Vì chúng tôi là chiến sĩ  Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa   bảo vệ miền Nam tự do
Mũ Xanh Phạm Văn Tiền
Đầu tháng 3 năm 1975, Cộng sản Bắc Việt dốc toàn lực lượng tấn công hầu cưỡng chiếm toàn bộ miền Nam. Bình Long, An Lộc thất thủ. Thị xã Ban Mê Thuộc sau đó cũng bị bỏ ngỏ hoàn toàn với sự rút quân ồ ạc như nước vỡ bờ của Quân Đoàn 2
LTG:  Bài viết này xin dành tặng các chiến hữu TQLC, những người vì nhiều lý  do đã không hiện diện tại mặt trận phía Bắc vùng đất trách nhiệm của  SĐ/TQLC vào những ngày cuối cùng tháng 3 năm 1975 buồn thảm. Tôi kể lại  những gì mắt thấy tai nghe về những đau thương, mất mát, cay đắng,  nghiệt ngã của cuộc lui binh lịch sử ngoài khả năng hiểu biết của một  người lính mà sự khổ đau, thua thiệt chịu đựng quá nhiều, còn niềm hy  vọng sống còn chỉ là điều hiếm mọn ít oi.

Đầu  tháng 3 năm 1975, Cộng sản Bắc Việt dốc toàn lực lượng tấn công hầu  cưỡng chiếm toàn bộ miền Nam. Bình Long, An Lộc thất thủ. Thị xã Ban Mê  Thuộc sau đó cũng bị bỏ ngõ hoàn toàn với sự rút quân ồ ạc như nước vỡ  bờ của Quân Đoàn 2 về Nha Trang và nhiều nơi khác. Trong khi đó phòng  tuyến phòng thủ phía Bắc do SĐ/TQLC đảm trách vẫn còn là một vùng đất  yên tĩnh trong sự cẩn thận, dè dặt chờ đợi lẫn nhau. Sau sự phối hợp  nhịp nhàng của 2 SĐ tổng trừ bị thiện chiến nhất là Nhảy Dù và TQLC, với  thế đánh gọng kìm liên tục từ 2 phía Đông Tây, đã buộc địch phải tháo  chạy  với nhiều  tổn thất nặng nề, bằng chiến thắng t1i chiếm Cổ Thành Quảng Trị ngày  14-9-72. SĐ Nhảy Dù được điều động về mật trận Đức Dục, Quảng Nam.  SĐ/TQLC ở lại chịu trách nhiệm trên một tuyến khá rộng trải dài từ bờ  biển Đông sang tận những mỏm núi tận cùng phía Tây thuộc dãi Trường Sơn,  qua các vùng Mỹ Thủy, Long Quang, Bích La, Triệu Phong, Nam sông Thạch  Hãn, Như Lệ, Tích Tường, La Vang, Động Ông Đô, Barbara, Anne, Cổ Bi,  Hiền Sĩ, Thanh Tân, Lồ Ồ… Liên đoàn 911 và các đại đội biệt lập ĐPQ tiểu  khu Quảng Trị được đặc dưới quyền điều động của BTL/SĐ/TQLC hành quân  trong việc phòng thủ này. Mặc dù là đơn vị được giao nhiệm vụ phòng thủ,  nhưng SĐ/TQLC vẫn luôn chứng tỏ khả năng cơ động tấn cộng tận sào huyệt  địch, như cuộc đổ  bộ vượt sông Thạch Hãn của TĐ6/TQLC vào tháng 10 năm 72, cuộc hành quân  thần tốc tái chiếm cửa Việt tah1ng 1 năm 1973 trước giờ ngưng bắn có  hiệu lực của hiệp định Paris và đạc biệt Lữ Đoàn 258 TQLC đã hạ một tàu  vận tải lớn tiếp tế địch đang mon men ngoài khơi bờ biển Mỹ Thủy tháng 6  năm 1973. Ngược lại, địch quân chưa có lần nào dám liều lĩnh tấn công  vào các đơn vị TQLC. Có chăng chỉ là những hành động phá hoại lén lút,  đặc công, giật mìn lẻ tẻ trên các trục lộ giao thông tiếp tế. Phải nói  rằng đây là phòng tuyến phòng thủ vững chắc nhất, thưà sức ngăn chận mọi  cuộc xâm lăng từ phương Bắc xuống của CS Bắc Việt.
 Do tình hình xáo trộn chung của đất nước và vì nhu cầu đòi hỏi cấp bách  của chiến trường lúc này, bộ TTM – QLVNCH đã quyết định điều động phân  lớn các lục lượng TQLC về Nam gồm các LĐ-258, LĐ-369 và LĐ-486 vừa mới  được thành lập. LĐ-147 do Đại Tá Nguyễn Thế Lương chỉ huy gồm các Tiểu  đoàn 3, 4, 5, TĐ Pháo binh, 2 đại đội Viễn Thám và Tiểu đoàn 7/TQLC  thuộc Lực Lượng Đặc Nhiệm Tango do Đại Tá Tư Lệnh Phó trực tiếp chỉ huy  đang nằm sẵn trên các tuyến. Thay vào lỗ hỏng to lớn trên là 2 Liên Đoàn  BĐQ với trang bị quân số thiếu hụt. Đây là khởi điểm cho tất cả sự bỏ  ngỏ  sau này ở  mật trận Bắc Quảng Trị. Mãi đến chiều tối ngày 7/3/1975, địch bắt đầu  mở cuộc tấn công đầu tiên thật mãnh liệt vào một trung đội tiền đồn tại  đồi 51 thuộc căn cứ Tư Tưởng, hướng Tây Quốc Lộ 1, cây số 23. Đơn vị này  được chỉ huy bởi Trung Úy Sàng ĐĐP/ĐĐ1 tiểu đoàn 4 TQLC đã chiến đấu  thật can cường, đẩy lui nhiều đợt xung phong biển người của địch. Lần  liên lạc sau cùng qua máy PRC-25 vào lúc 4 giờ sáng, anh đã yêu cầu pháo  binh chụp thẳng trên đầu mình vì vị trí bị địch tràn ngập. Anh đã tử  thương sau đó trong cuộc cận chiến bằng lựu đạn với kẻ thù. Sáng sớm  ngày 9/3/75, Thiếu Tá Trần Ngọc Toàn
 TĐT/TĐ4/TQLC điều động toàn bộ lực lượng còn lại, nhờ có sự yểm trợ  thật chính xác của các phi vụ A-37 thuộc không lực vùng I chiến thuật,  ta đã hoàn toàn làm chủ tình hình. Xác địch nằm ngổn ngang trong các bãi  mìn của hàng rào phòng thủ, một số đồng bọn khác đang lẩn tránh trong  các bụi rậm bị ta bắt sống. Cũng cùng trong đêm đó, tại một nơi khác,  tiểu đoàn 121/ĐPQ Tiểu Khu Quảng Trị đã tóm nguyên trung đội địch khi  chúng tìm cách tiến về hướng quận Hương Điền. Ngày 22/3/75, đoàn xe tiếp  tế cuối cùng của đơn vị rời hậu trạm Máng Cá Huế vào vùng hành quân.  Chúng tôi được  biết hầu  hết dân chúng đã di tản vào Đà Nẵng và hậu trạm cũng được BTL/SĐ mang  tất cả trang thiết bị về cửa biển Thuận An chờ lệnh. Tôi chỉ thị cho các  đại đội thu gọn lại các trang bị và phải gấp rút di tản các thương bệnh  binh đi theo chuyến tiếp tế này. Ngày 23/3/75 vào lúc 3 giờ chiều, sau  khi đồng loạt pháo kích dữ dội vào tất cả các vị trí, địch từ thượng lưu  sông Bồ, xung phong tấn công vào các tuyến của ĐĐ2/TĐ5/TQLC. Vì quá bất  ngờ và thiếu cảnh giác nên 2 Trung đội tận cùng cánh trái của đại đội  này bị bung tuyến. Tôi liên lạc với Đại-úy Trần Văn Loan ĐĐT hãy cố gắng  gom con cái lại và chỉnh đốn đội hình, đồng thời báo cáo tình hình này  về BCH Lữ-đoàn. Đại Tá LĐT ra lệnh là phải bằng bất cứ giá nào cũng phải  chiếm  lại vị trí vừa mất. Chấp nhận mọi hy sinh thiệt hại, ĐĐ4 của Đại-úy  Nguyễn Văn Hai được tăng cường và đã hoàn tất nhiệm vụ vào lúc 6 giờ  sáng ngày 24/3/75. Cũng trong thời gian này, hầu hết tất cả các đơn vị  Biệt Động Quân, Địa Phương Quân tự động rã ngũ bỏ tuyến phòng thủ Bắc  Quảng Trị kéo về Huế thật hỗn độn. Thị xã Quảng Trị coi như bị bỏ ngỏ  hoàn toàn. Tiểu đoàn 4/TQLC được điều động về làm nút chặn tại phía Nam  cầu An Lỗ. TĐ7/TQLC trấn dọc sông Mỹ Chánh từ cầu Viên Trình ra biển  Đông, phòng tuyến cao nhất phiá Bắc của miền Nam.
 Khoảng 4 giờ chiều cùng ngày, nhận dược lệnh về tham dự cuộc họp khẩn  cấp tại BCH/LĐ. Đại-tá Lương, LĐT cho chúng tôi biết rõ tình hình tổng  quát và nhiệm vụ phải thi hành đêm nay là một cuộc di tản chiến thuật  cho tất cả các lực lượng về cửa biện Thuận An, vùng đất từ Bắc đèo Hải  Vân trở ra rồi sẽ lọt vào tay địch…Cũng như thành phố Quảng Trị bị vất  bỏ một cách vô tội vào sáng hôm nay khi mới chỉ có một vài loại pháo  kích lẻ tẻ đâu đó. Thế là hết, còn gì đâu hào quang chiến thắng “Cờ bay,  cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu vừa chiếm lại đêm qua bằng  máu…” máu của  hàng vạn đồng bào, máu của hàng vạn đồng bào, máu của chiến hữu nằm  xuống cho vùng đất hồi sinh và ngay bây giờ, từ tối nay Huế cũng sẽ chịu  chung số phận. Cố Đô đầy niềm kiêu hãnh tự hào dân tộc rồi sẽ bị nhuộm  đỏ bởi lũ người khát máu CS. Hàng trăm nấm mồ chôn sống tập thể còn đó,  máu xương mồ hôi nước mắt của bao chiến sĩ QLVNCH còn đây trong lời thề  quyết tử bảo vệ cố đô Mậu Thân 1968. Còn đâu nữa những ngày tháng vàng  son nhất của người lính chiến nơi tuyến đầu lửa đạn lúc nào cũng hùng  dũng hiên ngang. Có nổi đau nào hơn niềm tủi nhục của người lính bại  trận.
 Việc cần thiết trước nhất là phải làm sao bảo đảm đuợc đơn vị rút lui  một cách trọn vẹn, an toàn hầu đủ sức chịu đựng một cuộc dạ hành trên  đoạn đường dài gần 30 km. Thiếu-tá Ngô Thành Hữu, Tiểu đoàn phó và Đại  úy Gianh Văn Nhân, ban 3 đang chờ đợi tại BCH Tiều đoàn. Chúng tôi cùng  đồng ý với nhau bằng một cuộc lui binh trong bí mật, bất ngờ. Tất cả vũ  khí nặng, cồng kềnh như 90 ly, súng cối 81 ly, hỏa tiển TOW chống chiến  xa, đạn dược và những trang bị nặng nề được lệnh phá hủy tại chỗ hay ném  xuống dòng sông. Đại đội 1 của Đại úy Hồ Văn Chạnh đóng chốt từ xa  được di  chuyển trước, chúng tôi không xử dụng đoạn đường quen thuộc hàng ngày,  phải băng qua một xóm nhỏ để đến cây số 17 cầu An Lỗ mà là dọc con đường  sắt suôi Nam, rồi sau đó sẽ đổi hướng vế quốc lộ 1 khi các đại đội đã  bám sát được với nhau. Đã có chừng cả trăm người lính đủ mọi binh chủng,  không còn đơn vị đang tự tập vây quanh 4 chiến xa M48 nằm chơ vơ giữa  lộ, nòng súng chĩa thẳng về hướng quân thù, bình thản cười nói vui vẻ  như đang tham dự một cuộc dạ hành ngoài trời. Đến trường trung học Hương  Trà nằm sát lề Đông quốc lộ, tiểu đoàn dừng lại để kiểm điểm quân số và  củng cố lại đội hình. May mà trong tay chúng tôi còn 1 xe Jeep hành  quân, cứ thế chạy lên, chạy xuống để “tha” những người lính bết bát, trể  nải sau cùng. Điều tưởng như không ngờ, thế mà đã xảy ra một cách thật  tội nghiệp cho trung đội Nghĩa Quân quận Hương Trà, tập họp và bị bỏ  quên tại đây chờ lệnh thượng cấp từ mấy ngày nay. Người trung đội trường  già đến xin tháp tùng cùng chúng tôi. Vài chiếc xe M41 nữa cũng bắt đầu  nổ máy rầm rộ tiến giữa đoàn quân. Nhiều đám đông dân chúng hòa lẫn  hoặc nối đuôi phía sau họ ra đi từ chợ Cạn, Hội Yên, Vân Trình, Hải  Lăng, Mỹ Chánh… từ bgày hôm qua hay sớm hôm nay vì không còn gì để hy  vọng vào sự bảo vệ của người lính chúng tôi. Tiếng khóc than vang vọng  thấu trời xanh, họ, những kẻ bất hạnh, còn lại sau cùng đang lê lết từng  bước một lần mò tìm “tự do” vì một cuộc chủ nghĩa CS bạo tàn. Vài cụ  gìà chống gậy,  các trẻ thơ vô tội kia rồi sẽ ra sao? Liệu có còn đủ súc hay phải kiệt  hơi ngã qụy dọc đường.
Rời ngã ba An Hòa rẽ phải tiến về Huế, thành phố bỏ ngỏ tối tăm rải rác còn lại vài bóng bên đường. Nhiều vết lửa tung tóc lên bầu trời u tối do những trái sáng dược ném từ các toán lính tan hàng mất đơn vị chẳng biết phải làm gì. Súng vẫn nổ lẹt đẹt đó đây hòa lẫn tiếng chó tru vọng ra từ các căn nhà vắng chủ. Phú Văn Lâu vẫn nằm đây bên bờ sông Hương, nhưng còn đâu bóng dáng các con đò quen thuộc hàng ngày. Tiều đoàn bắt đầu tiến quân qua chiếc cầu đúc mới xây bên dưới bến bờ Nam dòng sông, rồi từ đó quẹo trái về Đông, hướng ra biển. Tôi cho xe dừng lại ở phía bên này cầu. chờ đợi cho hết người lính sau cùng. Cảm thấy khá an tâm và một chút hãnh diện về những binh sĩ thuộc quyền, tất cả đều can đảm, hy sinh chịu đựng và luôn tuân lệnh cấp chỉ huy ngay trong những giờ phút nguy hiểm nhất như lúc này. Tôi không nhớ là bao nhiêu lần mình đã nhân danh thẩm quyền để mà ra lệnh cho thuôc cấp xung phong vào chỗ chết. Với 12 năm trong cuộc đời binh nghiệp con số này chắc không ít lắm đâu? Dĩ nhiên là cấp chỉ huy nhỏ, tôi cũng chỉ là kẻ truyền và kiểm soát lệnh và cá nhân mình cũng bị xoay quanh trong các vòng lẩn quẩn ấy! Vài con gió mạnh thổi từ mặt biển vào, cũng nơi đây cây cầu, dòng sông một thời kỷ niệm, tôi bỗng cảm thấy luyến tiếc thèm khác tìm gặp lại một vài nơi chốn quen thuộc lần cuối may ra hình ảnh cũ để nhớ người xưa! Cho tài xế lùi xe lại tiến về hướng đại lộ Trần Hưng Đạo và dự định theo cầu Trường Tiền cũ qua sông. Đường trống vắng chẳng có một chiếc xe nào lai vãng, xa xa trong bóng tối chập chờn, lác đác vài bóng người. Tôi bắt đầu cảm thấy ớn lạnh. Bây giờ ngoài đơn vị TQLC ra, các đơn vị khác chẳng còn gì nữa để mà phân biệt lẫn nhau, qủa thật chẳng còn tình nghĩa gì ràng buộc, nếu có ai đó nổi hứng “bóp cò”.
Có  lệnh cho tôi tiến về phía trước để gặp Đại Bàng Long Mỹ (Đại tá LĐT),  ông giao cho một sấp bản đồ và thay đổi lộ trình về phía phà Tân Mỹ,  đoạn đường từ đầu thôn Vỹ Dạ về cửa biển Thuân An không thể nào nhúc  nhích nổi, nhiều dòng người di tản cùng các đơn vị tan hàng đổ về đây  với không biết bao nhiêu xe cộ. Thượng sĩ Thương, thường vụ tiểu đoàn,  chẳng biết từ đâu mang về vài két bia 33, có lẽ từ khách sạn Hương Giang  bỏ trống? Anh nói với tôi:
- Nhậu đi Đại Bàng, đang buồn ngủ mà gặp chiếu manh.
- Thôi nhanh lên mà đi ông ơi! Non nước này mà còn nhậu nhẹt.
 Từ hướng quán cơm Âm Phủ, một người đàn ông già trạc 60 tuổi tìm đến  phàn nàn về một số lính vào đập phá, lục lạo nhà của ông ta.
- Coi chừng việt cộng đó Đại Bàng.
 Thử hỏi ai mà biết được ai trong thời buổi tranh tối, tranh sáng này,  ngay cả toán lính đập phá kia – có điều tại sao trong hoàng cảnh như thế  này mà ông ta là kẻ dửng dưng như vậy! Qua khỏi cầu Đập Đá một quãng  nữa, bắt đầu tẽ phải vào con đường đất, thôn Vỹ Dạ chìm đấm trong màn  đêm u tịch. đó đây leo lét nhiều ngọn đèn dầu từ khắp các miếu thờ, vết  tích vàng son của một thời vua chúa. Chó càng lúc càng sủa vang bên  những khu vường trống vắng, đoàn quân vẫn tiến đều. Đến khúc lộ bị hư,  đành phải vất bỏ xe lại dọc đường.
- Phá hủy xe đi ông thầy.
- Không cần, mình đang di chuyển, không nên gây tiếng nổ.
Lẩm  bẩm trong miệng, Liên, tài xế mò vào túi quần lấy ra con dao, cắt hết  tất cả dây trong đầu máy xe và quăng bình điện vào một bụi rậm gần đó.  Anh cũng không quên hốt thật nhiều cát bỏ vào bình xăng và nói:
- Ai ngu để cho lũ ác ôn xử dụng, mình không dùng, phá hư luôn…hì…hì…
Đến  tờ mờ sáng thì toàn thể đơn vị đã có mặt bên này phá Tam Giang mêng  mông, nềm vui rạng rỡ trên mặt mọi người. Phải mất thêm 3 tiếng đồng hồ  nữa mới đến được bờ bên kia sát biển bằng một số “ghe gọ” của dân còn  lại ở xóm chài. Từ lâu mới có một ngày nắng đẹp như hôm nay, bầu trời  trong xanh với nhiều tia nắng long lanh chiếu vào mặt biển. Gió vi vu  vừa để mơn trớn các con sóng vỗ ì ạch vào bờ. Không còn gì thích bằng  ngồi đây, dưới bóng râm của hàng dương xanh thẩm, trên đồi cát, hướng  mắt về đại dương bao la, nơi đó nhấp nhô nhiều con tàu như người tình  mơn  trớn hưá  hẹn. Ăn vội ít cơm ở bao gạo xấy còn lại, trong chớp mắt chập chờn,  tiếng la khóc, than van còn mãi ám ảnh trong trí tôi trên đường rút chạy  sáng hôm nay. Cuộc đời khổ đến thế là cùng! Tỉnh giấc khi có lệnh cho  đơn vị chuẩn bị ra bải bốc để lên tàu. Đó là khoảng 2 giờ ngày 25/3/75.  Cả Lữ Đoàn tập họp trên bãi các trắng xóa theo thứ tự sẵn sàng như một  cuộc hành quân đổ bộ ngày nào. Đâu phải chỉ việc sắp hàng chờ lệnh lên  tàu là xong, địch đã rượt theo ta đêm hôm qua, đã mò sát đít chúng tôi  sáng hôm nay, địch đã có mặt bên kia bờ phà, địch đã trà trôn trong đòan  quân. Theo lệnh của mặt trời Papazulu nào đó (Tướng Lâm Quang Thi,  TLP/QĐ1!!!), chiếc HQ-801 dành riêng cho TQLC đã chực sẵn cách bờ khoảng  50m. Nhưng đâu phải chỉ có  chúng tôi cần sống, còn dân chúng, những người lính mất đơn vị hỗn lộn  kia, họ cũng cần cứu vớt như chúng tôi, mà chẳng ai có kế hoạch gì riêng  để giúp đỡ họ. Trong cơn quẫn bách này, không ai cần nghĩ đến ai, chà  đạp tranh dành nhau mà sống, mạnh được yếu thua, khi con rắn đã mất đầu  chỉ còn lại cái đuôi tha hồ mà ngóc nguẩy. Như sức bật của cáo lò xo,  tất cả ùa nhau mà ra tàu, người không biết lội ôm sát người biết bơi,  ngụp lặn với tử thần trong sóng nước, vài chiếc xe M-113 lội nước ủi tới  đè kên, tiếng rên la gào thét. Một sơn sóng nhồi lên, hai cơn sóng đập  xuống, những cái đầu lô nhô, nhiều thân hình chìm lỉm, mất hút trong khi  con tàu vẫn nổ máy đợi chờ. Địch đã vượt phá Tân Mỹ, đã có mặt ở cái  miếu trên đồi  cát đầu làng. Địch đã bắt sống một số lính trễ nải phía sau, địch bắt  đầu pháo rải rác khắp nơi trên mặt biển.
 Bãi bốc đã không còn an ninh mà trật tự cũng chẳng có. Con tàu đành bất  lực rời bến. Để được an toàn hơn, Lữ Đoàn quyết định dời bãi bốc về  hướng Nam và bằng đủ mọi cách phải tách rơi đám đông hỗn loạn kia hầu dễ  dàng đối phó với tình hình mới. Dọc theo mé nước đầy rẫy xác người,  những bộ mặt nhợt nhạt, bất động, ngừng thở theo cơn sóng biển dập vùi,  có lạ, có quen. Người dể nhận ra nhất là Đại úy Ân, ĐĐT/ĐPQ Tiểu khu  Quảng Trị.
Chúng  tôi đã di tản chiến thuật bằng con đường máu ở mặt trận Hạ Lào 1971, đã  rời bỏ Đông Hà, Quảng Trị dọc đại lộ kinh hoàng mùa hè đỏ lửa năm 1972.  Với sự nguy hiểm cùng cực nhưng tinh thần đâu có quá tuyệt vọng như bây  giờ vì dù sao cũng còn chút gì để hy vọng ở đoàn quân tiếp tế phiá sau.  Còn ở đây rơi vào tình thế vô cùng tuyệt vọng. Cả nguyên LĐ có hơn 3000  quân, tiến thoái lưỡng nan trong cái túi càn khôn chỉ vỏn vẹn 4 km 2,  đang gìơ lưng chịu trận. Tàu chiến Hải Quân QLVNCH vẫn trương cờ lảng  vảng ngoài khơi, nhưng các khẩu đại bác đâu rồi?! Niềm hy vọng mong manh  còn  nhen nhóm là  sẽ được tàu vào đón, nhưng sẽ ưu tiên theo thứ tự nào? Đơn vị nào sẽ  phải nằm lại chịu trận và làm vật hy sinh sau cùng? Bóng chiều bắt đầu  trải dài trên bãi cát trắng xóa mênh mông để báo hiệu màn đêm buôn  xuống. Lữ Đoàn quyết định rải quân phòng thủ. TĐ4 và 7 phụ trách mặt  trận Tây, TĐ3 phía Nam, TĐ5 chúng tôi phía Bắc. Đại uý Tô Thanh Chiêu,  ĐĐT/ĐĐ2 và Thiếu tá Nguyễn Trí Nam TĐP/TĐ4/TQLC đã hy sinh trong giờ  phút thứ 25 này cùng một loạt đạn của tên du kích hèn mhát bắn lén trong  khi làm nhiệm vụ điều động quân rải tuyến. Điều đáng thương tâm nhất là  hai người vừa mới lập gia đình và cả hai bà vợ đang mang thai. Cái chết  thật quái ác, tình cờ bởi bàn tay oan nghiệt của tạo hóa. định mệnh!  Tin từ BCH/LĐ cho biết là tàu sẽ  vào đón đêm nay hay trễ nhất là sáng sớm ngày mai theo thứ tự như sau:  BCH/LĐ, TĐ2PB, TĐ4, TĐ3, TĐ5, TĐ7…Đúng theo sự suy nghĩ dự đoán của  chúng tôi, lẽ dĩ nhiên các đơn vị tan hàng hay bị sứt mẻ không còn khả  năng chiến đấu thì ưu tiên mang họ đi càn sớm càng tốt để không làm  vướng bận các đơn vị còn lại. Nhưng cả BCH/LĐ đi hết thì ai sẽ là người  chỉ huy chúng tôi. Điều này thật cần thiết và quan trọng nhất. Cái thứ  tự di chuyển mà không một binh thư nào viết ra hoặc chúng tôi chưa hề áp  dụng trước đây.
 Qua ánh trăng mờ ảo, dòng người bị bỏ lại ban chiều đang ồ ạt kéo về  tuyến phòng thủ. Không còn cách gì hơn là phải chận họ lại nằm sát phòng  tuyến trong tầm bảo vệ hỏa lực để khỏi làm xáo trộn cho sự điều động  chỉ huy của quân bạn bên trong. Súng vẫn nổ đều khắp nơi và chẳng có con  tàu nào cập bến. Trăng vẫn lên ca, khuya dần. Cùng lúc, vài tốp người  xé lẻ, hèn nhát tách bến rã ngũ ra khơi.
 Rạng sáng ngày 26/3/75, khi ánh bình minh vừa ló dạng ở phương Đông thì  con tàu cùng thủy thủ đoàn cũng bắt đầu tiếp tục nhiệm vụ, ủi thẳng vào  bờ theo sự điều động của BCH. Đã có chuẩn bị sắp xếp từ trước, nên việc  di chuyển lần này tương đối trật tự hơn. Ưu tiên vẫn là BCH/LĐ và các  thương phế binh từ các đơn vị mang đến. Địch thừa thắng xông lên cố ra  sức đánh vào đầu chúng tôi những đòn thù chí tử. Đây là điều nghiệt ngã  nhất của chiến tranh, có vay có trả. Chúng tôi đã diệt gọn nguyên trung  đoàn 48 địch một cách không thương tiếc khi quét sạch chúng ra khỏi  hang cuối  cùng tại cổ thành Quảng Trị. Những vòng sắt oan nghiệt của đoàn chiến  xa M48 và M41 đã nghiền nát vô số lính CS Bắc Việt, sinh Bắc tử Nam, qua  các dãy địa đạo ngầm trong hầm khi tấn công tiến vào cửa Việt. Pháo  địch cùng lúc càng mãnh liệt hơn và chiếc tàu nằm chình ình giữa biển  khơi vẫn là mục tiêu tốt nhất để chúng điều chỉnh tác xạ ngắn, dài…Một  cục lửa, hai cục lửa, rồi quá nhiều cục lửa của loại hỏa tiễn tầm nhiệt  AT3 rải rác đó đây. Có cái rớt ngay dòng người di tản ngụp lặn theo sóng  nước. Có cái trúng thẳng vào thân tàu. Con tàu chòng trành nhổ neo tách  bến. Để bớt căn thẳng, tôi chui ra khỏi hố trú ẩn làm một vùng quanh  tuyến. Những vệt sáng của lằn đạn đạo thẳng cùng nhiều quả đạn pháo kích  đan chéo nhau vi  vút trong gió biển. Các khẩu súng cối 60 ly và phóng lựu M79 của ta đáp  lễ cầm chừng, không khả năng nhiều lắm nhưng cũng để chứng minh rằng  “vẫn đang có ta đây“. Dọc theo mé nước sát biển, thầy trò Thiếu tá Võ Đằng Phương,  TĐT/TĐ2/PB/TQLC, Đại uý Lê Tự Hào cùng một vài người lính đang gấp rút  xử dụng các mũ sắt của mình để cào cào moi hố. Họ là những người sau  cùng bị sót lại khi hầu hết đơn vị mình đã được lên tàu.
- 207 đây 416 gọi. Anh ở lại take care con cái.
- 207 đây 416 gọi. Anh ở lại take care con cái.
- Vâng! Nhận rõ 416!
 207 là biệt hiệu của Thiếu tá Phạm Cang TĐT/TĐ7/TQLC, người thâm niên  và giỏi nhất trong đoàn bạn tôi. Còn 416 là danh xưng của Trung tá  Nguyễn Đằng Tống LĐP/LĐ147.
 Nắng chiều nhạt dần, sóng biển rì rào và bờ cát lại trống vắng đến lạnh  lùng, không còn một bóng người lai vãng, họ đang chiến đấu ở tuyến đầu,  họ tránh núp đạn dưới hố sâu, họ hối tiếc, thèm thuồng về một con tàu  khác. Các đại đội lại thêm một số bị thương, lại thêm vài người chết  nữa. Đạn dược, lương thực cạn dần trong khi chúng tôi cố hết sức giữ  vững tinh thần binh sĩ bằng cách liên lạc máy thường xuyên với các đại  đội. Cảm giác bị vất bỏ bắt đầu nhen nhúm trong ý nghĩ mình, nhưng tôi  vẫn chưa dám tin rằng điều này có thật, vì nếu như vậy thì còn thể  thống gì  đến quân đội và tổ quốc mà biết bao người đã hết lòng yêu thương và  phục vụ. Mò mẫm vào cuốn đặc lệnh truyền tin, tôi vận máy qua tần số  BTL/SĐ đang ở đâu trên đèo Hải Vân, với trạm liên lạc chuyển tiếp giữa  Huế và Đà Nẳng. Người tiếp tôi là Đ/U Đan, tùy viên tư lệnh:
- Đại Dương, cho tôi xin gặp Lạng Sơn (biệt danh của Thiếu tướng Bùi Thế Lân, tư lệnh SĐ/TQLC).
- Lạng Sơn đang bận lắm. Có gì ông anh nói, tôi sẽ chuyển.
- Nhờ Đại Dương trình với Lạng Sơn cho chúng tôi lệnh kế tiếp.
- Ở đây cũng đang lu bù lắm, không ai có thể giúp gì được cho ông anh. Tốt hơn hết là self-service. Good luck ông anh!
 Mặt mày tối tâm, xây xẫm, thất vọng, tôi ném ống liên hợp xuống  cát…self service…có nghĩa là tự lực cánh sinh, tùy cơ ứng biến, có thể  là mạnh ai náy lo, có thể là tan hàng!
Khoảng quá xế trưa, mặt trời Papazulu lại xuất hiện bằng một giọng thật đanh thép, ông ra lệnh cho một chiếc HQ khác, bằng bất cứ giá nào cũng phải bốc tiếp chùng tôi. Con tàu lại tách sóng hướng thẳng vào bờ phiá Bắc tuyến phòng thủ chừng 200m. Lần này, TĐ4 sẽ lên tàu dưới sự sắp xếp chỉ huy của Thiếu tá Đinh Long Thành, tân TĐT của đơn vị này. Bất kể là đơn vị nào, bất cứ là ưu tiên cho ai, thật nhiều đám người từ mọi hướng đổ ập về đây tràn xuống như thác lũ. Con tàu quá tải tròng trành trên mặt nước, chân vịt ngưng quay nằm bất động vì máy đã hỏng rồi. Lại thêm một đêm nữa rồi sẽ đến với tình thế mỗi lúc một tồi tệ hơn. Phải quyết định ngay bây giờ, nhưng giải quyết bằng cách nào đây? Tôi gọi HS1 Lê Hồng Quảng Nam, người cận vệ thân tín nhất đến, sau khi đã cạo nhẫn bộ râu quai nón của mình, chính nhờ nó mà tôi đã ăn nên làm ra trong đời binh nghiệp và được giấy phép của bộ TTM cấp hẳn hòi với lý do: “uy tín cấp chỉ huy”.
- Anh chuẩn bị cho tôi một ít nước uống và vài gạo sấy để phòng thân.
 Nam do dự mếu máo:
- Ông thầy đừng bỏ tụi em, có gì cho tụi em theo với. Thuận, Thành hai hiệu thính viên cũng oà lên khóc.
- Yên trí, thầy trò mình sẽ sống chết có nhau mà.
Đầu  óc tôi cứ mãi bị ám ảnh bởi lời đề nghị của Đ/U Đan là ông anh nên  “self service”. Nhưng chuyện này cũng có 5, 7 cách khác nhau. Hãy tìm  một vài người lính thật khỏa mạnh, bơi nhà nghề, mà phải là dân chuyên  đi biển ở Nha Trang hay Phan Thiết, mò vào nhà dân hay dọc theo mé nưóc,  tìm sẵn một chiếc ghọ thật tốt, chuẩn bị sẵn sàng, thừa nước đục thả  câu sẽ cùng bỏ trốn như loài chuột. Nhưng cũng chẳng phải dễ dàng lắm  đâu! Chúng tôi sẽ bị bắn chết bởi đồng đội trước khi nạp mình cho bầy cá  mập, hay là tuyên bố hoạch toẹt rõ ràng, đơn vị tan hàng, mạnh ai nấy  lo, đâu  phải lỗi ở  mình. Điều này quá trắng trở và trắng trợn, chẳng còn tình nghĩa gì.  Nếu còn sống làm sao dám nhìn lại mặt nhau như Hai Chồn, Pake, Loan Mắt  Nhung, Chanh Trọc, Ba Ngành, các ĐĐT lương đen lì lợm, nhậu rượu như  uống nước mà đánh giặc rất chí tình. Tôi liên lạc máy với Thiếu Tá Cang  TĐT/TĐ7 cùng Thiếu Tá Sử TĐT/TĐ3, chúng tôi cùng đồng ý với nhau là  chẳng còn cách nào khác hơn, mở đuờng máu xuôi Nam về cửa biển Tư Hiền  còn nước, còn tát.
 Nói là mở đường máu chứ thực ra chỉ là cách thối thác cho một sự tan  hàng, đường về bít bối, vì nếu có trầy da tróc vẩy đến nơi thì cũng chỉ  là vùng trời mây nước mênh mông, ngồi đó chờ nộp thịt cho chằng. Di  chuyển cũng theo thứ tự lớp lang, nhưng đội hình chẳng còn. Sức mòn, lực  kiệt, súng cầm tay, tinh thần đã mất, đạn dược cũng không, cứ nhắm mắt  nhắm mũi mà chạy 1,2,3,4… 1,2,3,4  “đường trường xa con chó nó  tha con mèo…”  càng  xa địch bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Nhiều tiếng nổ chát chúa phía  sau, của địch thì ít mà của ta thì nhiều. Những người lính bị thương  không còn khả năng thep kịp đòan quân, bò lết lại với nhau, bung chốt  lựu đạn nổ để  “thà chết vinh, còn hơn sống nhục”. Đứa con đầu của TĐ3 Sói Biển đang bị một đại đội du kích chận lại, phía trước  ùa về, ở sau đung tới, vô vọng, tuyệt  vọng, chưa bao giờ tôi cảm thấy thèm sự sống bằng lúc này, miệng luôn luôn lẩm bẩm xin Phật Trời giá hộ  “cùng tắc biến, biến tắc thông”.
Nhóm  chúng tôi gồm 5 người tấp vào xóm dân chài, hy vọng sẽ được giúp đỡ bởi  tình quân dân cá nước ngày nào, nhưng hiện tại quân đã tan thì tình  cũng chẳng còn, mặc dầu đã cố gắng nài nỉ hết sức kể cả tiền bạc thuê  mướn, nhưng họ đã từ chối thẳng thừng. Chủ nghe là gã trung niên lực  lưỡng, mặt rỗ hoa mè chắc là VC nằm vùng hay du kích gì đó. Thôi thì  “tam thập lục kế”, kê súng vào đầu là thượng sách nhất. Đây là lần thứ  hai tôi chạy giặc, lúc nhỏ vào lúc 5 tuổi theo mẹ trốn vào rẫy mỗi lần  “mới sớm mai thằng Tây nó bố vào rừng ta quyết trốn”. Và bây giờ sau 26 năm khi đã trưởng thành trong quân ngũ… vẫn còn súng  đạn trong tay cùng những chiến hữu bạn bè, tôi phải chạy trốn giặc cộng,  thằng chủ nghe đang ngồi với tôi bây giờ là một tên VC chín rõ muời  mươi, hắn phá máy cho ghe ngừng, hắn làm dấu chỉ điểm mỗi lần kề sát ghe  địch. Nhân (B3), Ngọc (B2) đã làm thịt tại chổ, tôi ngăn không cho,  chuyện gì rồi cũng phải tính đường về, nếu nhỡ thì sao!
 Chỉ vỏn vẹn mấy ngày phù du mà bao điều biến đổi dồn dập bất ngờ, không  biết số phận của tôi và bao nhiêu người khác nữa rồi sẽ ra sao khi ánh  bình minh của một ngày mới xuất hiện, hy vọng sống còn chỉ là việc hiếm  mọn nhỏ nhoi trong cái chết xảy đến mới là điều chắc chắn. Tờ mờ saág  hôm sau, sau khi đã cạn hết nhiên liệu, chiếc ghe đành nằm chênh vênh  trên mặt nước mênh mông vùng Tư Hiền, giữa rừng cờ giặc. Xa xa là những  dãy núi chập chờn xanh thẳm của đỉnh đèo Hải Vân như réo gọi, mời mọc,  thèm thuồng, tiếc rẻ. Và như số phận đã an bài, nhưng rồi cũng có lúc   “chí  tuy còn mong tiến bước mà sức không kham nổi đọan đường dài, sự nghiệp  bao năm đeo đuổi thôi cũng đành gián đoạn từ đây… bởi đâu? do đâu? vì  đâu?
 Giã từ vũ khí, ném súng xuống dòng sông định mệnh, ngồi chờ địch đến,  đổi đời lịch sử sang trang. Chúng tôi bị trói tay lùa lên bờ. Chúng tôi  bị “giải phóng” tất cả quần áo, đồng hồ, dây chuyền, đồ đạc. Một vài  người bị dẫn đi xử bắn rất dã man!
 Chúng tôi bị xỉ vả, đấu tố "làm tay sai cho đế quốc". Chúng tôi không còn là chúng tôi nữa, chỉ vì   chúng tôi là chiến sĩ  Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa   bảo vệ miền Nam tự do, bị bỏ rơi lại phía sau thề sống chết thủy chung và chiến đấu hết mình.   Cuộc đời tù đầy của vài ngàn quân cũng bắt đầu từ cái ngày đáng nhớ  ấy…27/3/75 tại một địa danh nhỏ, hẻo lánh, quen thuộc: thôn Vĩnh Lộc,  Thừa Thiên, Huế ngay trên tổ quốc thân yêu của chúng  tôi.
 Mũ Xanh Phạm Văn Tiền 

No comments:
Post a Comment