranh về, thì Tướng Phú bèn triệu tập một phiên họp tham mưu hạn
chế ngay tối cùng ngày, và nhân đo, ông đã cho biết về những lệnh của
Tổng Thống Thiệu, và cũng để ra những lệnh của chính ông ta. Cùng có mặt
trong phiên họp, đã có vị tân Chuẩn Tướng
Phạm Văn Tất, Chuẩn tướng Trần Văn Cẫm, Tư lệnh phó Quân khu II về hành
quân và Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân. Một
kế hoặch chuyển quân bèn được nhanh chóng thảo luận và đã đi đến kết quả
là Tướng Phú, cùng các thành viên của Bộ
Chỉ huy Tiền phương Quân khu II, sẽ được không vận về Nhatrang, cùng
với Chuẩn tướng Lê Trung Tường, tư lệnh Sư đoàn 23, mà sẽ lên Khánh
Dương để chỉ huy cố gắng chận đứng địch đang tiến xuống từ Quốc lô 21,
và cũng để tái chiếm Ban-mê-thuột . . .
Tướng Tất được giao chỉ
huy toàn thể lực lượng của Quân khu II, mà sẽ được rút từ vùng Kontum –
Pleiku để về Tuy Hòa, xuyên qua Liên Tỉnh lộ 7B. Đại tá Lê Khắc Lý thì
được chỉ định chịu trách nhiệm về ban tham
mưu Quân đoàn cùng các đơn vị tiếp liệu. Toàn thể chiến dịch sẽ do
Tướng Cẫm giám sát.
• •
Bởi vì vụ tái
phối trí đã được soạn thảo và rồi thi hành trong vòng bí mật, nên các vị
tỉnh trưởng Kontum, Pleiku và Phú bổn đều hoàn toàn không biết gì cả. Tới
ngày 17 tháng 3, tức là vào ngày thứ nhì, vào lúc rất khuya, thì ba
Liên đoàn Biệt Động Quân ở Kontum được lệnh phải kéo nhau về Pleiku. Chỉ
khi đó, thì vị Tỉnh Trưởng Kontum là Đại tá Phan Đình Hưng mới biết
được là đang có chuyển quân. Ông bèn vội vã gia
nhập đoàn quân nhưng rồi đã thiệt mạng vào giữa đoạn đường nối liện
Pleiku với Kontum.
Cuộc Tháo Chạy ~ The Flight
Ngày 16 tháng 3, thì
đoàn xe đầu tiên rời Pleiku như đã được dự tính. Nhưng ngay sau khi
chiếc xe cam-nhông cuối vừa rời, thì cả thành phố cũng đã biết được tin
này. Dân chúng bèn bắt đầu cũng rời bỏ thành phố
bằng bất cứ mọi phuong tiện nào mà họ có được, ngay cả đi bộ, và nhân
đó cũng ráng đem theo của cải nào có thể mang được. Sau
đó, thì số người tỵ nạn từ Kontum
cũng nhập chung vào, và rồi, cùng chung với binh lính, họ đã tạo thành
một khối vĩ đại gồm cả người lẫn xe di chuyển dọc trên con đường đầy
gian nguy là Đường 7B. Cuộc di tản khỏi Vùng Cao Nguyên đã
bắt đầu.
Hai ngày đầu là 16 và
17 tháng 3 thì đã qua mà không bị hề hấn gì cả. Tới chiều ngày 18 tháng
3, thì bộ chỉ huy Quân khu II đã tới được Hậu Bổn thuộc tỉnh Phú Bổn,
nơi mà một bộ chỉ huy dã chiến cũng đã được thiết
lập tại chổ. Chính tại đây, mà tất cả các đoàn xe của trong cả ba ngày
vừa qua, cùng với khối muôn trùng người tỵ nạn, đã bị tấn công. Mục tiêu
nhằm tiến về duyên hải nằm cách đó cũng là cả một trăm dặm Anh, thì
quả không thể nào thực hiện được, vì công binh
vẫn chưa làm xong một cái cầu nổi, hầu vượt được qua con sông Ea Pa ở
mãi xa cuối đường.
Trong đêm thì địch,
chắc có lẻ chỉ là lực lượng địa phương, khi nhận được lệnh chận đánh
đoàn quân đang bị nghẽn, bèn bắt đầu pháo rồi tấn công trực diện. Phi
đạo Hậu Bổn, nằm cách xa bộ chỉ huy Quân khu II không
hơn một dặm Anh, bèn bị tràn ngập. Giao tranh vẫn cứ tiếp diễn mãi đến
chiều tối ngày hôm sau, tức là ngày 19 tháng 3. Tới lúc đó thì binh lính
cùng thường dân bị thương nằm rải rác khắp nơi. Không ai có thể nói là
mình đang kiểm soát được thành phố. Vài đơn
vị Địa Phương Quân và Nghĩa Quân người Thượng vô kỷ luật bèn bắt đầu đi
cướp bóc, hay tự động tan hàng và bỏ chạy, tạo nên một hoàn cảnh hổn
loạn, gây rúng động hoang mang cho cả binh lính lẫn người tỵ nạn. Tình
hình cứ càng ngày càng trở nên nghiêm trọng
với thời gian qua. Tới lúc đó thì từ Nhatrang, Tướng Phú mới chỉ định
Đại tá Nguyễn Văn Đồng, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Kỵ Binh Thiết Giáp, đãm
trách chỉ huy đoàn xe di tản.
Ngày hôm sau, 20 tháng
3, thì đoàn di tản chiến thuật rời Hậu Bổn, nhưng chỉ di chuyển được có
mười lăm dặm Anh mà thôi. Địch đã tràn ngập mất Phú Tắc nằm ở phía trước
mất rồi. Ấy vậy, đoàn xe vẫn cứ tiếp tục,
vừa chiến đấu vừa tiến lên. Khi không trợ được yêu cầu thì thật xui
xẻo, các thành phần dẫn đầu đã bị đánh lầm trúng bom. Gần toàn thể một
tiểu đoàn biệt động quân đã bị xóa sổ. Tai nạn này lại càng làm đình trệ
đoàn quân, và càng gây thêm hoang mang trong
binh lính cùng người tỵ nạn. Trong một cố gắng điên cuồng tìm chổ núp
và cũng để trốn đi, nhiều binh sĩ đã nhảy đại xuống song, để rồi phải bị
chết đuối thôi. Và tại hai địa điểm vượt sông thì vài chiến xa cùng xe
cam-nhông đã bị lún cát sa lầy khi chúng ráng
né để đi bọc qua.
Tại Củng Sơn, cách Tuy
Hòa độ bốn mươi dặm Anh, đoàn xe đã sẽ phải vượt con Sông Ba, để rồi sẽ
tiếp tục đoạn cuối trên Hương lộ 436 ở bên bờ phía Nam của con sông. Ở
phía trước của Củng Sơn, thì Tỉnh lộ 7B cũng
đã từng bị quân đội Nam Hàn gài mìn dày đặc. Một cây cầu nổi đã được
mang ra Tuy Hòa từ Nhatrang, nhưng cũng đã không thể nào đưa bằng đường
bộ đi Củng Sơn được, vì địch đã đóng chốt chận được tại nhiều chổ rồi.
Rốt cuộc, thì nó cũng đã được tháo thành nhiều
khúc, để được trực thăng không vận lên tới Củng Sơn.
Tới ngày 22 tháng 3,
thì cái cầu nổi mới được ráp xong, và đoàn xe mới vượt được để qua Hương
lộ 436 và chậm chạp tiến về Tuy Hòa. Do mọi người và xe cộ cùng dành
nhau vượt cầu, nên cầu nổi rồi cũng bèn sụp đổ
luôn, khiến rất nhiều người phải bỏ mạng, cũng như là bao xe cộ bị đắm
chìm xuống nước. Nhưng cầu cũng đã được nhanh chóng sữa chữa, và phần
tan hoang rơi rớt còn lại của đoàn xe mới qua được bên kia sông.
Đã phải mất tới bảy
ngày, cùng muôn trùng thiệt hại, mà đoàn xe cũng chỉ di chuyển được có
bấy nhiêu, nhưng đoạn . . . cuối của cuộc di tản thì cũng chậm như vậy
và lại còn càng thêm phần hiểm nguy. Lộ trình thì
tương đối ngắn, nhưng địch thì cũng đã đóng chốt kiên cố chận tại nhiều
chổ khiến rất ư là cực kỳ khó khăn để giải tỏa cho được. Cứ mổi lần mà
lực lượng tiền phương bắt đầu tiến lên được, thì địch lại tái tấn công
chận lại. Các cố gắng để nhổ chốt đã thật
là chậm chạp và khó khăn. Cả đoàn xe lại bị nghẽn cứng lần nữa. Trời
thì lại mưa và lạnh. Và địch thì lại cứ tiếp tục pháo cối không ngừng để
quấy phá. Vì thời tiết cực kỳ xấu, nên không quân cũng không có thể
không trợ cận kề. Tuy Hòa thì cũng không còn quân
để gởi đi tăng cường được, và đoàn quân chỉ còn phải tự lực cánh sinh.
Trong hoàn cảnh tuyệt vọng, mà cũng quá xót xa cho đoàn thường dân đang
tháp tùng và chia xẻ định mệnh chung với họ, binh sĩ của Tiểu đoàn 34
Biệt Động Quân . . . cuối cùng đã quyết định
phải xung phong đánh xuyên qua, còn không thì cũng chết thôi. Dưới sự
yểm trợ của vài chiếc M-113 còn lại, họ bèn xung phong lên và gần như là
đã nhổ sạch từng chốt này sau chốt nọ. Liền ngay sau khi sạch địch thì
đoàn xe liền rồ tiến lên, bât chất rồi sẽ
có những tai họa nào đang chờ đợi họ ở phía trước . . .
Tới ngày 27 tháng 3 thì
chốt cuối cùng của địch cũng bị nhổ xong, và từ đó, thì đoàn xe mới di
chuyển được an lành về Tuy Hòa. Các quân xa đầu tiên đã tiến được vào
thành phố lúc 9 giờ tối. Đã không hề có được
một kế hoặch nhằm cố gắng kiểm kê đã có được bao nhiêu xe và người về
tới được Tuy Hòa. Không ai đã biết được có bao nhiêu người từng cùng
nhau lên đường rời bỏ phố thị mà đã cuối cùng còn sống sót được, sau
chuyến hành trình đầy bi thương đó. Đã có trên 300
xe, quân xa lẫn dân sự, sau đó đến trạm xăng dầu do Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp
vận thiết lập để xin thêm nhiên liệu. Và độ 5.000 người dân đã tới tạm
trú tại một trung tâm tỵ nạn dã chiến ở Tuy Hòa vào hôm đó. Một số khác
thì đã tiếp tục đi Qui Nhơn hay là Nhatrang,
hoặc là về tạm trú với thân nhân ngay trong thị xã.
Về phương diện quân sự,
thì cuộc triệt thoái đã là một thất bại hoàn toàn. Gần như toàn bộ các
đơn vị rút đi từ vùng Kontum – Pleiku đều đã bị tan rã. Đại tá Lê Khắc
Lý, Tham Mưu Trưởng Quân đoàn II, ước lượng
là có được 5.000 trong tổng số 20.000 quân nhân phụ trách về tiếp vận
và yểm trợ, cuối cùng đã được cứu thoát. Trong số năm liên đoàn biệt
động quân, thì có độ 900 quân nhân về trình diện được Bộ Chỉ Huy Quân
đoàn tại Nhatrang. Nhưng Tiểu đoàn 34 BĐQ, mà sau
này đã được các người di tản tôn thờ gọi là “anh hùng nhổ chốt”, thì
lại chỉ bị tổn hại có 50 phần trăm mà thôi. Đơn vị này đã được giữ lại
để bảo vệ thị xã Tuy Hòa.
Nguyên Nhân và Hậu Quả
• •
Khi nhìn lại thì cũng
dể để mà đi chỉ trích thôi, nhưng cho dù khái niệm bảo mật cùng bất ngờ
về chiến thuật mà có lý đến mức nào đi nữa, thì vị tư lệnh Quân đoàn
cũng đã phải có bổn phận, cùng ban tham mưu, soạn
thảo trong chi tiết, một kế hoặch và cũng đã phải trực tiếp chỉ huy
toàn bộ chiến dịch. Việc
soạn thảo kế hoặch của ông đã thật là hạn chế, và chỉ có một nhúm
nhỏ vị chỉ huy thuộc hạ thân tín của ông là mới được quyền góp ý, cũng
như là biết được về cuộc triệt thoái mà thôi. Ban tham mưu thì đã hoàn
toàn không biết gì cả . . .
• •
Cuối cùng, việc thất bại này cũng đã là của giới chỉ huy, thuộc mọi cấp mà thôi. Binh
sĩ thì đã không được thuyết trình hướng dẫn, kỷ luật thì đã không được
triệt để thi hành, các hạn chế cũng đã không được ban hành, hầu sẽ giúp
tránh tình trạng vô kỷ luật và hỗn loạn. Rồi đặc biệt, binh sĩ đã không
được giải thích rõ ràng là sẽ phải đãm nhiệm
vai trò khó khăn là nhổ chốt địch, những trở ngại cuối cùng mà sẽ quyết
định cho ngay việc sống còn của chính họ mà thôi.
Về quân sự, hậu quả của
cuộc triệt thoái đã là một cuộc tan hàng tháo chạy với những tầm độ
chiến lược quy mô. Ít nhất là đã có tới cả 75 phần trăm khả năng chiến
đấu của Quân đoàn II, kể cả Sư đoàn 23 Bộ binh
cũng như là biệt động quân, thiết giáp, pháo binh, công binh và truyền
tin, đã cùng bị bỏ phí một cách bi thương, chỉ có trong vòng mười ngày
mà thôi. Chiến dịch nhằm tái chiếm Ban-mê-thuột rồi cũng đã không có
được, đơn giản chỉ vì Quân khu II thì nay cũng
không còn có binh sĩ tác chiến nữa rồi. Bộ đội Cộng sản đã chiếm được
Kontum và Pleiku mà không cần phải đánh đấm gì cả . . .
Về tâm ly và chính trị,
thì việc tự mình làm thua trận của Quân khu II trên Cao nguyên đã đưa
đến kết quả như là một cơn ác mộng, cho nhân dân cùng binh sĩ của Miền
Nam. Tâm trạng mọi người nay chỉ còn là bối
rối, lo âu, băn khoăn, đổ lỗi cho nhau, với mặc cảm tội lỗi cũng như là
một cảm giác ngỡ ngàng tập thể. Các tin đồn đã lan nhanh là đã có quyết
định cắt đất nhường cho địch rồi. Kết quả tức thời của các tin đồn đã
là làn sóng người tỵ nạn hoàn toàn vô phương
kiểm soát, mà nay đang mưu tìm mọi phương tiện, hầu phải bằng bất cứ
giá nào, để rời bỏ những tỉnh còn lại của Quân khu II. Ở phía bắc thì
Quân khu I cũng đã bị ảnh hưởng và tràn ngập bởi tâm trạng vô vọng đó.
Rồi thì sau đó, dân chúng cũng bèn gia nhập làn
sóng người tỵ nạn, cùng các quân nhân tan hàng hốc hác đang lũ lượt kéo
nhau xuôi nam dọc theo bờ biển. Trước hết, thì họ đua nhau vào Phan
Rang, rồi tới Phan Thiết, để rồi lại tiếp tục chạy về thấu Sài Gòn. Ngay
tại thủ đô, thì phong trào đối nghịch cũng
đang gia tăng hoạt động và cũng đã phá nát vĩnh viển lòng tin cậy của
người dân vào chính phủ. Niềm tin vào quân đội cũng bị xuống thấp tới
mức tận cùng. Nhiều kẻ biểu tình xuống đường giận dữ đòi Tổng Thống
Thiệu phải bị thay thế; họ cũng lớn tiếng chống
Mỹ. Tuy nhiên, một niềm tin vẫn cứ bàng bạc là, rồi thì, sẽ có một điều
kỳ diệu xẩy ra, để cứu Miền Nam Việt Nam mà thôi.
(XEM TIẾP PHẦN 2)
*****
1.
Việc phân
bổ cho Quân Khu I các Sư đoàn Dù và Thủy Quân Lục Chiến đã khiến cho Bộ
Tổng Tham Mưu . . . lần đầu tiên trong cuộc chiến, không còn lực lượng
tổng trừ bị nào
nữa cả.
2.
Bernard Kalb và Marvin Kalb, Kissinger (Boston: Little, Brown and Co., 1974), trang 183-184.
3.
Như trên, trang 354.
*****
Chú thích của TS Lewis Sorley
Các phụ chú
của các tác giả thì cũng đã được in theo như thông lệ. Những phụ chú
ngắn có tính cách giải thích hay các tu chính do chính họ đã bổ túc thêm
thì đều được đặt
trong dấu ngoặc [ . . .] ‘brackets’. Các đoạn bị rút bỏ trong nguyên
bản thì đều được ghi bằng dấu ( . . . ) ‘ellipses’, nếu xẩy ra trong một
câu hay một phân đoạn nào đó. Khi có một phần khá lớn bị loại bỏ thì sẽ
được cho thấy bằng những chấm lớn nằm riêng
’centered, larger ellipsis points’ như là
• •
*****
Phụ đính của người chuyển ngữ
1 ►
“seventy-eight” thay vì là “seventy-eigth” như trong nguyên bản, tức là “bảy mươi tám” thôi.
2 ►
Ngày
14 tháng 3 năm 1975 tại Phước An, Darlac, Chuẩn tướng Lê Trung Tường bị
thương nhẹ tại cầu 31, thuộc quận Phước An, tỉnh Darlac trong khi đang
chỉ huy và điều động
các Trung đoàn trực thuộc để hành quân tái chiếm Thị xã Ban Mê Thuột.
Ông được di tản về Sài Gòn điều trị. Đầu tháng 4 năm 1975, sau khi xuất
viện, ông được cử vào chức vụ Tham mưu trưởng Quân đoàn III và Quân khu
3.
Sau ngày 30
tháng 4, ông ra trình diện, bị đi tù cho đến ngày 11 tháng 2 năm 1988
mới được trả tự do. Không xuất cảnh theo diện H.O. do Chính phủ Hoa Kỳ
bảo lãnh, mà ở
lại trong nước và ngày 22 tháng 5 năm 2009 từ trần, hưởng thọ 82 tuổi.
3 ►
Các chi
tiết VÔ LÝ này do từ phía Quốc Hội Mỹ, dẫn đầu bởi Ed Kennedy, kẻ từng
tàn nhẫn tuyên bố là đối với VNCH, “cho thêm 1 xu cũng không cho”, thì
cũng đã được ngay
chính Tổng Thống Nixon đau đớn liệt kê ra từ trang 193 của bài biên
khảo No More Vietnam mà ông xuất bản vào năm 1985.
4 ►
Lưu ý là khi tường thuật về cuộc họp tại Cam Ranh, thì Tướng Viên hoàn toàn không
có nói gì là Tướng Phú có tình nguyện xin được tử thủ tại Pleiku như
nhiều bài
phỏng vấn sau này ở hải ngoại viết. Tướng Phú đã tự tử bằng độc dược
khi, vào lúc cuối, trực thăng hẹn đến đón tới trể, và sau đó thì đã được
đưa vào Bệnh viện Grall nhưng cứu không được.
5 ►
Đúng ra phải là Phạm Duy Tất, nguyên thuộc Bộ binh
Hình Quân Khu II trong Bài Triệt Thoái Khỏi Quân Đoàn II
(Phỏng Vấn Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất) của Đỗ Sơn
6 ►
Biên khảo này cũng đã từng được xuất bản riêng với
tựa đề The Final Collapse, bìa mỏng, dày 196 trang bởi CreateSpace
Independent Publishing Platform (7 tháng 10
năm 2015) và với ân bản Kindle Edition, File Size 5516 KB và dài 200
trang bởi Pickle Partners Publishing (28 tháng 3 năm 2016), đều cùng có
thể mua tại Amazon.
Trong
quyển No More Vietnams (Richard Nixon, Arbor House NY, 1985) thì chính
cựu Tổng Thống Nixon cũng có ghi nhận là ông ta cũng từng đã phải tham
khảo ”Final Collapse”
của Tướng Viên, như là một nguồn tài liệu bổ ích ‘useful’ (trang 239:
Author’s Notes).
7 ►
Có thể biết thêm về Tướng Viên qua bài phỏng vấn ông bởi LS Lâm Lể Trinh tại
8 ►
Các hình đều do người chuyển ngữ phụ đính sưu tìm trên Liên Mạng.
Mọi đoạn nhấn mạnh bằng màu XANH là
do người chuyển ngữ.
No comments:
Post a Comment