Wednesday, January 27, 2016

KISSINGER BÁN ĐỨNG VNCH CHO CS QUỐC TẾ / 27 tháng 1 năm 1973


  LÀM SAO QUÊN ĐƯỢC NGÀY 27-1-1973,

KISSINGER BÁN ĐỨNG VNCH CHO CS QUỐC TẾ

             Tuy chiến tranh đã kết thúc từ lâu và cọng sản Bắc Việt ngay từ ngày 1-5-1975 qua Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ, Phạm Hùng... đã công khai xác nhận XÂM LƯỢC MIỀN NAM, còn Mặt Trận Giải Phóng chỉ là một phần Ðảng Bộ Trung Ương nối dài, một thứ công cụ bịp để che mặt và đánh lừa bọn trí thức ngây thơ da vàng da trắng mà thôi.
           Thế nhưng đến nay vẩn còn nhiều người chưa chịu trả lại công lý cho người VN mỗi khi đề cập hay nhắc tới cuộc chiến đó. Thật ra đây cũng chỉ là một cách chạy tội của những người trước kia tay lở nhúng vào tội ác, hoặc cố ý hay vô tình khi đứng về phía cọng sản, thân thiện, giúp đỡ chúng một cách mù quáng, không cần biết tới lẽ phải và lương tâm. Do trên họ cứ tự mình tùy tiện áp đặt cho cuộc chiến đó, nhiều cái tên nghe qua thật khôi hài, cũng may đến nay không còn được mấy ai chấp nhận. Tóm lại, dù có gọi là cuộc chiến ủy nhiệm, nội chiến hay là chiến tranh giải phóng dân tộc hoặc gì gì chăng nửa, thì đó cũng là một cuộc chiến xâm lược, do cọng sản quốc tế chủ động, nhằm nhuộm đỏ Ðông Dường và Ðông Nam Á. Cọng sản Hà Nội hay VC miền nam chỉ là kẻ thừa hành sứ mạng quốc tế trên, đã khiến dân chúng VNCH trở thành nạn nhân, phải đem máu xương ra chống lại để sống còn.
          Từ đầu thế kỷ XX tới nay, Hoa Kỳ vẫn là một quốc gia vô địch. Chính Họ đã giúp đồng minh thắng phe trục qua hai cuộc thế chiến. Trong chiến tranh lạnh giữa khối tự do và cọng sản, Hoa Kỳ đã chiến thắng Liên Xô vẽ vang, giựt sập bức tường Bá Linh, giải thề Xô Viết, giải phóng Ðông Âu và nhiều quốc gia cọng sản khác trong đó có Ðông Ðức , Nga La Tư vĩnh viễn thoát khỏi gông cùm đỏ trong mấy thập niên qua. Mới đây quân Mỹ như sấm sét, trong vòng không đầy một tháng, bình định xong A Phú Hãn và Iraq là hai vùng đất chết được coi như bất khả xâm phạm của thế giới Ả Rập.
           Nhờ những chiến công trời biển này, ít ra hiện tại cũng còn làm Trung Cộng vỡ mật khi muốn trở thành trùm thế giới, bá chủ Á Châu và vua biển Thái Bình Dương. Nhưng tại VNCH thuở đó, Hoa Kỳ lại bị sa lầy dù thực tế tự chạy khi đã đạt được ba mục đích chiến lược quốc sách : Tạo được sự mâu thuân chia rẽ giữa Liên Xô-Trung Cộng, thành công trên chiến trường VN về sự thử thách vũ khí và quân đội với khối cọng sản quốc tế qua bộ đôi Bắc việt và trên hết là ngăn chặn được Trung Công không cho tràn xuống Ðông Nam Á ít nhất là lúc đó. Tóm lại người Mỹ tới VN không phải để chiến đấu thật sự như họ đã làm tại hai cuộc thế chiến hay mới đây ở A Phú Hãn và Iraq, mà đến để nướng quân dụ địch. Tất cả những cái được gọi là Rules of Engagement hay là luật chiến đấu dành cho quân đội Hoa Kỳ tại VN và Nam Hàn. Tài liệu này được giải mật một phần từ năm 1985 bởi Congressional record, nhờ đó ta mới biết được lý do tại sao quân đội Hoa Kỳ, Ðồng Minh và QLVNCH bị Hoa Thịnh Ðốn trói chặt tay khi đang chiến đấu. Bởi vậy cứ không tập, đổ bom liên tục xuống núi, xuống biển nên Hà Nội, Hải Phòng đâu có hề hấn gì củng như không thấy có bất cứ một cán bộ nào kể cả cán thấp tại xã huyện bị thương vong.
           Ðây là một trò chơi mèo bắt chuột mà rõ ràng nhất là đợt Mỹ oanh tạc Bắc Việt lần cuối cùng, bằng B52 liên tiếp, khủng khiếp suốt 12 ngày đêm và chỉ cần thêm MỘT NGÀY là toàn bộ chóp bu Hà Nội trốn dưới hầm thép ra đầu hàng, giúp dân chúng VN ngày nay thoát được ách nô lệ cọng sản . Thế nhưng Hoa Kỳ đã ngưng và Bắc Việt đã ngoan ngoãn hối hả ngồi vào bàn nghị sự. Rồi những ngày cuối cùng của tháng tư đen 1975 miền nam sắp mất, trong lúc Hoa Kỳ với một lực lượng hải quân hùng hậu có đầy máy bay và bom đạn, kể luôn kho bom nguyên tử tới mấy trăm ngàn trái, nếu muốn dù có Trung Cộng và Liên Sô can thiệp, vẫn thừa sức đánh tan bộ đội Bắc Việt trong chớp nhoáng để cứu QLVNCH. Mặt trận Xuân Lộc tháng 4-1975 là một thí dụ điển hình, chỉ cần thêm vài chục trái bom tiểu nguyên tử, tình hình chiến sự đã thay đổi nhưng Mỹ cho bom mà không viện trợ ngòi nổ, ba trái bỏ tại ngã ba Dầu Giây chỉ để mua thêm thời gian giúp người Mỹ chạy được an toàn thế thôi.
          Tóm lại, họ không bao giờ làm vậy và còn được lệnh di chuyển hết các mẫu hạm khỏi bờ Ðông hải. Ðó là chiến thuật để thua vừa nuôi dưỡng chiến tranh sắp tới nên không thể bắt Hà Nội tan rã. Thế giới ghét cái trò lừa bịp của Hoa Kỳ, nên mặc dù đã nhìn rõ sự láo dóc tàn khốc của Việt cộng nhưng cứ giả vờ nhắm mắt hoan hô cổ võ trò hề trên, làm hại cho một số người VN nhẹ dạ tưởng thiệt, lại cứ theo giặc, tiếp tay hãm hại đồng bào mình trong lúc khốn cùng qua màn cổ võ ‘ nối vòng tay lớn, hòa hợp hòa giải .. ’ ’
          Cũng vì vậy nên dù chiến tranh đã chấm dứt từ xa lắc nhưng VC chứng nào tật ấy, một mình một chợ, độc quyền thao túng lịch sử, dành làm chủ đất nước, bịa đặt những huyền thoại vu vơ để làm dao động các thế hệ mới lớn, mục đích chạy trốn tội ác thiên cổ đã gây ra trong mấy chục năm máu lệ hận trường. Riêng Hoa Kỳ trong màn kịch giả bộ thua đau, đã không ngớt biện minh để tìm cách thoát ra cái hội chứng Vietnam syndrom, trong đó chính họ là kẻ phản bội và thủ phạm tấn tuồng trên là Nixon-Kissinger. Một điều tàn nhẫn khác của người Mỹ, đó là sự vu cáo trắng trợn, đổ tội cho đồng minh hèn nhát không chịu chiến đấu nên phải mất nước. Thật sự trong giờ 25, nếu không có sự chiến đấu can trường của QLVNCH trên khắp các chiến địa, liệu một số người Mỹ , kể luôn ông Ðại sứ có còn mạng thoát được Sài Gòn ? như vụ Ba Tư bắt con tin Mỹ năm 1983.
          Ngày nay nhờ tài liệu mật từ văn khố của Liên Xô cũ cũng như tại thư viện chiến tranh Hoa Kỳ ở Texas gọi tắt là ISAW, đã chấm dứt các huyền thoại dỏm của VC trong mấy chục năm qua, tốn công dàn dựng bóp méo và đưa ra ánh sáng rằng những xáo trộn chính trị tại VNCH, dù do ai cũng chỉ là cớ để Bắc Việt cưởng chiếm miền nam.
           Ý đồ trên, theo J.Race trong The lost revolution, đã manh nha từ năm 1958 khi Hà Nội ra lệnh khui lại các hầm vũ khí được chôn giấu tại miền nam trước khi tập kết, để trang bị cho cán binh cơ sở nằm vùng. Cũng trong năm này, Lê Duẩn theo lệnh Hồ đã lén lút vào Nam lượng giá tình hình và trở về bắc họp Trung ương đảng lần thứ 15, nghị quyết lập đảng bộ miền nam, tức là VC hay mặt trận giải phóng, tấn công VNCH bằng vũ trang. Chiến tranh được phát động chính thức bằng hai cuộc nổi loạn gọi là đồng khởi nhưng đã bị dập tắt ngay tại Trà Bồng (Quảng Ngãi) ngày 28-8-1959 và BếÔn Tre ngày 17-1-1960. Chính Thủ Tướng Nga Nikita Khrushchev đã phất ngọn cờ tiến quân ngày 6-1-1961 để mở màn cuộc chiến VN sau khi vở tuồng mặt trận trình diễn ra mắt tại một khu rừng già kế biên giới Việt Miên trong liên ranh hai tỉnh Hậu Nghĩa-Tây Ninh cuối tháng 12-1960 với nhân sự nòng cốt gồm hơn 25.000 cán binh từ bắc hồi kết. Tháng 5-1962, Bộ Trưởng quốc phòng Hoa Kỳ thời Tông thống J.Kennedy là McNamara thăm viếng VNCH, cũng để mở màn cái thảm kịch chiến tranh phải thua, khiến hơn 60.000 quân nhân các cấp Hoa Kỳ, Uc,Tân Tây Lan, Nam Hàn,Phi, Thái và mấy triệu người VN cả hai miền nam bắc phải chết oan khiên trong bom đạn tàn bạo của một cuộc chiến bẩn thỉu có một không hai trong dòng sử nhân loại.
           Ngày 1-11-1963 Hoa Kỳ đạo diễn biến cố lật đổ nhà Ngô, một mặt tạo sự vô chính phủ tại miền nam trong ba năm xáo trộn 1963-1967, vừa có cớ đem quân vào giúp đánh VC ổn định chính trị nhưng trên hết là thực hiện cái chiến lược, hy sinh con chốt VNCH để bắt nhốt con cọp ngủ Trung Cộng, rảnh tay tiêu diệt Liên Xô nhưng thả Hà Nội để lại tiếp tục làm con chốt thí mạng với Tàu đỏ khi cần. Chiến tranh cứ thế leo thang, tại miền nam Mỹ thêm quân, giội bom oanh tạc, thì miền bắc càng nhận được thêm nhiều quân viện gạo vải từ khối cọng sản quốc tế, cũng như sự hiện diện của mấy trăm ngàn đồng chí Trung Cộng, Bắc Hàn, Cu Ba, Ðông Ðức.. do Hồ lãnh tụ mời tới tham chiến, đóng đầy từ vỹ tuyến 20 ở Thanh Hóa cho tới biên giới Việt Hoa.
           Ngày 4-9-1967 mở đầu nền đệ nhị cọng hòa cho tới ngày tàn cuộc 30-4-1975. Cũng từ đó QLVNCH trên khắp chiến trường trong nước cũng như tại Kampuchia và Hạ Lào, đã chứng tỏ cho thế giới là một đạo quân thiện chiến và có kỷ cương nhất vùng Ðông Nam Á, qua các chiến thắng lừng lẫy trong Tết Mậu Thân 1968, vượt biên đánh thẳng vào căn cứ địa của R tại Kampuchia năm 1970, Hạ Lào năm 1971, mùa hè đỏ lửa 1972, Hoàng Sa tháng 1-1974.. tạo nên một niềm tin tất thắng trong lòng quân nhân các cấp, nhất là những sĩ quan chỉ huy trẻ tuổi trung cấp và tuyệt đai quân sĩ thanh niên nam nữ yêu nước dưới quyền.
           Thế nhưng giữa lúc chiến thắng gần kề thì cũng là lúc Kissinger công khai thái độ bán đứng đồng minh qua cái hiệp định quái đản ngày 27-1-1973. Thì ra tất cả đều là xảo thuật, đóng kịch từ cuộc họp thượng đỉnh Midway ngày 8-6-1969 giữa Nixon-Nguyễn văn Thiệu với cam kết bảo vệ và quân viện cho VNCH.. chỉ là lời hứa cuội trên văn bản. Thật sự Kissinger đã đi đêm với cọng sản Hà Nội từ khuya, để rút quân, lấy tù binh về nước.
          Ðể đạt được trò bịp trên, Hoa Kỳ dùng thủ đoạn chèn ép chính phủ VNCH bằng cái thòng lọng VIỆN TRỢ, chụp mũ làm mất chính nghĩa quốc gia của người miền nam, qua truyền thông truyền hình và hăm dọa ám sát thủ tiêu lãnh đạo nếu không chịu ký nhận cái hiệp định phi lý vô nhân đạo, mà VC đã đem liệng ngay vào thùng rác sau đó.
           Cái hài hước của lịch sử màợ ai cũng biết được, là mặt thật nhưng vẫn phải cắn răng nuốt lệ thi hành. Và cũng kể từ đó, người Mỹ hân hoan rút hết về nước, trước sự thắng cử vinh quang thêm một nhiệm kỳ của tổng thống Nixon. Bộ đội Bắc Việt thế chân Hoa Kỳ, công khai ở lại lãnh thổ độc lập tự do của người miền Nam theo tinh thần hiệp định hai nước, hai chính thể ký năm 1954. Cũng qua sự toa rập ký kết từ trước, quốc hội Hoa Kỳ chấm dứt viện trợ quân sự và kinh tế cho VNCH, đưa đến sự sụp đổ toàn diện của một quốc gia chỉ vì tin cậy vào sự giúp đỡ của đồng minh.. vào lúc 12 giờ trưa ngày 30-4-1975.
          Trong suốt bao chục năm qua, cọng sản đã ký bao nhiêu hiệp định ngày 6-3 và 14-9-1946, 20-7-1954 rồi 27-1-1973 nhưng chẳng bao giờ thực hiện. Bởi vậy đừng tin những gì cọng sản nói mà hãy nhìn những gì chúng làm. Chí lý thay lời nhận định của cố tổng thống Nguyễn văn Thiệu, vậy mà tới nay còn không ít người không chịu tin vào sự thật.

1 - KISSINGER VÀ HIỆP ƯỚC HÒA BÌNH GIẢ MẠO :
          Cái khôi hài cười ra nước mắt của người Mỹ là ngay trong lúc một mặt đổ quân ào ạt vào nam VN năm 1965, cũng đồng thời bí mật đi đêm với Bắc Việt gọi là. mưu tìm một giải pháp hòa bình, chính Pháp và Tòa Thánh La Mã khởi động đầu tiên dàn xếp để hai phiá ngồi vào bàn hội nghi nói chuyện ngưng bắn theo kế hoạch Mayflower nhưng bất thành.
          Ngày 17-6-1965 Anh và Liên Xô nhập cuộc, mở hội nghị 4 nước Anh-Ghana-Nigeria-Tobago với sự ủng hộ công khai của hai nghị sĩ dân chủ là Mike Mansfield và Fullbright, muốn Mỹ ngưng oanh tạc Hà Nội và ngược lại Bắc Việt ngừng chuyển bộ đội vào nam nhưng bị cọng sản bác bỏ vì lập trường đối nghịch của hai đàn anh Nga-Tàu. Tháng 7/1965 tổng thư ký LHQ là U Thant muốn mở lại hội nghị Geneve 1954. Tháng 10/1965 ngoại trưởng Ý là Amintore Fanfani và Giáo Hoàng Paul VI cũng nhập cuộc, bằng cách liên lạc thẳng với Hà Nội , Mặt Trận GPMN và Tổng Thống Johnson nhưng cũng bất thành vì Hồ đòi công nhận Ma mặt trân là một chánh phủ giống như VNCH.
           Tóm lại những kế hoạch kể trên đều khởi động nhịp nhàng theo các phong trào phản chiến tại nội địa Mỹ do Luther King, Hoffman,Larson xách động, biến các trường đại học Mỹ thành căn cứ du kích Bắc Việt ngay trên lãnh thổ Hoa Kỳ. Chiến tranh dữ dội khắp VNCH nhịp nhàng với các biến động chính trị tại Huế-Sài Gòn. Hoa Kỳ tiếp tục oanh tạc miền bắc nhưng Hồ vẫn không nhượng bộ vì đang leo dây giữa Nga-Tàu, nên chỉ biết ậm ờ trước các đề nghị hòa bình. Tại Mỹ, ngày 20-2-1966, Robert F.Kennedy công khai đòi cho MT/GPMN tham gia chính phủ nhưng bị chống đối kịch liệt.
            U Thant và De Gaulle là hai nhân vật hung hăng nhất trong việc kêu gào phải hòa bình tức khắc tại VN bằng cách ngưng oanh tạc miền bắc, Mỹ rút quân và để MT/GPMN tham chính. Sở dĩ cả hai làm như vậy vì U Thant tuy là tổng thư ký LHQ nhưng lại thân cộng ra mặt, còn De Gaulle với dụng tâm đạo đức giả, thù Mỹ đã phỏng tay trên Ðông Dương, nên nhỏ mọn trả thù vặt. Rốt cục cả thế giới lẩn Vatican đều trúng kế Hồ Chí Minh, càng lúc càng chia rẽ và phân hóa trầm trọng.
            Năm 1967 phong trào phản chiến lên cao tại Hoa Kỳ làm phân hoá đảng dân chủ vì là mùa bầu cử, nên tổng thống Johnson tuyên bố trong cuộc hội nghi với TT Nguyễn văn Thiệu tại Guam, là sẽ thương thuyết thẳng với Bắc Việt .Tất cả chỉ là màn hỏa mù ngoại giao vì Mỹ và Hà Nội đã đi đêm từ cuối năm 1966, do sự dàn xếp của Thụy Ðiển nhưng phải đợi tới ngày 31/3/1968 khi Johnson tuyên bố không tái tranh cử và bộ đội của Bắc Việt cũng như VC bị tan nát tại miền nam trong trận Tết Mậu Thân, cọng sản mới chính thức ngồi lại với Mỹ . Rồi Nixon thắng cử tống thống, Kissinger được giao trách nhiệm đi đêm với Lê Ðức Thọ, tự quyết định số phận của VNCH, mà không cần đếm xỉa gì tới chủ quyền của miền nam lúc đó.
           Theo giáo sư tiến sĩ Stephen Young, từng phục vụ nhiều năm trong bộ ngoại giao Hoa Kỳ thì Kissinger, trưởng phái đoàn thương thuyết Mỹ đã bán đứng VNCH cho Bắc Việt khi chấp thuận cho Hà Nội được lưu giữ đạo quân xâm lăng ở miên nam VN. Hậu quả tạo ưu thế quân sự cho địch cưỡng chiếm VNCH khi Hoa Kỳ rút toàn bộ quân lực về nước và cắt giảm quân viện năm 1973 rồi cắt đứt năm 1975. Tổng thống Nixon ngay khi làm TT năm 1969 đã tuyên bố sẽ chấm dứt chiến tranh, đem hết quân Mỹ về bằng một kế hoạch bí mật.
           Vấn đề chính là Nam VN chẳng hề biết tới kế hoạch đó là gì và nói là VN hóa chiến tranh nhưng QLVNCH tới đầu năm 1972 mới được cải tiến trang bị, trong lúc bộ đội miền bắc đã sử dụng những vũ khí cá nhân và cộng đồng tối tân của khối cộng từ khi Mỹ còn hiện diện.Năm 1972 Nixon đả đạt được những thỏa uớc lịch sử với Nga lẫn Trung Cộng. Chính điểm này để Nixon thắng Mc.Govern làm TT nhiệm kỳ 2. Tuy nhiên việc oanh kích Hà Nội trong 12 ngày liên tiếp và thả mìn phong tỏa Hải Phòng, suýt làm Bắc Việt đầu hàng vô điều kiện, nếu không bị đảng dân chủ và phe phản chiến chống đối dữ dội.
            Giữa lúc TT Nixon trong tình thế khó xử, thì Kissinger đưa sáng kiến phản bội VNCH để đổi lấy sự ủng hộ của quốc hội Mỹ, trong việc làm thăng bằng cán cân chiến tranh lạnh, nói thẳng là giúp Do Thái đương đầu với khối Ả Rập. Do nhận thức sai lầm trên, đã khiến Kissinger thành kẻ chủ bại, hèn nhát, bất nhân đẩy VN vào định mệnh oan nghiệt. Thực tế còn gian ác hơn ta nghĩ, vì Kissinger chẳng những muốn Hoa Kỳ rút khỏi VN mà còn làm cho dân chúng Mỹ không còn nhớ tới cuộc chiến đó trong tiềm thức. Hậu quả lưu manh này khiến cho các quân nhân Hoa Kỳ tham chiến tại VN trở về bị đối xử tàn tệ, tẻ nhạt cho tới mấy năm sau mới được hồi phục lại danh dự.
           Trong thâm tâm của Kissinger, đưa quân đội Mỹ về chưa đủ, mà phải làm sao thọc gậy quốc hội cắt đứt mọi nguồn viện trợ cần thiết, thì mới chấm dứt được chế độ miền nam. Do trên ông ta tự đẻ ra sáng kiến riêng, chủ đích làm hỏng chương trình VN hoá của Nixon. Theo tài liệu của đại sứ Bunker, thì bí mật lớn nhất của Kissiger là sự xuống thang chiến tranh. Ðây là sáng kiến tàn nhẫn nhất vì để đổi một thắng lợi ngoại giao cho Mỹ và VNCH, Kissinger cho lại Bắc Việt MỘT CHIẾN THẮNG QUÂN SỰ, tức là Y đã tiết lộ bí mật quốc phòng cho địch. Nhưng sự kiện này không bao giờ Kissinger dám nhận và chính trong hồi ký của TT. Nixon đã viết là chẳng bao giờ ông cho phép làm chuyện đó khi thương thuyết với Hà Nội.
           Tóm lại để kết thúc chiến tranh VN theo ý mình, Kissinger không bao giờ trình bày sự thật khi thương thuyết với Hà Nội cho TT.Nixon biết. Từ ngày 13-4-1971, Kissinger đã manh nha trò phản bội và lộng quyền, khi tự sử dụng đường dây nóng đặc biệt không qua Bộ Ngoại Giao và Tổng Thống Mỹ, để ra lệnh cho Ðại Sứ Bunker và Bắc Việt. Theo các tài liệu lịch sử đã giải mật, những lộ đồ đề nghị hòa bình VN của các giới chức Mỹ từ tổng thống Nixon tới đại sứ Bunker hoàn toàn trái ngược với ý riêng của Kissinger
           Theo bản dự thảo chiến lược chính thống, thì sự ký kết hòa bình chỉ xảy ra sau khi QLVNCH đạt được chiến thắng tại Hạ Lào qua cuộc hành quân Lam Sơn 719, phá vỡ toàn bộ các căn cứ hậu cần của Bắc Việt tại đây nhằm cắt đứt đường tiếp vận cho bộ đội miền bắc qua đường mòn Hồ chí Minh. Về rút quân thì bắt đầu năm 1971-1972, bộ binh về trước khi đã chứng thật rằng QLVNCH được VN hoá chiến tranh, đủ mạnh để thay thế quân lực Hoa Kỳ đương đầu với Bắc Việt. Riêng Không quân-Hải quân vẫn duy trì cho tới khi thấy Hà Nội thật sự tôn trọng hòa bình của Nam VN. Một điều quan trọng nhất mà đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn là Bunker, mong muốn Hoa Thịnh Ðốn phải chứng tỏ vai trò hợp hiên của CHÍNH PHỦ VNCH tại bàn hội nghị và cái sự Hoa Kỳ ngồi nói chuyện với Hà Nội đã là một nhượng bộ, vì rõ ràng lúc đó Bắc Việt đang thảm bại quân sự trên khắp các chiến trường , chiến dịch ở miền nam. Một sự kiện khác cũng không kém phần quan trọng tại Hoa Kỳ, là mặc dù bị đảng dân chủ đánh phá kịch liệt, đòi rút quân về tức khắc để đổi tù binh nhưng TT Nixon lúc đó, vẫn cương quyết không tiết lộ lộ trình triệt thoái và giữ nguyên ý định không giải kết với VNCH vì quyền lợi Mỹ.

2-KISSINGER BÁN ĐỨNG VNCH CHO CS QUỐC TẾ :
          Theo các sử gia, nếu Kissinger thật sự là một nhà thương thuyết giỏi và có lương tâm, ông ta đã vượt qua được những sóng gío trùng trùng lúc đó, mang lại vinh dự cho nước Mỹ và công lý cho VNCH. Lịch sử đã chúng nhận điều này chỉ mới đây trong việc Tổng Thống G.W.Bush trước khi tiến quân đánh Iraq. Nhưng Kissiger chỉ là một học giả chứ không phải là một nhà ngoại giao, một người Do Thái thuần tuý nên không hề biết tới quyền lợi và danh dự của Hoa Kỳ. Trước tiên, về việc cho phép BỘ ÐỘI BẮC VIỆT ở lại miền nam, Kampuchia, Lào được coi như một hành động ngu xuẩn nhất của Kiss
           Thế nhưng Kissinger nơi trang 1488, y đã tự sửa lại là : “ người VN và các dân tộc khác ở Ðông Dương, sẽ tự thảo luận để tất cả quân đội ngoại nhập rút ra khỏi Ðông Dương “.Như vậy muốn Hoa Kỳ ngưng oanh kích rút quân, mà không có một đòi hỏi gì cho đối phương, thậm chí còn cho chúng ở lại để tiếp tục làm giặc, thì thương thuyết để làm gì, cho nên sau này Hà Nội và thế giới khinh khi, cười chê Hoa Kỳ là vậy. Ngoài ra chẳng bao giờ Kissinger coi VNCH là một quốc gia độc lập có chủ quyền, nên hắn đã có cái nhìn coi Hà Nội mới là đại diện để thương thuyết với Mỹ. Ðây là một sự phản bội trắng trợn của lời cam kết từ các chính quyền Hoa Kỳ như TT.Kennedy, Johnson,Nixon.. luôn tuyên bố tôn trọng nền độc lập của quốc gia đồng minh.
          Tóm lại với luận điệu lừng khừng, chủ bại, đầu óc lắt léo tàng tàng, kissinger đi phó hội trong một tư thế hèn yếu, rẻ mạt, nên chỉ còn bán đứng VNCH mới mong lấy lại tù binh về. Ngày 25-5-1971, để tránh bị kiện tụng vào phút chót, Kissinger đã điện thoại gạt Bunker là chương trình nghị sự sẽ theo đúng bản dự thảo của TT.Nixon và tòa đại sứ Mỹ-Sài Gòn.
          Cũng do lòng tin tưởng trên, nên ngày 3-6-1971, Ðại sứ Bunker đã tường trình với Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu có Kissiger hiện diện, kết quả thương thuyết theo bản dự thảo của TT.Nixon và Toà đại sứ. Trong khi trình bày, Bunker xác quyết là BỘ ÐỘI BẮC VIỆT cùng rút về Bắc khi quân đội Ðồng Minh và Hoa Kỳ triệt thoái. Việc tréo cẳng ngổng này cho thấy, TT Thiệu và Chính phủ VNCH hoàn toàn không được Hoa Kỳ cũng như Kissiger hỏi han hay cho biết một chút gì về vận mệnh tương lai của xứ sở mình. Trước sự kiện trên, Kissimger chẵng những không đính chính mà còn lợi dụng sự không biết gì, để ép TT Thiệu không được tiếp tục đòi hỏi hắn, khi việc BỘ ÐỘI MIỀN BẮC đã được giải quyết.
          Tháng 10/1972 giai đoạn cuối cùng trong bàn hội nghị, Kissinger thay vì cố gắng đạt được những ưu thế cho Hoa Kỳ và đồng minh Nam VN, Kissinger lại tấn công tới tấp TT Nguyễn văn Thiệu và gọi đó là lý do chính trở ngại cho cuộc hoà đàm. Ngày nay dựa vào những tài liệu mật và ngay chính hồi ký của Kissiger, chúng ta mới thấu hiểu sự dối trá và bất lương của y đối với VNCH. Ðó là sự hiểu biết quá kém cỏi về lịch sử VN dù hắn ta luôn tự hào về cái trường đại học luật khoa danh tiếng Havard nay chỉ còn là cái mốt thời thượng. Hèn nhát trước phong trào phản chiến do cọng sản quốc tế dàn dựng, Kissinger đã đánh mất sự thông minh của một nhà ngoại giao, qua mặt dân chúng và chính quyền Hoa Kỳ, phản bội đồng minh đang chiến đấu dũng liệt trước làn sóng đỏ.
           Ngày 1-8-1972, trong cuộc họp mật, Hà Nội bảo với Kissinger là ngoài việc BỘ ÐỘi Ở LẠI, TT Thiệu phải từ chức để thay thế bằng chính phủ liên hiệp. Từ tháng 8-1972, sự chống đối Mỹ từ chính phủ VNCh đã lên tới cao điểm như không cần đếm xỉa tới thời hạn mà Kissinger ấn định, TT Thiệu không tiếp chuyện với TT.Nixon gọi từ Honolulu cũng như tuyên bố là sẽ không bao giờ từ chức, Chính phủ liên hiệp không bao giờ có.
          20-9-1972 sau chuyến thanh sát tại Quảng Trị điêu tàn đổ nát, vừa được QLVNCH chiếm lại, TT Thiệu về Sài Gòn tuyên bố “ vận mệnh của DÂN TỘC VN phải do đồng bào VN quyết định “ và ông đả tố cáo Kissinger chỉ biết tự mình quyết định tất cả mà không coi VNCH ra gì.
          Ngày 19-10-1972, Kissinger, Bunker họp với TT Thiệu, Phó Tổng Thống Hương và Hội Ðồng An Ninh Quốc Gia. Theo các tài liệu ghi nhận, cuộc họp đầy căng thẳng và thái độ cuả TT.Thiệu khinh bỉ Kissinger tại cuộc họp mà ai cũng thấy rõ khi tuyên bố hắn ta chỉ là một người trung gian không hơn không kém, quyền quyết định hòa hay chiến là của Sài Gòn-Hà Nội, chứ không phải Hoa Kỳ . Phiên họp chấm dứt nhưng phút chót TT.Thiệu không biết vì một lý do nào đó lại ký nhận vào bản hiệp định..
           Ngày 26-11-1972, Bunker chuyển một lá thơ của Nixon, cho biết nếu VNCH cưỡng lại Hoa Kỳ thì VIỆN TRỢ sẽ bị cúp ngay và tánh mạng tổng thống Thiệu nếu muốn giữ, phải KÝ KẾT.Ðể tấn tuồng kết thúc trọn vẹn, bất ngờ ngày 18-12-1972, Nixon ra lệnh oanh tạc THẬT Hà Nội-Hải Phòng và các căn cứ quân sự tại Bắc Việt một cách sấm sét dã man, bất chấp Dân Chủ và phản chiến kêu gào la ó. Ðến lúc này, thì TT Thiệu không tin cũng phải tin là Hoa Kỳ qua lời hứa của Nixon trong mấy chục bức thơ riêng, sẽ dội B52 và can thiệp ngay bằng quân sự nếu Hà Nội phản thùng, tấn công VNCH. Ngày 30-4-1975, Miền nam bị bức tử vì Kissinger, một tên trí thức xuẩn động ngây thơ, có đầu óc thực dân kiêu căng thời Trung cổ. Hắn vì muốn thoả mãn nhu cầu cho bọn siêu quyền lực mà phần lớn gốc Do Thái đang thao túng nước Mỹ và thế giới, cho lũ phản chiến đa số bị bệnh tâm thần vì đồng tình luyến ái, hút sách, ảo vọng , nên đã hại không biết bao nhiêu người đã chết, tan nhà, mất nước trong suốt 34 năm qua, tới nay càng thêm đau khổ tận tuyệt trong cảnh nước mất nhà tan, dân tộc bị Hán hoá tuyệt chũng .
          Theo các sử gia cận đại, thì cái hệ lụy bi thảm mà Hoa Kỳ hứng chịu hôm nay khi phải đối đầu với Hồi giáo cực đoan, Iraq, Iran, Trung Cộng, Bắc Hàn.. cũng như sự phản bội trắng trợn của các đồng minh trung thành lâu đời như Pháp, Ðức, Arab Saudi, Thổ nhỉ Kỳ, Nam Hàn, Phi luật Tân, Nam Dương.. phần lớn đều do chính sách sai lầm có chủ ý của Kissinger khi nắm quyền, hoàn toàn chỉ nghĩ tới Do Thái và bọn siêu quyền lực tư bản, thời nào cũng nắm quyền sinh sát nhân loại.
          Trong cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai 1955-1975, cộng sản quốc tế Hà Nội đã thu được nhiều thắng lợi qua hai hiệp định Genève 1954 và Ba Lê 1973. Cả hai đều giả mạo do ngoại bang dàn dựng trước cái gọi là tố chức Liên Hiệp Quốc, bất xứng vô thực. Ðây mới chính là một trong những yếu tố then chốt, đã dẫn tới thảm kịch VN mà theo các sử gia đều quy cho Kissinger, tội bán đứng VNCH cho cọng sản Bắc Việt bằng đủ mọi cách dàn dựng lên một hiệp định hòa bình giả mạo, được ký ngày 27-1-1973 tại Ba Lê. Tất cả vở hài kịch trên từ đầu tới cuối chỉ do Hoa Thịnh Ðốn và Hà Nội tự soạn tự diễn mà không hề đếm xỉa tới dân tộc VN.
           Sau năm 1975, tất cả âm mưu đen tối trên lần lượt bị lột trần ra ánh sáng, qua các tác phẩm do chính những nhân vật có liên quan kể lại trong ” Bí mật Dinh Ðộc Lập của tiến sĩ Nguyễn tiến Hưng”, “ Những lá thư của Tổng Thống Nixon gởi Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu”, “ Tài liệu của Giáo Sư Stephen Young, chuyên gia tại Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ”, “ Hồ sơ mật của Hoàng Ðức Nhã, cựu Tổng trưởng Dân Vận Chiêu Hồi kiêm Bí Thư của TT.Thiệu” và mới nhất là tác phẩm “ No peace no honor của Sử gia Larry Berman “.Tất cả đều đồng thanh gay gắt lên án và luận tội Nixon-Kissinger, đã lường gạt cũng như phản bội dân chúng Hoa Kỳ và VNCH.
           Tuy nhiên xác thực hơn hết cũng vẫn là những lời tuyên bố huênh hoang sau năm 1975 của Lê Ðức Thọ, Nguyễn thị Bình, Lưu văn Lợi, Nguyễn Anh Vũ.. và chính miệng Kissinger qua những hồi ký đã xuất bản như Năm tháng ở Bạch Cung (1979), Niên đại sóng gió (1982) thế nhưng mai mỉa nhất vẫn là Bí Lục Kissinger (The Kissinger Transcripts), trong đó ngoài Ðông Dương bị bán đứng, cả Liên Xô cũng là nạn nhân bi thảm trong canh bạc thời chiến tranh lạnh giữa Mỹ-Trung-Nga.
           Ngày nay qua sự sụp đổ của chủ nghĩa cọng sản, mặt thật của Bắc Việt đang đô hộ VN và cái liêm sỉ của đống núi sách vở trong và ngoài nước viết về cuộc chiến VN, phần lớn nhắm mắt theo tài liệu tuyên truyền của Việt Cộng có sẵn khắp các thư viện quốc tế. Bao nhiêu đó cũng đủ cho ta thẩm định về tính chất phiến diện thiếu công bằng của một số trí thức có bằng cấp cao nhưng cạn kiệt hồn nước và tình người.
          Cũng từ đó để chúng ta, những người dân đen đến lúc phải tỉnh mộng, chấm dứt việc giao phó trách nhiệm đối với non nước và sinh mệnh mình cho bất cứ ai không xứng đáng và tín nhiệm, dù họ đang nhân danh bất cứ một thứ gì. Càng nhớ càng thêm thê thảm tủi nhục cho chính bản thân mình, một dân tộc nhược tiểu, luôn bị bán đứng và dầy vò trong suốt thế kỷ, qua hai cái vỏ quốc gia rồi cọng sản. Bao chuc năm rồi nhưng không bao giờ quên được lời tuyên bố chát chua máu lệ của ông Trần Kim Phượng, đại sứ VNCH tại Hoa Thịnh Ðốn ngay lúc xe tăng Bắc Việt tiến vào Dinh Ðộc Lập trưa 30-4-1975 :” Làm đồng minh với Mỹ chỉ có chết, tốt hơn nên làm bạn với cọng sản , ít ra còn được che chở và giúp đỡ “.Ðây là lời cảnh tỉnh tha thiết nhất cho những ai còn muốn nhờ ngoại bang để quang phục đất nước.
          Cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai 1955-1975 kết thúc là thế đó, hơn 60.000 quân nhân Mỹ và Ðồng Minh bỏ mạng, nhiều người khác bị thương, một trăm năm mươi tỷ mỹ kim tiền thuế của dân chúng Mỹ , đổi lấy sự sụp đổ của VNCH bằng một hiệp định chẳng danh dự, do chính Kissinger đạt được. -/-

TÀI LIỆU THAM KHẢO :
 -văn kiện của UB Liên lạc phục hồi thể chế VNCH
-Bí mật Dinh Ðộc Lập của TS.Nguyễn Tiến Hưng
-Kissinger đã bán đứng VNCH cho Hà Nội của TS Stephen Young
-Không hòa bình, chẳng danh dự của Larry Berman, Nguyễn Mạnh Hùng dịch

Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 1-2016
Mường Giang

PHỦ ĐẶC UỶ TRUNG ƯƠNG TÌNH BÁO VIỆT NAM CỘNG HOÀ. (05/05/1961 ĐẾN 30/04/1975)

 Phủ Đặc Uỷ Trung Ương Tình Báo Việt Nam Cộng Hoà (Tiếng Anh: Central Intelligence Organization -CIO) được đặt trực thuộc Phủ Tổng Thống. Trụ sở: Số 3 Bến Bạch Đằng, Quận I, Thủ Đô Sài Gòn.
Tổng Thống Ngô Đình Diệm thời Đệ Nhất Cộng Hoà ký sắc lệnh số 109/TTP thành lập Phủ Đặc Uỷ Trung Ương Tình Báo kể từ ngày 05 tháng Năm năm 1961.
Đứng đầu Phủ Đặc Uỷ Trung Ương Tình Báo là Đặc Uỷ Trưởng, đẳng cấp tương đương Thứ Trưởng. Đặc Uỷ Trưởng có ba Phụ Tá:
- Phụ Tá Điều Hành: Đặc trách điều hành tổng quát Phủ Đặc Uỷ.
- Phụ Tá Kế Hoạch: Đặc trách ngành nghiên cứu và soạn thảo kế hoạch.
- Phụ Tá Đặc Biệt: Đặc trách Ban A17.
Chức vụ Phụ Tá được xếp ngang hàng với chức vụ Tổng Giám Đốc.
Sau đây là tóm lược cơ cấu tổ chức và phần hành của Phủ Đặc Uỷ Trung Ương Tình Báo (Bí danh Nha Hành Chánh và Nhân Viên Phủ Tổng Thống).
1. Văn phòng Đặc Uỷ Trưởng: Bí danh Ban B, được đặt dưới quyền điều khiển của một Chánh Văn Phòng (Trưởng Ban B). Tuỳ theo nhu cầu công vụ, Ban B còn có một số Bí Thư và một số Công Cán Uỷ Viên đặc trách công tác đặc biệt do Đặc Uỷ Trưởng giao phó (Bí Thư ngang hàng chức Chủ Sự Phòng, Công Cán Uỷ Viên ngang hàng với một Chánh Sự Vụ của một sở).
2. Khối Kế Hoạch: Bí Danh Ban A, Trưởng Khối Kế Hoạch (Trưởng Ban A) được xếp ngang hàng với một Giám Đốc Nha. Nhiệm vụ: Đặc trách công tác tình báo quốc nội hoặc quốc ngoại không thuộc phạm vi hoạt động tình báo của các cơ sở tình báo khác thuộc Phủ Đặc Uỷ (như Ban E, Ban T, Ban U, Ban K, Ban Z). Ngoài ra, còn đặc trách soạn thảo và thi hành các công tác tình báo chuyên biệt do Đặc Uỷ Trưởng giao phó.
Dưới quyền Trưởng Khối Kế Hoạch có các Chuyên viên Thiết Kế (đẳng cấp Chánh Sự Vụ). Mỗi Chuyên viên Thiết Kế đặc trách một phần hành do Trưởng Khối giao phó. Khối Kế Hoạch không tổ chức thành Sở và Phòng như các Nha khác.      
*Ban A10: Trưởng Ban A10, đồng đẳng cấp Chánh Sự Vụ (Chuyên Viên Thiết Kế). Ban A10 phụ trách:
  • Thu thập tin tức tình báo quan trọng xảy ra trong 24 tiếng đồng hồ và viết tờ trình lên Đặc Uỷ Trưởng để đệ trình lên Tổng Thống vào mỗi buổi sáng.
  • Phụ trách ba tờ nhật báo lớn thời bấy giờ là Quật Cường, Dân Ý và Lẽ Sống. Theo dõi, hướng dẫn và điều khiển (khi cần) các tờ báo này để họ viết lách bài vở và đăng tin tức có lợi cho chánh quyền và đường lối quốc gia dân tộc. Cán bộ thuộc A10 cũng có tham gia viết bài mang lợi ích theo đường lối và và chính sách của chính phủ.
  • Kiểm soát và điều khiển Tổng Nha Phát Hành Báo Chí.
  • Kiểm thính tất cả hệ thống điện thoại, điện tín trong nước và viễn liên.
Hoạt động của Ban A10 được đặt dưới sự chỉ huy và điều hành trực tiếp của Đặc uỷ Trưởng.
          *Ban A8: Đây là bí danh của các công tác đặc biệt do Đặc Uỷ Trưởng giao phó cho Trưởng Ban A8 (Đẳng cấp Chuyên Viên Thiết Kế).
3. Cục Tình Báo Quốc Nội: Bí danh Ban T, đứng đầu là Cục Trưởng (Trưởng Ban T), ngang hàng với chức Giám Đốc. Nhiệm vụ: Phụ trách công tác tình báo quốc nội đối đầu với Việt Cộng, theo dõi hoạt động của các đảng phái, các phong trào, các đoàn thể, các nghiệp đoàn trong nước.
Trực thuộc Cục Tình báo Quốc Nội gồm có:
*Phân cục Điệp Báo: Bí danh ban K, đứng đầu là Phân cục Trưởng (Trưởng Ban K), xếp ngang hàng với một Giám Đốc Nha Không Sở (Nha Không Sở tương đương một Sở nhưng vì tính cách đặc biệt và quan trọng của phần hành nên bộ phận này được gọi là Nha- Đây là phương cách tổ chức của nền hành chánh Việt Nam Cộng Hoà. Nhiệm vụ: Phụ trách công tác tình báo đối đầu với Việt Cộng. Ở mỗi tỉnh và thành phố quan trọng, Ban K đều có đặt một đội công tác tình báo. Trưởng Đội được đặt ngang hàng với chức vụ Chủ Sự Phòng.
*Phân cục Phản Gián: Bí danh ban U, đứng đầu là Phân cục Trưởng (Trưởng Ban U), đẳng cấp như đã nói ở trên. Nhiệm vụ: đặc trách công tác phản gián như cài người vào hàng ngũ địch để lấy tin tức tình báo, khám phá và móc nối các điệp viên Việt Cộng cài vào các cơ quan chính quyền ta. Các tù hàng binh Việt Cộng giam giữ tại Trung Tâm Thẩm vấn Quốc Gia (Ban Q) là những đối tượng quan trọng giúp Ban U khám phá được nhiều điệp viên Việt Cộng trong hàng ngũ chính quyền ta.
*Phân cục An Ninh Chính Trị: Bí danh Ban Z, đứng đầu là Phân cục Trưởng (Trưởng Ban Z), đẳng cấp như đã nói ở trên. Đối tượng hoạt động của Phân cục này là theo dõi, xâm nhập, điều khiển các đảng phái chính trị, các phong trào, các hội đoàn, các nghiệp đoàn để các tổ chức này không có những hoạt động chống phá chánh phủ và những hoạt động có lợi cho Việt Cộng.
4. Nha Tình Báo Quốc Ngoại: Bí danh Ban E, đứng đầu là một Giám Đốc (Trưởng Ban E). Đặc trách công tác tình báo quốc ngoại. Nha Tình Báo Quốc Ngoại gồm có các Biệt Cục Tình Báo, đứng đầu là Biệt Cục Trưởng, được xếp ngang hàng với một Chánh Sự Vụ. Mỗi Biệt Cục Tình Báo phụ trách công tác tình báo tại một quốc gia có liên hệ với tình hình an ninh, chính trị của Việt Nam Cộng Hoà như Lào, Campuchia, Thái lan, Nhật, Hồng Kông, Pháp....
5. Nha Nghiên Cứu: Bí danh Ban R, đứng đầu là một Giám Đốc (Trưởng Ban R). Nha nghiên cứu được đặc trách khai thác các tin tức tình báo nhận được từ các bộ phận hoạt động tình báo thuộc Phủ Đặc Uỷ và từ các cơ quan tình báo bạn như Phòng Nhì Bộ Tổng Tham Mưu, Lực lượng Cảnh Sát Đặc Biệt, Cục An Ninh Quân Đội, Nha Kỹ Thuật . Từ các tin tức tình báo nhận được này, Nha Nghiên Cứu viết thành: Bản Tin tức tình báo, Bàn ước tính tình báo, Bản nghiên cứu đặc biệt tình báo, để trình lên thượng cấp và phổ biến cho các cơ quan tình báo bạn như đã kể ở trên.
Tổ chức Nha Nghiên Cứu gồm có:
  • Sở Nghiên Cứu Miền Bắc.
  • Sở Nghiên Cứu Miền Nam.
  • Sở Nghiên Cứu Quốc Tế.
  • Sở Sưu Tập: Đặc trách các phần hành như sau:
          - Thu thập tin tức tình báo qua báo chí, sách vở xuất phát từ miền Bắc, qua các đài phát thanh Hà nội, đài phát thanh Giải Phóng của bọn Việt Cộng ở miền Nam và các đài phát thanh ngoại quốc khác như VOA, BBC, Đại Á Châu Tự Do.
          - Quản thủ và cập nhật hoá tin tức trên bản đồ tại phòng tình hình.
          - Phiên dịch các tài liệu, các bản tin tình báo từ Việt Ngữ sang Anh Ngữ và ngược lại để trao đổi với các cố vấn Mỹ hoặc với các cơ quân tình báo bạn khác như đã nói ở trên.
          - Thông dịch cho các cố vấn Mỹ khi họ cần phỏng vấn các tù binh ở Trung Tâm Thẩm vấn.
  • Sở Văn Khố: Phụ trách:
          - Tiếp nhận và phân phối công văn của Phủ Đặc Uỷ.
          -Lưu trữ hồ sơ.
          -  Quản thủ thư viện Phủ Đặc Uỷ, một thư viện có tầm vóc lớn, có đầy đủ sách vở và báo chí Việt, Pháp, Anh Ngữ, các tài liệu nghiên cứu tình báo,... Nhân viên Phủ Đặc Uỷ có thể đến đây để đọc sách, báo mở mang kiến thức hoặc sưu tầm tài liệu cần thiết cho công tác của mình.
  • Uỷ Ban Ước Tính Tình Báo:
          Đứng đầu là Chủ Tịch Uỷ Ban, đồng đẳng cấp với một Giám Đốc Nha Không Sở. Uỷ Ban Ước Tính gồm có nhiều Uỷ viên Ước Tính, có đẳng cấp như Chánh Sự Vụ, và đều phải có bằng đại học tương đương Cử Nhân trở lên. Ngoài ra, vì tính cách quan trọng của công tác ước tính tình báo, Phủ Đặc uỷ còn mời và nhận được sự công tác của một số nhân sĩ trí thức bên ngoài như Viện Trưởng, Khoa Trưởng, Giáo Sư Đại học... Những bài ước tính tình báo về tình hình chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế của các vị này rất có giá trị cho công tác điều nghiên sâu sát của Nha Nghiên Cứu.
6. Trung Tâm Thẩm Vấn Quốc Gia: Bí danh Ban Q. Đứng đầu là một Giám Đốc (Trưởng Ban Q). Ban Q được tổ chức thành nhiều Sở và Phòng. Nhiệm vụ: Ưu tiên thẩm vấn các tù hàng binh Việt Cộng quan trọng do các cơ quan chính quyền và quân đội bắt giữ hay chiêu hồi, (Bộ Quốc Phòng, Bộ Dân Vận và Chiêu Hồi). Đặc biệt, Trung Tâm Thẩm vấn không bao giờ được quyền sử dụng biện pháp tra tấn để thẩm vấn tù hàng binh. Bí quyết thành công trong công tác thẩm vấn của trung tâm này là nhân từ, đạo đức, dỗ dành và thuyết phục. Tên tù binh quan trọng nhất được Trung Tâm thẩm vấn và giam giữ cho đến ngày 30/4/1975 là Tư Trọng, Thứ trưởng Công an Cộng Sản Bắc Việt đã bị bắt tại vùng biển Miền Tây trong khi xâm nhập vào lãnh thổ VNCH.
7. Nha Yểm Trợ: Bí danh Ban Y. Giám Đốc Nha Yểm Trợ mang bí danh là Trưởng Ban Y. Nha Yểm Trợ chỉ huy và điều hành các cơ sở sau đây:
  • Sở Nhân Viên: Bí danh Ban N. Đứng đầu là Trưởng Ban N, tương đương với một Chánh Sự Vụ. Nhiệm vụ: tuyển mộ và quan trị nhân viên. Đặc trách về pháp chế và tranh tụng nếu có giữa Phủ Đặc Uỷ và các cơ quan hay dân sự bên ngoài. Phủ Đặc Uỷ có thuê một luật sư làm việc bán thời gian để làm cố vấn pháp luật. Đối tác của vị luật sư này là Giám Đốc Nha Yểm trợ. Ngoài ra, Sở Nhân Viên còn phụ trách soạn thảo các văn kiện hành chính như sắc lệnh, nghị định, quyết định, và nội qui.... liên quan đến hoạt động và tổ chức của Phủ Đặc Uỷ.
     
  • Sở Hành Chánh và Tài Chánh: Bí danh Ban H. Đứng đầu là Trưởng Ban H, tương đương với một Chánh Sự Vụ. Phụ trách công tác thuộc phạm vi hành chánh, kế toán, ngân sách, vật liệu, lương bổng...
     
  • Sở Kỹ Thuật: Bí danh Ban M. Đứng đầu là Trưởng Ban M, tương đương một Chánh Sự Vụ. Phụ trách về truyền tin và các công tác có tính cách kỹ thuật trong hoạt động tình báo như nhiếp ảnh, quay phim, in ấn tài liệu... Đặc biệt Sở này còn phụ trách lắp đặt và sửa chữa tất cả máy móc dùng trong kỹ thuật hoạt động tình báo của Phủ Đặc Uỷ. Ngoài ra, Sở Kỹ Thuật còn cộng tác với phái đoàn chuyên viên Đài Loan để thiết lập và điều hành Trung Tâm Phát Tuyến. Trung tâm này có khả năng bắt được tin tức phát đi từ Trung Cộng có liên quan đến hoạt động tình báo của Trung Cộng ở Đài Loan, ở miền Bắc Việt Nam và ngay cả trong lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà. Những tin tức tình báo có liên quan đến Việt Nam Cộng Hoà, trung tâm này viết thành bản tin phổ biến hằng ngày cho Phủ Đặc Uỷ (Ban R phụ trách khai thác các bản tin này). Trưởng phái đoàn chuyên viên Đài Loan lúc bấy giờ là Đại Tá Chang, đối tác là Giám Đốc Nha Yểm Trợ. Trung Tâm Phát Tuyến đặt trụ sở tại Phú Lâm trên vùng đất rộng lớn nhiều mẫu tây do Phủ Đặc Uỷ thuê mướn của tư nhân. Ban Y yểm trợ mọi phương tiện và nhân sự cần thiết cho hoạt động của trung tâm.
     
  • Trung Tâm Huấn Luyện Tình Báo Quốc Gia: Bí Danh Ban D. Trung tâm Trưởng (Trưởng Ban D), đồng đẳng cấp với Chánh Sự Vụ. Nhiệm vụ: huấn luyện và tu nghiệp tình báo cho nhân viên các cấp thuộc Phủ Đặc Uỷ. Trung tâm gồm có các khoá huấn luyện và tu nghiệp như sau:
      - Khoá hoạt vụ sơ cấp, trung cấp và cao cấp.
      - Khoá nghiên cứu.
      - Khoá thẩm vấn.
      - Khoá hành chánh, tài chánh và kế toán.
                   - Khoá Anh văn: dành cho nhân viên các cấp muốn trau dồi thêm khả năng Anh văn.
Ngoài việc huấn luyện và tu nghiệp tình báo cho nhân viên các cấp của Phủ Đặc Uỷ, trung tâm này đã có thời kỳ huấn luyện tình báo cho các cán bộ tình báo của một số quốc gia bạn như Campuchia, Lào, Thái Lan, Đài Loan và Đại Hàn.
Ngoài ra Nha Yểm Trợ còn trực tiếp điều hành Trung Tâm Y Tế, Trung Tâm Tiếp Tế, Hợp Tác Xã Địa Ốc, Phòng Nội Dịch gồm có Ban Nội Dịch và Ban Công Xa.
Giám Đốc Nha Yểm Trợ còn được đặc trách mang bí danh của Phủ Đặc Uỷ là Giám Đốc Nha Hành Chánh Nhân viên Phủ Tổng Thống để giao dịch và ký kết với các cơ quan dân sự bên ngoài.
8. Khối Thanh Tra: Bí danh Ban C. Trưởng khối Thanh Tra (Trưởng Ban C), đẳng cấp Giám Đốc. Nhiệm vụ: Thanh tra cơ sở, phòng ốc, vật liệu và tài sản thuộc Phủ Đặc Uỷ và đề nghị lên thượng cấp các sửa chữa hay bảo trì cần thiết. Trong trường hợp có sự gian lận làm thất thoát vật liệu hay tài sản của Phủ Đặc Uỷ, Trưởng khối Thanh Tra đề nghị lên thượng cấp các biện pháp kỷ luật tương xứng. Dưới quyền Trưởng Khối Thanh tra là một số Thanh Tra viên trợ giúp trong công tác thanh tra. Mỗi thanh tra viên có đẳng cấp Chánh Sự Vụ.
9. Sở An Ninh: Bí danh Ban S. Trưởng Ban S đồng đẳng cấp chức Chánh Sự Vụ. Nhiệm vụ như sau:
- Bảo vệ an ninh tối đa cho Đặc uỷ Trưởng từ văn phòng đến tư thất.
- Khi cần thiết, theo dõi và bảo vệ an ninh cho nhân viên, tránh sự theo dõi, móc nối hay sát hại của địch.
- Bảo vệ an ninh cơ sở.
- Điều tra lý lịch của ứng viên tân tuyển trước khi Phủ Đặc Uỷ quyết định tuyển dụng.
- Khi cần thiết, điều tra bổ túc lý lịch của nhân viên sắp được Phủ Đặc Uỷ giao phó chức vụ hoặc công tác quan trọng.
- Công tác an ninh đặc biệt do Đặc Uỷ Trưởng hay các Phụ tá giao phó.
10. Ban A17:
Trước tình hình quấy phá lộng hành của đám sinh viên Việt Cộng do Thành Đoàn Thanh Niên Cộng Sản HCM tại Thủ Đô điều khiển và chỉ đạo như chiếm đóng thường trực trụ sở Tổng Hội Sinh Viên Sài gòn, bãi khoá liên tục tại các phân khoa đại học, ngăn cản không cho sinh viên vào lớp học. Bọn chúng còn hợp tác với các nhóm chánh trị phản động khác liên tục xuống đường chống đối chánh quyền làm rối loạn sinh hoạt của quần chúng tại Thủ Đô. Lực lượng cảnh sát của Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia lúc bấy giờ hầu như bất lực trong việc giải tán hay triệt hạ bọn sinh viên phản động này.
Chính từ khi Tướng Nguyễn Khắc Bình, Đặc Uỷ Trưởng Phủ Đặc Uỷ Trung Ương Tình Báo, được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bổ kiêm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia (một chức vụ đồng đẳng cấp với chức vụ Bộ Trưởng trong Nội Các Chính Phủ) đã cho thành lập một bộ phận đặc biệt tại Phủ Đặc Uỷ, dưới biệt danh Ban A 17. Trưởng Ban A 17 được gọi chính danh là Phụ Tá Đặc Biệt của Đặc Uỷ Trưởng như đã nói ở trên. Chính Tướng Bình với sự phụ tá đắc lực của Trưởng Ban A 17, một Đốc Sự Hành Chánh trẻ trung, đầy năng lực và nhiệt huyết, đã chỉ huy và điều khiến công tác đánh phá và triệt hạ được bọn Thành Đoàn Thanh niên Cộng Sản HCM đội lốt sinh viên phản động này. Có thể nói, từ khi Ban A 17 được thành lập (vào tháng 11/ 1971) cho đến ngày Cộng Sản cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Hoà, tình hình Thủ Đô Sài gòn trở nên rất yên tĩnh. Sinh viên học sinh được bình an đi học, sinh hoạt quần chúng khắp nơi tại Sài gòn được ổn định trong vòng trật tự như tại bất cứ Thủ Đô của một đất nước không có chiến tranh.
Sự thành công trên đây của Ban A 17 không những nhờ vào sự nỗ lực hoạt động không ngừng nghỉ của  cán bộ các cấp trực thuộc Ban A 17 mà còn nhờ vào:
Công lao đóng góp rất lớn của các nhóm sinh viên có tinh thần chống Cộng tích cực để bảo vệ chính nghĩa quốc gia dân tộc. Một số trong các nhóm sinh viên này đã bị Việt Cộng sát hại rất dã man như sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật, Trần Lâm Giang, Bùi Hồng Sĩ, Ngô văn Toại, Nguyễn văn Tấn.
Sự đóng góp đáng kể của lực lượng Cảnh Sát Đặc Biệt tại Thủ Đô (đa số thuộc thành phần trẻ vừa tốt nghiệp Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia). Để điều động trực tiếp được lực lượng Cảnh Sát Đặc Biệt này trong công tác, Trưởng Ban A17 còn được Tướng Nguyễn Khắc Bình đặc cách cho mang cấp bậc Đại Tá Cảnh Sát Quốc Gia.
Tóm lại, Phủ Đặc Uỷ Trung Ương Tình Báo được thành lập từ thời Đệ Nhất Cộng Hoà nhưng vì phải trải qua nhiều thăng trầm do sự biến đổi tình hình chính trị trong nước nên mãi cho đến khi Tướng Nguyễn Khắc Bình được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu thời Đệ Nhị Cộng Hoà bổ nhiệm làm Đặc Uỷ Trưởng, Phủ Đặc Uỷ mới kiện toàn được cơ cấu tổ chức và tầm vóc hoạt động để có thể đứng ngang hàng với các cơ quan tình báo của các quốc gia khác trên thế giới. Đây có thể nói là một trong những thành công rất lớn của Tướng Nguyễn Khắc Bình.
Khi Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam, để trả thù chúng bắt bỏ tù (chúng gọi dối trá là đi cải tạo) các quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hoà chưa kịp chạy thoát ra nước ngoài. Các thành phần bị bắt đi tù gồm có: Quân đội và Cảnh Sát từ cấp thiếu uý trở lên, công chức từ cấp Giám Đốc trở lên. Các phong trào, các đảng phái chính trị từ cấp Chủ Tịch, Tổng Bí thư hay Tổng Thư ký, Uỷ viên Trung Ương, Bí thư cấp tỉnh hay cấp quận trở lên.
Riêng nhân viên các cấp thuộc Phủ Đặc Uỷ, cả nam lẫn nữ, đều bị bắt đi tù từ cao cấp đến sơ cấp, từ Đặc Uỷ Trưởng đến các Tuỳ Phái, tài xế và lao công. Điều này nói lên được phần nào sự thành công và sự hữu hiệu của Phủ Đặc Uỷ trong nhiệm vụ đối đầu và đánh phá bọn Việt Cộng trong Nam cũng như ngoài Bắc trên mặt trận tình báo. Trong số nhân viên Phủ Đặc Uỷ phải bỏ mạng trong ngục tù vì sự khắc nghiệt, dã man và độc ác của Việt Cộng có ông Đặc Uỷ Trưởng sau cùng và một Giám đốc (Nha Nghiên Cứu). Người tù cuối cùng trong ngục tù CS được thả sau 17 năm bị tù đày là một nhân viên cao cấp phục vụ tại Phủ Đặc Uỷ.
Cũng cần nói thêm, Tướng Nguyễn Khắc Bình lúc bấy giờ với tư cách là Đặc Uỷ Trưởng Phủ Đặc Uỷ Trung Ương Tình Báo, đương nhiên kiêm nhiệm luôn chức Tổng Thư Ký của Uỷ Ban Phối Hợp Tình Báo Quốc Gia. Chính Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ký sắc lệnh thành lập Uỷ Ban này để giao cho trọng trách chỉ đạo và phối hợp các hoạt động tình báo, tránh sự trùng lặp, hoặc đối đầu lẫn nhau giữa các cơ quan hoạt động tình báo như: Phủ Đặc Uỷ Trung Ương Tình báo, Lực lượng Đặc Biệt thuộc Bộ Tư lệnh Cảnh Sát Quốc Gia, Phòng Nhì, Cục An Ninh Quân Đội, Nha Kỹ Thuật thuộc Bộ Quốc Phòng. Cố vấn An Ninh Phủ Tổng Thống kiêm nhiệm chức vụ Chủ Tịch Uỷ Ban, lúc bấy giờ là Trung Tướng Đặng Văn Quang. Trong khi Hoa kỳ, mãi cho đến nhiệm kỳ thứ nhì (2013 - 2016) Tổng Thống Barack Obama mới cho thành lập Bộ Nội An (NSA: National Security Administration) để đảm nhiệm vai trò chỉ đạo phối hợp hoạt động của CIA, FBI và các cơ quan hoạt động tình báo khác thuộc Bộ Quốc Phòng trong chính quyền Hoa kỳ.
(Chân thành kính cám ơn người anh Cả trong ngành Tình báo, cựu Đặc Ủy Trưởng Thiếu tướng Nguyễn Khắc Bình và Ông cựu Giám Đốc Tình báo, Đốc sự Hành Chánh đã giúp nhiều chi tiết trong bài nầy).
                  ĐPH
( Cựu Cán bộ Phủ Đặc Uỷ VNCH)