Thursday, August 30, 2012

10B72 / SQTB

 
Nguyễn Huy, LTH, Trần Anh Tuấn, Trần Quang Lan, Vũ Duy Thêm,
Nguyễn Thanh Phong, Vũ Đình Hải
Hàng ngồi Trần Chí Thiện Tâm, Phạm Hòa, Tần Nam và Nguyễn Tuấn








Tuesday, August 28, 2012

Trận Chiến Thường Ðức (Phần 1)

 
Tác giả: Trương Dưỡng 
Vào mùa thu năm 1974, áp lực địch tại Vùng 1 Chiến Thuật gia tăng khủng khiếp. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn đã họp các tư lệnh quân, binh chủng bàn kế hoạch phòng thủ cuối cùng trên toàn Quân Khu, đặc biệt những điểm "nóng" như Huế, Chu Lai, và Đà Nẳng.
Tại mặt trận Thường Đức, Sư Đoàn Nhảy Dù đã chiến thắng vẻ vang trên ngọn đồi 1062. Tướng Cộng Sản Nguyễn Thị Định đã tuyên bố sẽ vào Đà Nẵng như chỗ không người. Tuy nhiên, lời tuyên bố này đã bị lực lượng Nhảy Dù xóa sổ và niêm phong. Viên tư lệnh lực lượng Bắc Việt tại Thường Đức đã mất chức do bị thiệt hại nặng nề.
Trong suốt năm tháng miệt mài quần thảo vớiquân Bắc Việt, các binh sĩ Nhảy Dù chưa từng thấy chiến trường nào mà quân Cộng Sản lại làm hầm hố vô cùng kiên cố như mặt trận Thường Đức. Những hầm chữ A để chống bom được đào sâu như những giếng nước, hoặc làm dưới những khe suối được che chở bằng vách đá và cây rừng cổ thụ. Đường giây điện thoại chằng chịt như mạng lưới điện thoại ở thành phố Saigon. Mọi sự liên lạc vô tuyến hạn chế để tránh bị quân đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) phát giác.
Dẫu thế, Phòng Truyền Tin của Sư Đoàn Nhảy Dù cũng đã bắt được những mật điện quan trọng của địch và đã giải hóa một cách dễ dàng. Nhờ vậy họ đã biết được kế hoạch điều quân của các lực lượng tham chiến Bắc Việt tại Thường Đức.
Các chiến sĩ Nhảy Dù đã quần thảo với địch trên những đỉnh núi cao liên tục hầu như không giây phút ngừng nghỉ. Miền rừng núi trùng điệp, hiểm trở, và cao chất ngất không làm sờn lòng chiến đấu của họ. Từ chân núi nhìn lên đỉnh cao vời vợi, người lính Nhảy Dù nghĩ đến sự tiếp vận khó khăn. Một bịch gạo, một băng đạn, được chuyển vận thật là cả một vấn đề, thật gay go, gian nan, và khổ cực (phải dùng dây kéo lên). Nhất là nước đâu để có thể nấu ăn trên những rặng núi cao ngất từng mây.
Năm 1973, sau khi Hiệp Định Đình Chiến được ký kết tại Paris, chiến cuộc Việt Nam tạm ngưng. Hai sư đoàn tổng trừ bị (Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến) vẫn còn lưu giữ tại Quân Khu 1. Lấy Quốc Lộ 1 làm ranh giới, Sư Đoàn Nhảy Dù trấn giữ phía Tây, dọc theo hành lang dãy Trường Sơn, và trách nhiệm luôn phần bảo vệ an ninh Quốc Lộ 1, từ cây số 17 ra tới bờ sông Thạch Hãn (ở tỉnh Quảng Trị). Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) trấn giữ phía Đông từ Quốc Lộ 1 ra đến bờ biển, đến tận Cổ Thành Quảng Trị ở phía Bắc. Các đơn vị thuộc Sư Đoàn Nhảy Dù chiếm những cao địa, tiến sâu vào dãy Trường Sơn gần các căn cứ Ann (Động Ông Đô), Barbara (đã giành lại được trong cuộc tổng phản công tái chiếm Quảng Trị). Đây là 2 căn cứ chiến thuật chế ngự toàn vùng hành quân.
Từ Nam cây số 17 (căn cứ Hiệp Khánh, Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù) là trách nhiệm của các đơn vị cơ hữu thuộc Quân Ðoàn 1. Sư Đoàn 1 Bộ Binh trấn đóng ở phía Bắc đèo Hải Vân. Phía Nam là trách nhiệm của Sư Đoàn 3 và Sư Ðoàn 22 Bộ Binh. Cả hai khu vực Bắc và Nam đèo Hải Vân đều có các đơn vị Biệt Động Quân, Địa Phương Quân, và Nghĩa Quân trấn giữ.
Đối đầu với Sư Đoàn Nhảy Dù là Sư Ðoàn 325 Trị Thiên của Bắc Việt. Tuy danh xưng là Sư Ðoàn Trị Thiên, nhưng thực ra bộ đội của sư đoàn này rất trẻ và nói toàn giọng Bắc. Tình hình tổng quát tại Quân Khu 1 lúc này tương đối yên tĩnh. Vào những tháng cuối năm 1974, sau khi trao đổi tù binh với Hoa Kỳ xong xuôi, Bắc Việt không ngần ngại vi phạm Hiệp Định Ba Lê để thực hiện ý đồ xâm lăng thôn tính miền Nam bằng võ lực.
Qua các cuộc trắc nghiệm xem phản ứng của Hoa Kỳ bằng cách vi phạm Hiệp Ước, họ mở cuộc tấn công vào tỉnh Phước Long cuối năm 1974, và một số thị trấn khác thuộc Quân Khu 3. Thấy Hoa Kỳ không phản ứng gì nhiều, Cộng Sản Bắc Việt bắt đầu tung các đơn vị chủ lực vào cuộc xâm lược Miền Nam Việt Nam. Bộ đội, pháo binh, cơ giới của họ ngang nhiên di chuyển hàng hàng lớp lớp giữa ban ngày, không cần ngụy trang ẩn nấp như xưa.
Cộng Sản Bắc Việt mở mặt trận lớn đầu tiên tại Vùng 1 Chiến Thuật với ý đồ cầm chân các đơn vị tổng trừ bị thiện chiến. Hai sư đoàn 304 và 324 Bắc Việt, cùng các trung đoàn pháo, chiến xa bất thần đánh chiếm quận Thường Đức thuộc tỉnh Quảng Nam. Là một điểm chiến lược vì địa thế núi rừng hiểm trở dễ thủ khó công, Thường Đức ở phía Tây Nam Đà Nẵng khoảng 50 cây số, và phía Tây giáp với Lào, nơi có đường mòn Hồ Chí Minh dùng để chuyển vận quân dụng tiếp tế cho mặt trần Thường Đức này.
Trong vòng 2 năm, Bắc Việt đã không ngừng tu bổ đường mòn Hồ Chí Minh và biến thành hệ thống tiếp vận này thành một "xa lộ không đèn." Mặt đường rộng hơn 10 thước đủ cho xe xận tải di chuyển cả hai chiều. Ngoài ra Cộng quân còn lập hệ thống dẫn dầu từ Bắc vào Nam, đi đến tận thị xã Lộc Ninh (ở tỉnh Bình Long). Họ cũng tăng cường việc chuyển vận bộ đội chính qui, vũ khí, và chiến cụ vào miền Nam gấp nhiều lần so với lúc trước. Tình hình Quân Khu 1 đổi khác ngay vào cuối năm 1974. Áp lực địch gia tăng mạnh mẽ ở phía Nam đèo Hải Vân.
SƠ LƯỢC DIỄN BIẾN
Ngày 8 tháng 8/1974, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù cùng 3 tiểu đoàn trực thuộc được di chuyển vào vùng hành quân ở Đại Lộc thuộc Đà Nẵng. Trước đó một ngày, Tiểu Đoàn 79 Biệt Ðộng Quân (BÐQ) bị quân Bắc Việt gây áp lực nặng nề tại vùng trách nhiệm ở quận lỵ Thường Đức. Ngày 11 tháng 8/1974, Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù cùng 3 tiểu đoàn được lệnh di chuyển bằng phi cơ xuống phi trường Đà Nẵng sau khi bàn giao khu vực trách cho Liên Ðoàn 15 Biệt Động Quân. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù đặt bản doanh tại gần bờ biển Non Nước, phía Đông Thành phố Đà Nẵng.
Một dãy núi cao chạy dài từ sông Vu Gia và Liên Tỉnh Lộ 4 về phía Bắc, những ngọn đồi thấp ở phía Nam của dãy núi này đã bị Trung Đoàn 29 Cộng Sản Bắc Việt chiếm giữ. Cho nên, mọi tiếp tế của đơn vị Biệt Động Quân xuyên qua đèo Thường Đức đã bị ngăn chận. Điểm cao nhất của dãy núi này là 1235 nằm cách Tỉnh Lộ 4 khoảng 6 cây số về phía Bắc, và đỉnh 1062 ở phía Nam của Ðồi 1235 cách chỉ khoảng 2 cây số.
Bắc quân đã chiếm đỉnh đồi này để có thể quan sát đoạn đường từ Đại Lộc đến Thường Đức, và họ đặt tiền sát viên điều chỉnh đại pháo bắn chính xác vào khu dân cư và các đơn vị Việt Nam Cộng Hòa ở Đại Lộc. Nhiệm vụ của các đơn vị Nhảy Dù là phải chiếm đỉnh đồi 1062 và các cao điểm phía Nam tới Tỉnh Lộ 4. Và để giải tỏa sự hâm dọa tấn công các vùng phía Tây Đà Nẵng, Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù được giao phó nhiệm vụ ngăn chận địch xâm nhập vùng quận Hiếu Đức.
Ngày 18 tháng 8/1974, ba tiểu đoàn 1, 8, và 9 nhảy Dù vừa vượt tuyến xuất phát thì đã chạm súng với những đơn vị thuộc Trung Đoàn 29 CSBV ở phía Đông Đồi 52 (xã Hà Nha). Chính nơi đây Sư Đoàn 3 Bộ Binh đã phải rút lui chiến thuật do áp lực địch quá đông đảo và vũ khí tối tân hơn. Sau một tháng đánh nhau với 3 tiểu đoàn Nhảy Dù, hai bên đều bị thiệt hại nặng nề. Mặt Trận B3 của Cộng Sản ra lệnh Trung Ðoàn 31 thuộc Sư Đoàn 2 CSBV tới Thường Đức để tiếp ứng cho Trung Đoàn 66 của Sư Đoàn 304 CSBV. Như vậy Trung Đoàn 66 có thế giúp đỡ Trung Ðoàn 29, để họ rảnh tay tấn công các đơn vị Nhảy Dù.
Đầu tháng 9/1974, Trung Đoàn 24 của Sư Đoàn 304 Cộng Sản Bắc Việt (CSBV, còn được gọi là sư đoàn "Ðiện Biên") cũng nhập vào trận chiến. Ngày 19 tháng 9/1974, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù báo cáo đã chiếm được đỉnh 1062. Trong khoảng thời gian 2 tuần lễ khi quân đội đã làm chủ ngọn đồi 1062, thì Bắc Việt cho Trung Đoàn 66 hợp với Trung Đoàn 29 và Trung Đoàn 24 (thiếu quân số) định dùng số đông để áp đảo Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù.
Vào ngày 2 tháng 10/1974, Tiểu Đoàn 2 và 9 Nhảy Dù đang lục soát ở khu vực quanh đồi 1062 và dãy Sơn Gà thì họ tìm được khoảng 300 xác bộ đội Bắc Việt trên đỉnh 1062 trong giai đoạn 1 này. Ngoài ra, họ bắt sống được 7 tù binh thuộc Sư Ðoàn 304.
Suốt vài tuần sau, các binh sĩ Nhảy Dù đã chống trả rất nhiều các cuộc tấn công của Sư Ðoàn 304 khi địch quân định giành lại đồi 1062. Bởi sự điều khiển phi pháo chính xác của các sĩ quan chỉ huy Nhảy Dù, nên các đơn vị này vẫn giữ vững đồi 1062 mặc dầu quân Bắc Việt đã pháo kích mãnh liệt và xử dụng chiến thuật biển người định tràn ngập ngọn đồi này. Một trường hợp ngẫu nhiên, khi Trung Ðoàn 24 CSBV đang xâm nhập vào vùng tử địa ở dọc theo đồi 383 và 126 thì bị hỏa lực tập trung của pháo binh Việt Nam Cộng Hòa đồng loạt khai hỏa. Cuộc pháo kích này đã gây cho 250 bộ đội miền Bắc bị thiệt mạng.
Tính đến trung tuần tháng 10/1974, sau gần 2 tháng quần thảo với hai sư đoàn địch quân, Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù (gồm 4 tiểu đoàn tham chiến) đã bị tổn thất vừa chết và bị thương khoảng 500 binh sĩ. Trong khi đó địch quân bị thiệt mất trên 1,200 người.
Ngày 29 tháng 10 năm 1974, Trung Ðoàn 24 CSBV, sau khi được tái bổ sung và tái trang bị, đã mở một cuộc tấn công khác vào đỉnh đồi 1062. Họ dùng súng phóng hỏa đốt cháy dữ dội khiến các lực lượng Dù phải rút khỏi đỉnh đồi này.


 
VNCTLS Ghi Chú: Sau khi đăng tải bài viết Mặt Trận Thường Đức một thời gian khá lâu, chúng tôi nhận được email của một cựu chiến binh Bắc Việt. Trong thư, ông cho biết đã từng tham gia trận đánh này từ đầu đến cuối. Và ông cũng cho biết thêm một ít chi tiết về trận đánh ở Thường Đức. Chúng tôi xin trích đăng một phần lá thư này cùng quý vị độc giả.
    "Tôi là một người tham gia vào chiến dịch Thượng Đức từ đầu đến cuối, nhưng ở phía bên kia chiến hào. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy bài viết của ông rất chi tiết về chiến dịch này. Trong đó ông chưa nêu được vai trò và thành tích của Không Quân VNCH. Họ đã gây không ít tổn thất, nếu không nói là nặng nề, cho phía chúng tôi trong khi tấn công căn cứ Thường Đức.
    Một chi tiết không chính xác là Không Quân diệt được xe tăng của chúng tôi là không đúng, vì bên này chẳng có một chiếc xe tăng nào hết. Biệt Động Quân (Tiểu Đoàn 79) rất đáng khen là họ chiến đấu rất gan lì và không đầu hàng sau 9 ngày chống cự. Từ trận Dakpek, phía chúng tôi rút được kinh nghiệm dùng đại bác bắn trực xạ nên các trận chiến đều được áp dụng lối này, rất có hiệu quả như ông Dưỡng mô tả.
    Tôi không đồng ý với ông Dưỡng là phía Bắc quân luôn dùng chiến thuật biển người. Tấn công Thượng Đức trực tiếp chỉ có Trung Đoàn 66 của Sư Đoàn 304. Một trung đoàn của Sư Đoàn 324 (đã hạ đồn Dakpek) không trực tiếp tấn công, chỉ dàn quân chờ đánh tiếp viện. Sau khi lấy được Thường Đức, Trung Đoàn 66 thiệt hại 3/4 quân số và sau này là lược lượng chính tiếp cả 3 lữ đoàn Nhảy Dù. Trong trận lấy lại ngọn 1062 ngày 29 tháng 10 năm 1974, đại đội của tôi chỉ có 27 tay súng đã giành lại 1062.
    Trận này, chúng tôi kéo 1 khẩu súng chống tăng 85 mm bắn trực xạ, súng 14.5 mm phòng không 4 nòng, hạ nòng yểm trợ bộ binh. Khi chiếm được 1062, chỉ còn 5 người trong đó có tôi, đến ngày 31 tháng 10 đại đội tôi chỉ còn 1 người trên đỉnh 1062.
    Tôi đồng ý với ông (tác giả), tới thời điểm này cả hai phía đã hết "sinh lực." Nếu như quân Nhảy Dù còn sức, tôi nghĩ các ông có thể lấy lại Thường Đức. Phía bên này (Bắc Việt) không biết là các ông cũng đã "hết sinh lực" như ông mô tả, mà nghĩ là quân Dù phải rút đi để hỗ trợ cho Buôn Mê Thuột vừa bị thất thủ.
    Mong chờ bài viết tiếp của ông, và cảm ơn.
    Một cựu chiến-binh Bắc Việt tại mặt trận Thường Đức
    (Trung Đoàn 66/Sư Đoàn 304)

Ngày 1 tháng 11/1974, Ðồi 1062 lại một lần nữa bị địch chiếm giữ. Trong khi ở Bắc Hải Vân, áp lực địch rất nặng vì quân Nhảy Dù bị rút đi. Trung Tướng Ngô Quang Trưởng không chấp thuận đề nghị kéo quân Nhảy Dù về bảo vệ Bắc Hải Vân. Ông ra lệnh cho Tướng Lê Quang Lưỡng (tư lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù) phải lấy lại Ðồi 1062 với bất cứ giá nào. Cuộc phản công bắt đầu vào ngày 8 tháng 11/1974, và chỉ 3 ngày sau, các đơn vị Nhảy Dù đã chiếm lại đồi 1062.
Dẫu cho cuộc giằng co giữa hai bên còn kéo dài thêm vài tuần nữa, lực lượng Nhảy Dù tiếp tục bung rộng vùng kiểm soát, cuộc chiến đấu đẫm máu nhất từ ngày ký Hiệp Định Ngừng Bắn coi như chấm dứt. Sư Đoàn Nhảy Dù bị hy sinh gần 500 chiến sĩ, và khoảng 2,000 người bị thương. Địch quân chết 2,000 và bị thương 5,000 người (theo tài liệu của Colonel William E. LeGro trong Vietnam from Cease-Fire to Capitulation).
Bảy tiểu đoàn Nhảy Dù đã lâm chiến suốt 3 tháng, và vào trung tuần tháng 10/1974, sáu tiểu đoàn đã lần lược ngự trị ngọn đồi máu 1062 này. Ðịch quân đã dòm ngó quân Nhảy Dù trên đỉnh 1235, nhưng Tướng Lê Quang Lưỡng không đủ lực lượng để kiểm soát luôn dãy đồi cao này. Ðồng thời địch quân vì tiêu hao quá nhiều nên cũng không dám trở lại tấn công đơn vị thiện chiến này của Việt Nam Cộng Hòa.
Vào cuối năm 1974, chỉ còn Tiểu Ðoàn 1 và 7 Nhảy Dù ở lại giữ vùng 1062 này. Họ đặt Bộ Chỉ Huy tại đỉnh Đông Lâm, khoảng 4 cây số phía Đông 1062. Mùa mưa đến, cả hai bên cần thời gian để chuẩn bị cho mùa khô kế tiếp.
DIỄN TIẾN CHI TIẾT
Cộng quân lần lượt tấn chiếm các xã, quận, và căn cứ quân sự của ta ở Quảng Nam, Đà Nẵng, và Quảng Ngãi. Sự việc mất các đồn lũy xảy ra thường xuyên. Câu nói thông thường lúc bấy giờ là "mất liên lạc. "Quận A mất liên lạc," "đồn B mất liên lạc, v.v." Mất liên lạc cũng đồng nghĩa với "di tản chiến thuật" hồi trận chiến mùa hè đỏ lửa năm 1972, và mọi người đều hiểu quân ta đã rút lui và địch đã chiếm mất rồi. Ngay cả khu đồng bằng Quảng Đà, nơi có bản doanh Quân Đoàn 1 và phi trường lớn Đà Nẵng cũng bị lay động, lâm nguy.
Quận lỵ Thường Đức bị "mất liên lạc," phi trường Đà Nẳng và bản doanh Quân Đoàn 1 thường xuyên bị pháo kích. Các đơn vị địa phương hầu như bị địch bao vây tấn công tràn ngập và mất liên lạc nhiều nơi. Áp lực địch nặng nề đến nỗi dân Đại Lộc đã phải gồng gánh, bồng bế nhau chạy ra thị xã Đà Nẵng.
Ngay khi hay tin Thường Đức bị thất thủ, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đã biết rõ ý đồ của địch. Ông cho rằng chúng định lợi dụng địa thế hiểm trở chiến lược của vùng rừng núi trùng điệp xung quanh đồi 1062, bày binh bố trận để cầm chân các đơn vị thiện chiến tổng trừ bị. Do đó Tướng Trưởng đã cho lệnh di chuyển pháo binh nặng của Quân Đoàn 1, gồm các pháo đội đại bác 175 ly và 155 ly tới Đại Lộc, gần Thường Đức. Ðồng thời ông điều động 2 lữ đoàn Dù (không đủ quân số) vào tăng cường nhằm thanh toán hai sư đoàn chính qui Cộng Sản Bắc Việt. Đây là trận đánh đẫm máu lớn nhất giữa Việt Nam Cộng Hòa và Bắc Việt kể từ khi Hiệp Định Ðình Chiến Ba Lê có hiệu quả vào ngày 27 tháng 1/1973.
Vào thời điểm 1973-74, biết mình không còn là lực lượng trừ bị để phản ứng khi cần, Tướng Lê Quang Lưỡng đã tâm sự với các sĩ quan tham mưu, "Lực lượng mình đang bị cầm chân dọc theo dãy Trường Sơn. Bây giờ nếu địch tấn công và chọc thủng phòng tuyến, tràn theo hành lang sông An Lỗ vào đồng bằng Trị Thiên. Anh em mình chắc chỉ còn đường ra biển."
Mối lo không có lực lượng trừ bị là một dằn vật thường trực với vị tướng tư-lệnh trẻ tuổi này. Quả vậy, đấy chỉ là nói giả dụ tới việc địch tấn công vào khu vực trách nhiệm của Sư Đoàn Nhảy Dù thôi. Nếu địch thọc sâu cắt đứt đèo Hải Vân làm cho Nam, Bắc Hải Vân không còn tiếp ứng được cho nhau nữa thì sẽ ra sao? Chắc ước tính của Quân Đoàn 1 là cuộc tấn công sắp tới của địch sẽ theo trục Bắc-Nam giống như cuộc tấn công vào mùa hè năm 1972. Do đó, Quân Ðoàn 1 đã dồn nỗ lực đào hầm, đặt chướng ngại vật chống chiến xa ở bờ Nam sông Mỹ Chánh, chuẩn bị phòng thủ rất chu đáo.
Riêng tướng Lê Quan Lưỡng và bộ tham mưu Sư Đoàn Nhảy Dù không đồng ý như vậỵ Cuộc tấn công lần này của địch chắc không tốn kém, hao tổn sức lực như năm 1972, mà chúng chỉ cần chọc mũi dùi thật lẹ và mạnh từ Tây sang Đông, cắt đứt khu vực Quân Đoàn 1 làm đôi ở đèo Hải Vân thì sẽ dụ lực lượng trừ bị tới giải tỏa. Như vậy coi như một chiến thắng đáng kể của họ rồi.
Với mối lo âu ấy, làm sao có được trong tay lực lượng trừ bị khá mạnh để có thể phản ứng ngay khi tình hình đòi hỏi? Và sau đây là kế hoạch để có quân trừ bị của Sư Đoàn Nhảy Dù:

Trận Chiến Thường Ðức (Phần 2)


Tác giả: Trương Dưỡng
Giảm quân số tại hậu cứ, các văn phòng, các đơn vị hành chánh, yểm trợ tiếp vận, và ngay cả trung tâm huấn luyện cũng phải giảm bớt để dồn ra vùng hành quân. Chuyển 2,000 thặng số quân y cho bệnh viện Cộng Hòa quản thúc (nhờ vậy quân đội có thêm hai ngàn binh sĩ để bổ sung và tăng cường). Tại khu vực hành quân, các tiểu đoàn cũng trích quân số để lập thành những đại đội đặc biệt.
Bộ Chỉ Huy Lữ Ðoàn 2 Nhảy Dù được chỉ định huấn luyện kỹ thuật tác chiến (từ quy ước tới không quy ước), ngay cả kỹ thuật đặc công, và được mang danh hiệu là các "Đại Đội Đa Năng."
Việc thành lập và huấn luyện các đại đội đa năng này làm các ông trong tòa Đại Sứ Mỹ quan tâm, thắc mắc nhiều. Các phái đoàn tùy viên quân sự ngoại quốc tới thăm Sư Ðoàn Nhảy Dù đều đặt câu hỏi về đơn vị đa năng:


  • Ngân sách nào cung ứng để thành lập?


  • Lập các đơn vị này để làm gì ?


  • Có bao nhiêu đơn vị đa năng ?


  • Ở cấp nào ? đại đội hay tiểu đoàn ?


  • Tại sao lại gọi là Đa Năng ?
    Ban tham mưu sư đoàn đã được Tướng Lưỡng ra lệnh cứ giải thích cho họ biết. Chính phủ và quân đội không mất đồng xu nào để có được các đơn vị này, kể cả trang bị. Tất cả đều nằm trong phương trình như x=a+b+c. Và chúng tôi có 12 đại đội đa năng trong Sư Đoàn Nhảy Dù. Nếu gọi các đơn vị này là "d" thì a+b+c+d cũng vẫn bằng x thôi.
    Và cuối năm 1973, Sư Ðoàn Nhảy Dù đã có trong tay 12 đại đội đa năng dùng làm trừ bị. Lúc cần thành lập tiểu đoàn, lực lượng này sẽ là 3 tiểu đoàn hay một lữ đoàn trừ bị. Với lực lượng đa năng này, vùng đóng quân của bộ chỉ huy và bản doanh sư đoàn có thêm sự an toàn, có thể dẹp yên mọi quấy rối của địch, kể cả du kích ở hậu tuyến.
    Tình hình tổng quát vào thời điểm giữa năm 1974: tình hình Bắc Hải Vân tương đối yên tỉnh, trong khi vùng Nam Hải Vân rất sôi động và nguy ngập. Thượng tuần tháng 7/1974, Sư Ðoàn Nhảy Dù nhận được lệnh khẩn cấp từ Quân Đoàn I là đưa ngay lực lượng Nhảy Dù vào Quảng Đà, chỉ để lại một lữ đoàn ở Bắc Hải Vân cho dân chúng khỏi hoang mang rúng động.
    Tướng Lưỡng lệnh cho Sư Đoàn Nhảy Dù gồm Lữ Ðoàn 1 và 3 vào Đà Nẵng. Trước khi đi ông nói với ban tham mưu: "Mình sẽ vào Đại Lộc. Lấy được quận Thường Đức địch sẽ đánh thẳng vào Đà Nẵng!"
    Chỉ tay vào bản đồ Tướng Lưỡng nói tiếp:
    - Sau khi các bộ phận của mình đã vào tuyến xuất phát. Ta sẽ cho nỗ lực chính tiến theo đường đỉnh dãy núi Sơn Gà rồi trực chỉ Thường Đức. Nỗ lực chính sẽ là Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù. Trong khi đó Lữ đoàn 3 lục soát xung quanh thung lũng Đại Lộc, và làm thành phần trừ bị sẵn sàng tiếp ứng cho Lữ Ðoàn 1.
    Tình hình quân Bắc Việt lúc bấy giờ là Sư Ðoàn 324 đang chiếm đánh Thường Đức. Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù và một tiểu đoàn Đa Năng ở lại trấn giữ phía Bắc đèo Hải Vân. Trên phương diện tình báo, khi các cánh quân Nhảy Dù tới tuyến xuất phát, kiểm thính qua giàn máy vô tuyến điện báo của sư đoàn. Bất ngờ vào đúng tần số liên lạc của đối phương. Nghe chúng báo cáo với nhau như sau:
    "Ngụy Dù đang ở Tây Đại Lộc. Tiểu Ðoàn 1 tại xã..., Tiểu Ðoàn 9 đang di chuyển từ A tới C. Tiểu Ðoàn 8 đang ở làng..."
    Báo cáo của địch rất chính xác về vị trí của các đơn vị Nhảy Dù. Đại Úy Phước, sĩ quan truyền tin sư đoàn, ngoài đặc tính siêng năng, cần mẫn, và cẩn thận, anh còn rất thích thú dò tìm tần số liên lạc của địch. Khi những báo cáo của chúng ngưng, anh lại rà máy tìm ra địch ở tần số khác và tiếp tục nghe được các báo cáo của chúng về Nhảy Dù.
    Biết được như vậy, Tướng Lưỡng sửa đổi kế hoạch. Ông cho lệnh Lữ Ðoàn 1 cứ để các tiểu đoàn chính ở chỗ mà địch đã biết, ông tung các đại đội Đa Năng 19, 21, 27 bất ngờ tấn chiếm các cao điểm; di chuyển về trái, tiến sâu về phải. Cứ hoán chuyển vị trí liên tục cho đến khi tới sát được Thường Đức. Và các báo cáo của địch sau này cho thấy có sự bỡ ngỡ, hoang mang. Nghe địch hỏi nhau là các đơn vị của Dù hay của các đơn vị khác tới tăng cường?
    Hết lệnh cho các Đại Đội Đa Năng 19, 21, 27 lại đến lệnh cho Đa Năng 1, 2, 3... tung quân đột kích nhiều hướng. Thế là địch không còn báo cáo chính xác vì sự biến hóa linh động của các đơn vị này.
    Trận đánh đẫm máu lớn nhất giữa ta và địch kể từ khi có Hiệp Định ngưng bắn 27 tháng 1/1973, khi Lữ đoàn 1 Nhảy Dù và các đơn vị tăng cường xuất trận vào thay thế Trung Đoàn 2 của Sư Đoàn 3 Bộ Binh.
    Ngay khi đoàn xe chở quân vừa tới làng Hà Nha 1 ở dưới chân núi cách Thường Đức 10 cây số về hướng Đông, Cộng quân đã pháo kích bằng nhiều loạt đạn khác nhau. Một số dân chúng chạy theo lính Địa Phương Quân, thấy Nhảy Dù đến liền ngừng lại. Một niềm tin mãnh liệt chợt bừng lên đối với những người dân khốn khổ sống trong vùng rừng núi hoang vu này. Đi đâu thì cũng "đất cày lên sỏi đá!" Họ chỉ có một hy vọng nhỏ nhoi là trở lại sinh sống trong những căn nhà tranh với những luống ngô khoai bên triền núi cao, mà họ đã đổ mồ hôi canh tác trong nhiều tháng qua.
    Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh, Khóa 15 Ðà Lạt (lúc đó là lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù) một sĩ quan trẻ tuổi tài ba. Ông từng lập nhiều chiến tích trong sư đoàn Nhảy Dù, trận Đại Bàng 800, trận Mậu Thân, trận Hạ Lào, hành quân tái chiếm Quảng trị. Nhất là trận An Lộc ở tỉnh Bình Long, ông đã chỉ huy Tiểu Ðoàn 6 đổ bộ trực thăng vào Đồi Gió, sau đó đã mở đường máu từ Tân Khai, Xa Trạch, lên Xa Cam bắt tay với Tiểu Đoàn 8 trong thị xã An Lộc.
    Trong Giai Đoạn 1, Trung Tá Đỉnh ra lệnh Tiểu Đoàn dọc theo Tỉnh Lộ 4 chiếm làng Hà Nha và bảo vệ cánh trái. Đại Ðội 83 của Đại Úy Hiệu được lệnh đánh chiếm hai làng Hà Nha 1 và Hà Nha 2 để giải tỏa đồn Địa Phương Quân, cứ điểm cuối cùng của lực lượng phòng thủ trong quận Đại Lộc này. Khi vừa gần tới bờ làng, họ gặp sự kháng cự mạnh mẽ của địch. Thấy đơn vị vừa mới xuống xe, binh sĩ chưa ăn uống, bên kia sông Việt Cộng lại đặt đại bác không-giật bắn vào, Ðại Úy Hiệu đề nghị rút lui để cho Pháo Binh dập, nhưng Thiếu Tá Vân (tiểu đoàn trưởng của Tiểu Ðoàn 8) sợ dân làng bị liên lụy nên thúc Hiệu cứ tấn công vào.
    Chấp hành lệnh, Hiệu dàn cả hai trung đội xung phong thần tốc, địch hốt hoảng bỏ chạy. Ta chiếm được làng Hà Nha với một giá rất đắt: hai trung đội trưởng tài giỏi nhất của Hiệu là Thiếu Úy Tiến và Thiếu Úy Thành bị hy sinh. Đại Úy Hiệu hoàn thành nhiệm vụ nhưng lòng rất xót xa.
    Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù chiếm đỉnh cao Đông Lâm trên dãy Sơn Gà bảo vệ sườn phải. Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù đi trục chính đánh chiếm đám rừng tràm, hướng về mục tiêu là Ðồi 1062.
    Giai đoạn 2, Tiểu Đoàn 8 làm nỗ lực chính, chia quân hai cánh, cánh phải do Thiếu Tá Trần Toán chỉ huy tiến về hướng điểm C thay thế Tiểu Ðoàn 1 trên đỉnh Sơn Gà, mục tiêu là đồi 1062.
    Thiếu Tá Vân cho lệnh Đại đội 81 của Đại Úy Võ Thế Hùng đi đầu. Bọc hậu có Đại Ðội 82 của Trung Úy Hùng "ốm." Tiểu đoàn trừ do Thiếu Tá Trần Toán chỉ huy, anh cho Đại Ðội 83 của Đại Úy Phạm Văn Hiệu đi chính diện, và Đại Úy Đồng Văn Minh dẫn đại đội 84 đi sườn phải, tiến lên hướng 1062.
    Thành phần nỗ lực chính của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù bắt đầu xung trận, khi các đơn vị vừa vượt tuyến xuất phát khoảng 1 cây số, thì chạm địch mạnh với quân số áp đảo, họ phải giành giựt từ ngôi nhà, từng gốc cây trên con đường độc đạo dẫn vào quận Thường Đức.
    Đoạn đường dài hơn 5 cây số, bên trái là sông Vu Gia, bên phải là những triền núi thuộc dãy Sơn Gà. Chiến xa và pháo binh Cộng Sản bố trí bên kia sông có lẽ để giữ Bộ Chỉ Huy Hành Quân. Chủ lực quân của địch tập trung trên các đỉnh cao phía sau quận Thường Đức. Họ đang chiếm giữ các đỉnh 1062, điểm cao 1235, 383, 293, 126, và đóng chốt dọc theo các sườn núi.
    Đoạn đường 5 cây số vô cùng gian nan hiểm trở, với nhiều bẫy và pháo tập gài sẵn của địch. Đây quả thật là một thử thách, đo lường sự can đảm, kinh nghiệm và kỹ thuật chiến đấu của các chiến sĩ Dù trước khi họ thực sự tham dự một trận đánh để đời quanh ngọn đồi đẫm máu 1062.
    Giai đoạn đầu, đội hình tấn công của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù như sau:
     


  • Tiểu Đoàn 9 giữ trục chính ở giữa


  • Tiểu Ðoàn 8 đi cánh trái, dọc theo trục lộ sát bờ sông Vu Gia, tiến chiếm làng Hà Nha 1 và Hà Nha 2 ở phía Đông đồn Địa Phương Quân cũ (trên cao điểm 52)


  • Tiểu Ðoàn 1 đi cánh phải, tiến chiếm cao điểm Đông Lâm, rồi theo đường đỉnh dãy Sơn Gà tiến hướng Tây tới 1062.


  • Tiểu Ðoàn 9 giữ trục chính, đi dọc theo cánh đồng rộng phía Bắc sông Vu Gia, chiếm lĩnh dãy đồi thấp có rừng chồi che phủ.
    Từ dãy đồi thấp phía Nam dãy Sơn Gà, Trung Úy Nhơn (đại đội trưởng Ðại Ðội 92), Trung Úy Thăng (đại đội trưởng Ðại Ðội 94), Đại Úy Trọng (đại đội trưởng Ðại Ðội 91), cùng Đại Đội 93 của Đại Úy Tửu muốn đến đồi 383 để tiến sát tới đỉnh 1062, họ còn phải băng qua một cánh rừng tràm nữa. Các chiến sĩ của Tiểu Ðoàn 9không sao qua đến được bìa rừng dưới chân núi Đông Lâm, vì hỏa lực từ cứ điểm B trên sườn núi chế ngự. Cứ điểm này vô cùng kiên cố, vừa ở cao, vừa được che chở bởi các tảng đá lớn chồng lên nhau. Tiểu Ðoàn 9 đã dùng rất nhiều phi pháo nhưng vẫn không tiêu diệt được. Đại Úy Tửu bị thương chân nên Đại Úy Tường từ Ðại Ðội 90 ra thay thế.
    Tiểu Ðoàn 1 do Thiếu Tá Ngô Tùng Châu chỉ huy, từ Hội An được lệnh di chuyển đến bàn giao với Sư Đoàn 3 Bộ Binh tại một đồi thấp ở phía Nam Đông Lâm khoảng 3 cây số. Họ đi cánh phải của Lữ Đoàn, mục tiêu đầu là đỉnh Đông Lâm. Đây là một đồn bót cũ, địa thế xung quanh trống trải, dọc dài xuống tận chân núi. Các đại đội tiến quân dưới cơn mưa pháo của quân Bắc Việt, họ phải xung phong thần tốc bám sát và đánh cận chiến để địch không sử dụng được các bãi pháo mà họ đã chuẩn bị sẵn.
    Thiếu Tá Quý (tiểu đoàn phó) chỉ huy 2 đại đội thanh toán các tổ cảm tử quân Việt Cộng đang đóng chốt trên những điểm cao, những hốc đá cheo leo dọc theo dãy Sơn Gà. Một trở lực lớn là quá nhiều mìn bẫy (thuộc loại "mìn hơi" làm bằng nhựa nhỏ cỡ hộp thịt ba lát). Loại mìn này có thể hủy diệt 2 chân nếu dẫm phải. Tại đây Ðại Ðội 11 bị tổn thất 2 chiến sĩ vì mìn hơi này.
    Lữ Đoàn phải tăng phái toán rà mìn của Đại Đội 1 Công Binh Dù để mở đường. Mục tiêu Đông Lâm được chiếm lĩnh dễ dàng vì không có lực lượng phòng ngự của địch. Tuy nhiên các chiến sĩ Dù hoàn toàn thụ động trước những tấn công lẻ tẻ bằng súng đại bác không giật từ những đỉnh đá.
    Một điều quan trọng là tiền quân của Tiểu Đoàn 1 của Đại Úy Trần Văn Thể đã tìm được toán tiền sát viên pháo binh của địch gồm 2 người đã chết (cụt chân do mìn hơi) và một người còn sống với đầy đủ máy truyền tin, bản đồ, và địa bàn. Từ đóvị trí các lực lượng bạn không còn bị pháo kích chính xác nữa.
    Đáng lý theo dự tính, Đông Lâm là điểm hẹn giữa Ðại Ðội 11 của Ðại Úy Thể và Ðại Ðội 14 của Trung Úy Vệ đi với Thiếu Tá Quý. Nhưng vì không chạm địch nên hai đại đội này trực chỉ tới mục tiêu B.
    Từ đỉnh Đông Lâm, Tiểu Ðoàn 1 (lợi thế hơn 2 cánh quân bạn) tiến quân trên đường đỉnh dãy Sơn Gà. Ðịa thế đủ rộng cho hai đại đội đi đầu, và tốc độ tiến quân cũng nhanh hơn. Do đó Tiểu Ðoàn 1 từ cao điểm đã bảo vệ hữu hiệu sườn phải cho lữ đoàn. Quả thật vậy, qua sự phối hợp hàng ngang với Tiểu Ðoàn 9, Tiểu Ðoàn 1 đã cho cho lệnh Đại Ðội 11 "đạp" xuống cứ điểm B, nơi địch đang cầm chân tiền quân của Tiểu Ðoàn 9.
    Xuyên qua thung lũng, Ðại Úy Thể dẫn quân đến B một cách bất ngờ, và ở ngay sau lưng địch. Đối diện với Cộng quân là Tiểu Ðoàn 9 Dù đang bị cầm chân ở tại dốc đá. Nhờ lợi thế cao, Đại Ðội 11 để lại một trung đội ở B để đóng chốt và giữ ba lô cho các trung đội khác. Thành phần còn lại tập trung hỏa lực, xung phong đánh thần tốc và tràn ngập cứ điểm B1.
    Quân Bắc Việt hoảng hốt xả chốt chạy tán loạn, chỉ trong vòng 2 tiếng đồng hồ, Ðại Ðội 11 đã kiểm soát hoàn toàn các đỉnh đá ở phía Nam của B. Chốt B1 được giải tỏa dễ dàng với chiến lợi phẩm là 1 súng cối 61 ly, 1 thượng liên, 7 súng AK, 4 khẩu B-40, 1 điện thoại, một số đạn 72 ly nhưng không tìm được súng. Sau này Tiểu Ðoàn 11 của Trung Tá Lê Văn Mễ dùng nơi đây làm chỗ đóng quân tạm thời cho Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn.
    Trời đà chạng vạng tối, chờ bắt tay mãi với Tiểu Ðoàn 9 không được, Ðại Ðội 11 phải tạm đóng quân đêm tại B và B1. Một biến cố xảy ra đêm đó, đặc công địch bò trở lại đột kích B1 bằng B-40 rồi bỏ chạy. Chuẩn Úy Tuyến hy sinh đêm đó. Sáng hôm sau, địch pháo kích mạnh mẽ bằng đạn 122 ly vào B và B1 nhưng không chính xác nên không bị tổn thất. Khoảng 11 giờ trưa, Thiếu Tá Quý và Ðại Ðội 14 bắt tay với Ðại Ðội, đồng thời Tiểu Ðoàn 9 cũng xuất hiện và đóng chốt tại B2.
    Có lẽ cứ điểm C mới thật là một tiền đồn mạnh mẽ của quân Bắc Việt. Ðại Ðội 14 đi đầu và chạm địch trước khi tới C. Thiếu Tá Nguyễn Văn Quý đi với cánh quân bọc hậu là Ðại Ðội 11 của Đại Úy Thể. Một phần vì địa thế hiểm trở, thêm vào đó yếu tố bất ngờ không còn nữa. Địch đã chuẩn bị sẵn sàng với hầm hố kiên cố để đón Ðại Ðội 14. Công sự phòng thủ của địch thật vô cùng kiên cố, lại thêm rừng cây cổ thụ cao lớn. Ta sử dụng pháo binh rất khó vì sợ đạn chạm ngọn cây nổ từ cao gây thương tích cho quân bạn.
    Suốt 3 ngày cầm cự, Ðại Ðội 14 không thể tiến lên được đành phải án binh tại chỗ. Thiếu Tá Quý đẩy Ðại Ðội 11 thọc sâu về phía Tây rồi từ đó tiến đánh C bằng hướng Nam. Quân Bắc Việt trên cao, quân ta dưới thấp, nhưng nhờ hốc đá nên Ðại Ðội 11 bám sát tiến lần vào cách C khoảng 200 thước, và phải dừng lại vì sợ lọt vào tầm lựu đạn. Nhờ địch tưởng ta tấn công mặt Nam, nên Tiểu Ðoàn 1 sử dụng đại bác 57 ly và súng cối 81 ly để có thể bắn chính xác vào mục tiêu. Thiếu Tá Quý cho tập trung 5 khẩu đại liên M-60, chờ bắn hơi cay cho địch chạy ra khỏi hầm trú ẩn, thì tập trung hỏa lực mạnh mẽ bắn phủ đầu địch.
    Ðại Ðội 14 bất thần xuyên nhanh qua yên ngựa để chiếm C, từng tổ 3 người bò dưới hỏa lực tiến vào mục tiêu dùng lựu đạn ném vào phòng tuyến địch, rồi lập tức xung phong chiếm hầm hố địch làm đầu cầu. Kế đó họ bung rộng ra đánh chiếm từng hầm một. Thừa thắng Thiếu Tá Quý đẩy Ðại Ðội 14 qua thẳng 1062, nhưng mọi dự tính không xảy ra như mong muốn, và cũng từ đó Ðại Ðội 11 và Ðại Ðội 14 phải trả giá rất đắt cho đỉnh 1062.
    Sau khi địch tháo chạy vì sự tấn công quá dũng mãnh của các chiến sĩ thiện chiến Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù, hai Ðại Ðội 11 và 14 chia nhau bố trí lập vị trí phòng thủ sơ khởi để ngăn ngừa địch phản công. Một trận mưa cối sơn pháo 120 ly của Bắc quân bủa xuống, tiếng nổ vang khắp rừng già, khói phủ mù mịt trận địa. Nhờ bung rộng và hầm hố kiên cố của địch để lại, nên binh sĩ ta tránh được thiệt hại nặng nề bởi trận mưa pháo tập trung và chính xác này.
    Càng tiến gần về 1062, địa thế càng hiểm trở: rừng rậm hơn, cây to nhiều hơn, sườn càng dốc đứng hơn. Từ cứ điểm C nhìn lên mục tiêu, ở cao hơn 2 vòng cao độ (theo bản đồ quân sự tương đương 20 thước). Cách xa chừng 150 thước, ta thấy rõ địch đang lố nhố chạy tới chạy lui tăng cường phòng thủ. Thiếu Tá Quý gọi xin pháo binh bắn "cắm chỉ" lên mục tiêu đó ngày và đêm. Đây được gọi là mục tiêu D, một trong 5 đỉnh của 1062. Giữa C và D là một thung lũng (eo yên ngựa) sâu khoảng hơn 20 thước. Như vậy quân ta nếu tấn công mục tiêu D, ít nhất phải vượt lên một dốc đứng cao tới hơn 40 thước. Từ D, địch thỉnh thoảng bắn trực xạ bằng đại bác và thượng liên xuống mục tiêu C, nhưng không gây thiệt hại đáng kể nào cho quân bạn.
    Tình thế hiện tại thật bất lợi. Lúc đó Tiểu Ðoàn 8 và 9 còn cách quá xa 1062, chỉ có Tiểu Ðoàn 1 là gần và đang ở cao địa, không ai bảo vệ cạnh sườn để tiếp ứng kịp thời. Địa thế địch hiểm trở dễ thủ khó công. Địch chuẩn bị chiến trường đợi ta với những trận địa pháo và hầm hố kiên cố.
    Lúc bấy giờ ta chưa biết là có 5 đỉnh nhỏ trên 1062, vì bản đồ chỉ có một dấu chữ thập bên cạnh số 1062. Năm đỉnh nhỏ này nằm theo thế liên hoàn, yểm trợ cho nhau bằng hỏa lực dễ dàng. Diện tích rộng khoảng 2 đại đội mới bao phủ nổi.
    Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù quyết định đột kích đêm và lợi dụng gió Đông làm một trận hỏa công. Lực lượng cảm tử gồm 2 trung đội với Thiếu Úy Lê Văn Bá chỉ huy một trung đội thuộc Ðại Ðội 14 và Thiếu Úy Trần Thanh Quang chỉ huy một trung đội của Ðại Ðội 11. Đây là 2 sĩ quan xuất sắc đã từng lập nhiều thành tích chiến thắng cho tiểu đoàn. Ðại Ðội 11 (thiếu quân số) làm thành phần trừ bị sẵn sàng tiếp ứng kịp thời cho lực lượng tấn công. Tần số liên lạc thuộc nội bộ của Ðại Ðội 11 do Thiếu Tá Quý trực tiếp chỉ huy. Hỏa lực yểm trợ gồm súng cối 60 ly và 81 ly đã được chuẩn bị yếu tố tác xạ sẵn sàng.
  • Trận Chiến Thường Ðức(Phần 3)


     Tác giả: Trương Dưỡng

    Sáu giờ chiều, ánh sáng mặt trời trong rừng già đã tắt hẳn. Hai trung đội bắt đầu xuất phát. Thiếu Úy Quang dẫn trung đội đi bên trái, trung đội Thiếu Úy Bá bên phải. Họ giữ đội hình đi song song và cách nhau khoảng từ 30 đến 40 thước. Pháo Binh 105 ly của ta vẫn đều đều bắn cắm chỉ trên mục tiêu để địch lo trốn trong hầm, không ngóc đầu lên quan sát quân ta đang di chuyển. Một giờ, hai giờ, rồi 3 giờ trôi qua. Tình hình vẫn yên tỉnh, một thứ im lặng ngộp thở, vì mọi người đều lo cho số phận của đồng đội của mình.

    Hệ thống liên lạc vẫn tốt, Thiếu Úy Quang thì thầm trong máy:

    - Rất gần địch, tiếng chửi thề của chúng nó nghe rõ mồn một, đích thân.

    - Được! Cẩn thận nghe Quang! Thiếu Tá Quý trả lời nho nhỏ trong máy với giọng Huế chay.

    Bỗng nghe một loạt đạn nổ bên phải rồi im lặng. Pháo Binh ngưng tác xạ, hai cánh quân vừa bắn vừa hô xung phong vang rền cả núi rừng hoang vu. Lửa bắt đầu cháy trên mục tiêu, nhiều nhất là bên cánh Thiếu Úy Quang. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù xin Pháo Binh chuyển xạ về hướng Tây để bắn chận quân địch. Tiếng của Quang vang trong máy:

    - Chiếm được đỉnh rồi đích thân! Hầm quá nhiều và kiên cố, làm toàn bằng cây to. Mấy đứa con đang bung rộng chờ cánh quân bên phải!

    Trời tối đen như mực, vẫn chưa liên lạc được Thiếu Úy Bá. Mười lăm phút sau, Thiếu Tá Quý đứng dưới mục tiêu C thấy trên D có từng cụm lửa lóe lên chen lẫn trận địa pháo bằng súng cối sơn pháo 120 ly của địch. Tiếng của Quang vang lên trong máy:

    - Chúng pháo dữ quá đích thân, nhưng hầm hố kiên cố, không sao!

    Rồi hàng loạt tiếng đạn AK-47 kêu rít, tiếng Quang hét trong máy:

    - Chúng nó phản công, đông lắm! Cho Pháo Binh bắn trên đầu tôi, tụi nó đông như kiến! Mau lên! Pháo! Pháo mau lên!

    Ban đêm trời tối, Ðại Ðội 11 trừ bị cho Quang và Bá đang ở lưng đồi yên ngựa. Trung đội Thiếu Úy Bá thì không liên lạc được ngay từ loạt đạn đầu, sau này mới biết được Bá và 4 binh sĩ đã hy sinh vì mìn claymore (Việt Cộng lấy của Sư Ðoàn 3 Bộ Binh) ngay từ lúc đó.

    Thiếu Tá Ngô Tùng Châu (tiểu đoàn trưởng) bảo Quý:

    - Nếu thấy không được thì bảo Quang rút về, đừng hy sinh nhiều, ta sẽ tìm cách khác.

    Nhưng Quang không nghe lệnh (hoặc không thể nghe lệnh!). Sau nầy mới biết là Quang đã tập trung đạn của các binh sĩ bị thương, bảo họ rút, còn Quang thì ở lại bắn tới hết đạn và hy sinh anh dũng trên mục tiêu D. Đáng phục thay một binh sĩ can trường, biết hy sinh bảo vệ thuộc cấp và làm tròn bổn phận núi sông.

    Các binh sĩ thuộc hai trung đội đột kích của Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù đã gặp sự kháng cự phản công quá mãnh liệt, quân số địch rất đông. Địch định lấy thịt đè người. Từ đỉnh cao, khe núi, và các địa đạo trong rừng cây ùa ra như đàn ong vỡ tổ! Lính Nhảy Dù ria bắn không nghỉ tay. Trước khi gần hết đạn, Quang có gọi Thiếu Tá Quý phải kêu Pháo Binh bắn đạn nổ chụp ngay trên đầu thí quân, quyết liều sống chết với quân Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) một phen vì ta và địch lẫn lộn, không còn cách chọn lựa nào khác.

    Các đạn pháo CVT đã sát hại 10 phần địch và 3 phần quân bạn. Nhờ vậy các binh sĩ Ðại Ðội 11 được giải tỏa, xác địch và ta nằm ngổn ngang trên đỉnh đồi 1062.

    Ðại Ðội 14 của Trung Úy Vệ bị kẹt cứng ở yên ngựa nhỏ hẹp giữa mục tiêu C và mục tiêu D, hỏa lực Việt Cộng phủ kín từ D và 1062. Ðại Ðội 14 tổn thất mỗi ngày mà không tiến được bước nào. Pháo Binh Dù được sử dụng tối đa nhưng địa thế núi cao cây rậm. Bản đồ ghi rõ đỉnh 1062, nhưng D1 và D2 ở phía Bắc và Đông Bắc trong thực tế còn cao hơn 1062. Vì thế Pháo Binh phải bắn góc độ cao mới "gõ" vào 1062 được, nhưng với độ chính xác thật ít.

    Thiếu Tá Quý lại dùng kế cũ, dương đông kích tây, đẩy Ðại Ðội 11 về Tây để tấn công 1062 từ chính Nam nhằm giải tỏa áp lực Ðại Ðội 14 như trường hợp đánh mục tiêu C. Nhưng lần này sự việc không như lần trước, Ðại Ðội 11 vừa mới đến triền núi phía Nam của 1062 thì địch dùng súng cối 82 ly từ góc đồi phía Tây bắn một cách dữ dội, Ðại Ðội 11 bị hy sinh một tiền sát viên và 4 binh sĩ chưa kể một số bị thương.

    Rạng sáng, sau khi sử dụng Pháo Binh và súng cối 81 ly tối đa tối đa, Ðại Ðội 11 dàn 3 trung đội tấn công 1062 từ chính Nam. Hai bên quần thảo gần 6 tiếng đồng hồ, cuối cùng Ðại Ðội 11 chiếm được đỉnh 1062. Nhưng chưa đầy 10 phút, quân Bắc Việt đã từ D1 và D2 đồng loạt khai hỏa bằng đủ loại vũ khí phủ trùm 1062. May nhờ hệ thống giao thông hào của địch để lại nên cũng giảm bớt phần nào tổn thất.

    Thượng liên Cộng quân bắn liên hồi từ nhiều vị trí, và sợ nhất là đạn súng cối 61 ly của địch. Ngay đợt pháo đầu Thiếu Úy Huệ đã bị thương. Đỉnh 1062 trước đó đã bị phi pháo quần nát từ rậm rạp nay chỉ còn lại một đồi trọc với đất cát vàng cày xới tung tóe. Ðại Ðội 11 không chịu nổi phải rút về triền núi phía Nam, Huệ kéo xuống được còn xác Quang bị cháy thành than như đã nói ở phần trên.

    Tổn thất Ðại Ðội 11: Thiếu Úy Quang và 15 binh sĩ hy sinh. Ba mươi bảy (37) bị thương trong đó có Thiếu Úy Huệ và Thiếu Úy Quách An (sĩ quan Khóa 26 Đà Lạt).

    Trong khi đó bên Ðại Ðội 14 cũng cố gắng xuyên thủng chốt địch trong hốc đá ở yên ngựa để lên 1062 bắt tay với Ðại Ðội 11, nhưng mọi dự tính không thành. Trung Úy Vệ bị thương, Trung Úy Bằng, Ðại Ðội Phó Ðại Ðội 11 qua thay, hai ngày sau cũng bị tử thương vì lựu đạn địch. Eo yên ngựa giống như một khúc xương kẹt ngay cổ họng, thật khó nuốt vô cùng.

    Riêng Ðại Ðội 12 của Trung Úy Thọ (sĩ quan Khóa 25 Ðà Lạt) và Ðại Ðội 15 của Đại Úy Lộc (sĩ quan Khóa 23 Ðà Lạt) đi với Thiếu Tá Ngô Tùng Châu vẫn lục soát và làm thành phần trừ bị ở Đông Lâm. Trung Úy Thọ bị thương do pháo kích, Trung Úy Khánh (truyền tin) ra thay cũng bị tử thương. Vài hôm sau, Tiểu Ðoàn 8 của Thiếu Tá Vân vào thay. Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù rút về Hà Nha dưỡng quân và bổ sung quân số.

    Bước tiến quân của Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù trong giai đoạn đầu đến sát chân đồi 1062, bảo vệ sườn phải cho Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù. Sau đó Thiếu Tá Phú "đen" đến thay thế làm tiểu đoàn phó, Thiếu Tá Quý về đơn vị cũ làm tiểu đoàn phó Tiểu Ðoàn 7 Nhảy Dù.

    Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù từ Quảng Trị về nghỉ dưỡng quân và tái trang bị được 2 tuần thì có lệnh đi hành quân trở lại, vùng hành quân là Thường Đức. Đúng 6 giờ sáng, tại trại Trần Quy Mại, đơn vị được trang bị đầy đủ cấp số đạn dược, quân trang, quân dụng, lương thực. Những người lính lên xe GMC ra phi trường Tân Sơn Nhất. Năm chiếc vận-tải cơ C-130 chở quân đáp xuống phi trường Đà Nẳng độ 12 giờ trưa, và đoàn xe vận tải GMC chở họ đến quận Đại Lộc.

    Trong khi binh sĩ lo nghỉ ngơi, nấu nướng, thì các sĩ quan từ đại đội trưởng trở lên vào họp khẩn cấp về cuộc hành quân giải tỏa quận Thường Đức. Sau khi mọi người đứng dậy chào vị chủ tọa là Tướng Lê Quang Lưỡng, các sĩ quan Phòng 2, Phòng 3, và Phòng 4 thuyết trình chi tiết về cuộc hành quân.

    Tướng Lê Quan Lưỡng trực tiếp ra lệnh các đơn vị:

    - Các anh phải chiếm các cao điểm và đánh bật địch ra khỏi khu vực nầy. Muốn như vậy các anh phải đánh địch từ đàng sau lưng, hoặc bọc ngang hông để cắt đứt đường tiếp tế và viện binh.

    Ông vừa nói vừa chỉ lên bản đồ hành quân và tấm bảng đen chỉ rõ rành mạch. Đây là lần đầu tiên các sĩ quan cấp nhỏ được nghe lệnh trực tiếp từ vị tư lệnh sư đoàn, mọi người đều hiểu rằng cuộc hành quân nầy thật quan trọng và đầy cam go.

    Sau thời gian họp khoảng 45 phút, các binh sĩ Tiểu Ðoàn 8 tiếp tục lên xe chạy tới điểm xuất phát cách làng Hà Nha độ 1 cây số về hướng Đông. Lúc đó vào khoảng 5 giờ 30 chiều cùng ngày, Ðại Ðội 83 của Đại Úy Phạm Văn Hiệu, sĩ quan Khóa 23 Ðà Lạt, được lệnh đánh chiếm Hà Nha. Ðại Ðội 84 của Đại Úy Đồng Văn Minh, sĩ quan Khóa 26 Thủ Ðức đi cánh phải chiếm ngọn đồi nhỏ ở phía Bắc Hà Nha.

    Hiệu cho lệnh Trung Đội 1 của Thiếu Úy Nguyễn Văn Tiến (tự Tiến Trâu) dẫn đầu, cho tổ khinh binh dọc theo bờ sông di chuyển theo đội hình chân vẹt yểm trợ cho nhau tiến vào làng. Trung Đội 2 của Thiếu Úy Nguyễn Văn Thành đi cánh phải kẹp theo Tỉnh Lộ 4 tới dàn quân tại gò mả, sẵn sàng yểm trợ Trung Đội 1.

    Trung Đội 3 của Thiếu Úy Lý Mộ Sức và Trung Đội 4 của Chuẩn úy Thạch Huôn làm thành phần trừ bị. Lúc mới xuống xe, Hiệu gặp một tiểu đoàn thuộc Sư Ðoàn 3 Bộ Binh vừa từ Thường Đức đi ra, trong đó có một đại đội trưởng là Trung Úy Nguyễn Văn Nghĩa, sĩ quan Khóa 25 Ðà Lạt. Hai bạn cùng Trường Mẹ gặp nhau mừng mừng lo lo, Nghĩa bảo Hiệu:

    - Niên Trưởng phải cẩn thận, địch đông lắm, chúng đang bám sát tụi tôi, chúc "chiến thắng."

    Trước khi vào mục tiêu, Hiệu nghe máy gọi:

    - Đa Hiệu đây 808 (danh hiệu của Thiếu Tá Tiểu Ðoàn Trưởng Nguyễn Vân), trả lời.

    - Đa Hiệu (danh hiệu truyền tin của Đại Úy Phạn Văn Hiệu) tôi nghe đích thân.

    - Lệnh trên bảo anh phải thanh toán mục tiêu ngay bây giờ, anh là "cử nhân binh bị" (Võ Bị 4 năm tương đương bằng cử nhân) không thể chậm trễ đừng làm mất mặt nghe.

    Khi Trung đội 1 vào gần tới bờ làng thì quân Bắc Việt đồng loạt khai hỏa. Các binh sĩ Dù bắn trả mãnh liệt. Trung Ðội 2 vừa bắn vừa hô xung phong vang rền làm địch hoảng hốt bỏ chạy. Nhờ đó tổ khinh binh của Tiến nhảy vào chiếm được bờ làng, Hiệu bảo Thành ngưng tác xạ, và Tiến dẫn toàn bộ trung đội vào mục tiêu và bung rộng về phía Tây bờ làng.

    Sau 40 phút giao tranh, Ðại Ðội 83 hoàn toàn làm chủ làng Hà Nha. Hiệu cho bố trí và làm hầm hố phòng địch phản công. Kết quả tịch thu vài súng cá nhân vì quân số địch cỡ một trung đội, Cộng quân chỉ chống trả yếu vì thấy các binh sĩ Dù đánh giặc hăng hái và bị nhiều mặt tấn công. Địch tức giận thua trận nên dùng đại bác không giật từ các cao điểm bên kia bờ sông bắn trực xạ vào làng Hà Nha. Xạ trường quan sát của địch thật là chính xác, một xe GMC của Sư Đoàn 3 Bộ Binh chạy lộn chiều ngang qua Ðại Ðội 83, lập tức bị bắn cháy, tài xế may mắn chạy khỏi vô sự.

    Trong khi binh sĩ Ðại Ðội 83 đào hầm hố, gài mìn Claymore, mìn chiếu sáng, đặt lính gác giặc, Hiệu điều chỉnh hỏa tập cận phòng với sĩ quan tiền sát, anh cận vệ dọn cơm cho Hiệu ăn ở cái bàn nhỏ trước một ngôi nhà tranh. Hiệu thấy trời sáng trăng, sợ địch ở đỉnh cao bên kia sông trông thấy, nên bảo dọn vào nhà. Vừa ăn được nửa chén cơm thì nghe "đùng" một tiếng, cái bàn gỗ trước nhà bị nguyên một trái SKZ-57 ly không giật. Hiệu giật mình! Nếu sớm chừng 5 phút thì nguyên tổ chỉ huy của Ðại Ðội 83 đã bị tan tành.

    Sau đó địch khai hỏa tứ phía, sơn pháo trực xạ từ các đỉnh núi bên kia sông, hỏa tiễn 122 ly, đại bác 130 ly liên tục pháo kích vào làng Hà Nha. Dứt tiếng pháo thì cả tiểu đoàn địch đồng loạt tấn công biển người vào Đại đội 83.

    Nhờ có hố chiến đấu vững chắc, các binh sĩ Nhảy Dù đã bắn trả mãnh liệt. Hiệu cho súng cối 60 ly bắn yểm trợ sơ khởi, sĩ quan tiền sát gọi bắn các hỏa tập cận phòng. Thiếu Úy Tiến và Thành ra lệnh bấm mìn claymore, hàng loạt địch ngã gục, súng đại liên M-60 và súng cá nhân AR-15 bắn tới tấp. Hết lớp này tới lớp khác, quân Bắc Việt cứ nhào tới định lấy thịt đè người tràn ngập mục tiêu làng Hà Nha. Tiến và Thành thật can đảm, hai anh ra ngay tuyến ngoài đốc thúc binh sĩ chống cự. Nhưng những loạt đạn vô tình đã kết liễu đời 2 người hùng của Ðại Ðội 83.

    Hiệu điều động Trung Ðội 3 của Thiếu Úy Lý Mộ Sức qua trám lỗ hổng, nhưng Sức cũng bị thương nặng (phải di tản). Chỉ còn Chuẩn úy Thạch Huôn và Đại Úy Hiệu đốc thúc các binh sĩ Dù cố thủ. Cầm cự đến trời sáng thì địch rút lui để lại rất nhiều vũ khí, xác địch và một số ít tù binh.

    Cũng nên nhắc lại rằng làng Hà Nha 1 và 2 là những làng rất nghèo nàn, có khoảng 20 căn nhà (nói là nhà nhưng thật ra đó chỉ là những túp lều tranh nhỏ bé), địa thế trống trải, nên xạ trường quan sát của địch rất tốt, Cộng quân bắn trực xạ bằng đại bác thật chính xác. Chính sĩ quan và một số binh sĩ ta đã bị tổn thất vì loại súng trực xạ này.

    Ở làng Hà Nha khoảng 4 ngày, Ðại Ðội 83 được bổ sung hai sĩ quan và một số binh sĩ mới (trong đó có Thiếu Úy Tiến, Hại Sĩ Hải, và Binh Nhất Châu Văn Lê) để chuẩn bị làm nỗ lực chính tấn chiếm đỉnh 1062 sắp kể sau đây:

    Theo kế hoạch, Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù được điều động lên thay thế Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù để tiếp tục đánh chiếm 1062. Đại Úy Hùng vừa đi học khóa Đại Đội Trưởng ra tăng cường hành quân. Hùng xuất thân từ gốc Thiếu Sinh Quân, anh rất gan dạ đã sát cánh cùng các Đại Úy Minh, Hiệu, và Trung Úy Nam từng lập nhiều chiến tích ở các cuộc hành quân Hạ Lào, Cam Bốt, và An Lộc.

    Thiếu Tá Tiểu Ðoàn Trưởng Nguyễn Quang Vân, sĩ quan Khóa 13 Thủ Ðức, cho Đại Ðội 84 của Minh và 83 của Hiệu làm 2 mũi dùi tấn công sườn phải phía Đông 1062. Chờ phi pháo dập nát đỉnh đồi, rồi trời vừa chợp sáng Thiếu Tá Vân dẫn Ðại Ðội 81 của Võ Thế Hùng và Ðại Ðội 82, xuất phát từ chân đèo Thường Đức leo lên dọc theo đường đỉnh về hướng Bắc, mục tiêu là đồi 1062.

    Các binh sĩ Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù leo dốc đứng (độ nghiên 70 độ) đồng loạt tiến về mục tiêu là đỉnh đồi 1062. Đứng trên 1062, ta thấy có 5 đỉnh nhỏ nằm gần nhau, làm thành hình tròn theo thế liên hoàn; mặt hướng về Tỉnh Lộ 4 thì dốc thẳng đứng, rất khó leo. Cộng quân thường dùng giàn thung ném một lần hàng chục quả lựu đạn xuống mỗi khi quân ta tấn công vào mặt này. Còn các hướng khác thì có 4 đỉnh nhỏ che chở nên 1062 quả là một địa thế dễ thủ khó công. Từ Tỉnh Lộ 4 muốn leo lên 1062 phải qua những đỉnh nhỏ 126, 383, xuyên qua những yên ngựa chập chùng như sóng gợn.

    Hai Đại Ðội 83 và 84 do Thiếu Tá Trần Toán, sĩ quan Khóa 18 Ðà Lạt, chỉ huy đi băng qua khu vực Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù tới mục tiêu C của Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù, bọc vòng lên đỉnh cao bên dãy Sơn Gà để từ mục tiêu C băng qua yên ngựa đánh lên 1062. Đại đội 81 của Đại Úy Hùng và 82 của Nam lợi dụng đêm tối lén bò lên đánh vào sườn dốc đứng (vì mặt này địch chỉ phòng thủ hời hợt chúng cho là ta không thể nào dám vào hướng nầy, vì sẽ làm mồi cho lựu đạn.

    Ba giờ khuya xuất phát tấn công, sau khi cho phi pháo dập nát đỉnh đồi, Hiệu, Minh, và Hùng dẫn đầu các cánh quân trèo lên ngọn 1062, Ðại Ðội 82 của Trung Úy Hùng "ốm" làm thành phần trừ bị. Đoạn đường gai gốc hiểm trở. Những binh sĩ Dù dùng kế dương đông kích tây, lợi dụng địch đang đang phân tán phòng thủ và bị phi pháo dập liên tục, Hùng, Minh, và Hiệu chia từng tổ 3 người bò lên đỉnh núi, diệt từng chốt nhỏ, rồi leo lên. Đây là những giây phút đùa với tử thần, mà cái chết đến với họ bất cứ lúc nào. Nếu một trái lựu đạn của địch thả trúng, hay bị trượt chân xuống, họ có thể chết tan xác. Trèo lên vách đá dựng đứng, cao hàng trăm thước, trước khi tới miệng hầm, họ dùng lựu đạn tiêu diệt các chốt địch.

    Những người binh sĩ Nhảy Dù gan dạ, anh hùng của các Đại Ðội 81, 83, và 84 nầy đã phải tránh được từ 5 đến hàng chục quả lựu đạn do địch từ trên cao ném xuống. Muốn sống, muốn chiếm được đồi 1062, họ phải vừa quan sát, vừa trèo, và vừa tránh né, làm sao để những trái lựu đạn đừng nổ trên nón sắt hay nổ ở lưng chừng núi.

    Không phải ai cũng được bình an lên tới đỉnh núi. Một quả lựu đạn đã rơi trúng nơi trú ẩn của Thiếu Úy Đoàn Tấn và Chuẩn Úy Đến thuộc Ðại Ðội 81 khiến hai anh bị thương vong. Lúc quả lựu đạn vừa rơi tới, Thiếu Úy Tấn định nhào lại lấy thân mình che cho đồng đội, nhưng không kịp nữa. Quả lựu đạn đã tung nổ, khiến hai người bị trúng nhiều mảnh vào chỗ hiểm. Riêng Trung Úy Thạch và Thiếu Úy Hà Mai Trường, sĩ quan Khóa 26 Ðà Lạt, thuộc Đại Đội 84 của Minh, vì hăng hái leo lên nên cũng bị thương.

    Thiếu Úy Nguyễn Văn Tiến (từ Đại đội 84 chuyển qua bổ sung cho Tiến "trâu" và Thành vừa hy sinh ở làng Hà Nha) dẫn Trung Ðội 3 của Hiệu đi bọc phía sau định leo lên mục tiêu D. Bỗng nghe bịt, bịt, bịt, ba trái lựu đạn từ trên đỉnh 1062 ném xuống mà tịt ngòi không nổ. Nhưng quả thứ tư trúng ngay Tiến, làm thân hình anh bị tung lên như quả bóng. May nhờ áo giáp nên chỉ bị thương nặng và được binh sĩ kéo về phía sau và phải di tản.

    "Cái giá" để chiếm được đồi 1062 thực sự là một cái giá rất cao, cao nhất của chiến trận mà các chiến sĩ Dù đã gặp phải từ trước tới nay. Năm tiểu đoàn Dù bị tổn thất nặng, thảm nhất là Tiểu Ðoàn 3 của Thiếu Tá Đồng, quân số hao hụt gần 50 phần trăm.

    Để biết rõ chi tiết trận chiến, chúng ta hãy theo một đơn vị cấp đại đội (Ðại Ðội 83) làm cách nào để đánh chiếm đồi 1062:

    Hiệu dẫn đại đội xuyên qua Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù, tiến về mục tiêu C thay thế Ðại Ðội 11 của Đại Úy Trần Văn Thể. Thể bảo Hiệu:

    - Sư Ðoàn Điện Biên 304 đó, phải cẩn thận vì địch có lợi thế cao và hầm hố kiên cố.

    Trên trục tiến quân có rất nhiều chướng ngại vật, cây cối um tùm, và địch đã gài nhiều mìn bẫy. Cộng quân dùng giàn ná phóng mỗi lần hàng chục quả lựu đạn xuống thật nguy hiểm vô cùng. Địch cũng bắn trực xạ bằng đại bác hoặc sơn pháo, vì thế các Ðại Ðội 81 (cánh trái), Ðại Ðội 84 (cánh phải), cùng Ðại Ðội 83 đã thử đột kích đêm nhưng không kết quả.

    Địch chỉ ngồi trên cao đạp những tảng đá và liệng lựu đạn chày xuống làm những chốt đóng gần bị thương hằng ngày. Quân số các đại đội cứ hao hụt dần. Thiếu Tá Nguyễn Vân thường gọi máy đốc thúc nhưng vì địa thế quá hiểm trở nên các đại đội cứ dậm chân tại chỗ.

    Ngày N+4 (sau 4 ngày thay Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù), vì không thể theo đường đỉnh yên ngựa tấn công, nên lợi dụng ban ngày địch không chú ý, Đại Úy Hiệu dẫn quân tiến theo đường thông thủy giữa 2 đỉnh 1062 và đồi Không Tên ở phía Nam 1062. Khi tiền quân Ðại Ðội 83 tiến còn cách 1062 khoảng 50 thước thì địch nghe động nhưng không phát giác là có nguyên đại đội. Cộng quân bắn dọa (vì không ngờ quân ta dám leo dốc cao) xuống thung lũng với thượng liên, B-40, nhưng vô hiệu nhờ các tản đá lớn 2 bên sườn núi che chở, và đồng thời các Ðại Ðội 81, Ðại Ðội 84 bắn yểm trợ khiến địch phải phân tán mỏng để phòng thủ

    Trận Chiến Thường Ðức (Phần 4)

     
    Tác giả: Trương Dưỡng  
    Tiểu Ðoàn 3 ND do Trung Tá Võ Thanh Đồng (tiểu đoàn trưởng) và Thiếu Tá Trương Văn Vân (tiểu đoàn phó), được lệnh vào thay Tiểu Ðoàn 8. Vừa ở đồi 1062 khoảng một ngày thì Tiểu Ðoàn 3 ND bị địch trở lại phản công ào ạt. Phía Bắc Việt định tái chiếm đồi nầy bằng chiến thuật tiền pháo hậu xung. Một số sơn pháo của họ bắn trực xạ từ sườn núi.
    Chiều hôm đó, một buổi chiều nắng vàng và gió lộng, không còn tiếng nổ trong trận địa, những mỏm núi bốc lên những sợi khói nhỏ, nóng không phải vì hơi oi bức của mặt trời mà là âm ỉ của hơi thuốc súng chưa kịp tan.
    - "Thiếu Tá." Binh sĩ truyền tin của Trương Văn Vân nói. "Đại Úy Đàng gọi."
    - Trình đích thân, từ sáng giờ yên tĩnh nhưng binh sĩ tiền đồn thấy nhiều lá cây di động trông rất khả nghi.
    Vân nói:
    - Anh cho các con gài mìn Claymore và canh gác cẩn thận, sẵn sàng tư thế phòng địch tấn công bất ngờ.
    - Nhận rõ, đích thân.
    Bỗng súng nổ liên hồi ở khu vực của đại đội Đàng. Trong nắng chiều, Vân và Bộ Chỉ Huy đứng trên đỉnh 1062 theo dõi châm chú trận đánh của Đại Ðội 34. Cối 75 ly và sơn pháo từ những cao độ phía tây bắc bắn từng nhịp 4 trái một và bộ đội Bắc Việt từ hướng tây, tây bắc, đồng loạt tiến vào. Cộng quân dùng chiến thuật biển người, chẳng điều động, ẩn núp gì cả. Lính Nhảy Dù đồng đứng dậy khỏi giao thông hào bắn trả mãnh liệt. Binh sĩ của Đàng thi nhau dùng súng phóng lựu từ đồi cao 1063 bắn xuống. Một quả đạn bay đi khoảng ngắn, đất cát bay lên, 3 cán binh Điện Biên mất hút trong bụi mù. Chết, sinh Bắc tửNam.
    Cuộc tấn công kéo dài trong nhiều đợt, với chiến thuật biển người. Bộ đội Bắc Việt đồng loạt tấn công vào tuyến phòng thủ của Đại Úy Ngụy Văn Đàng đang đóng tiền đồn tại đỉnh yên ngựa 1063 và đồi không tên. Đỉnh 1062 trống trải cháy ngọn lửa điêu tàn. Và trong hoang vu hấp hối của cỏ cây đó, hằng trăm lính của Sư Đoàn Điện Biên, những bộ đội Bắc Việt vang danh một thời cùng ào lên 1062 một lượt, những cặp chân đã vượt đèo Mụ Già qua Tchepone, Lao Bảo, những bàn chân rách nát chạy nhanh hơn, mau hơn. Họ giành giật trên mảnh đất cằn cổi, tan hoang để tìm kiếm thức ăn. Họ tìm những bịch gạo sấy, thịt hộp, C Ration, cuối đường của giải phóng "Mỹ ngụy" là sự tranh giành những hộp thịt được làm tại Mỹ!
    - Bom! Bom! Đốt cháy tụi nó cho hết. Trung Tá Đồng nói như thét.
    - Yes sir! Anh Sĩ quan liên lạc không quân vừa nghe được tiếng "bom," và anh đã lập tức gọi 3 phi tuần khu trục dội bom Napalm xuống sườn đồi.
    Thiếu Tá Vân nghe tiếng Đàng hét trong máy xin pháo binh và phi cơ bắn lên đỉnh đồi, vì địch đã tràn ngập! Hai bên phải đánh cận chiến bằng lưỡi lê và lựu đạn, nhưng địch nhiều quá, cứ liều chết nhào tới tấn công. Đàng và anh em trong đại đội cầm cự, xông xáo, tả xung hữu đột, người nào trên mình cũng bị nhiều vết thương, áo ướt đầy máu. Đàng nguyên là sĩ quan cận vệ của Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh.
    Sau khi pháo dứt, những cán binh Bắc Việt tràn lên thấy Đàng bị thương nặng còn ngất ngư vì trúng nhiều mảnh, anh dùng hơi tàn rút súng định tự sát, thì người anh bị đạn ghim như lông nhím. Đàng ngồi chết trân mà đôi mắt hãy còn trợn trừng không khuất phục. Địch bị tiêu hao nhiều do đạn pháo kích TOT (Time On Target, tức là pháo binh bắn tập trung vào một mục tiêu, cùng một lúc) nên tức giận chĩa lưỡi lê đâm nát thân thể Đại Úy Đàng.
    Đại Ðội 34 của Đại Úy Võ Thiên Thư, (Khóa 25 Võ Bị Ðà Lạt), lên tiếp ứng thì gặp địch tràn tới đánh tơi bời thật hung hiểm vô cùng! Ðịch hô: "Hàng sống chống chết," nhưng Thư cứ hăng máu lấy AR-15 quạt và kêu pháo binh bắn đạn nổ chụp lên đầu để cùng chết chung với 5 phần địch 1 phần bạn. Một mình Tiểu Ðoàn 3 ND mà phải cầm cự với cả trung đoàn của Sư Ðoàn 304, địch cho các đơn vị thay phiên tấn công gần một ngày. Các sĩ quan dũng mãnh của Tiểu Ðoàn 3 ND như Đại Úy Võ Thiên Thư, Tô Văn Nhị (Khóa 26 Võ Bị Ðà Lạt) đã gọi pháo binh bắn lên đầu để cùng chết chung với hằng trăm xác địch.
    Do áp lực địch quá mạnh, tiểu đoàn phải rút ra để phi pháo bắn ngày đêm. Mặc dù Cộng quân đã chuẩn bị các "lô cốt" bằng những khúc cây kiên cố, nhưng phía Nhảy Dù rút lui để cho dụ địch tập trung vào đỉnh 1062, sau đó dùng "hỏa công" đốt cháy toàn khu ác liệt nầy bằng bom Napalm và bằng các viên đạn lửa bắn vào bãi lau sậy.
    Các loại đạn CVT (Controlled Variable Time, tức loại đạn pháo binh từ trên cao chụp xuống điểm tập trung của địch quân), cùng đạn nổ dọn bãi cho Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù vào thay (Tiểu Đoàn 9 vừa rút ra một ngày chưa kịp trang bị bổ sung đã được lệnh cấp tốc trở lại tiếp ứng Tiểu Ðoàn 3). Tiểu đoàn 9 Dù cũng dùng chiến thuật dương đông kích tây, và nỗ lực chính kỳ nầy do Đại Úy Tường (đại đội trưởng Đại Đội 93) và Trung Úy Nhơn (đại đội trưởng Đại Đội 92) tiến đánh từ trên cao xuống.
    Bên sườn dốc đứng, Trung Tá Nhỏ cùng Đại Úy Trần Ngọc Chỉ cho bày binh bố trận rùm beng, khiến phía Bắc Việt tưởng Nhảy Dù lên mặt nầy nên bắn giàn thung buộc giấy khiêu chiến: "Thách ngụy Dù lên đánh."
    Tường biết địa thế đồi 1062 kiên cố, hầm hố toàn bằng những thân cây rừng to lớn, phi pháo không làm gì được. Anh vội phóng lựu đạn cay và bình E8 để buộc Bắc quân chui ra khỏi hang rồi xin thả bom lửa Napalm đốt họ tan tành. Anh không dại xua quân vào miệng cọp, chỉ dùng đạn cay và bom Napalm, rồi bao vây chận nguồn nước và tiếp tế, khiến địch chịu không nổi. Hai bên cứ giằng co chiếm qua chiếm lại mỗi bên 2, 3 lần và quân số 2 bên tiêu hao rất nhiều.
    Đỉnh đồi 1062 lúc đầu toàn là rừng cây cổ thụ, sau những ngày 2 bên thay nhau làm chủ, nay trở thành đồi trọc, xơ xác, tan hoang.
    Tiểu Đoàn 9 phải bằng mọi giá quyết xung phong nhào lên chiếm đỉnh nầy. Gần một tuần lễ sau, với nhiều cuộc chiến đấu ác liệt bằng phi pháo, lưỡi lê, và lựu đạn, đã tiêu diệt toàn bộ địch trên đỉnh đồi. Các đơn vị chiếm được những đỉnh cao xung quanh 1062 nhưng với sự trả giá rất đắt. Ba vị sĩ quan của Đại Úy Trọng bị hy sinh, Đại Úy Tửu bị thương, các đại đội khác đều bị hao hơn phân nửa quân số.
    Sau khi ra Hà Nha hơn 1 tháng, Đại Đội 15 của Đại Úy Lộc và Thiếu Tá Phú nhập vùng, biệt phái cho Tiểu Đoàn 9. Riêng Đại Đội 11 nghĩ được 2 tuần thì được lệnh di chuyển ra BCH/LĐ1ND (Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù), và tại đó được trực thăng Chinook bốc vào mục tiêu "B" tăng cường cho Thiếu Tá Phú để thanh toán mục tiêu "D1" và "D2" nhằm giải tỏa áp lực cho Tiểu Đoàn 9 đang ở đồi 1062.
    Thiếu Tá Phú (biệt hiệu Phú "đen", Khóa 19 Võ Bị Thủ Đức) là một sĩ quan rất can trường và tháo vát. Anh là một trong những con gà giỏi của Tướng Lê Quang Lưỡng khi ông còn làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù. Thiếu Tá Phú sử dụng tối đa các phi tuần A-37 vì độ chính xác thấp. Trong lúc họp, Đại Úy Thể đưa ra đề nghị đánh địch bất ngờ và kín đáo bằng cách đi vòng qua thung lũng thay vì đi theo yên ngựa (do kinh nghiệm lần trước tấn công mục tiêu B và C.).
    Thiếu Tá Phú theo kế hoạch này ra lệnh cho Đại Đội 11 và Đại Đội 15 xuyên qua thông thủy tiến sâu về phía Bắc, rồi bất thần quay lại tấn công chớp nhoáng vào D1 và D2. Vì hướng tấn công ngoài sự tiên liệu, Bắc quân chỉ chú trọng phòng thủ hướng về 1062, nên chỉ tới trưa là Đại Đội 15 thanh toán xong D1 và Đại Đội 11 chiếm xong D2 với tổn thất được xem như nhẹ, kết quả: Đại Đội 15 bắt sống 2 tù binh, tịch thu 2 thượng liên, và một số súng cá nhân. Đại Đội 11 được 1 súng cối 61 ly và một số súng cá nhân.
    Sau đó Bắc quân tháo lui vì chịu không nổi phi pháo của Việt Nam Cộng Hòa ngày đêm dập vào các điểm trú quân của họ. Bộ chỉ huy địch thấy khó giữ 1062, nên ra lệnh rút lui trong đêm tối, rồi bọc qua sông Vu Gia, đánh bất ngờ vào Bộ Chỉ Huy của Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù đóng gần Hà Nha.
    Trung Tá Nguyễn Đình Ngọc (tiểu đoàn trưởng), Khóa 19 Võ Bị Đà Lạt, lúc đó đang đi phép vì ông thân sinh vừa qua đời, Thiếu Tá Trần Công Hạnh, Khóa 20 Võ Bị Đà Lạt, lên làm tiểu đoàn trưởng, cùng Đại Úy Nguyễn Hiền Triết, Trưởng Ban 3, đóng ở làng Hà Nha 1. Còn Thiếu Tá Nguyễn Văn Phương (tiểu đoàn phó), chỉ huy 2 đại đội ở bên kia sông, phải tả xung hữu đột mới phá được vòng vây.
    Sáng hôm sau, Phương cho các đại đội tung người ra lục soát, cánh Chuẩn Úy Tạ Thái Bảo dẫn trung đội tiến tới chiếm chốt phòng-thủ mà địch đã đặt thượng liên bắn vào Tiểu Đoàn 2. Vừa báo cáo chiếm chốt xong thì nghe tiếng "Ầm," tiếp theo là bụi cát bay mù nơi anh vừa chiếm. Chuẩn Úy Bảo hy sinh bởi quả đạn pháo kích từ đỉnh đồi cao gần chân đèo Thường Đức.
    Địch chiếm lại chốt đó và lại đặt súng đại liên bắn vào vị trí Nhảy Dù. Phương phái Thiếu Úy Tăng Thành Lân chỉ huy trung đội chiếm lại chốt trên đồi nhỏ đó. Lân gọi pháo binh bắn nát rồi dẫn quân xung phong tiêu diệt toàn bộ địch trên cao địa nầy. Anh chuẩn bị lại hầm hố cẩn thận đề phòng địch phản công. Nhưng khoảng 20 phút sau, địch lại bắn sơn pháo ngay đồi và Lân cũng hy sinh. Phương lập tức kêu phi pháo đánh vào điểm đặt súng của địch, hai bên giằng co nhưng không ai thèm đến vùng tử địa đó nữa.
    Vài hôm sau, khi Tiểu Đoàn 2 được lệnh chiếm đỉnh 126 để bảo vệ đèo Thường Đức và gặp sự kháng cự mạnh mẽ của Bắc quân đang bám trụ tại đây. Sau nhiều đợt xung phong của các chiến sĩ Tiểu Đoàn 2, địch đành phải rút chạy bỏ lại hàng chục vũ khí đủ loại. Phía bên Nhảy Dù cũng bị hy sinh ba sĩ quan tài giỏi là Trung Úy Thịnh, Thiếu Úy Trần Đại Thanh, và Thiếu Úy Lê Hải Bằng. Sau đó Hạnh lên làm tiểu đoàn trưởng thực thụ và bạn cùng khóa 20 là Trần Tấn Hòa về làm tiểu đoàn phó.
    Tiểu Đoàn 7 ND do Thiếu Tá Nguyễn Lô (tiểu đoàn trưởng), Khóa 18 Võ Bị Đà Lạt, và Thiếu Tá Quý, từ Tiểu Đoàn 1 trở về, làm tiểu đoàn phó, được lệnh nửa đêm cấp tốc tiến đánh suối Ba Khe. Các chiến sĩ Nhảy Dù dùng chiến thuật dương đông kích tây cho chủ lực đánh bọc phía sau lưng khiến địch rối loạn hàng ngũ, rút chạy chém vè, để lại hơn 200 vũ khí đủ loại, hậu cần bị phá hủy, và toàn bộ tiểu đoàn bị tiêu diệt.
    Đại Úy Tú Trinh, người hùng diệt tăng ở Quảng Trị, đã bị thương trong trận này. Trước đó Nguyễn Lô đã đứng trên đỉnh Đông Lâm thuộc dãy Sơn Gà tuyên bố nhất định chiến thắng để mừng Tết và anh đã thực hiện lời nói một cách quá xuất sắc. Tiểu Đoàn 11 ND lên đỉnh 1062 thay cho Tiểu Đoàn 9 rút về Non Nước dưỡng quân và tái trang bị

    Wednesday, August 22, 2012

    Tàn cuộc hoa này


    » Tác giả: Phạm Thiên Thư
    Ngày huấn luyện ở Quang Trung, SQHQ K22. (Nguồn:denhinamduong.net)
    Truyện viết dựa theo bài thơ
    “Bà mẹ điên” của Trần Trung Đạo
    Đợi nhau tàn cuộc hoa này,
    Đành như cánh bướm đồi tây hững hờ...

    Phạm Thiên Thư
    Đầu mùa hè 1981, từ một trại cải tạo ở Phan Rang tôi được thả về.

    Sáu năm dâu bể đã đổi thay bộ mặt Sài gòn. Một vài con đường tự dưng được mang những cái tên lạ hoắc. Chợ búa, phố xá tiêu điều và người ngợm tang thương. Nhìn đâu cũng chỉ thấy những khuôn mặt vô cảm. Sự nhẫn nhục chịu đựng, những lo sợ không tên làm cho bầu không khí Sàigon ngột ngạt khó thở.
    Việc đầu tiên sau khi trình diện công an phường là mượn chiếc xe lọc cọc của thằng em, một sáng thật sớm, tôi đạp chầm chậm một vòng thăm thành phố cũ.

    Hết đường Hai Bà Trưng đến công trường Mê Linh, rồi quẹo trái vào cổng Bộ Tư Lệnh Hải quân. Tôi ngơ ngẩn nhìn quanh, những hình ảnh yêu dấu ngày nào bây giờ chỉ còn là lãng đãng sương mù quá khứ. Toà nhà Bộ Tư Lệnh xám xịt cũ kỹ. Vườn hoa sát bờ sông trước cổng Bộ Tư lệnh đã biến ra một mảnh vườn nham nhở với vài ba luống rau lang úa vàng cùng những cọng sắn ốm nhom, èo uột.

    Mấy ngày kế tiếp tất bật qua đi. Tôi tìm gặp một số anh em trong tù đã được tha ra từ trước để dò hỏi đường đi nước bước. Tôi hối hả gia nhập đám vô công rỗi nghề này, tối ngày hết tụ tập cà phê đến rảo các chợ trời, tìm cách mua đi bán lại mọi thứ thượng vàng hạ cám, trong lúc hai tai vểnh lên hết cỡ để nghe ngóng tuy dô.
    Không thể là một người nào khác mặc dù chị đã thay đổi đến độ kinh hoàng. Tôi gặp lại vợ Tuấn vào một buổi trưa hè trên đường Hoà Hưng, người đàn bà trẻ, đội chiếc nón lá, bộ quần áo bạc màu tơi tả trên một thân mình khẳng khiu, hai tay ôm chặt một cái bọc nhỏ ở ngực, đang kéo lê đôi dép trên đường.

    Tôi đạp xe sát vào lề rồi gọi lớn:

    – Chị Tuấn, chị Tuấn!

    Người đàn bà vẫn không quay lại, cũng không ngừng bước, tôi dừng xe, sững sờ. Không lẽ Lan Khanh, cô nữ sinh hoa khôi lớp 12 A3 Lê văn Duyệt ngày nào đây sao, vợ của một ông Hải quân trung úy đây sao?

    Bên kia đường, người đàn bà đã lẫn vào đám đông hỗn độn gần chợ. Tôi nhìn quanh quẩn một hồi, rồi lặng lẽ đạp xe đi.

    Chiều vừa về đến nhà, tôi xuống bếp hỏi Tâm ngay:

    – Em có nhớ Khanh vợ Tuấn không, trưa nay anh vừa gặp ai như chị ấy.

    – Em không liên lạc với Khanh từ hồi đó đến giờ.

    – Anh cũng không gặp Tuấn từ ngày ra trường, rồi thêm sáu năm cải tạo, cũng gần cả chục năm rồi còn gì.

    Tôi kể sơ cho Tâm nghe chuyện gặp Khanh lúc trưa này trên Hoà Hưng, Tâm gặng:

    – Mà anh có chắc là Khanh không?

    – Chắc mà, không thể có còn ai khác. Em còn nhớ nhà Khanh ngày xưa không?

    – Em nhớ mang máng hình như trong khu Ngã ba Ông Tạ, nhưng đó là nhà Khanh trước khi lấy Tuấn chứ em sợ sau này Khanh không còn ở chỗ ấy.

    – Hay là mình đến tìm thử xem, biết đâu.

    Ngay chiều hôm đó, tôi chở Tâm đến khu Ngã ba Ông Tạ, sau một hồi lộn đi lộn lại, lách từ ngỏ này qua ngỏ khác, hỏi han đủ cả mọi người, cuối cùng chúng tôi cũng kiếm ra nhà.

    Đúng là Lan Khanh. Lan Khanh của 12 A3 Lê văn Duyệt ngày nào.

    Khanh ngồi đó trước hàng hiên nhà mình, trong bộ áo quần cũ bạc màu. Khuôn mặt xanh, gầy ốm đến thảm hại, nhưng trên khuôn mặt, trong ánh mắt vô hồn ấy vẫn còn phảng phất bóng dáng xinh đẹp của Khanh ngày xưa. Tâm bấu chặt vào lưng tôi run rẩy.

    Không kịp đợi tôi ngừng xe, Tâm đã vội nhảy xuống, chạy lại bên Khanh, ràn rụa nước mắt:

    – Khanh, Khanh, sao lại ra nông nỗi này. Khanh có nhận ra Tâm không?

    Vài người hàng xóm tò mò nhìn sang, rồi một người đi lại gần tôi nói nhỏ:

    – Tội nghiệp, cô ấy điên nhưng hiền lắm.

    Tâm nắm tay Khanh đi vào nhà, căn nhà tối đen, có giọng một bà cụ già cất lên:

    – Ai đấy?

    – Dạ con là bạn của Khanh hồi còn đi học và anh Hải chồng con là bạn cùng khóa với anh Tuấn, chúng con đến thăm Khanh và bác.

    – Anh chị đợi chút nhé, để bác đốt ngọn đèn lên tí đã, hồi này điện cứ bị cúp hoài.

    Ngọn đèn dầu thắp lên soi sáng nhờ nhờ một căn phòng nhỏ. Căn phòng trống trơn chỉ có chiếc divan và một cái bàn con. Khanh đến ngồi im lặng bên cạnh mẹ, Tâm nghẹn ngào:

    – Sao Khanh lại ra nông nỗi này hở bác?

    Mẹ Khanh không trả lời, đưa mắt nhìn lên bàn thờ, tôi nhìn theo mắt cụ, hình hai vợ chồng Tuấn tay bồng một đứa con khoảng vài tháng đang tươi cười bên nhau. Tôi chợt lạnh cả sống lưng...

    Có tiếng động ở cửa, một người thanh niên lách vào, nhìn thấy chúng tôi, anh lên tiếng chào rồi quay qua nhìn cụ như có ý hỏi, mẹ Khanh nhìn chúng tôi:

    – Đây là em Tín, em của Khanh, còn đây là anh chị bạn của Khanh Tuấn nhà mình đó con.

    Tín quay qua chúng tôi lễ phép thưa hỏi một lần nữa, rồi xin phép ra sau thay đồ, chưa đầy năm phút em đã trở ra, ngồi xuống ghế đối diện chúng tôi.

    – Em chưa gặp anh chị bao giờ. Anh cùng khóa với anh Tuấn em hở? Anh ở tù mấy năm? Ra cải tạo lâu chưa?

    – Cũng gần 6 năm đó Tín, ở một trại ngoài Trung, anh mới được thả gần một tháng. Anh với Tuấn không gặp lại nhau từ hồi hai đứa ra trường vì duyên đoàn anh đóng ở vùng 1, còn Tuấn thì đi giang đoàn ở vùng 4 từ ngày ra trường cho đến 75.

    Tâm nóng ruột chen vào:

    – Khanh bị... thế này từ hồi nào hở Tín.

    – Gần năm rồi chị ạ, từ hồi cháu Uyên mất.

    – Thế anh Tuấn mất hồi nào, ở đâu?

    – Chắc anh bị tù ở ngoài miền Trung nên không hay. Anh Tuấn mất cuối năm 76 tại trại Long Giao. Vụ đó họ xử tử tới ba người, trong đó có anh Tuấn.

    Đầu năm 77 tôi có nghe phong phanh về vụ này, tại trại Long Giao, có ba sĩ quan trẻ bị xử bắn vì tội tổ chức trốn trại vào dịp tết, đâu ngờ một trong ba người là Tuấn khóa tôi.

    Bà cụ nghe nhắc đến tên cháu Uyên và Tuấn thì thút thít khóc. Bên kia, Tâm ôm lấy hai bàn tay gầy guộc của Khanh mà nước mắt đầm đìa, còn Khanh thì vẫn cứ im lặng vô hồn. Chuyện vãn một hồi lâu, tôi quay sang nhắc khẽ Tâm:

    – Mình về thôi em.

    Tâm ngập ngừng đứng dậy, miệng méo xệch:

    – Thưa bác tụi cháu về.

    Quay qua cô bạn học ngày xưa, Tâm nghẹn ngào:

    – Khanh ơi, Tâm về đây, hôm nào mình lại thăm Khanh nhé.

    Tôi nhìn lên bàn thờ lần nửa, hình Tuấn tươi cười bồng con đứng bên vợ. Chiếc cầu lon Trung úy Hải quân vàng óng hai vai …

    Sau lần đó, tôi bận rộn tất bật tìm đường vượt biên, không có dịp trở lại ngã ba ông Tạ. Chỉ có Tâm lâu lâu lại lấy xe đạp, đạp lên nhà, lần nào đi thăm Khanh về, mắt Tâm cũng đỏ mọng vì khóc, mỗi lần thế tôi lại thấy lòng mình xốn xang như có tội với bạn bè.

    Tám tháng sau, mùa biển êm, chúng tôi quyết định ra đi.

    Tâm và tôi lên thăm Khanh lần cuối, Khanh càng ngày càng gầy, tám tháng dài như tám năm cho một người góa phụ, và tám năm thì có lẽ dài như... tám mươi năm cho một người đàn bà điên loạn. Tôi xót xa nhìn Khanh mà không biết phải nói gì, phải làm gì. Tôi bất lực nhìn lên bàn thờ, nhìn lên ảnh Tuấn, ngậm ngùi nhớ lại Tuấn của một thời sinh viên sĩ quan và Khanh của một thời con gái mới lớn. Như mới ngày nào …

    Tâm ôm lấy vai Khanh rồi chúng tôi chào mẹ Khanh để ra về. Cụ chợt bảo chúng tôi đợi nán một chút. Vói lên bàn thờ mẹ Khanh lấy xuống một cuốn tập nhỏ trao cho Tâm.

    – Đây là nhật ký của Khanh, cháu mang đi làm kỷ niệm. Tín bảo đốt đi để gửi về theo anh Tuấn nhưng bác vẫn mãi chần chừ. Bác vẫn hy vọng một ngày Khanh tỉnh trí trở lại, nhưng nay thì bác sợ ngày ấy sẽ không bao giờ đến.

    Bỏ cuốn nhật ký của Khanh vào túi xách, chúng tôi lặng lẽ đạp xe về.
    Ngày ...

    Anh mới đến nhà chiều nay. Buồn cười qúa, cái đầu trọc lóc, bộ đồ Hải quân màu xanh nước biển rộng thùng thình, cái nón cát kết đen xì như cái nồi úp trên đầu, trông anh ngố như mán rừng. Coi bộ anh có vẻ khoái chí về bộ đồ lính Hải quân của mình lắm.

    Mình cứ ngắm mãi cái đầu trọc lóc mà thương anh ghê.

    Ngày ...
    Trung tâm Huấn luyện Hải quân Nha Trang. (Nguồn: HQ VNCH)
    Lên thăm chàng trên Quang Trung, chao ôi, chàng đen còn hơn thằng Hynos. (1)

    Anh thật là ẩu tả làm mình xấu hổ muốn chết. Chung quanh vuờn Tao ngộ toàn là người và người, thế mà anh cứ ôm mình sát rạt làm nhỏ Tâm phải quay mặt đi giả bộ nhìn chỗ khác. Hải, bạn của anh thì đeo theo tán nhỏ Tâm tới tấp, đúng là... Đường nào dài bằng đường Trần Hưng Đạo, Lính nào xạo bằng lính Hải quân...

    Ngày ...

    Mới đó mà anh đã mãn khóa quân sự Quang Trung. Vài tuần nữa thì anh sẽ ra Nha trang, nghe bảo là sẽ đi ra đó bằng tàu Hải quân. Dạo này mình cũng hơi quen với những danh từ về lính tráng của anh nhưng vẫn mù tịt chả biết cái nào là Hải vận hạm, cái nào là Dương vận hạm. Đã vậy mà số tàu thì cứ đánh lung tung, không cứ theo thứ tự 1,2,3 cho người ta dễ nhớ. Hỏi thế thì anh giải thích lòng vòng là mỗi thứ tàu có một loại số riêng …

    Mẹ bảo anh gầy nhưng trông có vẻ rắn chắc chứ không babylac như hồi trước. Mình thì thấy càng ngày anh càng giống ông già Hynos...

    Ngày ...

    Sáng nay... Lên xe tiễn anh đi, chưa bao giờ buồn thế ...

    Tức anh muốn chết. Mình thì buồn muốn khóc, còn anh thì có vẻ hí hửng, hay lại tính chuyện ra Nha trang làm quen thêm vài cô ngoài ấy. Đã thế mình sẽ không thèm viết thư xem ai sẽ năn nỉ ai.

    Ngày ...

    Mới vừa nhận thư anh, thư gì mà ngắn cũn cỡn có mấy dòng. Anh dặn là khoan gửi thư cho anh đã, anh sợ mấy ông đàn anh phạt vì tội có thư đào. Sao mấy cái ông đàn anh này ác vậy...

    Anh kể sơ về sinh hoạt của anh trong hơn hai tuần qua, nghe mà thương. Anh nói cái này là truyền thống Nha Trang. Truyền thống gì mà phạt người ta tả tơi?
    Anh kể về cái ông đàn anh tên Hiền, có biệt danh là đệ út đao phủ thủ. Tên thì hiền mà người chẳng hiền chút nào. Ông này phạt anh mệt nghỉ. Buồn cười thật, mình tự dưng thấy cái tên đệ út đao phủ thủ nghe cũng hay hay. Anh kể có gặp lại người bạn học cùng lớp ngày xưa bây giờ là đàn anh. Ông đàn anh này không phạt bạn bè nhưng lại xúi mấy ông đàn anh khác phạt bạn mình.

    Anh còn kể chuyện ăn cơm chan với nước trà và nước mắm ớt mà cũng thấy ngon, anh bảo bị phạt chạy nhiều nên anh đang đi tango. Nghe cứ là như đang đi... Đêm màu hồng. (2)

    Ngày ...

    Nhớ anh qúa, mới gửi đại một lá thư cho anh hôm qua, không biết khi nhận thư anh có bị phạt không?

    Hôm qua, mẹ hỏi chừng nào anh về phép, mình giải thích là anh đang trong thời kỳ huấn nhục, mình kể là anh ăn cơm chan với nước trà, mẹ bảo sao không làm một ít ruốc bông gửi ra cho anh để anh có đồ ăn ăn thêm.

    Ngày ...

    Mới nhận thư anh và mấy tấm hình anh bận tiểu lễ trắng. Anh bảo là vừa được gắn alpha tuần qua. Ừ trông cũng oai lắm đấy chứ.

    Anh cho hay mới được đi bờ lần đầu, sao lại gọi là đi bờ nhỉ, cứ làm như đang nằm dưới nước nay được lên bờ, đúng là danh từ Hải quân.

    Anh kể mấy cô gái Nha trang vì ở ngay biển nên cô nào cô ấy đen thui, trông chả hấp dẫn. Chà điệu này anh đang tính mưu kế gì đây mà lại đánh đòn hỏa mù.

    Ngày ...

    Anh vừa gửi về mấy tấm hình ngày làm lễ gắn alpha omega. Thế là khóa của ông đệ út đao phủ thủ sắp ra trường. Anh nao nức chờ ngày khóa đàn em nhập quân trường. Đừng phạt họ nhiều, tội nghiệp họ anh nhé.

    Còn mấy hôm nữa toàn khóa anh sẽ về Saigon tham dự diễn hành ngày quân lực 19 tháng 6. Vui ơi là vui...

    Ngày ...

    Hôm qua, mình đưa mẹ và Tín đi xem diễn hành ngày Quân lực. Trời nóng qúa, người đâu mà đông thật là đông, mình đứng tận đầu đường Thống Nhất nên đỡ phải chen, đoạn này lề đường có nhiều cây to nên đỡ nắng cho mẹ. Đoàn sinh viên sĩ quan Hải quân bận đại lể trắng diễn hành coi đẹp ghê. Mình thấy anh trong hàng quân. Tín nó gọi tên anh thật to nhưng nhạc quân hành lớn quá át tiếng thằng bé. Nó đòi chạy theo toán diễn hành mà mình không cho.

    Ngày ...

    Còn ba tuần nữa là đám cưới. Mình thì tất bật như điên mà mẹ cứ đi ra lại nhắc cái này, đi vào lại nhắc cái kia. Anh thì bặt tăm, mãi sát ngày cưới mới chịu về. Đàn ông sướng thật chả phải lo gì cả, mà nhất lại là lính, cứ đổ thừa cho quân vụ.

    Mấy đứa bạn ngày nào cũng tới nhà phụ giúp trang hoàng, sửa soạn. Đám cưới mình cũng đơn gỉan thôi – nhà anh cũng nghèo và nhà mình cũng nghèo. Anh cũng mới ra trường đâu có tiền bạc gì nhiều.

    Ngày ...

    Anh vừa về lại Vĩnh long hôm qua. Anh muốn mình xuống dưới ấy thuê nhà ở gần đơn vị nhưng mình không muốn xa mẹ. Thôi kệ cứ mỗi tháng mình xuống thăm anh một lần cũng được, Saigòn Vĩnh long đâu có xa gì.

    Bây giờ mình đã là bà Tuấn rồi. Nhớ hồi nào mới quen nhau.

    Ngày ...

    Mấy hôm nay cứ thấy mâm cơm là buồn nôn. Hôm qua đi khám, bác sĩ cho hay là mình đang mang thai. Định thứ sáu cuối tuần này đi Vĩnh long báo cho anh tin mừng. Chắc anh vui lắm.

    Ngày ...

    Bụng đã bắt đầu hơn lớn, cả tuần nay chả ăn gì được, tối ngày cứ nôn ra mật xanh mật vàng. Chao ôi, sao con hành mẹ thế này.

    Đêm hôm qua hai đứa nhất định đặt tên con, nếu con trai là Vũ, Trần Nguyên Vũ, nếu con gái là Tú Uyên. Trần Tú Uyên.

    Ngày ...

    Uyên yêu dấu của mẹ. Cảm ơn con, con đến với mẹ bằng tất cả nhớ thương mẹ dành cho bố. Con là giọt máu của bố đang lớn lên trong thân thể mẹ để mẹ thấy rằng lúc nào bên mẹ cũng có bố, có con không rời.

    Con sẽ xinh như mẹ và thông minh như bố, Uyên nhé, đứa con gái đầu lòng yêu dấu của ta.

    Ngày ...

    Tất cả những biến động dồn dập trong mấy ngày qua làm mình như nghẹn thở, may mà có Tuấn bên cạnh. Như một phép lạ, Tuấn đã từ Vĩnh long chạy về Saigon bình yên với hai mẹ con trong những ngày dầu sôi lửa bỏng cuối tháng 4.

    Tuấn trình diện để đi học tập hôm qua. Mười ngày sau anh sẽ về. Tuấn chỉ mang theo có hai bộ đồ và một ít tiền đóng cho 10 ngày ăn. Mình cố nhét thêm lọ ruốc bông mà Tuấn không cho. Anh cười bảo rằng nghe nói nhà hàng Đồng Khánh thầu nấu ăn trong 10 ngày ấy, ai lại mang ruốc bông ra ăn chung với cao lương mỹ vị bao giờ.

    Mình cũng mừng. Tạ ơn trời đất, Việt nam rồi cũng có lúc thanh bình. Từ nay mình sẽ không còn ngay ngáy lo lắng cho Tuấn nữa. Uyên ơi, lớn lên con sẽ thôi không còn nghe tiếng đạn bom như thời bố mẹ. Con sẽ cắp sách đến trường trong hạnh phúc của một đất nước thịnh.

    vượng hoà bình. Ngày ...

    Đã hơn năm tuần mà vẫn chưa thấy anh về, hôm nọ thông cáo trên radio là chỉ đi học tập có 10 ngày thôi mà.

    Ngoài phố đã bắt đầu nghe tiếng xôn xao, một số gia đình chạy lên phường, lên quận hỏi thăm nhưng chả có ai trả lời. Tuấn chỉ mang đi có hai bộ đồ làm sao đủ đễ thay đồi cả tháng nay.

    Ngày ...

    Đúng ba tháng trôi qua từ ngày Tuấn đi trình diện. Không một tin tức. Sài gòn bắt đầu ồn ào về những xầm xì. Lạ là không một ai chịu cho biết cả trăm ngàn sĩ quan đang học tập ở đâu.

    Hôm qua, mình chứng kiến tận mắt một cuộc hành hình ngay trên đường phố. Tên giật đồ bị điệu đến qùy trước mặt người công an. Anh công an móc súng kê vào màng tang của tên cướp và lẩy cò. Một số bà cụ đứng gần đó vội vàng nhắm mắt làm dấu thánh giá. Mình ngạc nhiên đến sững sờ, sao lại thế này, luật pháp nào mà cho một người công an có quyền tiền trảm hậu tấu như kiểu tướng cảnh sát Nguyễn ngọc Loan dạo tết Mậu Thân. Mà hồi đó là đang lúc đánh nhau, còn bây giờ đã hoà bình rồi cơ mà.

    Ngày ...

    Sắp đến Noel rồi, mình cũng như hàng trăm ngàn thân nhân của các sĩ quan khác đành chịu thua, không một lời giải thích từ phía chính quyền, lạ thật, không một tin tức nào gửi về từ những người đi học tập, tựa hồ số người này đã bốc hơi biến mất.

    Cuộc sống đã bắt đầu khó khăn, cũng may là sạp hàng của mẹ ở chợ ngã ba ông Tạ vẫn còn đủ nuôi sống cả nhà.

    Ngày ...

    Hào quang của những ngày đầu giải phóng đã bị lột trần trơ trụi. Dối gạt đã lòi ra. Sài Gòn bắt đầu ăn độn cơm với khoai sắn.

    Vẫn chưa biết chính xác anh đang ở đâu. Một số dân ở miệt Long Thành, Suối máu cho hay là họ gặp các người tù sĩ quan mình trên ấỵ

    Hôm qua, đám công an kinh tế làm khó dễ mẹ và các bạn hàng ở chợ. Họ bảo rằng vài tháng tới tất cả dân chúng không có nghề nghiệp sẽ được đưa về những vùng kinh tế mới. Mẹ hỏi thế nghề buôn bán của tôi thì sao thì họ nạt rằng buôn bán không phải là nghề nghiệp lao động. Em lo qúa, Tuấn ơi.

    Ngày ...

    Tuấn đi tròn đúng một năm, một năm với hai bộ đồ mang theo và ba ngàn đồng trong túi. Không một tin tức, không một lá thư.

    Saigon bây giờ không còn xầm xì nữa, đã có những tiếng chửi bóng gió. Một số bài hát đã được đổi lời.

    Ngày ...

    Lại thêm một Noel đau thương. Tuấn vẫn chưa về...

    Ngày ...

    Tuấn yêu dấu của em

    Cả hơn một tháng nay em không phút nào nằm xuống mà không thấy Tuấn. Em gọi tên Tuấn trong những giấc ngủ chập chờn. Em ôm chiếc áo kaki xanh của Tuấn vào lòng mà tim quặn đau. Sao Tuấn bỏ em và con vội thế hở anh?

    Em không biết sức mạnh nào đã nâng em dậy sau những giờ phút nghiệt ngã ấy. Hôm mẹ và em lên trại Long Giao nhận lại những di vật của Tuấn, họ mắng là Tuấn đã phản động tổ chức trốn trại làm ảnh hưởng đến tinh thần các trại viên khác. Đã thế khi bị bắt còn lớn tiếng chửi rủa cách mạng nên toà án nhân dân đã tuyên án tử hình Tuấn và hai người bạn.

    Họ đã chôn xác Tuấn vội vàng bên đám cỏ tranh. Nhìn mộ Tuấn, em xỉu đi không biết bao lâu đến khi tỉnh lại thấy mẹ đang ngồi bên cạnh. Còn em thì đang nằm chơ vơ trên một chiếc chõng tre.

    Nhìn chiếc lon gô và cái muỗng nhôm của Tuấn để lại, ôm vào lòng manh áo rách bạc màu của Tuấn, em như không còn hồn vía nữa. Đầu óc lãng đãng mê muội không biết mình đang ở nơi nào, thiên đàng hay địa ngục Chung quanh tiếng người nói lao xao mà em nghe như tiếng của loài ngạ quỷ. Em mở mắt nhìn mà chẳng thấy ai ngoài Tuấn của em, Tuấn yêu dấu của em.

    Mẹ ôm em vào lòng và bảo em hãy khóc đi, nhưng lạ sao mắt em ráo hoảnh. Em không còn cảm gíac. Em không còn là người nữa, đau đớn đã làm em hóa đá. Bây giờ thì em tin là chuyện hòn vọng phu có thật. Tận cùng của nỗi đau là những câm nín. Tận cùng của oan khiên, của tuyệt vọng là sự im lặng kinh hoàng. Em đã nếm biết cái tận cùng của tận cùng đó, Tuấn ơi.

    “Khóc cho vơi đi những tội tình …” Tuấn nhớ không, bài hát của Vũ Thành An ngày nào. Ôi hạnh phúc thay cho những người còn được khóc...

    Ngày ...

    Tuấn yêu dấu của em.

    Hôm nay là ngày tròn năm năm mình lấy nhau, và gần đúng hai năm kể từ ngày anh cúi xuống hôn con để lên đường đi trình diện học tập cải tạo. Đâu có ai biết chuyến đi tưởng chỉ 10 ngày nhưng lại biến thành thiên thu Tuấn nhỉ.

    Tuấn yêu dấu , Tú Uyên con mình lên hai tuổi rồi đó, tuần qua nó mới bập bẹ ba ba ba. Nghe con kêu ba mà em đứt ruột. Trách ai đây hở Tuấn, định mệnh cay nghiệt hay những con người không tim đã giết Tuấn của em.

    Ngày ...

    Sinh hoạt Saigon càng ngày càng khó khăn. Bo bo đã bắt đầu thay cho khoai sắn. Sạp hàng của mẹ ngoài chợ đã gần cạn vốn. Tín đã bị gọi đi thanh niên xung phong, nghe nói đi đào kênh đào mương gì đó.

    Nhà bây giờ chỉ còn mẹ, em và con. Tú Uyên bây giờ là lẽ sống của em, và là nguồn vui của mẹ. Mẹ dạo này yếu lắm, tội nghiệp cụ cũng đã gần bảy chục, suốt cuộc đời cặm cụi cho con, những ngày cuối đời tưởng sẽ hưởng chút thảnh thơi…

    Ngày ...

    Tuấn yêu dấu của em.

    Đã hơn cả năm em không còn thì giờ đụng đến nhật ký. Cơm gạo, bạc tiền, sữa, thuốc cho con đã quay em như con vụ. Sáng sớm em ra chợ, mãi đến trưa mẹ ra thay cho em để em về lo cơm nước cho con. Cũng may là nhà mình gần nên chạy đi chạy lại cũng tiện.

    Tín đã đi nghĩa vụ quân sự và bị đưa sang Cam pu Chia. Mẹ khóc hết nước mắt vì sợ nó ra trận có mệnh hệ nào. Đến bao giờ thì nước mình thật sự hết binh đao anh nhỉ?

    Uyên con mình mỗi ngày mỗi lớn và càng giống anh kinh khủng, nhất là miệng cười. Tuấn phù hộ cho mẹ con em nhé.

    Ngày ...

    Tú Uyên bị sốt cả tuần nay, mới bệnh có mấy hôm mà trông con tiều tụy qúa.

    Đồ đạc trong nhà đã bán hết đến món cuối cùng. Chiếc nhẫn cưới Tuấn mang vào ngón tay em ngày nào, em cũng đã phải cắn răng bán đi để chữa trị cho con.

    Hôm qua đưa con vào bệnh viện Nhi đồng, đợi cả nửa ngày và sau khi khám qua loa, bác sĩ cho một toa thuốc, uống đã hai ngày nay mà sao chưa thấy bớt.

    Cả tuần qua, không có đêm nào chợp mắt quá hơn hai tiếng. Ôm con vào lòng mà em sợ quá, Tuấn ơi, nếu con mình có mệnh hệ nào làm sao em sống nổi.

    Ngày ...

    Sáng nay vừa lên bệnh viện bán máu thêm lần nữa để mua thuốc cho con. Lần đầu không thấy mệt lắm nhưng lần này mình phải nằm lại mấy tiếng mới đứng lên nổi để loạng chọang đi về.

    Vẫn dấu không cho mẹ hay là mình đang đi bán máu, không còn đường xoay sở nữa. Thuốc tây cho Tú Uyên đắt qúa, mà nhà mình không còn gì để bán. Vay mượn thì cũng chẳng còn ai có để cho vay...
    Tú Uyên yêu dấu ơi, ba con đã bỏ mẹ con mình mà đi. Bây giờ con là lẽ sống của mẹ, con là linh hồn của mẹ. Sá gì đôi ba lít máu, cả thân thể này, cả cuộc đời này nếu phải đánh đổi cho con thì mẹ vẫn vui lòng.

    Ngày ...

    Bệnh của Tú Uyên vẫn không thuyên gỉam. Hôm qua, lại bồng con lên Nhi đồng, và lại bị đuổi về vì không tiền đóng viện phí...

    Lại bán máu thêm lần nửa... không nhớ lần này là lần thứ mấy.

    Uyên ơi, con đừng bỏ mẹ mà đi, con nhé. Mẹ làm sao sống nổi nếu con bỏ mẹ con đi.
    ......

    Cuốn nhật ký bỏ ngang ở đây.

    ... mà nếu nó không chấm dứt ở đó, thì tôi cũng không còn đọc nổi nữa vì hai mắt tôi đã nhạt nhoà…

    Lang Le
    Mẹ đã già và con còn thơ dại. (Nguồn: viewimages.com)
    Bài thơ Bà Mẹ Điên
    Trần Trung Đạo
    Có lần tôi đi ngang
    Qua vỉa hè Ðồng Khởi
    Một bà ôm chiếc gối
    Ðứng hát như người say

    Khoan chết đã con trai
    Mẹ còn chờ mua sữa
    Mai Ba về có hỏi
    Mẹ biết nói sao đây

    Người biết chuyện cho hay
    Chồng bà đưa ra Bắc
    Từ khi con trai mất
    Bà trở thành người điên

    Nhà bà là mái hiên
    Tấm vải dầu che nắng
    Sớm chiều khoai với sắn
    Heo hút với bầy con

    Bà ngày một héo hon
    Bỏ vùng kinh tế mới
    Về Sài Gòn chen lấn
    Giữa cuộc đời đắng cay

    Ðứa con út ốm đau
    Vẫn hằng đêm đòi sữa
    Chẳng còn gì bán nữa
    Ngoài giọt máu mẹ cha

    Khi trời vừa sáng ra
    Bà lại lên Chợ Rẫy
    Lần nầy lần thứ mấy
    Bà bán máu nuôi con

    Trên đường về đi ngang
    Ghé cửa hàng mua sữa
    Bà gục người trước cửa
    Suốt đêm mà không hay

    Ðứa con út đang đau
    Chờ mẹ về chưa tới
    Qua đời trong cơn đói
    Thiếu cả một vòng tay

    Khi bà về tới nơi
    Thì con mình đã chết
    Bà ôm con lạnh ngắt
    Ðứng hát như người say

    Khoan chết đã con trai
    Mẹ còn chờ mua sữa
    Mai Ba về có hỏi
    Mẹ biết nói sao đây

    Ðêm qua tôi nằm mơ
    Thấy mình ôm chiếc gối
    Ðứng trên đường Ðồng Khởi
    Và hát như người điên.
    Phạm Thiên Thư