Mỗi
năm, vào dịp kỷ niệm ngày quốc hận 30 tháng Tư, lại thấy xuất hiện trên
các phương tiện truyền thông khắp nơi hình ảnh các vị tướng tá đã coi
cái chết nhẹ tựa lông hồng, quyết
hi sinh mạng sống để bảo vệ danh dự, tiết tháo của một cấp chỉ huy. Các
vị ấy xứng đáng được tôn vinh là những anh hùng của Quân Lực VNCH, xứng
đáng được lưu danh muôn thuở..
Cuộc
chiến đấu bảo vệ miền Nam tự do suốt 20 năm là cuộc chiến đấu chống CS
của toàn dân, mà trọng trách giao vào tay quân, cán, chánh. Khi nước
mất, thành đổ, nếu đã có những vị
tướng tá quyết tự chọn lấy cái chết oai hùng để đền nợ nước thì đồng
thời cũng ghi nhận có những viên chức bên phía chính quyền dám tuẫn
tiết, không chịu để bị lọt vào tay bọn CS.
Trong số các vị ấy, nổi bật lên sáng chói là cái chết bi dũng của cựu Bộ
trưởng Trần Chánh Thành. Ông đã an nhiên chọn lựa một cách chết trước
quân thù, để gióng lên một lời tố cáo trước dư luận trong và ngoài nước
về những hiểm họa sẽ giáng xuống dân tộc VN,
một khi đất nước bị đảng CS nắm trọn quyền thống trị.
Nhân
kỷ niệm ngày quốc hận 30 tháng Tư , chúng tôi xin đúc kết một
số tài liệu để vẽ phác chân dung vị cựu Bộ trưởng này và cái chết lẫm
liệt của ông như một nén hương
tỏ lòng thành kính, ngưỡng mộ ông.
Những bước đầu tiên
Ông
Bộ trưởng Trần Chánh Thành gốc miền Bắc, do cha tùng sự tại Huế cho nên
ông học và tốt nghiệp Trung học tại đây; sau đó, trở ra Hà Nội học lấy
Cử nhân Luật. Ông học rất giỏi,
đã đậu đầu kỳ thi ngạch Tri huyện Tư pháp cho toàn cõi Bắc và Trung kỳ,
rồi được cử làm Chưởng lý các tòa án Trung kỳ. Khi chính phủ Trần
Trọng Kim ra đời, ông được bổ làm Chánh văn phòng Bộ Tư pháp cho Tổng
trưởng Trịnh Đình Thảo. Không bao lâu sau, nổ ra
cuộc ‘Cách Mạng Tháng Tám’ đưa HCM lên nắm chính quyền. Dưới bình
phong mặt trận Việt Minh (tên tắt của Mặt trận VN Độc Lập Đồng Minh,
ngày 19.5.1941), đảng CS đã thu hút được các thành phần ái quốc với khẩu
hiệu đánh Pháp đuổi Nhật. Ông Trần Chánh Thành
đã được mời ra Hà Nội trong thời kỳ này và được trọng dụng trong chức
vu. Giám đốc Tư pháp Liên khu 3 (trong 3 năm), rồi Giám đốc Kinh tế Liên khu 3 (trong 2 năm sau
đó). Song, cũng như trường hợp nhiều trí thức trẻ khác vào thời đó, sau
khi đi theo Việt Minh tham gia kháng chiến một thời gian, ông Thành đã
hiểu ra bộ mặt thật của Việt – Minh – Cộng –
Sản cho nên ông khéo léo cáo bệnh từ chức, để trở về Diễn Châu, Nghệ An
(Liên khu 4), trú tại nhà ông Cao Xuân Vỹ. Từ Nghệ An, cùng người em
con ông chú là nhà báo Mạc Kinh, ông vượt biển ra vùng quốc gia. Sau vài
tháng ở Hà Nội, ông vào Saigon làm nghề luật
sư trong văn phòng của Luật sư Trương Đình Dụ
Vào tháng 10. 1952, ông Ngô Đình Nhu chủ trương tạp chí Xã Hội, anh em
ông Trần Chánh Thành và Mạc Kinh đã cộng tác với tờ tạp chí và trở thành
chỗ thân tình với ông Ngô Đình Nhụ Mối giao tình này đánh dấu một khúc
rẽ quan trọng trong cuộc đời chính trị của
ông.
Bậc lương đống của nền Cộng Hòa
Có
thể nói ngay ông Trần Chánh Thành cùng với các ông Trần Trung Dung,
Nguyễn Hữu Châu…là những bậc lương đống ‘khai quốc công thần’ của nền Đệ
nhất Cộng hòa.
Trong bài báo nhan đề Ông Ngô Đình Diệm Lên Cầm Quyền Như Thế Nào (Thông Luận Số 191, ra ngày 04.4.2005), tác giả Nguyễn Gia
Kiểng chứng minh chính ông Ngô Đình Nhu đã bí mật đạo diễn một vở kịch
chính trị lớn để đưa ông Ngô Đình Diệm lên nắm chính quyền chứ không
phải là người Mĩ hay Vatican. Trong vở kịch này, ông Trần Chánh Thành
được giao cho thủ một vai và ông đã đóng xuất sắc.
Duyên do bắt đầu từ mối liên hệ thân tình giữa ông Ngô Đình Nhu với ông
Trần Chánh Thành.
Tác giả Nguyễn Gia Kiểng thuật lại, vào tháng 11.2004, ông được ông Trần Minh Châm trao cho 2 bức thư viết tay bằng tiếng Pháp:
Một của ông Jacques Bénet, bạn của ông Trần Minh Châm, viết ngày 18.10.2004 gửi cho bà Ngô Đình Nhu và một của ông Ngô Đình Nhu
viết ngày 20.4.1955 gửi cho ông J. Bénet. Ông J. Bénet và ông Ngô Đình
Nhu là bạn học rất thân khi còn tại trường Ecole des Chartes.
Trong
thư gửi cho bà Ngô Đình Nhu, ông J. Bénet xác nhận 2 điểm quan trọng:
một là ông (J. Bénet) có đóng vai môi giới trong việc
vận động các nhà lãnh đạo nước Pháp để đưa ông Ngô Đình Diệm lên nắm
chính quyền; hai là ông ca ngợi ông Ngô Đình Nhu đã có một ý kiến ‘thiên
tàí vì đã nắm bắt đúng vào lúc (3.1954) chính quyền Pháp đang lúng túng
do viễn ảnh thất trận tại Điện Biên Phủ để
mở chiến dịch thuyết phục họ (Thủ tướng Laniel – Ngoại trưởng Bidault –
Reynaud) nên mau chóng đưa ông Ngô Đình Diệm lên cầm quyền. Để thực
hiện sáng kiến này, ‘Ông Nhu đã cử bạn ông là ông Trần Chánh Thành sang
Paris và nhờ ông Jacques Bénet giúp đỡ để tiếp
xúc và thuyết phục chính quyền Pháp về đề nghị này. Ông Bénet đã làm
được việc này nhờ một người bạn tên là Antoine Ahond quen thân nhiều
nhân vật quan trọng trong chính quyền Pháp, đặc biệt là các ông Germain
Vidal, chánh văn phòng thủ tướng, ông Bourgenot, bộ trưởng
tại phủ thủ tướng, và ngoại trưởng Bidault. Mặt khác, chính ông Trần
Chánh Thành cũng tỏ ra xuất sắc. Nhờ thế mà ông Diệm đã được chính quyền
Pháp chấp nhận và ép buộc ông Bảo Đại phải chấp nhận.
Ông
Trần Chánh Thành được giao nhiệm vụ vận động các yếu nhân trong chính
quyền Pháp, tuy được khen là đã hoàn thành ‘xuất sắc’, nhưng có lẽ ông
chỉ biết phần đầu của vở kịch chính
trị lớn của ông Ngô Đình Nhụ Chính trong lá thư thứ hai của ông Ngô
Đình Nhu viết gửi ông J. Bénet mới cho biết phần hai của vở kịch chính
trị này.
Trong
thư viết ngày 20.4.1954 gửi cho ông J.. Bénet, ông Ngô Đình Nhu yêu cầu
ông Bénet giúp đỡ trong việc ‘vận động để chính quyền Pháp thực hiện
khẩn cấp một kế hoạch đã được dự
trù. Ông Nhu viết : “Phải vận động để những chỉ thị theo chiều hướng
này, mà tao(NGK: họ quá thân nhau) chắc chắn là đã chuẩn bị sẵn, được
khẩn cấp gửi sang Saigon”. Theo tác giả Nguyễn Gia Kiểng, “chiều hướng
này” được hiểu là một loạt các việc cấp bách yêu
cầu chính phu? Pháp làm ngay. Đó là giúp cho ông Ngô Đình Diệm nắm
được quân đội quốc gia từ tay Tướng Tham mưu trưởng Nguyễn Văn Hinh, dẹp
các giáo phái vũ trang và sau đó tiến tới tổng tuyển cử. Tất cả đã diễn
ra thành công mau chóng, suông sẻ, khiến cho
các nhà quan sát quốc tế lúc ấy phải lấy làm ngạc nhiên và đánh giá ông
Ngô Đình Diệm như là một lãnh tụ đầy tiềm năng mới ở Á châu. Chưa hết,
ông Ngô Đình Nhu chỉ khéo léo than phiền nhẹ nhàng là tướng Ely, Tổng tư
lệnh quân đội Pháp tại VN, ‘ là một con
người tiêu cực và thiếu quả quyết’, cũng đủ làm cho chính phu? Pháp
triệu hồi tướng Ely trong thời gian chưa đầy hai tháng!
Do
thành tích trước đây, lại là chỗ thân tình với ông cố vấn Ngô Đình Nhu,
cho nên ông Trần Chánh Thành rất được Thủ tướng Ngô Đình Diệm tin dùng
trong nhiều chức vụ quan trọng:
Bộ trưởng tại Phủ Thủ tướng 06.7.1954
Tổng trưởng Thông tin ngày 10.5.1955
Chủ tịch Phong trào Cách mạng Quốc gia, đã đề ra kế hoạch Tố Cộng (Nguyễn Trân. Hồi Ký Công Và Tội. Xuân Thu, 1992. Trang 176).
Khi kế hoạch được phát động, chính ông nắm vai trò Chỉ đạo Chiến dịch Tố
Cộng Trung ương bao gồm liên bô. Thông tin, Tư pháp, Quốc phòng và Nội
vụ. Chiến dịch này được phát động nhằm tiêu diệt các tổ chức cán bô. CS
nằm vùng, đồng thời triệt hạ những lực lượng
thực dân, phong kiến (bài phong, đã thực), trọng điểm là việc truất phế
Quốc trưởng Bảo Đại.
Ngoài ra, ông còn là một Dân biểu Quốc hội và là một trong 14 vị thuộc Ủy ban soạn thảo Hiến Pháp.
Nhìn thoáng qua như thế đủ biết ông Bộ trưởng Trần Chánh Thành đã trở thành ngôi sao sáng vào thời khai mở nền Đệ nhất Cộng hòa.
Tuy
nhiên có nghi vấn, đang khi ông được Sài gòn tin dùng thì, ngoài Huế,
ông Ngô Đình Cẩn lại muốn tách ông Bộ trưởng Trần Chánh Thành và cả ông
Cố vấn Ngô Đình Nhu (?) ra khỏi
vòng quyền lực (Thomas L. Ahern Jr. Hai tài liệu của CIA về các tướng
lãnh VN và gia đình ho. Ngộ Nguyễn Kỳ Phong lược dịch. Nam Úc Tuần Báo,
Số 718 ra ngày 30.10.2009).
Thêm
vào đó, nếu chiến dịch Tố Cộng triển khai thắng lợi lúc ban đầu, khiến
cho khoảng 200 ngàn cán binh CS được cài lại ở miền Nam có nguy cơ bị
tiêu diệt thì, tại các địa phương,
phát sinh tệ nạn chụp mũ CS lên đầu những người từng có thành tích
kháng chiến chống thực dân Pháp. Mà theo ông Nguyễn Trân, ‘…không phân
biệt kháng chiến với CS là đi ngược lại lòng dân (Nguyễn Trân. Hồi ký
Công Và Tội. Sd. Trang 177).
Những lực đối kháng này một khi đã nuôi ý đồ, sẽ dễ dàng tạo ra được một
mối nghi ngờ trong dư luận về lòng trung thành với phe quốc gia của ông
Bộ trưởng Trần Chánh Thành, căn cứ vào việc ông đã nắm giữ những vị trí
tư pháp quan trọng ở Liên khu 3, thời Việt
Minh. Tuy nhiên Tổng thống Ngô Đình Diệm vẫn tiếp tục tin tưởng ông cho
tới cuối tháng 10 năm 1960. Đó là thời điểm xẩy ra việc 4 ông bộ trưởng
đồng loạt từ chức; gồm có các ông Trần Chánh Thành (Bộ Thông tin), Trần
Trung Dung (Bộ Quốc phòng), Lâm Lễ Trinh
(Bộ Nội vụ) và Nguyễn Văn Sĩ (Bộ Tư pháp). Có dư luận cho là vì các ông
bất đồng về sự lạm quyền của đảng Cần Lao? Chỉ 2 tuần sau đó, ngày
11.11.1960, nổ ra cuộc phản loạn của Nguyễn Chánh Thi – Vương Văn Đông.
Năm 1962, Tổng thống cử ông Trần Chánh Thành đi làm đại sứ tại Tunisie (ở Bắc Phi châu).
Ngày 01.11.1963, Tướng Dương Văn Minh cầm đầu cuộc đảo chánh thành công, chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ đã giao công tác cho ông
Trần Chánh Thành đi Nam Vang tiếp xúc thiện chí với Quốc vương Shianouk (18..12.1963).
Trong những năm chính trường miền Nam hết sức rối ren sau đó, ông Trần Chánh Thành rút lui vào bóng tối sống ẩn dật.
Khi
nền Đệ nhi. Cộng hòa được thành lập, ngày 01.4.1967, một bản Hiến pháp
mới được ban hành đưa đất nước trở lại trật tự, quy củ. Rồi ngày
03.9.1967, diễn ra cuộc bầu cử tổng thống
và quốc hội. Ông Trần Chánh Thành ra ứng cử trong liên danh Đoàn Kết Để
Tiến Bộ, dấu hiệu con voi trắng (Bạch Tượng) đứng chung với các ông
Trần Văn Lắm (thụ ủy liên danh), Trần Trung Dung, Đào Đăng Vỹ, Bà Phan
Nguyệt Minh (Nguyễn Văn Thơ), Nguyễn Văn Chức,
Nguyễn Phượng Yêm, Phạm Như Phiên, Đoàn Văn Cừu, Trần Ngọc Oành. Liên
danh ‘Bạch Tượng’ đã đắc cử với 550,157 phiếu (Nguyễn Văn Chức. VN Chính
Sử. Tiền Phong, 1989. Trang 163).
Sau
trận đánh Tết Mậu Thân 1968, ngày 28.5.1968, Cụ Trần Văn Hương lại được
mời thành lập chính phủ mới thay cho chính phủ của Ls. Nguyễn Văn Lộc.
Đây là thời điểm cuộc hòa đàm Paris
khởi sự, sắp bước sang giai đoạn công khai, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
đã tín nhiệm Nghị sĩ Trần Chánh Thành vào chức vụ Tổng trưởng ngoại
giao. Đây là chức vụ cao cấp cuối cùng trong sự nghiệp chính trị của
ông. Sau khi Tướng Trần Thiện Khiêm trình diện
nội các mới vào ngày 01.9.1969, chức vụ tổng trưởng ngoại giao được
chuyển sang cho Nghị sĩ Trần Văn Lắm, cũng thuộc Liên danh Bạch Tượng.
Ông Trần Chánh Thành trở về giảng dậy môn báo chí tại Trường Luật cho
tới ngày ‘trời sâ.p’ 30.4.1975.
Những
dòng lược thuật trên đây cho thấy ông Trần Chánh Thành là nhân vật hiếm
hoi được lãnh đạo tin dùng ở những vị trí cao cấp và rất quan trọng
trong cả 3 giai đoạn chính trị của
đất nước: thời toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp, thời Đệ nhất
Cộng hoà và thời Đệ nhi. Cộng hòa. Điều đó chứng tỏ ông là một người có
thực tài, tận tụy phục vụ. Đặc biệt là ông đặt lợi ích và lí tưởng quốc
gia lên trên quyền lợi cá nhân: khi biết rõ
đảng CS nắm trọn quyền lèo lái mặt trận Việt Minh, ông từ chức và tìm
cách đào thoát; đang khi được TT
Ngô Đình Diệm trọng dụng, ông sẵn sàng từ chức bộ trưởng để phản đối phe
cánh Cần Lao lạm quyền; và khi nền Đệ nhị Cộng hòa thành lập, ông gạt
bỏ mặc cảm là người của ‘chế độ cú, chấp nhận trọng trách được giao phó.
Cuối cùng, theo gương các bậc tiền bối xưa,
hết ‘làm quan’ ông vui vẻ về làm thầy truyền thụ sở học qúy báu cho môn
sinh.
Chọn lựa một cách chết lẫm liệt
Từ khi chiến dịch Tây nguyên do Cộng quân mở ra đầu tháng 3.1975 cho tới ‘ngày sập trờí 30.4.75 vỏn vẹn chỉ có 55 ngày đêm. VNCH
đang đi những bước thụt lùi vội vã, tất tưởi cuối cùng tới bờ vực thẳm.
Đương nhiên ông Trần Chánh Thành phải là người tiên đoán được tình hình
bi đát và tuyệt vọng ấy và ông đã gửi vợ con đi Pháp trước. Theo nhà báo
Đặng Văn Nhâm, ông và ai bạn thân là cựu
Thủ tướng Phan Huy Quát và Nghị sĩ Trần Trung Dung được Tòa đại sứ Pháp
hứa sẽ bốc đi vào lúc 10 giờ sáng ngày 29. Nhưng vừa khi Tướng Dương
Văn Minh ra nhận chức tổng thống lúc 5 giờ 30 chiều 28.4 thì giờ phi
trường Tân Sơn Nhất bi. CS oanh tạc và chiến
dịch HCM bắt đầu. Saigon lên cơn sốt mạnh . Manh ai nấy chạy thoát
thân. Sáng 29.4, tân Tổng thống Minh gửi thư cho Đại sứ Martin yêu cầu
quân Mĩ triệt thoái trong vòng 24 giờ. Yêu cầu này cũng được tân Thủ
tướng Vũ Văn Mẫu tuyên bố công khai. Trong tình
hình ấy, kế hoạch người Pháp hứa giúp ông Trần Chánh Thành và các bạn
ông di tản bằng phi cơ không còn có thể thực hiện được. Cả ba ông bị kẹt
ở lại. Nhất thời, ngày 30.4, các ông tạm lánh mặt tại nhà thương Grall
của Pháp. 24 giờ sau, bệnh viện yêu cầu các
ông ra khỏi nơi này.
Rời bệnh viện Grall, ông Trần Chánh Thành tạt vào một cao ốc trên đường
Gia Long sát góc đường Tự Dọ Khoảng 4 giờ chiều ngày 02.5, nhà báo Mạc
Kinh, người em thúc bá rất thân thiết với ông đến đón ông về nhà trên
đường Duy Tân. Nhà ông lúc này chỉ còn lại mẹ
ông, bà chị tên Nhơn và ba bốn người làm.
Suốt
buổi chiều hôm ấy, anh em ông bộ trưởng đã trút hết nỗi niềm tâm sự lần
cuối cùng với nhau. Sắp tới 7 giờ chiều là giờ giới nghiêm, khi chi tay
với ông Mạc Kinh, ông bộ trưởng
nói lời cuối cùng: ‘Chúng ta
đều đã hiểu CS quá rõ. Với anh, chỉ có một lựa chọn cuối cùng. Anh phải
tự xử lấy anh thôi…Em về đi. Giờ giới nghiêm đã tới rồi. Sáng sớm mai em
lên với anh nhé!’
Ông Mạc kinh nghe lời nói đó mà ngỡ như lời trối trăng. Ông chỉ có thể van vỉ ông anh: ‘Dù thế nào chăng nữa, xin anh cũng đừng quyết
định gì vội. Hãy cố chờ đến sáng mai anh em ta gặp lại nhaú.
Tuy
nói như thế, nhưng thâm tâm ông MK vẫn không tin vào hiệu quả của lời
mình nói. Linh tính đã báo cho ông biết rằng kể từ giây phút này, ông đã
mất hẳn, mất vĩnh viễn ông Thành
…
Hôm sau, khi trời vừa sáng, ông Mạc Kinh phóng xe lên nhà ông bộ trưởng..
Cho
tới nay, duy nhất chỉ có nhà báo lão thành Đặng Văn Nhâm có thể thuật
lại tỉ mỉ, sống động cái chết bi tráng của ông Bộ trưởng Trần Chánh
Thành: ‘Vừa đặt chân vào phòng khách.
Khác hẳn mọi khi, nơi đây bỗng trở nên vắng lặng như tờ, như không còn
một hơi thở nào nữa. Không khí trong căn phòng này đã bao phủ một màu
thê lương, ảm đạm. Bà Nhơn lẻ loi, đôi mắt đỏ hoe, đang ngồi thu mình
nơi bực cầu thang, lối dẫn lên phòng ngủ của
ông Thành . Bà Nhơn bảo ông MK:
“Em lên ngay đi. Thành an nghỉ rồi! Hồi hôm, Thành đã nói chuyện lâu với chị…dặn trao tập giấy màu vàng cho em đó… Thành nằm
ở phòng ngủ nhỏ lầu hai… Em ở bên Thành đi. Chị phải tới sứ quán Pháp ngay bây giờ để làm sẵn thủ tục. Chị sẽ quay về thật gấp…”
Lập tức ông MK phải lo giải quyết ngay một số việc cần kíp.
Trước
hết, mời bà cụ thân mẫu của ông Thành đi theo bà Nhơn đến tạm trú tại
nhà một thân nhân khác, và phải nói dối là cụ cứ đi trước, còn ông Thành
sẽ được tòa đại sứ Pháp cho xe
đến đón ra phi trường sau. Ông MK sợ bà cụ mà biết chuyện ông Thành tự
tử thì sẽ lôi thôi to. Mọi việc lo cho ông Thành bây giờ phải thật kín
đáo, không để lộ một chút tin tức hay nghi hoặc nào ra ngoài vòng ruột
thịt. Mặt khác, ông MK dặn gia nhân hãy để
cho ông Thành ngủ yên, đừng ai quấy rầy, không cần đem sửa sáng như
thường lệ, vì đêm qua ông đã thức khuya…Sáng nay ông Thành cũng không
muốn tiếp khách nữa!…
Khi còn lại chỉ có một mình trong ngôi nhà rộng thênh thang, ông MK mới đẩy nhẹ cửa phòng ngủ, tiếng máy lạnh vẫn sè sè nho nhỏ.
Ông Thành đang nằm đó, bất động như người đang ngủ mê. Nét mặt bình
thản. Nhưng hai bên cánh mũi có hai vệt thuốc nhỏ màu nâu nhạt lẫn chút
máu đỏ đọng lại, dài bằng hai đốt ngón tay. Ông MK ôm nhẹ mặt ông Thành,
thấy vẫn còn ấm, ngực và chân tay vẫn hãy còn
ấm. Ông thầm nghĩ chắc ông Thành chỉ mới vừa từ giã cõi đời thôi. Nhì
trên mặc chiếc bàn ngủ, một hộp thuốc ngủ 50 viên chẳng còn sót một viên
nào. Nơi bàn giấy góc phòng, mọi thứ đều ngăn nắp. Có một tập giấy 18
trang. Ông MK liếc thoáng qua, biết ngay là
những lời trăn trối cuối cùng của ông Thành. Ông Thành lên tiếng tố cáo
hiểm họa CSVN trước thế giới tự do, sau khi chúng đã cưỡng chiếm miền
Nam. Ông Thành cũng tiên liệu để kêu gọi thế giới dân chủ , nhân đạo
phải có trách nhiệm tinh thần ngăn chận bàn tay
máu trả thù trút lên
mạng sống của toàn thể quân nhân và quần chúng miền Nam. Ngoài ra, ông Thành còn phác họa cho mọi người thấy trước thảm trạng
của miền Nam, đồng thời phơi bày âm mưu gây chiến tranh loạn lạc đối với
các nước láng giềng trong bán đão Đông Dương và Thái Lan. Cuối cùng ông
Thành minh xác, ông đã lấy cái chết để phản đối CSBV xâm chiếm miền
Nam….
Bên
cạnh tập giấy đó, ông Thành còn viết sẵn vài dòng chữ trên một tấm danh
thiếp, nhằm gửi thẳng cho cơ quan an ninh, xác định cái chết của ông là
do chính ông tự chọn, đừng gây
phiền nhiễu cho ai hết!
Trong vòng một tiếng đồng hồ sau, bà Nhơn đã trở về. Lúc này, toàn thân ông ông Thành mới bắt đầu trở lạnh, lạnh ngắt.
Một mặt ông MK phải lo canh chừng đám gia nhân, vài người còn lại. Mặt
khác bà Nhơn lo liên lạc báo tin cho vài người bà con trong thân tộc
nội, ngoại (bên bà Thành). Nhưng không một ai lui tới. Dường như ai cũng
lo ngại, muốn trốn tránh. Không khí thành phố
Saigon lúc ấy căng thẳng đến tột độ. Ai cũng có chuyện để phải lo và để
sợ. Một tiếng động mạnh cũng đủ làm cho người ta giật mình kinh hoảng,
nhớn nhác…
Trong hoàn cảnh đó, một mình ông MK phải lo hết mọi việc rửa ráy thi hài và tẩn liệm cho ông Thành.
Lúc
ấy, khoảng ba giờ chiều , bỗng gia nhân báo tin có ban Quân Quản đến
khám nhà. Gồm ba cán bộ đeo súng ngắn bên hông, băng đỏ trên cánh tay,
và một tên bộ đội mang tiểu liên đi
theo hộ vệ. Trong trường hợp này, dù muốn dù không, ông MK vẫn phải ra
mặt tiếp đón. Ngay câu đầu tiên bọn cán bô. CS đã nói thẳng, chúng đến
tiếp thu ngôi nhà, và ra lệnh đưa chúng đi xét nhà.
Chúng đi thẳng một mạch lên lầu 4, rồi từ đó mới trở xuống, vào từng
phòng một, quan sát soi mói và khám xét cẩn thận. Không bỏ sót một phòng
nào. Vào đâu chúng cũng ngắm nhìn, để ý kiểm điểm từng ly từng tí, rồi
xẵng giọng hạ lịnh: “Đồ đạc ở đâu để nguyên
đấy. Cấm tuyệt không được di chuyển!”
Khi xuống đến lầu 2, nơi có phòng thi hài của ông Thành nằm đó, bỗng nhiên đầu óc ông MK trở nên căng thẳng tột độ.
Tinh thần ông bấn loạn. Nếu bọn cán bô. CS bất chợt thấy thi hài ông
Thành đang nằm trơ trơ ở đó, ông sẽ trả lời như thế nào? Một điều chắc
chắn nhất, không thể nào tránh được là bọn cán bô. CS sẽ hạch hỏi mọi
người hiện diện trong nhà. Rồi thì mọi sự sẽ phải
khai trình tỉ mĩ, từ tên tuổi, chức phận cũ, rồi đến nguyên nhân cái
chết… Nhưng liệu bọn CS ác ôn này có cho phép chôn cất ngay không, hay
sẽ đem thi hài đi mổ xẻ, khám nghiệm…?
Lại
còn vấn đề sấp giấy ông Thành đã viết di ngôn tố cáo CSVN nữa chứ. Ông
MK bối rối vô cùng, không biết sẽ phải ăn nói ra sao, và rồi những gì sẽ
xảy ra cho bản thân ông ngay sau
đó, ông không thể lường được.
Trong
tình cảnh nguy nan đó, ông MK chỉ còn kịp nghĩ đến việc cầu nguyện vong
hồn ông Thành, sống khôn, thác thiêng, xin ông phù hộ cho gia đình
thoát qua được cơn hiểm nghèo nghiệt
ngã này, để còn có cơ hội chôn cất di hài ông êm thắm!
Không
ngờ một chuyện lạ của đời người đã xảy đến, chẳng khác nào như lời khấn
vái của ông MK linh ứng , như linh hồn ông Thành hãy còn lẩn khuất đâu
đó, để lôi chân bọn cán bô. CSBV
đi qua căn phòng đó. Chúng vừa đi vừa chuyện trò với nhau, và vẫn ra
lệnh mở từng cửa phòng, nhưng không còn vẻ tích cực soi mói như vài giây
đồng hồ trước đó. Khi chúng đến trước cửa phòng ông Thành nằm, lồng
ngực MK tưởng chừng sắp nổ tung. Nhưng chẳng khác
nào như một phép lạ, chúng cứ thế đi luôn, không dừng lại, cho đến
phòng cuối của từng lầu 2, rồi chúng đi luôn xuống dưới nhà…
Nơi
đây, chúng dừng lại, ghi vội biên bản, coi như ngôi nhà này vô chủ. Chủ
nhân đã bỏ đi ngoại quốc! Thì ra bọn cán bộ này cũng ngờ ngệch
lắm.Trong đầu chúng đã bị nhồi chặt cứng
một mớ lý thuyết Mác Xít, với những giáo điều rẻ tiền, đâu còn chỗ nào
để chứa thêm một thứ hiểu biết gì khác! Nhưng chúng đặc biệt quan tâm
đến mọi thứ đồ đạc vật chất trong nhà. Cuối cùng, trước khi ra đi, chúng
ra lệnh: Mọi người trong nhà chỉ được phép
quây quần ở tầng trệt, không được bén mảng lên lầu. Đồ đạc trong nhà
không được tơ hào suy suyển.
Sau
đó bà Nhơn và ông MK phân công mỗi người một việc cần kíp.. Bà Nhơn chạy
vội ra phường khai tử cho ông Thành, với lý do bịnh tim. Còn ông MK
phóng thẳng về nhà tìm giấy chủ quyền
ngôi mộ của bà thân mẫu ở nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi [còn một tầng trên],
đem trình ban Quân Quản Nghĩa Trang, để xin đóng dấu cho mai táng.
Đến
lúc này xét ra cái chết của ông Thành chẳng còn gì cần phải che giấu
nữa, nên gia nhân đều được biết hết. Tiếng khóc không còn bị đè nén ấm
ức, nghẹn ngào nữa, mà được tự do
vang lên, khiến các nhà hàng xóm không khỏi ngạc nhiên. Cách nhà ông
Thành chừng hai, ba ngôi biệt thự là trụ sở của “Hội Trí Thức Yêu Nước”
thành phố HCM của đám Ngô Bá Thành, ni sư Huỳnh Liên, Trương Đình Dzu,
Trần Thúc Linh v.v…Vì thế nên tin ông Thành
qua đời đã mau chóng đến tai những người trong hội ấy.
Ngày hôm sau, 2.5.1975, lèo tèo vài thân nhân đến viếng. Trong đám bạn bè, người ta chỉ thấy một mình ông Trần Trung Dung.
Ngày
4.5.75, khoảng vài mươi người đã đến tiễn đưa di thể ông Thành đến nơi
an nghỉ cuối cùng. Không khí lo sợ, ngại ngùng lặng lẽ bao trùm hết cả
vẻ “tử biệt sinh ly” của một đám
tang’… (Đặng Văn Nhâm. Ls. Trần Chánh Thành Đã Coi Cái Chết Nhẹ Như
Lông Hồng Để Phản Đối Hành Động Xâm Lăng Của CS Và Cảnh Giác Thế Giới Tự
Dọ
Daichung..com).
Ông
Bộ trưởng Trần Chánh Thành đã chọn cho mình một cái chết can trường để
bảo vệ sĩ khí và tiết tháo của một nhân vật chính trị, của một viên chức
cao cấp từng mang trọng trách.
Khi biết tình thế không còn có thể cứu vãn được, bản thân không mong
thấy được thành quả tốt đẹp của lý tưởng đời mình nữa thì ông an nhiên,
thanh thản ra đi, quyết không chịu để bị lọt vào tay Cộng quân.
Trên chính trường nước ta thời cận đại, một nhân tài, một nhân cách như ông Trần Chánh Thành, rõ ràng là không có nhiều.
Ôi cám cảnh thay! Anh hùng mạt lộ!
Khi tàn cuộc chiến, nước mất thành đổ, mới rõ mặt anh hùng, bất kể vị anh hùng ấy là võ hay là văn.
Bạch Diện Thư Sinh
No comments:
Post a Comment