Tuesday, May 25, 2021

Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ Hình Của Chính Mình - Nguyễn Thành Châu

Tết năm đó tôi về Việt Nam ghé thăm bạn bè. Đến miền Trung, tôi được một người bạn rủ thăm mộ một người bạn khác. Từ một thị trấn miền biển, chúng tôi ra quốc lộ Một, theo hướng bắc, lên một đèo nhỏ, đến đỉnh đèo, thay vì xuống dốc, bạn tôi cho xe chạy vào một đường mòn dọc theo chân núi. Đây là một vùng hoang vắng, cằn cỗi, toàn đá, cây lưa thưa, cao không quá đầu người. Chiếc xe gắn máy cứ nhảy chồm chồm, như con ngựa trở chứng, mấy lần suýt ngã xuống vực. Cuối cùng chúng tôi cũng đến được một nơi, hơi bằng phẳng, có mười mấy ngôi mộ đất, nằm rải rác trên một diện tích khoảng một cái sân lớn. 
Bạn tôi chỉ một mô đất có miếng gỗ nhỏ ghi chữ Tư bằng hắc ín bạc màu.
- Nó nằm đây!
Chúng tôi lấy nhang, đốt lên, đứng trước mồ bạn, khấn vái mấy câu. Trong giây phút tưởng niệm, tôi như hình dung rõ bạn tôi trong những ngày cùng ngồi chung lớp, chung trường. Bạn tôi vui tươi, khỏe mạnh, yêu đời, lúc nào cũng nói chuyện tếu được, khiến cho dù ai có chuyện buồn cũng phải bật cười... Rồi cảm tưởng như tất cả những người nằm trong các ngôi mộ rải rác chung quanh đều là bạn thân thiết, vong linh họ đang đứng bên cạnh, tò mò nhìn xem chúng tôi làm gì? Ý nghĩ đó khiến tôi thêm ngậm ngùi, thương cảm. 
Tôi khấn lầm thầm. “Chúng tôi rất hãnh diện có được những người bạn đã chọn một cái chết hào hùng để bảo vệ tự do, bảo vệ đồng bào. Sự hy sinh của các bạn càng thêm ý nghĩa sau khi cộng sản Bắc Việt chiếm đóng Miền Nam. Dân chủ, tự do không còn nữa!” Tôi cũng trấn an người bạn học quá cố của chúng tôi khi nói về cuộc sống ổn định của vợ và các con của bạn “Anh em đồng môn luôn tìm cách an ủi, giúp đỡ chị và các cháu”. Khấn xong, chúng tôi đem nhang cắm lên tất cả các ngôi mộ. 
- Chỉ thằng nầy là dân hành chánh, còn mấy cậu nằm chung quanh toàn quân nhân. Nhảy dù với nghĩa quân.
- Có lẽ phải xây một cái khung cho tất cả các ngôi mộ nầy, rồi đổ đất lên mới không bị mồ xiêu mả lạc.
- Lần trước, lên đây, tôi có gặp anh chàng sống một mình trong mái tranh đằng kia, mình có thể nhờ anh ta lo vụ nầy...Chắc không tốn bao nhiêu.

Mới buổi sáng mà nắng đã gay gắt. Tôi đứng nhìn quanh. Một bên là núi cao, một bên là sườn núi thoai thoải, chạy đến một rừng cây xanh có lẽ là điểm nước, thấp thoáng sau hàng cây là quốc lộ Một, mấy chiếc xe đang chạy trên một cây cầu nhỏ, bắc qua một con suối, về mùa hè nên nước cạn, chỉ thấy lấp loáng ánh nắng qua những gộp đá nhỏ. Bạn tôi chỉ tay về hướng bên kia đồi.
- Nhà anh ta dưới tàng cây lớn kia kìa, nếu để ý, quá khỏi tàng cây, có cái gò cao, giống hình người đang ngồi. Bạn thấy chưa? Đó là cái gò mối, nhưng người ta đồn đãi là mộ của một cô gái rất linh thiêng. Bây giờ mình thử đến đó xem sao.

Chúng tôi đi băng qua đồi. Đường rất khó đi nên phải đẩy bộ chiếc xe gắn máy, có khi phải khiêng qua những những tảng đá lớn chắn lối hay những rãnh sâu. Cuối cùng thì chúng tôi cũng đến nơi. Đó là một căn nhà tranh vách ván, nằm dưới một cây mít có tàng lớn che gần hết mái nhà. Sau nhà là một khu vườn vuông vức mỗi cạnh độ vài trăm thước, trồng cây lưu niên làm hàng rào, trong vườn là những luống khoai lang, khoai mì và bắp, góc vườn có một giàn bầu hay bí gì đấy. Nhà vắng tanh. Chúng tôi lên tiếng.
- Có ai trong nhà không?
Một người đàn ông từ sau bếp bước ra.
- Có tôi!
Anh ta khoảng trên bốn mươi, người hơi ốm nhưng rắn rỏi, da sạm nắng, tóc cắt ngắn, đôi mắt chơn chất sáng lên niềm vui của kẻ sống cô độc được có người đến thăm.
- Chào quí anh. Quí anh có chuyện gì mà lên chỗ hẻo lánh nầy?
- Chúng tôi đi thăm mấy cái mộ đằng kia, nhân tiện ghé thăm anh, định nhờ anh chút chuyện
.
Anh ta cười, đưa hàm răng vàng khè vì khói thuốc.
- Lúc mấy anh đi lên, tôi đã thấy rồi. Vậy chứ mấy anh có thân nhân, bạn bè gì nằm ở đó?
- Có ông bạn học...Lên thăm, và định xây cho nó cái mộ cho tươm tất, để mộ đất, lâu ngày, gió mưa trôi hết, sau nầy tìm không ra.
- Mời hai anh vô nhà ngồi uống nước.

Chúng tôi bước vào. Đó là một ngôi nhà tranh nhỏ tầm thường. Nhà ba gian, giữa là bàn thờ, có tấm màn che. Bên trái là chiếc giường nhỏ, có lẽ là chỗ ngủ của chủ nhà, bên gối tôi thấy có mấy quyển sách, vì phép lịch sự tôi không nhìn kỹ sách gì nhưng như thế chứng tỏ chủ nhà là người có học và có thú vui đọc sách. Bên phải là một căn buồng đóng cửa. Trước bàn thờ là bàn nước bằng gỗ mộc, cũ kỹ, để một bình tích trong trái dừa khô, giúp cho nước giữ nóng được lâu, mấy cái ly thủy tinh trên một dĩa lớn. Có bốn cái ghế dựa để tiếp khách. Anh kéo ghế mời chúng tôi rồi xuống bếp thổi lửa nấu nước, pha trà. 
Chúng tôi ngồi nhìn quanh, hỏi vọng xuống bếp.
-Anh sống một mình sao?
Anh ta đi lên nhà trên.
- Tôi sống một mình. Cũng hơn mười năm.
- Không buồn à? Kiếm một bà về ở chung để có người chuyện trò, ốm đau còn nương tựa nhau.
- Tôi có vợ rồi, nhưng vợ mất, tôi ở vậy...thờ vợ
.
Tôi pha trò.
- Anh có hiếu với vợ dữ! Cô vợ anh chắc sẽ mỉm cười nơi chín suối khi có được người chồng chung tình như anh.
Anh ta chỉ cười, xuống bếp lấây ấm nước lên, mở nắp bình tích, bỏ trà, chế nước sôi vào.
- Sống một mình cũng quen. Xuống phố thấy xe cộ, người nói, ồn ào, chỉ muốn về nhà cho yên tĩnh.
- Đất vùng nầy cằn cỗi, sao vườn anh tươi tốt vậy?
-Phải xuống suối móc sình lên đắp, mấy đời như thế nên mới trồng trọt được. Mấy anh đi thăm mộ ai ở đằng đó?
- Thăm người bạn, tử trận hồi bảy lăm. Bởi vậy mới định nhờ anh...

Anh ta ngồi lên giường, gác tréo chân, thong thả vấn điếu thuốc lá.
- Thỉnh thoảng tôi có ghé thăm chừng, thắp nhang, dọn cỏ mấy ngôi mộ đó. Mấy anh định xây cho mộ nào?
- Có ông bạn học nằm đó. Cũng định xây luôn cái khung chung quanh tất cả các ngôi mộ rồi đắp thêm đất lên cho mưa lũ khỏi trôi mất. Anh có thể giúp được không?
- Có phải mấy anh định xây mộ cho ông phó hành chánh nằm đó không?
- Sao anh biết?
- Tôi là lính phòng thủ quận hành chánh. Nghĩa quân tụi tôi với ông phó thân lắm. Đúng ra thì ông phó không có nhiệm vụ tác chiến, thiếu tá quận trưởng bảo ông đưa gia đình về Sài gòn, mục đích để khỏi phải đánh nhau, nhưng ông phó chỉ gửi vợ con đi còn ông ta thì ở lại. Ông phó bảo đã tốt nghiệp sĩ quan Thủ Đức mà lại trốn chui trốn nhủi thì nhục lắm. Mời mấy anh dùng trà. Vẻ dè dặt không còn trong cách đối xử của anh ta.
- Các anh yên tâm. Nếu các anh muốn xây thêm cái “khuỷnh” cho tất cả các ngôi mộ thì tôi cũng xin góp chút công. Tôi chỉ tính vật liệu thôi, không tính tiền công. Bây giờ tôi đề nghị thế nầy. Các anh ở lại đây nghỉ trưa, chúng ta sẽ có thì giờ bàn lại kỷ hơn chuyện mồ mả. Tôi xin mời các anh một bữa trưa. Chỉ kẹt là không có rựợu, chớ còn mồi thì lúc nào cũng sẵn sàng. Bắt con gà rồi quơ bậy mớ rau thơm là có ngay một nồi cháo. Hai anh cứ ngồi chơi, đợi tôi. Hay là ra sau hè, có gió, mát hơn ở trong nhà.
- Tụi tôi đâu biết nhậu, có cháo gà mà húp cũng đủ khoái rồi.

Hai đứa tôi ra sau hè, tôi nằm đong đưa trên võng, người bạn ngồi trên cái ghế dài, tựa vào vách nhà. Gió biển thổi lên mát rượi, mấy con chim sâu hót trong bụi rậm, tiếng gió rì rào trong cảnh vắng vẻ, tĩnh mịch... Đúng là cõi thần tiên nơi góc núi. Hai đứa tôi chuyện trò linh tinh một lúc, độ hơn nửa giờ thì anh ta bưng nồi cháo ra, đặt trên một cái bàn nhỏ, thêm mớ chén, đũa, vậy là chúng tôi vừa sì sụp vừa chuyện trò.
- Bây giờ anh kể vụ bảy lăm, ở đây, xảy ra những chuyện gì? Tụi tôi chỉ nghe mang máng có đánh nhau dưới cầu kia, anh có tham dự không?
- Có chứ! Khi có vụ di tản từ Cao Nguyên xuống thì ở quận, tụi tôi được lịnh ứng chiến. Ông phó hành chánh, tức bạn của hai anh, dẫn trung đội nghĩa quân tụi tôi lên chốt trên kia. Tụi tôi đóng ở đó được mấy ngày thì có một đại đội dù đến tăng cường. Ông phó phối hợp với bên dù cho gài mìn dưới cầu đằng kia, chờ tụi hắn đến thì giật sập cầu và chận đánh. Một toán nằm dọc bờ suối, phục ở đó, chờ địch. Tôi và một anh nhảy dù lo việc giật mìn. 
Nhiệm vụ tôi hễ bấm xong mìn thì lên chỗ gò kia nằm, theo dõi và gọi máy báo cáo khi thấy địch xung phong lên núi. Thế rồi, địch xuất hiện, chạy một dọc cả chục chiếc xe lớn chở đầy bộ đội. Tôi bấm mìn giật sập cầu, mấy anh nhảy dù thụt M72, cháy mấy chiếc xe đi đầu, rồi xả súng như mưa. Từ ngày tôi đi nghĩa quân, thỉnh thoảng có hành quân lùng sục du kích, nhưng việt cộng chỉ bắn mấy phát rồi bỏ chạy, chứ chưa thực sự đụng độ bao giờ. Đến lúc đó tôi mới biết thế nào là đánh nhau. Ôi thôi! Súng nổ khắp nơi, rầm trời, rầm đất. Tôi bò lên chỗ gò mối nằm dòm chừng để báo cáo tình hình. Đến chiều thì xe tăng tụi nó đến. 
Đại bác của xe tăng thụt phe ta chạy tứ tán, phải núp sau mấy tảng đá, hi vọng tụi nó xung phong theo bờ suối thì nhào ra. Vậy mà chúng chỉ bắn cầm chừng, đến tối, chúng vào giở nhà dân bắt cầu, suốt đêm, sáng hôm sau chúng đi mất tiêu. Coi bộ chúng không thiết đánh nhau, chỉ lo chạy vô phía Nam mà thôi. Sáng đó tụi tôi cũng thu dọn chiến trường, chôn mấy người chết, băng bó người bị thương rồi cũng di chuyển theo đường núi về hướng Nam. Đến tháng Năm thì tan hàng, ai về nhà nấy. Tôi về trình diện chính quyền cộng sản, đi học tập, nghĩa là đi nghe chửi, lao động sản xuất rồi được về nhà. Tôi về đây phụng dưỡng ông bà già. Được năm năm hai ông bà qua đời, tôi vẫn ở đây lo hương khói, chăm nom mồ mả cha mẹ, vợ con cho đến bây giờ. 
Ăn xong chúng tôi phụ nhau dọn dẹp chén đũa. Anh đem bình trà và ly ra.
- Trưa nào tôi cũng ra đây làm một giấc. Gió mát lắm!

Tôi nhìn lên đồi, thấy cái gò mối giống hình người ngồi xây lưng về phía chúng tôi.
- Tôi có nghe kể về chuyện cô gái chết nhưng linh thiêng lắm. Anh biết chuyện đó không?
- Chuyện linh thiêng thì tôi không tin, vì đôi khi chỉ là sự trùng hợp tình cờ. Nhưng chuyện về cô gái đó thì tôi biết rõ. Vì nó xảy ra cùng lúc với vụ đụng độ mà tôi vừa kể cho mấy anh nghe đó.
- Anh có thể kể vắn tắt cho tụi nầy nghe được không?
- Chuyện chẳng có gì lạ lùng cả. Lúc đụng độ thì cái gò mối chưa cao và to như vậy...

Tôi đoán chừng.
- Sau đó cái gò mới nổi lên giống hình cô gái ngồi nên người ta thêu dệt nên một chuyện linh thiêng, phải không?
- Cũng gần như thế. Trong toán nghĩa quân, có một anh chàng là chồng của cô gái ở nhà nầy, nên ông phó giao cho hai vợ chồng cái chốt đằng kia, canh chừng địch. Coi như vừa làm việc nhà vừa làm việc nước. Hai người mới cưới nhau được có nửa năm.
Anh ta trầm ngâm.
- Cô ta có bầu được ba bốn tháng. Lúc đụng độ, cô ta không ở trên chốt mà ở nhà, ở đây. Cô với cha mẹ nấp dưới hầm nên vẫn bình yên. Sáng hôm sau, sau vụ đụng độ, cả đơn vị, dù và nghĩa quân theo đường núi vào Nam. Anh chàng nghĩa quân có hẹn với vợ là sẽ quay lại. Nếu tình hình khó khăn, nguy hiểm thì anh ta sẽ về ban đêm, điểm hẹn là cái gò đó. Thế nên, khi thành phố bị địch chiếm, làng xã bị kiểm soát, cô ta không hi vọng gặp chồng ban ngày nên buổi tối cô ta thường mang chiếc võng, mùng mền ra ngoài chốt kia ngủ để chờ chồng. Thường thì cô ngủ lại ở đó đến gần trưa mới vô. Cha mẹ thấy cô mang bầu, thương con, cứ để cho cô ngủ, khi nào thức dậy thì vô nhà. 
Bữa đó đến chiều, không thấy cô vào, bà mẹ mới ra đánh thức con. Không ngờ ra đến nơi thì chỗ con gái nằm, mối đã đùn lên ngập xác cô, như một nấm mộ. Hai ông bà chưa biết tính sao thì hôm sau, mối phủ cao lên nữa, đành để vậy. Hôm trước đó, cô gái đã than là trong người khó ở, bị sốt, không chịu ăn uống. Cha mẹ cản ngăn nhưng cô vẫn lên chốt ngủ chờ chồng. Có lẽ cô bị trúng gió hay trở bịnh bất ngờ, không ai cứu giúp nên phải chết, vừa lúc mối đùn gò ngập luôn xác của cô.
- Nhưng nghe nói cô linh thiêng lắm, anh có biết tại sao không?
- Số là một năm sau đó, có chuyện xảy ra dưới quốc lộ, chỗ đường mòn mà mấy anh dẫn xe vô lúc nãy. Chuyện như thế nầy. Một buổi tối, trời mưa to, có chiếc xe khách chạy lên đèo. Vì mưa quá lớn không thấy đường sá gì cả, anh tài xế phải lái rất cẩn thận. Lúc xe vừa định quẹo cua, đổ đèo thì thấy một chị đàn bà, bụng mang bầu, đi băng qua đường. Anh tài xế hoảng kinh, vội thắng gấp rồi thò đầu ra cửa xe chửi thề chị đàn bà là đui, là ngu. 
Chị ta không nói năng gì cả, cứ lẳng lặng đi qua rồi khuất trong mưa. Chửi xong anh ta cho xe chạy. Nhưnh chưa kịp sang số thì thấy một chiếc xe tải chết máy, nằm lù lù một đống, không đèn đóm, không dấu hiệu gì cả. Nếu không vì chị đàn bà băng qua đường mà phải thắng gấp, anh ta đã cho xe húc vào đít chiếc xe tải chết máy nằm đó rồi, chắc chắn là xe phải rớt xuống đèo. Thật hú vía! Anh tài xế xuống xe, cứ hướng chị đàn bà đã đi khuất mà vái lạy rối rít. Không hiểu nghe ai kể mà anh tài xế, ít lâu sau, ra kêu người nhờ xây cái miếu chỗ khúc quanh suýt xảy ra tai nạn. Không may cho anh ta, mới đổ gạch xuống đó thì gặp mấy ông công an xã đi ngang. 
Họ dừng lại hỏi lý do xây miếu, hỏi giấy phép. Anh tài xế kể lại chuyện xảy ra hôm trước, nhưng chẳng ai tin. Vụ xây miếu bị ngưng. Mấy ông công an kéo nhau lên chỗ gò mối, ông trưởng công an xã rút súng bắn vào cái mộ để thị uy “Chết là hết. Không có ma quỉ, thần thánh gì cả. Cái mộ nầy sẽ bị san bằng nay mai” Vì mấy ông đó đi nhậu về, say quá nên khi xuống đồi, xe bị lọt hố, ông trưởng công an xã bị gãy tay. Thế là người ta đồn rầm lên là ông ta bị “Cô” vật.
- Tôi có đọc một truyện ngắn tương tự. Có lẽ người ta dựa theo đó, cùng với lòng thương cảm cô ta mà thần thánh hóa câu chuyện để người đời truyền tụng. Anh ta như không để ý lời tôi, kể tiếp.
- Ít lâu sau, anh tài xế được nhắn ra, cho phép tiếp tục xây cái miếu, nhưng không ai dám giúp vì sợ bị bắt. Vừa may gặp tôi, tôi thầu luôn. 
Xây xong miếu, tôi vào chùa, xin thầy trụ trì viết cho một bài vị bằng chữ nho. Phần trên để mấy chữ thật lớn Anh Hùng, Liệt Nữ. Dưới đó là tên cô gái và tên mấy anh lính chết trận. Tôi đem đến thợ đá nhờ chạm cho một bia nhỏ để thờ trong miếu. Thành ra, ngày rằm, mồng một, xe cộ ngang qua đấy thường dâng lễ vật, khấn vái, xin “Cô” phù hộ đi đường bình an.
- Bộ anh nhớ hết tên mọi người chết trên đó sao?
- Nghĩa quân là đồng đội, cùng đơn vị bao nhiêu năm. Với các anh bên nhảy dù, sống với nhau hàng tuần lễ, chỉ cần nghe tiếng nói tôi cũng biết là ai, tên gì. Vả lại phải nhớ tên mấy người đã chết, để sau nầy thân nhân đi tìm mà chỉ cho họ
.
Thấy trời đã về chiều, tôi bàn đến chuyện xây mả, anh ta đề nghị.
- Nên xây từ từ, không cho chính quyền biết, hết tiền tôi sẽ ghé nhà quí anh lấy thêm.
- Anh đừng lo, tôi là Việt kiều, anh cứ tính công vào cho sòng phẳng. Chẳng bao nhiêu mà ngại. Tôi để tiền lại, anh cứ ghé bạn tôi mà lấy.
Tôi nhờ anh ta đưa chúng tôi ra thăm gò mối là mộ của cô gái. Trông không khác bất cứ gò mối nào ở trong rừng, nhưng rất to, kích thước cũng cỡ một ngôi nhà nhỏ. Đứng gần thì không hình dung được, nhưng nếu lùi ra xa, đi vòng phía bên kia, sẽ thấy giống hình một người đàn bà với mái tóc dài, ngực lớn, ngồi xây mặt vô núi. 
Có một cái nấm nhỏ hơn, giống đứa bé ngồi tựa vào lòng mẹ. Tôi hỏi.
- Trông giống Hòn Vọng Phu, nhưng sao Hòn Vọng Phu nầy lại xây mặt vô núi?
Anh ta có vẻ đăm chiêu.
- Hai mẹ con chờ người trong núi ra.
Buổi chiều âm u, cảnh vật im lìm, tôi cảm thấy rờn rợn, tưởng chừng cái nấm mộ vĩ đại giống hình người kia cũng có linh hồn, có cảm giác và đang lắng nghe chúng tôi chuyện trò. Tôi nói.
- Đáng lẽ phải đem nhang ra đây...
- Vô nhà cúng cũng được. Trong đó có thờ cô ta.

Khi vào nhà, chúng tôi xin được thắp nén nhang, lễ trước bàn thờ tổ tiên, thân nhân của chủ nhà. Anh ta vén tấm màn che bàn thờ lên và lấy nhang, quẹt diêm đốt, trao cho chúng tôi. Tôi thấy trên bàn thờ có để hình hai người lớn tuổi, có lẽ là cha mẹ anh ta. Phía trước là hình một cô gái, diện mạo bình thường, hơi mập, mặt tròn, nụ cười hiền lành, chất phác. Cạnh hình cô ta là hình một người thanh niên.
- Có phải hình thờ bên cạnh là chồng cô ta không?
-Đúng rồi! Vợ chồng phải thờ bên nhau cho có đôi.
Tôi nhìn hình người đàn ông, thấy ngờ ngợ như gặp ở đâu? Nghĩ mãi một lúc, quay nhìn anh ta... hóa ra là hình của chính anh.
-Ủa, anh chưa chết mà sao lại thờ, hay là hình người khác?
- Hình của tôi đó! Cô ta là vợ tôi. Khi cô ấy mất, tôi về đây phụng dưỡng cha mẹ vợ.
- Nhưng sao anh lại thờ chính mình?

Anh cười buồn, đôi mắt xa xăm. 
- Khi học tập cải tạo, cán bộ bảo rằng nước Việt Nam Cộng Hòa không còn nữa. Tối đó, tôi nằm khóc suốt một đêm. Tôi biết, thế là hết. Đất nước tôi, quê hương, bản quán của tôi đã bị người ta chiếm mất rồi! Cán bộ nói rõ là chúng tôi đáng tội chết, chúng tôi không còn là người dân nước Việt Nam nữa. Chúng tôi sẽ bị kiểm soát, theo dõi như những người tù.
Bạn bè, đồng đội, đứa nào cũng buồn, không muốn gặp mặt nhau! Tôi như người lính duy nhất còn sống sót, lang thang giữa một vùng quen thuộc nhưng không còn nơi để trở về. Cảm tưởng rõ rệt nhất là khi tôi đứng trước quận hành chánh nhìn vào. Quận đường vẫn nguyên vẹn, vọng gác trước cổng, nơi tôi thường ngồi gác vẫn còn đó, nhưng tôi không còn quyền yêu thương nơi đó nữa. Tôi đã bị xua đuổi khỏi quê hương tôi.

  
Tôi sống một mình ở đây nhưng lại cảm thấy được gần gũi với bao người thân yêu chung quanh. Thỉnh thoảng tôi ra ngồi tâm sự với vợ con tôi ở gò mả ngoài kia. Khi thì tôi qua bên kia đồi, cạnh các ngôi mộ, chuyện trò với đồng đội nằm dưới đó. Tôi nghe được, hiểu được những gì các bạn nói với tôi. Tôi nghe cả tiếng cười đùa của họ, nghe cả tiếng lách cách của súng đạn va chạm nhau, ngửi được cái mùi lính, mùi quen thuộc của mồ hôi thấm vào áo trận. Tôi ngồi đó để cảm thấy được an toàn đồng đội như những lúc hành quân, những ngày đóng chốt cũng như khi đụng độ với giặc. 
Tôi ngồi đó để tưởng nhớ nước Việt Nam Cộng Hòa thân yêu của tôi. 
Tôi để hình tôi trên bàn thờ là coi như mình đã chết theo với nước Việt Nam Cộng Hòa của tôi. Tôi chỉ sống lây lất, lo nhang khói cho đồng đội, cho cha mẹ, vợ con. Khi nào thực sự nhắm mắt thì tôi đã có sẵn cái huyệt mộ, gần vợ con tôi, ngoài kia.

Phạm Thành Châu

Tuesday, May 18, 2021

Đọc và ngẫm ! General MacArthur và Nhật Bản

  

Vào 14h05' chiều ngày 30/8/1945, tướng quân MacArthur ra khỏi máy bay và đặt chân lên đất Nhật Bản, cho dù ông không mặc quân phục và không mang theo vũ khí gì, cũng không có người tổ chức duyệt binh, nhưng thời khắc đó với 70 triệu người Nhật Bản là thời khắc kinh hoàng mà họ không thể quên, trong tâm trí mọi người chỉ còn nghĩ được hai chữ “mất nước, mất nước, mất nước”. Nhưng tướng MacArthur mang quân đến vì hòa bình, chính nghĩa, khoan dung và dân chủ

Nền kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh rơi vào suy sụp, đến bữa trưa của Nghị viên Quốc hội cũng phải ăn cơm trộn khoai lang, cái đói bao phủ khắp nơi. Lúc này tướng MacArthur gây áp lực khiến chính phủ Mỹ phải hỗ trợ Nhật Bản, thế là 3,5 triệu tấn lương thực và 2 tỷ Mỹ kim tức tốc được gửi đến Nhật. Ông không chỉ giữ lại chính quyền Nhật Bản mà còn gây áp lực đặc xá cho Thiên hoàng, thậm chí còn quan tâm đến số phận của từng người lính bình thường của Nhật Bản, giúp họ tìm con đường sống.

Theo sau ông, 400 nghìn lính Mỹ đã dùng thiện ý và tinh thần hy sinh để chinh phục người Nhật Bản. Khi đó các con hẻm trong thành phố của Nhật vô cùng chật hẹp, một người Nhật bình thường và một người lính Mỹ to lớn nếu gặp nhau cũng khó khăn để đi qua nhau, vì thế thường thì người lính Mỹ sẽ nép vào một bên cho người Nhật đi trước. Người Nhật không thể không băn khoăn tự hỏi, nếu họ là kẻ chiến thắng thì họ có làm được như thế không?

Sau khi tướng MacArthur đến Nhật Bản, ông lập tức ra lệnh thả tội phạm chính trị, trong đó có rất nhiều Đảng viên Cộng sản, bị chính phủ Nhật bắt giam trong thời gian dài.

Ngày 25/8/1945, quân chiếm đóng của Mỹ cho phép phụ nữ Nhật xây dựng tổ chức của mình; tháng 9 cho công bố Dự luật về vai trò trong bầu cử của phụ nữ Nhật Bản; đây là lần đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản, phụ nữ được quyền bầu cử và ứng cử.

Lúc này tại Tokyo có cô kỹ nữ được chọn làm Nghị viên thành phố, nhiều thị dân cảm thấy khó chấp nhận. Nhưng tướng MacArthur nói, mọi người chọn cô ấy để cô ấy phục vụ mọi người, đừng vì cô ấy là kỹ nữ mà kỳ thị bỏ qua. Khi đó mọi người chợt hiểu người được chọn trong bầu cử dân chủ phải là người thay mặt cho mình để vì mình làm việc, thế là sau khi hiểu ý nghĩa vấn đề họ đã quyết định chọn bầu cô kỹ nữ kia. Kết quả sau khi trở thành Nghị viên, cô đã không phụ lòng mọi người, làm được rất nhiều việc có ý nghĩa.

Vào ngày 11/10/1945, tướng MacArthur tuyên bố bỏ lệnh cấm báo chí, Nhật Bản được tự do thông tin và tự do ngôn luận.

Ngày 22/12/1945, ban hành “Luật Công hội”, giai cấp công nhân thực sự có tổ chức của mình.

Ngày 1/9/1947, ban hành “Luật lao động”, quy định tiêu chuẩn tiền lương thấp nhất và thời gian làm việc nhiều nhất.

Ngày 3/2/1946, tướng MacArthur chỉ thị cho Tổng bộ Liên minh khởi thảo Hiến pháp Nhật Bản. Chính phủ Mỹ truyền đạt nguyên tắc chế định Hiến pháp cho tướng MacArthur là: Chính phủ Nhật Bản phải do toàn thể cử tri trao quyền và phải chịu trách nhiệm trước toàn thể cử tri. Ngày 3/5, quân liên minh giao ra Bản dự thảo Hiến pháp. Ngày 7/10, Quốc hội Nhật Bản thông qua Hiến pháp. Ngày 3/11, Thiên hoàng cho ban hành Tân Hiến pháp.

Đây là Hiến pháp do kẻ chiếm lĩnh chiếu theo giá trị quan phương Tây áp đặt cho kẻ bị chiếm lĩnh, nhưng lại là bản Hiến pháp đem lại phúc lợi cho nhân dân quốc gia bị chiếm lĩnh. Bản Hiến pháp nhấn mạnh quyền lợi công dân cơ bản của người Nhật Bản, xem những quyền lợi này là “quyền lợi trời cho mà không ai có quyền tước đoạt”. Những quyền này bao gồm: quyền bầu cử, lập hội và tự do xuất bản; không có sự tham gia của luật sư thì không được định tội; bảo đảm quyền cư trú an toàn cho dân, cấm kiểm tra và tước đoạt vô cớ.

Ngày 21/10/1946, Quốc hội đã thông qua “Luật Cải cách ruộng đất”. Chính phủ Nhật Bản mua lại đất đai dư thừa của giới địa chủ, sau đó bán đất lại cho nông dân không có ruộng. Với những nông dân không có tiền mua đất, chính phủ cho vay thế chấp. Tất cả diễn ra không đổ một giọt máu, một mạng người, những người nông dân ai nấy đều có được một phần đất cho mình.

Ngày 31/3/1947, ban hành “Luật Giáo dục”. Theo đó mục tiêu hàng đầu của giáo dục là “tôn trọng sự tôn nghiêm của cá nhân, bồi dưỡng cho mọi người có lòng nhiệt huyết vì chân lý và hòa bình”. Trường học của Nhật Bản không còn nằm trong kiểm soát của chính phủ mà là do Ủy ban Giáo dục do dân chúng bầu ra quản lý. Việc chọn lựa nhà giáo, sách học và bố trí chương trình hoàn toàn do người dân tự chủ quyết định.

Năm 1952, quân chiếm đóng Mỹ trả chính quyền về cho chính phủ Nhật Bản. Sau 7 năm chiếm đóng, người Mỹ cải cách triệt để con đường phát triển của Nhật Bản, chủ quyền quốc gia từ trong tay kẻ chuyên chế trao lại cho người dân Nhật Bản, những tiền đề tiến bộ đầu tiên này giúp người Nhật bước vào con đường thênh thang. Hơn 10 năm sau, Nhật Bản trở thành cường quốc kinh tế thứ hai thế giới, quốc gia phồn vinh, nhân dân giàu có, xã hội ổn định. Có thể nói thêm một câu, quân chiếm đóng của Mỹ không chi một đồng tiền thuế nào của người dân Nhật Bản, chi phí của họ là lấy từ tiền thuế của người Mỹ.

Trong thời gian chiếm đóng Nhật Bản, rất nhiều người Nhật đã viết thư gửi cho tướng MacArthur yêu cầu biếu tặng điền sản của họ. Nhiều phụ nữ can đảm viết thư đề nghị được hiến thân cho tướng MacArthur, nhiều người còn viết “xin hãy cho tôi được sinh con cho ngài.”

Sáng ngày 16/4/1951, Tổng thống Truman phế bỏ chức Tư lệnh quân chiếm đóng, tướng MacArthur phải về nước, sự kiện này chỉ thông báo cho một số quan chức cấp cao người Nhật biết. Nhưng khi ông ngồi lên ô tô thì mới phát hiện, từ nơi dinh phủ ông ở đến Sân bay Atsugi có hàng triệu người Nhật Bản đứng hai bên đường đưa tiễn. Đoàn xe hộ tống đi qua những hàng nước mắt cùng tiếng hô vang dậy của người dân Nhật Bản: Đại nguyên soái!

Người dân Tokyo đứng chật kín hai bên đường, ai nấy rơi nước mắt, họ như hoàn toàn quên chuyện tướng MacArthur là kẻ chiếm đóng đã đánh bại quân đội quốc gia mình. Thiên hoàng đích thân đến sứ quán đưa tiễn MacArthur, tướng MacArthur cũng xúc động rơi nước mắt, nắm chặt hai tay của Thiên hoàng Hirohito.

Khi đưa tiễn, Thủ tướng Yoshida của Nhật nói: “Tướng quân MacArthur đã cứu chúng tôi ra khỏi nỗi sợ hãi, lo lắng và hỗn loạn của thất bại để đưa chúng tôi vào con đường mới do ông xây dựng, chính Ngài đã gieo trồng hạt giống dân chủ trên đất nước chúng tôi để chúng tôi bước trên con đường hòa bình, tình cảm ly biệt mà nhân dân chúng tôi dành cho Ngài không lời nào có thể diễn tả được.”

Lịch sử Nhật bản ghi nhận, 12 vị khai quốc công thần quốc gia họ, thì trong đó có Mac Arthur, người mà theo ngôn ngữ của những kẻ mà ai cũng đoán ra là ai sẽ dùng là kẻ đứng đầu quân chiếm đóng, xâm lược. Người Nhật đã hiểu mình là ai, đứng ở đâu và cần gì trong giai đoạn đó....Họ biết cúi đầu, để đứng lên và trở nên hùng cường.

Uy lực quả bom nguyên tử của Mỹ tàn phá thành phố và nền kinh tế của Nhật Bản, nhưng về phương diện tinh thần, nước Mỹ đã hoàn toàn chinh phục được người Nhật Bản. Còn người Nhật đã chứng minh cho thế giới, biết cúi mình mà không phải hổ thẹn.

Tướng MacArthur
Sưu tầm

Thursday, May 13, 2021

Đệ Nhất Nam Dương Ra Khơi (Hải Quân Trung Tá Lê Bá Thông.)

  

Đệ Nhất Nam Dương Ra Khơi

(Hải Quân Trung Tá Lê Bá Thông.)
Ba chiếc Trục Lôi hạm HQ 114, HQ 115 VÀ HQ 116 đang hải hành theo đội hình hàng dọc, khoảng cách giữa chiến hạm là 400 thước, hướng 070 độ, trên đường sang Subic Bay gần thủ đô Manila của Phi Luật Tân.
Mục đích của chuyến du hành này là vừa để cho 49 Sinh viên Sĩ quan khóa 10 SQHQ/NT “Nam Dương I” thực hành những bài học về nghề đi biển và thăm viếng trường Võ Bị Quốc Gia Phi Luật Tân tại Bagio City, vừa đem các tàu vớt mìn này đi “khử từ trường”. Theo truyền thống Hải Quân VNCH, 12 chòm sao trên vòng Hoàng Ðạo (Zodiac) được luân phiên dùng để đặt tên cho các khóa SVSQ. Chòm sao thứ mười mang tên Nam Dương nên khóa 10 SVSQ có tên là Nam Dương I hay Ðệ Nhất Nam Dương. Hết 12 khóa, sang tới chu kỳ 2, các khóa kế tiếp cũng vẫn mang tên các chòm sao nhưng với số II hay Ðệ Nhị đi kèm, thí dụ như khóa 22 SQHQ có tên là Nam Dương II hay Ðệ Nhị Nam Dương.
Lê Bá Thông cùng các bạn cùng khóa thuộc toán 1 trên chiếc HQ 114 đang thực tập cờ đèn dưới sự hướng dẫn bởi một Thượng sĩ Giám lộ của chiến hạm.
Biển hôm nay động thật mạnh, cường phong vi vút trên mặt nước mù khơi làm lá cờ vàng ba sọc đỏ bay kêu phần phật trong gió biển. Sóng chếch từ hướng mũi phía tả hạm, phủ qua boong tàu, bay tung tóe qua đài chỉ huy. Chiếc chiến hạm lớn bằng gỗ lắc lư theo nhịp sóng, mũi tàu nhấc lên cao khỏi đợt sóng bạc đầu, rồi thân tàu dằn thật mạnh xuống mặt nước khi trườn qua những lượn sóng dài.
Thông và các bạn Sinh viên cảm thấy khó chịu, bụng cồn cào dữ dội, cơn say sóng kéo dài như không muốn dứt. Thỉnh thoảng họ chạy đến chiếc xô bằng nhôm để cạnh chân cột radar, thay nhau nôn ọe, rồi trở lại tiếp tục bám víu vào sợi dây xích, vào cột sắt để giữ thăng bằng và kéo những lá cờ hình tam giác lên cao tận cột cờ, ra tín hiệu cho tàu bạn trong đội hình thi hành mệnh lệnh của vị Hải Ðội trưởng. Hai Sinh viên khác cũng đang thực tập đánh đèn cho chiếc tàu phía trước, vừa chớp đèn trả lời cho chiến hạm chỉ huy này.
Mùa gió “đông bắc” chỉ bắt đầu thổi mạnh trên biển Nam Hải vào đầu mùa đông và tiếp tục đến cuối tháng hai. Nhưng năm nay có phải để thử sức chịu đựng của 49 chàng thanh niên Sinh viên khóa Nam Dương I, đã chọn sóng nước làm nhà, mây gió trời đại dương làm mái hay không, mà trong mùa gió “đông bắc” năm 1962 này, những trận cuồng phong vẫn kéo dài mãi cho đến khi chuyến du hành thực tập hải nghiệp qua Phi Luật Tân vào tháng ba, biển cũng còn động mạnh.
Trong suốt thời gian hải hành từ Nha Trang đến vịnh Manila, biển động liên miên, có thể hơn cả biển “cấp 3”. Mùi tanh mằn mặn của nước biển hòa với mùi dầu Diesel của máy tàu, cọng thêm nhịp lắc đặc biệt của loại chiến hạm rà mìn đã làm cho Thông và các bạn cùng khóa khổ sở vì bị say sóng, nôn mửa thật nhiều. Vì thế mọi người không ăn uống gì cả trong suốt chuyến đi biển và cũng không thực tập được chi hết, người nào người nấy trở nên mệt nhọc và chán nản với giấc mộng hải hồ.
Tuy vậy vào buổi sáng đẹp trời hôm đó, vầng dương vừa ló dạng trên biển đông khi ba Trục Lôi Hạm Hải Quân Việt Nam, từ từ tiến vào vịnh Manila của nước bạn, tất cả 49 Sinh viên Sĩ quan trong bộ tiểu lễ Hải Quân màu trắng vẫn nghiêm chỉnh sắp hàng đứng dàn chào trên boong tàu.
Ðây là giây phút hãnh diện của người chiến sĩ Hải Quân sau một chuyến hải hành ra khơi đầy sóng gió, trở về bến trong đội hình oai hùng và kiêu dũng.
Những chiếc xe buýt màu xám của Quân đội Phi Luật Tân đang chạy chậm rãi trên con đường đèo, ngoằn ngoèo quanh rặng núi cây lá màu xanh bàng bạc nhìn xuống vịnh Manila.
Lê Bá Thông ngồi trên ghế của chiếc xe buýt dẩn đầu, cạnh anh Hạ Sĩ tài xế người Phi, nhìn ra cánh cửa. Từ xa những làn mây mỏng tựa khói sương đang tỏa ra trên ngọn núi cao vời vợi.
Thông là Sinh viên Sĩ quan Liên Ðại đội trưởng chỉ huy hai Ðại đội Sinh viên khóa 10 SVSQ/HQ và khóa 11 SVSQ/HQ thụ huấn tại Trung Tâm Huấn luyện Hải Quân Nha Trang. Khóa 10 SQVS/HQ đang theo học năm cuối và dự trù sẽ tốt nghiệp vào đầu mùa hè năm nay. Do đó chuyến xuất ngoại đầu tiên và cuối cùng của những lính biển trẻ tuổi này, là một kỷ niệm khó quên trong lòng mỗi Sinh viên Sĩ quan.
Xe đã lên đến trạm nghỉ chân trước khi tiếp tục đi nốt đoạn đường một phần ba còn lại để đến trường Võ Bị Quốc Gia Phi Luật Tân trong thành phố Bagio của Phi Luật Tân.
Bagio City là một thành phố du lịch nghỉ hè nhỏ nằm về phía bắc của Manila, khí hậu mát mẻ như thành phố Ðà Lạt của Việt Nam. Trong chuyến du hành thăm viếng này, Sinh viên khóa 10 được hướng dẫn bởi các Sĩ quan thuộc Trung tâm Huấn luyện như Ðại úy Kinh, Hiệu trưởng, Sĩ quan Huấn luyện viên về môn Hàng hải thiên văn như Ðại úy Hưng, Ðiện tử như Ðại úy Nhàn, Ðiện kỷ nghệ như Ðại úy Hòa…
Hầu hết các Sĩ quan vừa nói trên đã xuất thân từ trường Sĩ quan Hải Quân Brest tại Pháp, trở về nước vào năm 1956 khi Pháp và chính phủ của Tổng thống Ngô Ðình Diệm trục xuất các Sĩ quan du học và phục vụ tại hai Quốc gia này ra khỏi nước của họ.
Trạm nghỉ chân đầy rẫy hàng quán giải khát giống như trên đỉnh đèo Hải Vân tại quê nhà, mà Thông thường xuống xe đứng chờ đoàn xe hành khách từ phía ngược chiều chạy lên đỉnh núi, rồi cùng chạy xuống đèo hoặc là về Huế hay xuống Ðà Nẳng, vì xe chỉ chạy một chiều trên con đường nhựa nhỏ xíu.
Những cô gái Phi Luật Tân nhỏ nhắn trong bộ váy tây phương đầy màu sắc rực rỡ trố mắt nhìn những chàng trai xứ lạ, đang vồn vã mời mua mấy hột “bơ lút”- hột vịt lộn – và nước dừa tươi.
Sau khi nghỉ mệt một lúc, đoàn xe lại tiếp tục chạy ngang qua dinh thự nghỉ mát tại Bagio của Tổng Thống Magsaysay, rồi tiến vào trường Võ Bị Quốc Gia Phi Luật Tân tọa lạc gần đó.
Những Sinh viên Sĩ quan Phi to lớn trong bộ đại lễ màu xám, nút đồng, mủ cao, trông giống như quân phục của Sinh viên trường Võ Bị West Point tại Hoa Kỳ, đứng nghiêm dàn chào phái đoàn Sinh viên Việt Nam nhỏ con đang ngập ngừng và đói bụng.
Bửa cơm trưa đơn giản do trường Võ Bị khoản đãi tại phạn xá rộng rãi, không đủ thỏa mãn cơn đói cồn cào của những thủy thủ. Lê Bá Thông và các bạn thắc mắc tại sao những Sinh viên này ăn ít như vậy mà vẫn to cao như lực sĩ đô vật, chắc là thuộc loại “cua sáng trăng, óp xọp” rồi đây.
Sau khi tham dự buổi thuyết trình ngắn ngủi trong thính đường của Sĩ quan đại diện Bộ Tham mưu của trường, Thông hướng dẫn bạn đồng khóa theo các Sĩ quan Huấn luyện viên di thăm viếng phòng học, phòng ngủ của Sinh viên và xem họ tập điền kinh trên sân vận động trang bị đầy đủ tiện nghi của trường Võ Bị.
Trong khi các Sinh viên thăm viếng trường Võ Bị, các Hạm trưởng Trục Lôi hạm đưa tàu đi “khử từ trường” tại vịnh Subic Bay và đã trở về cập cầu tại bến tàu Manila.
Những ngày sau đó Thông cùng các bạn thăm viếng thủ đô nước Phi Luật Tân, mua vài đồ vật kỷ niệm để về tặng Minh, đang ngóng chờ người chồng lính biển tại căn nhà ở Chụt với Thanh Nhàn và Thanh Trang, hai cô con gái dễ thương của đôi vợ chồng trẻ.
Trong chuyến hải trình trở về Nha Trang, trời thương những người thanh niên đang lo âu say sóng, nên biển thật êm chứ không như chuyến đi. Vì thế Sinh viên cảm thấy hơi yêu biển trở lại và cũng thực hành nghề nghiệp được nhiều hơn.
Mỗi buổi sáng khi vầng dương chưa ló dạng từ chân trời xa, ánh sáng vừa le lói qua khóm mây hồng nhạt, Thông và các bạn tập đo sao trời để định vị trí chiến hạm. Thông đứng trên đài cao chiến hạm thỉnh thoảng thấy vài vì sao rơi trên biển, anh khấn nguyện Phật Trời phù hộ cho quê hương Việt Nam được sống trong thanh bình thịnh vượng và người dân Việt khỏi phải chịu cảnh thương tan do tai họa chiến tranh đã và đang kéo dài trên mảnh đất Mẹ cằn cổi.
Tay cầm chiếc “Sextant”, hình tam giác, đo chiều cao của những vì sao chính, Thông cảm thấy như người thủy thủ tiền phong trước đây đã lái tàu buồm, đi khám phá thế giới mới. Sau khi đọc cao độ của ba ngôi sao khác nhau cho anh bạn cùng khóa, hai người đi vào phía trong đài chỉ huy, ghi tọa độ trên hải đồ và báo cáo vị trí chiến hạm cho vị Hạm phó đang đi phiên và chỉ huy tàu.
Ba Trục Lôi hạm đổi qua đội hình hàng ngang theo thứ tự từ bên trái sang phải: HQ 114, HQ 115 rồi HQ 116 để Sinh viên thực tập đánh cờ đèn và hải hành chính xác. Bờ biển Việt Nam đang hiện dần trên mặt kính radar cách xa 35 hải lý về phía trước mặt đội hình.
Còi nhiệm sở vệ sinh vang dội, tất cả Thủy thủ đoàn và Ðại đội Sinh viên khóa 10 SVSQ/ HQ vội vã chùi rửa sàn tàu, chuẩn bị về cặp bến tại Cầu Ðá, Nha Trang và chấm dứt một chuyến hải hành nhiều kỷ niệm.
Trên bầu trời xanh lơ, những đám mây trắng bềnh bồng trôi về phía chân mây cuối trời. Từng con hải âu bay sau lái buông tiếng kêu rời rạc của một loài chim biển, bạn đường của những thủy thủ và chiến hạm vượt đại dương.
* * *Hôm ấy ngày thứ bảy vào một buổi sáng nhiều nắng ấm của mùa hè năm 1962, ngày trọng đại có liên hệ đến cả cuộc đời của 45 chàng thanh niên đã chọn một sự nghiệp cho mình.
Những Sinh viên Sĩ quan khóa 10 SQHQ Nha Trang sắp chính thức trở thành Sĩ Quan thuộc Quân chủng áo trắng. Một Hải Quân vừa tròn 10 tuổi kể từ ngày thành lập vào năm 1952.
Quân số lúc đầu chỉ có vào khoảng trên dưới 1000 thủy thủ mà nay chỉ sau một thập niên, đã lên tới gần 6000 gồm Sĩ quan, Hạ Sĩ quan và thủy thủ, chưa kể Thủy Quân lục chiến mà trên nguyên tắc, thống thuộc tổ chức chỉ huy của Hải Quân như trong hệ thống quân giai của các Quân đội trên thế giới nhất là Quân đội Hoa kỳ.
Ngày tốt nghiệp của khóa 10 SQHQ đánh dấu một khúc quanh quan trọng trong chương trình tuyển mộ và huấn luyện Sĩ Quan Hải Quân.
Với trình độ văn hóa cấp Ðại học và chương trình huấn luyện cải tiến hai năm được cập nhật hóa và áp dụng bao gồm sự dung hòa các tài liệu của các quân trường Hải Quân Brest của Pháp và Annapolis của Hoa Kỳ. Sinh viên có cơ hội thực tập các dụng cụ hải hành và các loại hải pháo tối tân của thập niên 60. Vì thế Ðại úy Hiệu trưởng trường Sinh viên Sĩ quan đã thường hãnh diện tuyên bố, khóa 10 SVSQ/HQ này là những “Class A Midshipman”.
Vì sự đặc biệt này, ngày tốt nghiệp của khóa 10 SVSQ/HQ/NT lại hãnh diện được sự chủ tọa danh dự của chính ông Ngô Ðình Diệm, Tống Thống nước Việt Nam Cộng Hòa. Một đặc ân và vinh dự chưa có khi nào xảy ra tại quân trường Hải Quân Nha Trang, kể từ ngày thành lập vào tháng 8 năm 1952.
Sự quan trọng của ngày mãn khóa này đã được quân nhân các cấp tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân và tại Trung tâm Huấn luyện Nha Trang chuẩn bị chu đáo và cẩn mật.
Quân trường được trang hoàng rực rỡ với những lá cờ Hải Quân đủ màu, phất phới bay trong gió sớm ban mai, thổi vào từ vịnh Nha Trang, tại đây từ xa đang bỏ neo về phía đảo Hòn Lớn là các Hộ Tống hạm (PCE) và Trợ Chiến hạm (LSSL). Ủi tại bãi biển trước Trung tâm Huấn luyện là hai chiếc Dương Vận hạm (LST) và Hải Vận hạm (LSM) treo cờ đèn lộng lẫy. Tất cả nhân viên trong quân phục Ðại lễ trắng, kiểm soát lần cuối công tác vệ sinh, quét dọn và chuẩn bị các cơ sở Quân trường mà họ đã lo thi hành hơn hai tuần lễ vừa qua.
Vào khoảng 9 giờ sáng, khi mặt trời vừa lên cao về hướng Cầu Ðá, trong bầu trời màu xanh dương, không một gợn mây, tiếng loa phóng thanh bắt đầu thông báo là đoàn xe Tổng Thống và các Dân biểu, Nghị sĩ Quốc hội Việt Nam đã đến gần cổng Trung Tâm Huấn luyện.
Lê Bá Thông là Sĩ quan thủ khoa khóa 10 SQHQ, đang nghiêm chỉnh, hồi hộp đứng trước Ðại đội Sinh viên, trong hàng ngũ chỉnh tề.
Hai trong bốn chiếc mô tô hộ tống xe Ngô Tổng Thống vừa tiến vào cổng chính của Trung tâm. Những quan khách thuộc phái bộ Ngoại giao đoàn, các Tướng lãnh Quân Binh chủng bạn…trên khán đài chính đều đứng dậy chào vị Tổng Thống khi ông bước xuống chiếc xe du lịch màu đen tuyền bóng loáng.
Vị Ðại úy chỉ huy Ðại đội SVSQ/ HQ khóa 11 và Tiểu đoàn thủy thủ dàn chào hô lớn:
-” Tất cả chú ý… Nghiêm… Súng chào… Bắt.”
Tất cả toán quân dàn chào đồng loạt nhịp nhàng bắt súng trường Garant gắn lưởi lê bóng nhoáng lên chào vị Nguyên Thủ Quốc Gia.
Tiếng nhạc quân hành trổi lên từ ban Quân nhạc đứng cạnh Ðại đội Sinh viên Sĩ Quan khóa 11.
Tổng Thống Diệm được Hải Quân Ðại tá Hồ Tấn Quyền, Tư Lệnh Hải Quân Việt Nam và Hải Quân Thiếu tá Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện đón mời lên trên khán đài, đứng trước quan khách tham dự.
Thiếu Tá Chỉ huy buổi lễ tuyên bố:
-” Lễ chào Quốc kỳ bắt đầu.”
Ban Quân nhạc cử bài Quốc caViệt Nam trong khi lá cờ vàng ba sọc đỏ to lớn được kéo lên từ từ, phất phới bay trên ngọn kỳ đài giữa sân cờ chính của Trung tâm Huấn luyện Hải Quân.
Một phút mặc niệm bắt đầu, mọi người cúi đầu im lặng trong khi ban Quân nhạc trổi lên bài Chiêu hồn Tử sĩ.
-“Phút mặc niệm chấm dứt, kính mời Tổng Thống và quý vị quan khách an tọa”.
Thiếu tá xướng ngôn viên vừa xướng lên trên máy phóng thanh, sau đó tuyên bố là Ðại tá Tư Lệnh Hải Quân đại diện Quân chủng sẽ đọc diễn văn chào mừng Tổng Thống và trình bày sơ qua chương trình Huấn luyện Sinh viên Sĩ quan Hải Quân.
Thông đứng trước hàng ngũ chỉnh tề của Sinh viên Sĩ quan cũng ở tư thế “nghiêm” trong khi Ðại tá Tư Lệnh đọc diễn văn. Mọi người vỗ tay sau khi Ðại tá Quyền chấm dứt lời chào mừng.
Vị Ðại úy chỉ huy Tiểu đoàn dàn chào hô lớn:
-“Thao diễn… nghỉ…”
-“Tống Thống Việt Nam Cọng Hòa ban chỉ thị cho các Sinh Viên Sĩ quan, xin kính mời Tổng Thống”.
-“Tiểu đoàn…nghiêm…”
Tiếng nhạc quân hành trổi dậy rồi ngưng khi Ngô Tống Thống đứng lên, bước đến máy vi âm ban huấn từ:-
-“Sinh viên Sĩ quan khóa 10 Hải Quân thân mến…”
Bài diễn văn kéo dài trong vòng 15 phút, với giọng nói chậm rãi và nghiêm nghị uy phong, trầm bổng của người Huế, Tổng Thống Ngô Ðình Diệm đã khích lệ Sinh viên, khơi dộng lòng yêu nước của mỗi người, nhắc nhở tinh thần trách nhiệm của Sĩ quan Quân đội Việt Nam Cọng Hòa, đồng thời đề cập đến hiểm họa xâm lăng với ý đồ đưa dân tộc Việt Nam vào con đường nô lệ Cộng sản Quốc tế của tập đoàn lãnh đạo miền Bắc.
Lê Bá Thông cảm động chăm chú nghe huấn từ của Ngô Tổng Thống, người hùng mà Ðiền, anh họ của Thông đã nhắc nhở khi lên nhà cha mẹ Thông để gửi gấm hai con theo học ở Huế, cách đây hơn 10 năm.
Nhìn vị cựu Thượng Thư Bộ Lại trong bộ Âu phục màu trắng, vẫn còn mạnh khỏe oai phong mặc dù đã hơn 61 tuổi, mái tóc cắt ngắn đen tuyền, thân hình thấp và dáng đi hơi vội vã, với tia nhìn làm người đối diện phải kính nể, Thông cảm thấy bồi hồi thán phục và cảm động trước những lời nói chân tình của vị Nguyên Thủ Quốc Gia đồng hương.
Thông nguyện trong lòng mình kể từ giờ phút này anh ta sẽ giữ mãi tinh thần Quốc Gia chân chính trong tâm khảm. Thông bỗng thấy hình như đã chọn cho mình một hướng đi trên con đường bảo vệ quê hương, dân tộc và đã đặt ưu tiên cho cuộc đời nhiều thử thách của anh: đó là Tổ Quốc Danh Dự và Trách Nhiệm.
Tổng Thống Ngô Ðình Diệm vừa chấm dứt bài huấn từ, quan khách vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt khi ông trở về ghế ngồi.
Giây phút quan trọng của cuộc đời Hải nghiệp đã đến với Sinh viên Sĩ quan khóa Nam Dương I , đó là lễ gắn cấp bậc Hải Quân Thiếu úy cho 45 Sinh viên Sĩ quan khóa10 SQHQ, lễ trao kiếm Danh dự cho Sĩ quan thủ khoa và lễ tuyên thệ của các tân Thiếu úy.”
Lê Bá Thông hồi hộp khi nghe vị Sĩ quan xướng ngôn viên tuyên bố trên loa phóng thanh:
-“Lễ gắn cấp bậc cho Sinh viên Sĩ quan Hải Quân khóa 10 bắt đầu.”
Vị Ðại úy chỉ huy Tiểu đoàn dàn chào hô lớn:
-“Sinh viên Sĩ quan khóa 10 theo lệnh tôi… Quỳ… xuống.”
Tất cả Sinh viên khóa Nam Dương I đồng loạt quỳ xuống.
Từng toán Sĩ quan Hải Quân đến sau lưng của Sinh viên gắn những cặp lon lên vai cho các tân Hải Quân Thiếu úy trong khi Tổng Thống Ngô Ðình Diệm và quan khách trong nước và ngoại quốc đứng nghiêm trang chứng kiến sự diễn tiến của buỗi lễ.
Tiếng vị Ðại úy chỉ huy Tiểu đoàn dàn chào lại vang lên:
-“Các tân Sĩ quan…Ðứng… lên.”
Tất cả 45 tân Hải Quân Thiếu úy hãnh diện đứng dậy.
Sau khi hoàn tất buỗi lễ gắn cấp bậc, các vị Sĩ quan được chỉ định trở về vị trí cũ rồi Thông cảm thấy trống ngực mình đập mạnh khi nghe Sĩ quan xướng ngôn viên tuyên bố:
-“Tổng Thống Việt Nam Cọng Hòa trao kiếm Danh dự cho Sĩ quan thủ khoa Lê Bá Thông”.
Thông rời đoàn quân, đi thẳng người, tiến lên đứng nghiêm chỉnh trước khán đài, đưa tay lên vành nón chào Tổng Thống và quan khách đang vỗ tay hoan hô nhiệt liệt.
Rồi tất cả đều im lặng khi Ngô Tổng Thống từ từ bước xuống khán đài, đến đứng trước Sĩ quan thủ khoa, nhìn thẳng vào mắt Thông đang cảm thấy người mình run nhẹ khi ánh mắt Thông chạm phải tia nhìn hiền từ, nhân hậu, nghiêm nghị, ân cần của người Tổng Thống kính yêu.
Hải Quân Trung Úy Mai Mộng Liễn, Trưởng Phòng CTCT/TTHL/HQ, hai tay cẩn thận ôm một chiếc gối lớn bọc nhung đỏ rua vàng, trên có để thanh kiếm Danh dự, truyền thống, chạm hình Long Hổ ở bao kiếm, từ từ tiến đến đứng bên cạnh Tổng Thống Ngô Ðình Diệm.
Trước sự chứng khiến của quan khách, Tổng Thống nước Việt Nam Cọng Hòa hai tay cầm thanh kiếm Danh dự, trịnh trọng trao cho Sĩ quan thủ khoa Lê Bá Thông, trong khi Ðại tá Hồ Tấn Quyền Tư Lệnh Hải Quân trong bộ Ðại lễ trắng, ngực mang đầy huy chương, đang đứng phía bên tay mặt của Thông, nghiêm nghị nhìn diễn tiến của buổi lễ.
Các nhiếp ảnh gia báo chí thuộc các tờ báo trong và ngoài nước kể cả tập san Thế giới Tự do chụp hình lia lịa và liên tục khi Sĩ quan thủ khoa hai tay hãnh diện nhận thanh kiếm Danh dự trao từ Ngô Tổng Thống. Sau đó Thông mang kiếm vào thắt lưng bên hông trái. Xong rồi Thông bước lui ba bước, rút lưỡi kiếm bóng loáng lấp lánh phản chiếu ánh mặt trời ra khỏi bao kiếm, hùng dũng oai nghiêm đưa mũi kiếm thẳng lên trời, kéo vào ngay trước khuôn mặt mình, rồi hạ kiếm xuống một góc 45 độ từ thân hình về phía tay mặt, mũi kiếm cũng 45 độ chĩa xuống đất trong vị thế trình kiếm để chào vị Tổng Thống của nước Việt Nam Cọng Hòa.
Lê Bá Thông chào kiếm một cách thành thạo vì anh đã tập chào trong rất nhiều ngày trước đây dưới sự hướng dẫn của Sĩ quan Huấn luyện viên nghi lễ của Quân trường.
Tổng Thống Diệm gật đầu như chấp nhận sự chào kính của Sĩ quan thủ khoa rồi trở lên khán đài.
Thông thu kiếm Danh dự về, đưa lên trước mặt rồi tra lưỡi kiếm vào trong bao, xoay ngược thanh kiếm vào vị thế di hành, mũi kiếm chĩa xuống đất về phía trước mặt. Sau đó Thông quay 180 độ và đi trở về đứng trước đội hình của các tân Thiếu úy, chờ làm lễ tuyên thệ. Xướng ngôn viên tuyên bố trên loa phóng thanh:
-“Lễ tuyên thệ của các tân Sĩ quan bắt đầu.”
Lê Bá Thông quay lại hướng về Ðại đội Sĩ quan dõng dạc ra lệnh:
-“Sĩ quan Hải Quân khóa 10 theo lệnh tôi … Quỳ … xuống…”
Tất cả các tân Thiếu úy đồng loạt răm rắp quỳ xuống, dỡ chiếc nón, để trên đầu gối trái, tay mang đôi găng trắng dựa nhẹ trên nón “cát két”.
Thông xoay nửa vòng trở lại hướng mặt về khán đài chính, quỳ xuống, đặt mũi thanh kiếm dựa trên mặt đất chĩa về trước, dỡ chiếc nón “cát két”, để trên đầu gối trái, ngửng đầu nhìn thẳng chờ lệnh.
Tiếng kèn từ ban quân nhạc bắt đầu trỗi lên, rồi ngưng lại.
Lê Bá Thông và các tân Sĩ quan khóa Nam Dương I đưa cánh tay mặt lên cao, bàn tay mặt thẳng lên trời, rồi hô to lời tuyên thệ cùng một lúc:
-“Thề luôn luôn nêu cao Danh Dự Quân đội… Hy sinh vì Dân tộc… Trung thành với Tổ quốc…Xin thề…”
Ngô Tổng Thống đứng trên khán đài chính chấp nhận lời thề vang dội oai hùng của các Sĩ quan khóa 10 Hải Quân Việt Nam.
Sau đó Tổng Thống cùng quan khách, gồm những Dân biểu, Nghị sĩ và đại diện Ngoại giao đoàn, các Tướng lãnh thuộc Quân Binh chủng trong và ngoài nước chuẩn bị chứng kiến lễ diễn hành của tân Sĩ quan, Ðại đội Sinh viên Sĩ quan khóa 11 SQHQ và Tiểu đoàn Tân binh thủy thủ qua trước khán đài Danh dự.
Tiếng nhạc quân hành trỗi lên rộn rã như thúc giục lòng kiêu hãnh của các chàng trai đang hiên ngang, hùng dũng đi qua trước vị Nguyên thủ Quốc Gia, quan khách Danh dự và thân nhân yêu mến của tân Sĩ quan.
Những người thân này cũng rất hãnh diện và vui sướng khi thấy chồng con, anh em của mình đã trở thành Sĩ quan của một Quân chủng nổi tiếng hào hùng, oai dũng; những Hạm trưởng tương lai của một hải quân trẻ trung đang trên đường bành trướng nhanh và tối tân hóa với các phương tiện hiện đại của Hải Quân trên thế giới văn minh.
Mai đây các chiến hạm tối tân với hỏa lực hùng hậu phù hợp với chiến trường duyên hải Việt Nam, sẽ được chuyển giao cho Hải Quân Việt Nam từ Hải Quân Hoa Kỳ theo kế hoạch viện trợ của chính phủ dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống John F Kennedy. Ông là một người có tiếng ủng hộ mạnh mẽ Tổng Thống Ngô Ðình Diệm từ thuở ông Diệm còn lưu lạc tại tiểu bang New Jersey, được sự giúp đỡ của Thượng Nghị Sĩ Mike Mansfield và được bảo trợ khi tạm trú tại nhà thờ của Giám mục Spellman.
Trong tương lai, vào tháng 10 năm 1962, các tân Sĩ quan sẽ được đi thực tập trên các chiến hạm thuộc Ðệ thất Hạm đội Hoa Kỳ đang tuần tiểu trên biển Thái Bình Dương, sẽ có dịp ghé thăm viếng những hải cảng tại Nhật Bản, thủ đô Tokyo, thành phố Kyoto, Osaka… Hải đảo lịch sử và căn cứ Mỹ tại Okinawa và nhiều nơi khác nữa.
Ngày ra trường của Sĩ quan Hải Quân là buổi lễ cuối cùng mà Tổng Thống Ngô Ðình Diệm chủ tọa vì sau đó với tình hình căng thẳng trên các chiến trường đang sôi sục từ sông Bến Hải đến mũi Cà Mâu.
Thêm vào đó sự chống đối của các tướng lãnh từ cuộc đảo chánh hụt trước đây đã không cho phép Ngô Tổng Thống có thì giờ chủ tọa các lễ lạc mãn khóa nữa.
(Kỷ niệm Khóa 10 SQHQ/NT trong ngày tốt nghiệp 14 tháng 7 năm 1962)

VÔ CÙNG THƯƠNG TIẾC!
Thủ Khoa Đệ Nhất Nam Dương Khóa 10 , Hải Quân Trung Tá Lê Bá Thông đã VĨNH VIỄN RA KHƠI
Xin thành kính phân ưu cùng Gia Quyến.
Xin kính tri ân Ông và nguyện cầu Hương Linh Ông về cõi bình an mãi mãi.
 

Wednesday, May 12, 2021

Cờ vàng trong trái tim tôi - Destiny Nguyễn

Tôi lớn lên trong nỗi nhọc nhằn của mẹ, trên đôi gánh trĩu nặng trên vai bà. Tôi lớn lên mười năm đầu tiên trong đời không có người cha thân yêu bên cạnh. Tôi lớn lên vào cái thời mà không ai được nhắc đến 4 chữ VNCH. Tôi lớn lên 10 năm dưới mái trường XHCN, mỗi tuần tôi và các bạn cùng trang lứa vẫn hát vang vang bài chào quốc kỳ nhưng chẳng hiểu gì về lá cờ và cũng chưa một thầy cô giáo nào của CS dạy cho học sinh về nguồn gốc của lá cờ cả (mãi đến sau này tôi mới hiểu vì sao).

Cho đến một ngày gia đình tôi đặt chân đến xứ sở tự do trên tinh thần "nhân đạo "của hai bên chính phủ, và cũng từng ấy năm kể từ ngày Sài Gòn thất thủ mới được thấy cảnh "chung một nhà".
Thế là thế hệ những người như tôi một lần nữa lớn lên nhưng trong một xã hội hoàn toàn khác hẳn ở VN. Những ngày đầu bỡ ngỡ nơi xứ người tôi có rất nhiều thứ phải học, phải thay đổi nên chưa bao giờ để ý đến lá cờ ba tôi trân trọng treo ngay giữa nhà. Sau đó vài năm do còn trẻ nên tôi cũng bắt kịp nhịp sống và hoà nhập với cuộc sống ở đây. Khi đó tôi bắt đầu nhận thức những gì diễn ra xung quanh mình.

Cái mà hằng ngày đập vào mắt tôi đó là lá cờ của Mỹ, nó hiện hữu khắp nơi từ các cơ quan chính phủ, trường học, bệnh viện, văn phòng cảnh sát, nhà thờ v.v..và rất nhiều nơi trên mọi nẻo đường đến cả nhà ở của người dân. Ngày lễ ngày tết người dân tự ý thức treo cờ chứ không cần ai nhắc nhở. Cũng không phải riêng về việc treo cờ mà cả trong sinh hoạt thường ngày, trong những hoạt động nơi công cộng cũng như trong việc tổ chức xã hội tình cảm của công dân Mỹ đối với lá cờ của họ rất đồng thuận và trân trọng.

Ngày tháng trôi qua tôi bước vào ngưỡng cửa đại học và quyết định trở thành công dân Mỹ. Một điều bắt buộc khi trở thành công dân Mỹ là phải biết sơ lược về lịch sử của Mỹ và nguồn gốc của lá cờ. Và giờ đây tôi mới hiểu vì sao người Mỹ họ yêu nước, yêu lá cờ đến thế. Người ta yêu lá cờ vì nó đại diện cho vô số điều tốt đẹp ở phía sau. Tự do, dân chủ, nhân quyền, cũng như sự đồng lòng của tất cả người dân trong việc tạo ra một xã hội công bằng, văn minh và thịnh vượng. Một xã hội mà trong đó mỗi người đều có quyền lựa chọn cuộc sống cho riêng mình và quyền thực hiện ước mơ của mình.
Nhìn cách người Mỹ đối xử với lá cờ nước họ làm tôi giật mình nhìn lại tôi cũng có một đất nước, một quê hương nhưng sao tôi không biết gì về lá cờ của mình. Rồi tôi nhớ đến lá cờ ba tôi treo ở nhà sao không thấy giống lá cờ mà khi còn cắp sách đến trường tôi vẫn thấy nó nhỏ xíu, bạc màu, cũ kỷ nơi sân trường trên chính nơi chôn nhau cắt rốn của mình ? Tôi đem tâm tư nặng trĩu về nhà hỏi ba tôi. Thì ra đất nước tôi, dân tộc tôi có một chiều dài lịch sử bi thương đến như vậy. Sau những gì ba tôi nói tôi bắt đầu đi tìm hiểu, tôi lật tung hết những quyển sách trong thư viện Mỹ nói về VNCH. Tôi đi ngược dòng lịch sử của miền Nam VN tìm về hai chế độ đệ I và đệ II VNCH. Càng tìm hiểu tôi càng thấy xót xa phía sau lá cờ vàng ba sọc đỏ ấy là máu và nước mắt của rất nhiều đồng bào đỗ xuống chỉ cho một miền Nam hòa bình và tự do.

Tổ quốc nghiêng mình tiễn biệt một người con
Anh ngã xuống giữa Sài Gòn không để lại đủ họ tên
Nhưng lịch sử nghìn năm sau vẫn nhớ.
Trung Tá Long !
Mây vẫn bay trên đầu anh mỗi chiều, mỗi sớm
Mặt trời mọc mỗi ngày làm lóng lánh giọt sương mai
Như nước mắt mẹ già nhỏ xuống xác con trai
Như ánh mắt chị nhìn chồng trong giờ vĩnh biệt
Ðất vẫn một màu nâu đậm đà như tình người dân Việt
Nơi anh nằm hoa cỏ vẫn xanh tươi.
Máu anh rơi để làm đẹp cuộc đời
Tô thắm đường các em sẽ đến
Các em là thuyền nhờ có anh là bến
Trong cuộc hải hành này anh là ngọn hải đăng soi
Ðường tự do dù còn lắm chông gai
Nhưng đã có anh mang niềm tin đi trước
Cám ơn anh, người con yêu đất nước
Ðã truyền lại cho muôn đời hơi thở Việt Nam.
(Trích Hơi thở Việt Nam, thơ Trần Trung Đạo)

Tôi yêu lá cờ VNCH từ những hiểu biết của riêng tôi nhìn về thực trạng VN trong chế độ CS sau hơn bốn mươi năm ngày càng tồi tệ. Tôi may mắn đang sống trong một xã hội luôn bảo vệ phụ nữ và trẻ em rồi nhìn lại thân phận người phụ nữ nơi quê nhà bị chà đạp nhân phẩm một cách thô bạo và trắng trợn, nhìn những em bé thơ vô tội không đủ ăn, không đủ mặc, ngay cả khi vừa chào đời cũng bị vứt vào thùng rác.

Vậy thì các bạn trẻ VN ơi các bạn chào cờ mỗi tuần mà có bao giờ đi tìm hiểu về lá cờ đó hay không?

Ngày nay tôi thấy các bạn xem phim Mỹ rất nhiều nhưng có khi nào các bạn để ý trong bất cứ một cuốn phim nào của người Mỹ cũng đều thấp thoáng lá cờ của họ trong đó còn phim ảnh của VN thì sao?
Thế đấy ! chính lòng yêu nước, yêu lá cờ của người Mỹ đã dạy tôi yêu lá cờ vàng ba sọc đỏ vì ngoài sự nhân bản ra nó còn mang nặng cả tình yêu quê hương, yêu mảnh đất mình sinh ra và lớn lên.

Có một lần khi đi làm Report cho buổi lễ Vinh Danh QLVNCH trong quốc hội tiểu bang VA tôi vô cùng xúc động khi bước vào phòng làm việc của thượng nghị sĩ Black. Ngay cạnh bàn làm việc của ông có 4 lá cờ mà một trong 4 lá cờ đó là cờ VNCH. Tôi vui mừng đến nỗi cứ kéo tay Tướng Trần Quang Khôi đến đấy đứng làm mẫu cho tôi chụp hình. Rồi những lần đi vận động nhân quyền cho VN trong Quốc Hội Mỹ, biểu tình trước Toà Bạch Ốc chỉ cần tôi cầm lá cờ vàng trong tay là người ta biết tôi đang làm gì.

Có thể mỗi người có một quan điểm riêng về lá cờ nhưng riêng tôi dù tôi có ủng hộ một lá cờ nào khác đi nữa trong tim tôi vẫn có lá cờ vàng vi ít nhất cho đến bây giờ nó vẫn là một lá cờ chính nghĩa, ngoài ra nó còn có một phần xương máu của ba tôi, của những đồng đội ông. Nó có cả nước mắt của bà nội tôi, của mẹ tôi khóc con, chờ chồng.

Tôi cảm ơn nước Mỹ đã cho tôi có cơ hội nói những gì mình muốn nói, tôi cảm ơn người dân Mỹ đã dạy tôi biết trân quý một lá cờ và cũng chính vì vậy mà tôi có cơ hội tìm về cội nguồn lịch sử và yêu quý cha mẹ tôi hơn !!!

Destiny Nguyen

Monday, May 10, 2021

Chuyện người lính biệt động quân - Lary de King

Vương Mộng Long và đơn vị chuẩn bị vào trận.
Gần đây mình tình cờ đọc được một số bài viết rải rác của chính tác giả – một người lính khí phách can trường, một tấm gương cho hậu thế không chỉ là thời chiến.
Vương Mộng Long sinh quán ở Hải Dương bắc phần, năm 1954 theo gia đình di cư vào nam và định cư ở Đà Nẵng, là cựu học sinh trường Trần Quý Cáp, Hội An.
Ông tốt nghiệp K20 trường Võ Bị Đà Lạt oai phong, chức vụ cuối cùng là thiếu tá tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 82 Biệt Động quân. Trong những ngày cuối cùng của tháng 4 ông kiêm luôn chỉ huy liên đoàn 24 Biệt động trong chiến dịch triệt thoái miền trung.
Cùng với Thủy Quân Lục Chiến (Trâu điên) và Nhảy Dù (Thiên Thần Mũ đỏ), Biệt Động Quân (Cọp rằn) là lực lượng ưu tú, tinh nhuệ, được thành lập vào 1960 dưới thời cụ Diệm nhằm đối phó với chiến thuật du kích chiến của phe CS.
Biệt Động quân, như tên gọi, được huấn luyện ở cường độ cao để có thể hoạt động BIỆT lập và cơ ĐỘNG ở cấp độ trung, đại đội, và cao nhất là tiểu đoàn trên khắp các chiến trường, từ rừng núi hoang vu cho đến vùng đầm lầy nước đọng. Biệt động quân còn được tung vào chiến trường vùng 2 khu vực Tây nguyên để thám sát và ngăn chặn biên giới Việt – Miên – Lào, cửa ngõ xâm nhập của binh đội miền bắc.
0b2.jpg
Trong lực lượng đó, tiểu đoàn 82 được cho là thiện chiến nhất, dưới quyền chỉ huy mưu lược dũng cảm của thiếu tá Vương Mộng Long, Đời ông lấy núi rừng tây nguyên làm nhà, in từng dấu chân trên các địa danh Dakto, Pleime… từng lập nhiều chiến công, gây nhiều tổn thất cho đoàn quân thiện chiến nhất miền bắc – sư đoàn 320. Đến nỗi đoàn quân này được lệnh né tránh đối đầu với “thằng hai nâu”, nick name dành cho tiểu đoàn 82 Biệt Động của thiếu tá Long.
“Biệt động, sát!” khi vang lên khắp núi rừng là khẩu hiệu của đoàn quân mỗi khi xung trận từng làm bạt vía đối phương, bởi lối đánh bất ngờ, mai phục sẵn, nhất là dạ chiến (đánh vào ban đêm).
Trải qua 10 năm binh nghiệp, hầu hết là vui với gió núi mưa rừng, vài lần bị thương phải đại phẫu, thiếu tá Long là một sĩ quan tài giỏi gan dạ kiên trung, người đã dẫn dắt tiểu đoàn 82 Biệt Động thành 1 lực lượng tinh binh mà đối phương cũng phải nể trọng.
Tháng 5/1975, khi đang ngồi nhà, khắc khoải chờ những đòn thù giáng xuống, bỗng có 1 xe quân đội cách mạng lâm thời đến đậu trước căn nhà của ông trong 1 con hẻm ở quận 2. Người bước xuống xe vào nhà chính là ông thượng tá quân đội bắc Việt, một trung đoàn trưởng của sư đoàn 320, từng là kỳ phùng địch thủ ở chiến trường Tây nguyên, vì mến mộ tài năng nên ông đã cất công tìm kiếm, dù chỉ để biết mặt và gửi 1 lời trân trọng đến thiếu tá Long như tư cách của 2 vị chỉ huy ngoài mặt trận.
Vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến, tháng 4/1975 tiểu đoàn 82 Biệt Động tham gia trận đánh cuối cùng ở Long Khánh, dưới quyền chỉ huy của tướng Lê Minh Đảo, tư lệnh sư đoàn 18 Bộ Binh.
Đây là trận đánh long trời lở đất, thương vong nặng nề cho cả 2 bên. Tiểu đoàn 82 Biệt Động vỏn vẹn chỉ còn 10% quân số. Bù lại họ gây tổn thất kinh hoàng cho toán quân miền bắc, hàng chục xe tăng bị bắn hạ, hàng ngàn bộ đội phải bỏ xác khi chiến thắng chỉ còn tính từng ngày.
Cuộc chiến này không hề uổng phí. Nhờ đó mà thủ đô Sài Gòn có thêm thời gian để di tản. Máu của người lính đổ xuống cho nhiều người khác được an toàn ở một khung trời khác. Sự hy sinh thầm lặng này ít được ai nhắc đến, nhất là nó thuộc về những kẻ bại trận.
***
0b3.jpg
Cựu Th/tá Vương Mộng Long và Cựu Th/úy Lý Ngọc Châu 
Cũng như số phận của bao người anh em chiến bại khác, thiếu tá Long trải qua 13 năm tù đày ở núi rừng phía bắc. Ông từng vượt trại 2 lần nhưng đều bị bắt lại. Cứ mỗi lần đó, ông bị những đòn thù tập thể bằng gậy gộc, báng súng, thân thể nát nhừ, và sau đó là một thời gian dài biệt giam. Có lúc ông chỉ còn là một bộ xương 30 ký. Ông bị liệt vào danh sách những kẻ nguy hiểm, cần “chăm sóc” đặc biệt cũng vì thành tích vượt trại.
Ấy vậy mà ông vẫn sống, kiên gan với tù ngục, luôn khí phách và hiên ngang dù trong hoàn cảnh rất dễ đánh mất lòng tự trọng của mình vì luôn phải sống trong tình trạng đói kém.

0b4.jpg
Vợ chồng cựu Th/tá Vương Mộng Long và vợ chồng cựu Đ/tá Từ Vấn
Năm 1988 ra tù, ông sống lăn lóc bụi đời, phụ vợ nuôi con, từng chạy xe thồ, từng đi đào vàng ở vùng Lâm Đồng, thượng nguồn Đồng nai. Ở đây, có lần vì bênh vực 1 cô gái mà ông bị tên du thủ du thực tấn công. Nhưng hắn đã không coi ngày, chỉ cần vài kỹ năng cận chiến của 1 Biệt động quân cùng vài đường roi Bình Định từ chiếc đòn gánh, trong phút chốc tên du thủ to như con bò mộng đổ vật xuống rống lên đau đớn và xin tha mạng.
Năm 1993 thiếu tá Long sang Mỹ. Ở độ tuổi U60 ông vẫn trở lại chốn học đường lấy bằng cử nhân, dù phải làm việc toàn phần cho cuộc mưu sinh ở miền đất mới. Tình cờ nơi đây, University of Washington, tiểu bang Washington, dù là nơi chốn học thuật thanh bình không còn tiếng súng, ông vẫn phải can dự vào 1 cuộc chiến không kém phần khốc liệt – cuộc chiến giành lại sự thật, nhân phẩm cho người lính VNCH.

0b5.jpg
Th/tá Vương Mộng Long và con gái Tiên Giao – Hình chụp tại Đà Lạt, tháng 10 năm 1974
Trong năm học đó thiếu tá Long lấy 1 lớp Lịch sử chuyên sâu về mối quan hệ Mỹ – Việt. Thật không ngờ nơi đây ông hằng ngày phải nghe những lời rao giảng dối trá từ giáo sư Dan, một tay thiên tả thứ thiệt, từng tham gia biểu tình phản chiến, góp phần vào sự sụp đổ của miền nam, luôn tin vào sách vở, báo chí dòng chính vốn chỉ cho thấy một nửa sự thật. Lính Mỹ và quân đội miền nam dưới cái nhìn của Dan là những kẻ xấu xa, ác độc, còn miền bắc là kẻ nhân từ, chỉ mong muốn điều tốt đẹp cho đất nước.
Bằng công sức tra tìm tài liệu, trình bày một cách mạch lạc, công tâm, cộng thêm là một nhân chứng sống với 10 năm chinh chiến, 13 năm tù đày, thiếu tá Long đã đánh gục giáo sư Dan. Cuối cùng, ông chỉ còn biết ôm mặt than, trời ơi, vậy là bao nhiêu năm qua tôi đã rao giảng những điều dối trá, do chịu ảnh hưởng từ bọn truyền thông bất lương. Ngày cuối khóa học, giáo sư Dan gặp và nói với thiếu tá Long rằng, ông đã thắng một trận đánh vẻ vang, lập một thành tích lớn, dù không tiếng súng.
***
Vương Mộng Long, vị sĩ quan Võ Bị Đà Lạt văn võ song toàn, mưu lược dũng cảm, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 82 Biệt Động lừng danh một thuở, người tù bất khuất suốt 13 năm trường nơi chốn rừng thiêng nước độc. Ông, một người lính hào hùng trong chiến tranh, một tấm gương hiếu học vượt khó thời bình, toát lên cùng một nhân cách cao cả.
Không những thế, ông còn là một ngòi bút tài hoa ít được biết đến. Dù thời gian có phôi pha mọi điều, ký ức chiến tranh với ông gần như còn nguyên vẹn. Ông còn nhớ từng cái cái vuốt mắt đưa tiễn người lính của mình, hay một nửa viên đường quý giá các chiến hữu lén lút chia nhau thời tù tội. Và cứ thế, ông để những câu chuyện ấy tuôn ra nhẹ nhàng, tự nhiên với nét bút khẳng khái, cương thường nhưng thật lôi cuốn.
0b6.jpg
Thiếu tá Vương Mộng Long và vợ – 10/1974
Hôm nay, cuộc chiến đã qua gần nửa thế kỷ, người lính VNCH, những kẻ chiến bại, nếm đủ mọi đắng cay khổ nạn từ mọi phía, bị đày đọa từ thể xác đến tinh thần. Nhưng từ đống tro tàn ấy không khó để nhận ra nhiều viên ngọc lấp lánh, những tư cách sáng chói cao cả mặc kệ bao nhiêu đòn thù, để lại cho hậu thế những tấm gương can trường bất khuất, trong đó có thiếu tá Vương Mộng Long.
Từ một nơi nào đó trên đất Mỹ, xin tiên sinh nhận của kẻ hậu sinh này một vòng tay cung kính và ngưỡng mộ. Mong một ngày có đủ duyên diện kiến để được nghe thêm nhiều câu chuyện bi hùng của một thời chiến tranh tang tóc.
Ottawa 30/4/2021
Lary de King- Facebook

Saturday, May 8, 2021

Ngày ta bỏ núi (Kỳ 1 và 2 ) - Vương Mộng Long -

Đa Dung – con sông kỷ niệm. Nguồn: PGĐ 2021 

Lời giới thiệu: Hồi ký “Ngày Ta Bỏ Núi” đã được viết cách đây 16 năm. Nhưng khi phổ biến, nó đã bị cắt xén và che giấu nhiều điều. Tác giả Thiếu tá Vương Mộng Long đã bỏ công nhuận sắc lại toàn bộ bài viết này. “Ngày Ta Bỏ Núi” với đầy đủ chi tiết từng ngày, từng sự kiện diễn ra trong suốt cuộc lui binh, kể cả những bí mật mà trước đây bị che đậy và giấu nhẹm.

Giữa tháng 2 năm 1975, tôi lái xe từ đồn Kiến-Ðức, Quảng-Ðức lên thăm Ðại tá Biệt Ðộng Quân Phạm Duy Tất, Tư Lệnh Mặt Trận Kontum tại căn cứ Non Nước, khoảng 10 cây số Bắc Kontum.

Ðêm đó thầy trò tôi nằm bên nhau, hàn huyên tới khuya.

Tôi được Ðại tá Tất cho đọc bản cung từ của một hồi chánh viên Việt-Cộng.

Bản cung từ này do Ðại úy Vũ Quang Dũng của Trung Tâm Thẩm-Vấn/ Phòng 2/ Quân Ðoàn II thiết lập.

Người hồi chánh là một Thượng sĩ Trưởng mũi thám sát của Trung Ðoàn 48/ Sư Ðoàn 320A Cộng- Sản Bắc Việt.

Anh ta khai rằng, hai tháng nữa sẽ có một cuộc tấn công đại quy mô của Cộng Quân nhằm giải phóng thị xã Ban Mê Thuột. Anh ta còn kê khai ra những tổn thất của Sư Ðoàn 320A Cộng- Sản Bắc Việt trong trận đánh 33 ngày đêm vây hãm Pleime tháng 7&8 năm 1974. Trận này Trung Ðoàn 48/ Sư Ðoàn 320A chủ công đã bị thiệt hại rất nặng, mỗi đại đội chỉ còn khoảng 17, 18 cán binh. Ðơn vị này phải về hậu cứ gần biên giới Việt Miên để bổ sung quân số rồi chuyển vùng hoạt động.

Ðêm đó tôi có nói với Ðại tá Tất rằng,

– Thằng 48 đã bị tôi đánh xiểng liểng hai lần. Kỳ này Tư Lệnh cho tôi về phòng thủ Ban Mê Thuột, tôi sẽ có dịp “cưa” với nó một lần nữa. Ðại tá yên chí! Nếu tôi chưa chết thì Ban Mê Thuột chưa lung lay. Tôi cam đoan với Ðại tá như vậy!

Tôi thực lòng mong muốn được về giữ thành phố này. Vì cha mẹ, vợ con, anh em tôi, và gia đình binh sĩ đơn vị tôi sinh sống ở đây.

Ông Tất cười cười trả lời,

– Cậu đừng lo! Ông Phú đã giao cho ông Tường vụ này rồi!

(Ghi chú: Ông Phú = Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II. Ông Tường = Chuẩn tướng Lê Trung Tường, Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh)

Tôi cũng được ông Tất cho biết rằng Sư Ðoàn 23 Bộ Binh sẽ án ngữ tại Buôn Blech, có thể dễ dàng di động giữa Ban Mê Thuột và Pleiku.

Tiếp đó Ðại tá Tư Lệnh “bật mí” cho tôi một tin vui: Vài tháng nữa Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân của tôi sẽ được tăng cường để có quân số trên 800 người, với một hệ thống ngang 16 máy truyền tin, gồm đủ Trinh Sát, Viễn Thám cùng một đại đội chỉ huy và bốn đại đội tác chiến. Tiểu đoàn tôi sẽ xuất phái khỏi Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân để làm lực lượng xung kích dưới quyền Tư Lệnh Mặt Trận Kontum.

Hôm sau, trước khi từ giã Ðại tá Tất, tôi có đi quanh một vòng thăm Trung tá Lê Tất Biên, Liên đoàn trưởng Liên Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân và vài người bạn đang tham gia phòng thủ vùng Bắc Kontum.

Thiếu tá Thi, liên đoàn phó Liên Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân hướng dẫn tôi đi quan sát vị trí bố quân của liên đoàn.

Tôi thấy mặt trận ở đây có vẻ còn yên tĩnh hơn vùng Ngã Ba Tam-Biên-Nam (Cao Miên, Nam Kỳ, Trung Kỳ) mà tôi đang trấn giữ.

Trên đường về Quảng-Ðức, tôi ghé Ban Mê Thuột thăm tiền cứ của tiểu đoàn, rồi về nhà nghỉ với vợ con tôi một đêm.

Buổi sáng ngày kế đó, tôi vào tiệm Phở Tây-Hiên, ăn điểm tâm trước khi lên đường. Lúc tôi sắp lên xe thì người lính già mới giải ngũ Dương Ðức Mai (cựu Trung tá Liên đoàn trưởng Liên Ðoàn 22 Biệt Ðộng Quân) xuất hiện giữa phố, giơ tay vẫy,

– Chào người hùng Pleime! Ghé tệ xá cho tôi hỏi thăm đôi lời đi ông Quan Tư!

Tôi và bác Mai là chỗ rất thân tình. Chúng tôi đã nhiều năm làm việc chung ở Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2.

Tôi theo chân bác, vào thăm nhà bác. Nhà bác Mai ở kế hàng rào Sân Vận Ðộng Ban Mê Thuột.

Vào tới sân, cựu Trung tá Dương Ðức Mai, thật nghiêm nghị, hỏi tôi,

– Theo ý cậu, tụi Việt-Cộng có dám đánh Ban Mê Thuột hay không?

Vừa nâng niu những giò lan rực rỡ trên giàn, tôi vừa hùng hồn cam đoan với người chỉ huy cũ.

– Bác cứ yên chí lớn! Ông Tường sẽ bảo vệ Ban Mê Thuột, ông Tất nói vậy, bác đừng lo!

Bác Mai nhìn tôi, dọ dẫm,

– Thế ông gia, bà gia và vợ con cậu không di chuyển đi đâu sao?

Tôi cầm tay bác, trấn an bác,

– Có thể địch sẽ tấn công, nhưng chắc chúng không làm nên sự việc gì đâu. Gia đình tôi còn ở đây, đủ hết, cha mẹ, anh em, vợ con tôi, vợ con binh sĩ tiểu đoàn tôi.

Tới đây thì bác Mai có vẻ yên tâm.

Tối trước, khi thấy bố vợ tôi âu lo vì những tin đồn địch sẽ tấn công, tôi nói với ông cụ rằng, một cặp chỉ huy dày dạn chiến trường Tường & Luật đủ bảo đảm cho sự đứng vững của thành phố nhỏ bé này rồi.

(Ghi chú: Tường&Luật = Chuẩn tướng Lê Trung Tường, Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh & Đại tá Nguyễn Trọng Luật Tỉnh trưởng Darlac).

Nghe tôi mạnh miệng, bố vợ tôi mới hết lo lắng.

Bố vợ tôi cũng là một cựu Trung tá của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh vừa giải ngũ được hơn một năm.  Ông cụ và bác Dương Ðức Mai là bạn khá thân.

Sau khi chuyện trò một lúc, tôi bắt tay từ giã người cựu Liên đoàn trưởng Biệt Ðộng Quân Dương Ðức Mai, rồi lên đường.

Vài ngày sau, ở Kiến- Ðức, tôi chợt nhớ ra rằng, bản cung hồi chánh đã cũ, và nếu đúng theo diễn tiến mà anh Thượng sĩ của Trung Ðoàn 48/SÐ 320 A/ Ðiện-Biên đã khai, thì giữa tháng Ba tới, địch sẽ triển khai chiến dịch tấn công Ban Mê Thuột.

Tôi lại nghe tin A 2 phổ biến từ Phòng Nhì/ Quân Ðoàn II thông báo những chỉ dấu chuyển quân của Việt-Cộng từ biên giới Việt Miên về vùng ven căn cứ biên phòng Bản-Don.

Tôi biết rất rõ về Trung Ðoàn 48/ Sư Ðoàn 320A Cộng-Sản Bắc Việt, đơn vị chủ công sẽ đánh Ban-Mê-Thuột.

Tôi tin tưởng rằng đơn vị tôi đủ sức đương đầu với chúng. Trong quá khứ, đơn vị tôi đã hai lần chạm trán với trung đoàn Cộng Sản này ở căn cứ 711 Pleiku (tháng Tư 1974) và ở căn cứ biên phòng Pleime (tháng 7&8 năm 1974).

Mối quan tâm của tôi là, gia đình tôi và đa số gia đình binh sĩ Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân đều ở Ban Mê Thuột. Tôi vội thảo gấp một cái công điện gởi thẳng cho hai nơi, một cho Bộ Chỉ Huy Hành Quân của Biệt Ðộng Quân/ Quân- Khu 2 đang ở Kontum, một cho Bộ Tư Lệnh /Quân Ðoàn II ở Pleiku. Tôi xin thượng cấp cho phép Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân được rời Kiến-Ðức, Quảng-Ðức để về phòng thủ Ban Mê Thuột.

Vì đây là điện văn riêng, nên tôi không gởi theo hệ thống dọc qua Bộ chỉ huy Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân và qua Bộ chỉ huy Tiểu Khu Quảng-Ðức mà chúng tôi đang tăng phái. Nhưng Trung tá Hoàng Kim Thanh, Liên đoàn trưởng Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân rõ chuyện này, vì tôi có tâm sự với ông, ông rất thông cảm hoàn cảnh của tôi.

Tôi chờ đợi từng ngày. Không ai trả lời bức điện thỉnh cầu của tôi vì nó là một điện văn gửi vượt hệ thống quân giai, hoàn toàn sái nguyên tắc.

Những khi hành quân xa, tôi thường đặt đài tiếp vận để tiện liên lạc với hậu cứ. Những tiểu đoàn bạn, đôi khi cả bộ chỉ huy liên đoàn cũng vào tần số đài này nhờ chuyển tin.

Sáng ngày 9 tháng Ba năm 1975, đài tiếp vận “Tam Quái 82” của tôi đặt trên căn cứ hoả lực Núi Lửa, Ðức-Lập báo cáo rằng địch đang pháo kích vào Chi Khu Ðức-Lập. Tới gần trưa thì chính căn cứ Núi Lửa cũng bị địch pháo kích và tấn công bằng bộ binh.

image.png
Ngã Ba Kiến Đức 46 năm sau. Nguồn PGĐ 2021

Xế chiều, tôi nghe anh binh nhì trưởng toán tiếp vận báo cáo bằng bạch văn lời cuối,

– Thiếu tá ơi! Tam Quái chắc tiêu ma đợt này rồi Thiếu tá ơi!”

Sau đó tôi không còn nghe được gì nữa.

Tôi thường gọi mấy anh Biệt Ðộng Quân của Tiểu Ðoàn 82 giữ máy tiếp vận trên đỉnh Núi Lửa là “Tam Quái”. Chỉ vì toán này gồm ba anh lính có tật, một anh cà thọt, một anh điếc, và một anh thong manh. Anh điếc nấu cơm, hai anh kia trực máy truyền tin.

Những năm sau này, quân số thiếu hụt, những người có tật cũng bị bắt đi quân dịch, mà Biệt Ðộng Quân lại thiếu người, nên rất dễ dãi vấn đề tuyển quân. Biệt Ðộng Quân nhận tất cả quân nhân bổ sung từ bất cứ nguồn nhân lực nào.

Chúng tôi được bổ sung quân số từ Trung Tâm Nhập Ngũ Số 3 chuyển qua Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/Quân Lực Việt-Nam Cộng-Hòa, từ Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Ðộng Quân Dục Mỹ, từ Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn, và từ Ðơn Vị 2 Quản Trị Ðịa Phương, Nha-Trang với những người lính vừa mãn án tù, kể cả Lao Công Phục Hồi.

Tôi không chê bất cứ ai trình sự vụ lệnh về phục vụ đơn vị mình. Thong manh, cà thọt, mẻ sứt, kể cả ma túy, xì-ke tôi nhận tuốt! Những quái nhân này ở tiểu đoàn tôi chỉ ít lâu sau đã thành những con người mới. Người nào có việc nấy, tôi cứ áp dụng lời khuyên của người chỉ huy cũ, Trung tá Bùi Văn Sâm:

“Viên đạn nào cũng bắn vào đầu địch. Chỉ cần người lính chịu bóp cò là được rồi. Xấu trai mà dám bóp cò, còn hơn đẹp trai mà ra trận chưa nghe súng nổ, mắt đã láo liên. Tốt gỗ hơn tốt nước sơn!”  

Vì thế mà quân số tiểu đoàn tôi lúc nào cũng đông hơn tiểu đoàn khác.

Lính cà thọt không chạy nhanh được, cho họ làm tiền đồn. Cà thọt đóng chốt thì khỏi lo mất chốt.

Lính thong manh, không canh gác được thì cho trực truyền tin, nấu cơm.

Lính điếc thì cho tải đạn cối 81 ly, cối 60 ly, SKZ 57 ly. Lính điếc mà bắn cối hay SKZ thì nhất! Ðiếc đâu cần bịt lỗ tai!

Xì-ke nghiện ngập cũng dễ chữa thôi! Tôi lúc nào cũng dùng lời khuyến dụ êm ngọt trước, dùng võ lực sau. Anh nào không nghe lời nhỏ nhẹ bỏ nghề chích choác thì tôi mời vào connex nằm chơi. Ngày này qua ngày khác, chỉ có món nước đường do Thiếu úy Huỳnh Kim Hoàng, Ðại đội trưởng đại đội công vụ tiếp tế. Những ngày đầu thiếu thuốc, dân choác khổ sở, vật vã vô cùng. Dăm ba ngày sau quen dần, quen dần… Người nghiện nặng cách mấy cũng chỉ một tuần là phải từ giã ống chích, kim tiêm, khỏi bịnh!

Theo lời dạy của cổ nhân,”Dụng nhân như dụng mộc”, tôi sắp xếp người của tôi vào công việc phù hợp với họ; trên dưới đề huề, thương nhau.

Những năm sau cùng, không khí sinh hoạt trong đơn vị tôi (Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân) là thế đấy!

Tin Tam Quái trên Núi Lửa bị mất liên lạc làm cả ban tham mưu tiểu đoàn buồn rầu.

Sáng 10 tháng Ba năm 1975, bộ chỉ huy liên đoàn báo cho tôi biết tin địch đang pháo kích vào tiền cứ Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân ở Ban Mê Thuột. Tiền cứ này nằm sát trại Thiết-Giáp trên đường đi Bản-Ðôn. Người chỉ huy tiền cứ của liên đoàn là Thiếu tá Lê Ðình Hồng đã bị thương nặng.

Hậu trạm của tiểu đoàn tôi ở Ban Mê Thuột cũng có mặt sáu người là, Thiếu úy Huỳnh Kim Hoàng, Chuẩn úy Lê Hữu Ðức, Chuẩn úy Nguyễn Hữu Phước, Trung sĩ 1 Lưu Ðức Hoàn, Lao công Phan Thành Hoàng, và ông Tàu Hỷ chủ Câu Lạc Bộ. Không rõ tình trạng của các ông này ra sao?

Tới trưa thì có tin chiến xa Việt-Cộng nối đuôi nhau chạy rầm rầm giữa trung tâm thị xã. Mọi cuộc đàm thoại vô tuyến bị đứt đoạn vì không có đài tiếp vận.

Liên lạc giữa Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân từ Gia-Nghĩa với tiền cứ Ban Mê Thuột bằng các hệ thống máy tầm xa như VRC 67 và PRC 74 cũng đột nhiên chấm dứt.

Ðêm đó đài BBC loan tin Ban Mê Thuột thất thủ. Tôi và cả ban tham mưu tiểu đoàn bàng hoàng, vì tiền cứ của tiểu đoàn tôi cũng như gia đình binh sĩ đều ở thành phố này.

Ngày 11 tháng Ba năm 1975, tôi nghe được tiếng Ðại tá Phạm Duy Tất trên tần số. Ông Tất đang bay trên trời Ban Mê Thuột và gọi tôi.

Tôi hỏi ông về địch tình, về phản ứng của Chuẩn tướng Lê Trung Tường.

Ðại tá Tất buồn rầu trả lời:

“Ông Tường không đủ sức ngăn chúng nó toa ơi! Bây giờ chỉ còn hy vọng thằng Dậu cố gắng cứu vãn tình thế. Không biết có được hay không?”

(Ghi chú: Thằng Dậu= Trung tá Lê Quý Dậu)

Trung tá Lê Quý Dậu là Liên đoàn trưởng Liên Ðoàn 21 Biệt Ðộng Quân.

Ông Dậu mới lên chỉ huy liên đoàn được hai, ba tháng, thay thế cho Trung tá Nguyễn Lang (Lang Trọc) vừa giải ngũ.

Tôi cố nài nỉ ông chỉ huy trưởng,

– Trường An cho phương tiện bốc tôi về Ban Mê Thuột đi! Trường An ơi! Vợ con tôi ở đó! Vợ con lính của tôi ở đó!

Trường An là danh hiệu truyền tin của Ðại tá Phạm Duy Tất, Chỉ huy trưởng Biệt Ðộng Quân/ Quân Khu 2.

Lúc đó tôi nghẹn lời. Bên tôi, người Sĩ quan Tiếp liệu tiểu đoàn, Trung úy Trần Văn Ðăng mắt cũng đỏ hoe.

Tôi tỉnh người khi nghe ông Tất hứa hẹn,

– Rồi! Ta sẽ nói lại với Số 1 (Thiếu tướng Phạm Văn Phú) để bốc Thái-Sơn về!

Thái-Sơn là tên riêng của tôi, tôi mang tên này từ khi còn phục vụ ở Tiểu Ðoàn 11/ Biệt Ðộng Quân, Pleiku, thời 1967-69.

Ðược lời như cởi tấm lòng. Tôi quyết định rút trung đội tiền đồn của Ðại Ðội 4/82 trên đồi Bù-Row cách 3 cây số hướng Bắc về.

Tôi cũng gọi sĩ quan đại đội trưởng một đại đội của Tiểu Ðoàn 63 Biệt Ðộng Quân đang tăng cường cho tôi lên gặp tôi.

Tôi dặn dò anh kỹ càng những điều phải làm để phòng thủ Ngã Ba Kiến-Ðức thay cho Ðại Ðội 1/82 Biệt Ðộng Quân của Thiếu úy Ðặng Thành Học, nếu chúng tôi có trực thăng bốc đi.

Tiếp đó tôi cho tiểu đoàn chuẩn bị hai ngày cơm vắt, vũ khí, đạn dược sẵn sàng.

Sau khi lệnh chuẩn bị hành quân của tôi được thông báo tới mọi cấp trong đơn vị, tôi nghe tiếng bàn tán xôn xao trong các túp lều và bên giao thông hào.

Niềm háo hức hân hoan lộ rõ trên những khuôn mặt sạm nắng.

Những người lính gốc Rhadé, Jarai dưới quyền tôi đã lâu, nên qua nụ cười, ánh mắt của họ, tôi hiểu rằng lúc đó họ đang vui sướng vô cùng.

Suốt ngày 12/3/75 tôi không nghe tiếng Ðại tá Tất trên máy, nhưng tôi liên lạc được một phi công đang quan sát trên trời Ban Mê Thuột.

Tôi nhờ anh ghi nhận và chuyển cho tôi những gì anh nhìn thấy dưới chân anh.

Tôi mô tả con đường Hàm Nghi cạnh nhà thờ Vinh-Sơn, là nơi gia đình tôi cư ngụ và khu tiền trạm của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân.

Sau hồi lâu quan sát, anh cho tôi biết rằng cả hai nơi đều nằm trong màn khói đen mù mịt.

Buồn quá, tôi ngồi trước cửa hầm, ôm cây đàn guitar. Tay tôi chỉ bấm một cung Mi Thứ; tôi lần mò một bài tình ca buồn.

Kỳ 2

Nhớ lại lần đầu, 6 năm trước, tôi và người bạn cùng đơn vị đi đón em gái anh ta lúc học sinh Trung Học Tổng Hợp Ban Mê Thuột tan trường.

Sau đó mẹ tôi từ Hội-An vào gặp bố mẹ cô ta; mẹ tôi xin cô ta về làm dâu họ Vương. Bây giờ nàng đang bị kẹt trong vùng đạn lửa, một nách ba đứa con thơ, lại thêm bụng mang dạ chửa.

Tôi ngồi thừ người trước cửa hầm trú ẩn của tiểu đoàn trưởng. Tôi không cảm thấy cái lạnh của sương đêm. Trời sáng lúc nào tôi không hay.

Vừng dương bắt đầu le lói. Lại thêm một ngày.

Bên tôi là những cây hoa móng tay.

Mấy ngày rồi không ai tưới, hoa lá đã vàng vọt úa màu.

Bên những cây hoa này, hai đứa con gái tôi đã đứng chụp hình. Con tôi cũng chỉ xấp xỉ cao cỡ những cây hoa đó.

Sau Noẽl 1974 tôi đã đón vợ tôi và hai đứa con gái lớn lên tiền đồn này chơi vài ngày. Hai đứa bé suốt ngày chỉ quanh quẩn bên những cây hoa móng tay.

Chợt những bông hoa móng tay trước mắt tôi như mờ dần đi. Một giọt nước mắt nóng rơi trên mu bàn tay. Ðầu óc tôi phừng phừng.

Hai bàn tay tôi xoắn vào nhau, giày vò lẫn nhau. Tôi muốn đập phá, la hét, kêu gào để trút bỏ niềm đau đớn, phẫn uất đang nung nấu tâm can.

Nước mắt cứ tiếp tục lăn trên má, qua môi, xuống miệng.

Tôi oán trách ông Trời; tôi oán trách Ðại tá Tất; tôi oán trách Tướng Tường; tôi oán trách Trung tá Dậu; tôi tự oán trách tôi.

Chuẩn úy Lê Văn Phước (Ban 3) len lén đến bên tôi. Phước đưa cho tôi cái khăn bông ướt,

– Bình tĩnh lại Thiếu tá! Ðài BBC nói Ban Mê Thuột thất thủ rồi!  Ðánh nhau nhanh như vậy chắc là ít người chết. Nhà hai bác ở xa khu quân sự, hy vọng chị và các cháu không hề hấn gì.

Cái khăn ướt làm mặt tôi bớt nóng. Tôi đứng lên bước hững hờ xuống khu pháo binh cũ, hướng Bắc của bộ chỉ huy tiểu đoàn.

Từ đây tôi có thể nhìn thấy một vùng rừng rậm xanh rì trải dài về hướng chân trời.

Xa lắm, nơi chân mây hướng Ðông Bắc là Ban Mê Thuột, nơi đó có gia đình tôi, gia đình của những người lính Kinh, Thượng, Jarai, Rhadé, Bana dưới quyền tôi.

Hai ngày dài buồn thảm nối tiếp trôi qua, tôi không nghe được tin tức gì của Ban Mê Thuột.

Chiều 15 tháng Ba dân chúng từ buôn Bù-Binh hướng Nam, nối đuôi nhau đi về Ngã Ba Kiến-Ðức. Gùi sau lưng, con trước ngực, họ từng đoàn lếch thếch qua mặt đồn tôi đóng, để về Nhơn-Cơ.

Không rõ vì lý do gì, gần tối đoàn người dội ngược trở lại. Tôi cho đám dân tị nạn này tạm nghỉ qua đêm trong cái nhà tranh Câu Lạc Bộ của tiểu đoàn, sát chân đồi, bên lề đường.

Sáng sớm 16 tháng Ba, trung đội tuần đường của Ðại Ðội 1/82 vừa tới đầu khúc cua chữ “S” cách Kiến-Ðức hơn ba cây số thì đại liên 12.7 ly “choang choác!”  nổ giòn.

Ông Thượng sĩ Y Ngon Near bị phòng không bắn chết nơi đầu dốc. Trung đội tuần đường tháo chạy ngược về hướng Kiến- Ðức.

Từ giờ này Tỉnh Lộ 344 đoạn Kiến-Ðức, Nhơn-Cơ bị cắt.

Xác ông tiểu đội trưởng Y Ngon Near bị bỏ rơi nằm chình ình giữa lộ.

Ngay lúc đó, pháo địch từ hướng Tây Bắc nã khoảng gần 100 viên đại bác 105 ly trên đồi Kiến-Ðức.

Lúc đạn địch rơi, tôi đang thăm khu dân tị nạn để hỏi han họ lý do tại sao họ không về Nhơn-Cơ chiều hôm trước.

Bây giờ thì rõ ràng rồi: địch chặn đường!

Lúc này, Thiếu tá Hoàng Ðình Mẫn, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân báo cáo rằng chiến xa địch đang từ hướng Phước-Long tiến về Bù-Binh, nơi ông đang đóng quân. Liên đoàn cho lệnh ông Mẫn rút về với tôi.

Tối đó Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân được tôi chia cho phần nhiệm vụ phòng thủ mặt Ðông của Ngã Ba Kiến-Ðức, án ngữ hướng về Nhơn-Cơ.

Ðêm 16 tháng Ba năm 1975, Trung tá Liên đoàn trưởng ra lệnh cho Thiếu tá Mẫn nỗ lực vượt qua nút chặn của Cộng Quân để về phòng thủ quận Nhơn-Cơ.

Suốt ngày 17 tháng Ba năm 1975, đạn 12.7 ly nổ rền trời nơi khúc quanh có xác Thượng sĩ Ngon. Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân không tiến được bước nào.

Ðêm xuống, con cáo già Khóa 2 Ðồng-Ðế là Hoàng Ðình Mẫn cho đơn vị chui lòn trong rừng, đánh một vòng rộng về hướng Nam, xa hẳn vùng Việt-Cộng đóng chốt để tìm đường vào phi trường Nhơn-Cơ.

Ông Mẫn đã khôn khéo tránh né đụng độ, và đã hoàn thành nhiệm vụ bắt tay được Thiếu tá Khánh, Quận trưởng Kiến-Ðức ở Căn Cứ Nhơn-Cơ buổi sáng ngày hôm sau.

Mờ sáng 18 tháng Ba năm 1975, súng cối 82 ly của địch từ hướng Tây lại tái pháo kích vào Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân. Từ tuần lễ nay, đồi Bù-Row bỏ ngỏ. Ðịch đã quay lại chiếm lĩnh cao điểm này. Từ đây, DKZ 75 của chúng liên tục đánh phá khu trung tâm đồi chỉ huy của tiểu đoàn. Thêm vào đó, đạn đại bác 105 ly từ đằng xa phía Bắc, nã không ngừng trên nửa ngọn đồi hướng Bắc, nơi những ụ súng pháo binh đã bỏ hoang từ khi pháo đội 105 ly của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh rút đi.

“Oành! Oành! Oành!”

Ðạn 75 ly theo nhau tóe lửa trên lô cốt Ðông và khu vực quanh cái cây khô cao nghệu giữa đỉnh đồi.

Cây cổ thụ này cao lắm, đứng xa cả cây số mà người ta còn nhìn thấy nó. Nó tồn tại từ khi cơ ngơi của Chi Khu Kiến-Ðức mới được xây dựng lên. Chiến trận nổ ra thì nó trở thành cái mốc cho địch quân điều chỉnh pháo.

Ngày mới tới đây tôi đã có ý định hạ nó xuống, nhưng bận rộn hết việc này tới việc khác, tôi đã quên đi.

Hầm chỉ huy của tôi có hai mái bằng bao cát, lớp trên đã bị bắn sập, đất cát đang tuôn ào ào vào các lỗ châu mai.

Tôi quyết định tụt xuống ngã ba Quốc lộ 14, tạm trú trong cái hầm nhỏ khoét sâu vào vách núi bên Tỉnh lộ 344.

Vừa phóng nhanh ra cửa, tôi vừa ngoắc tay ra dấu cho hai người lính đang ngồi gác đôi,

– Xuống đường!

Như cái máy, Binh nhì Ðức Xì Ke ào lên án ngữ cái cầu thang, còn Binh nhì Ba Rỗ thì kè sát sau lưng tôi, rồi lấy cái thân to lớn của nó che chở cho tôi rời khu chỉ huy sở của tiểu đoàn.

Xuống tới đường, tôi lập tức hạ lệnh cho toán đầu bếp của Câu Lạc Bộ,

– Kéo cổng Ðông! Gài Claymore!

Hiện thời địch đã chiếm lĩnh vùng đồi thấp giữa Nhơn Cơ và Kiến Ðức. Hướng Ðông lại là khu vực tôi dàn quân mỏng nhất. Cấp thời chỉ có cách gài thêm mìn và huy động nhân viên Câu Lạc Bộ tăng cường phòng thủ với tiểu đội cận vệ.

“Xèo! Oành!”- “Xèo! Oành!”

Nghe tiếng rít của đạn bay, tôi lấy làm lạ, vội giơ tay bịt lỗ tai rồi buột miệng,

– Ủa! 122 ly?

Kinh nghiệm cho tôi biết, xưa nay địch chưa bao giờ dùng hỏa tiễn 122 ly hay 107 ly để đánh phá các mục tiêu có diện tích hẹp như các tiền đồn hay căn cứ hỏa lực.

Vậy mà giờ này, trước mắt tôi đúng là 122ly! Không sai!

Trái hỏa tiễn thứ nhất và thứ nhì đã bay ngang qua đầu tôi, rồi rơi trong rừng cây hướng Nam.

“Xèo! Oành!”

Trái thứ ba rơi ngắn hơn, nên cắm trên mặt Tỉnh lộ 344, tóe lửa, khiến cho đất, đá bay rào rào!

Một mảnh hỏa tiễn chém đứt lìa cái cột chính của Câu Lạc Bộ, làm cho mái tranh sụm xuống.

Kế đó, cách tôi chừng hai thước, Binh nhì Ðức Xì Ke đang ôm ngực, đầu chúi về phía trước rồi nằm giãy đành đạch trên mặt lộ.

– Thiếu tá ơi! Thiếu tá ơi… 

Tôi chưa nghe trọn tiếng kêu từ miệng thằng em thì nó đã chết rồi!

image.png
Gia đình Th/tá Vương Mộng Long tại tiền đồn Kiến Đức tháng 12 năm 1974

Binh nhì Ðức Xì Ke là một tân binh vừa hết bệnh nghiền sau một tuần nằm trong chuồng cọp. Hết bệnh chích choác, Ðức Xì Ke được tôi cho về tiểu đội cận vệ trám chỗ của thằng Thon chết trận Ðạo Trung. Vậy mà chưa được bao lâu, thằng Ðức Xì Ke đã sớm đi theo thằng Thon…

Lúc này từ khu gia binh bỗng có nhiều tiếng trẻ con đua nhau khóc ré lên thật thảm thiết. Tôi vội chạy lại coi có gì xảy ra không thì một chị vợ lính chui ra đường nắm áo tôi khiếu nại,

– Thiếu tá ơi! Hầm trú của tụi em bị mấy người Thượng chiếm chỗ rồi! Tụi em và mấy cháu không biết chạy đi đâu mà núp pháo kích!

Tôi hỏi,

– Có ai bị thương không?

– Dạ không!

Tôi thở ra, rồi la lớn,

– Thôi! Nếu hầm trú ẩn đã bị dân chúng chiếm, thì tất cả mọi người chỉ còn cách nằm úp mặt xuống sát đất tránh pháo. Chắc cũng không lâu nữa thì yên! Ráng chịu đựng đêm nay, mai tôi sẽ xin trực thăng chở gia đình các chị và các cháu ra Gia- Nghĩa.

Lúc này pháo của địch vẫn tiếp tục rơi trên đồi chỉ huy, nhưng không thấy thêm trái 122 ly nào cả.

Sáng nay tôi không cho lệnh phản pháo tức thời như vẫn làm thường lệ khi bị địch pháo kích. Tôi cùng toán hộ tống chạy thẳng lên đỉnh ngọn đồi hướng Tây do Ðại Ðội 2/82 trấn giữ. Từ đây tôi có thể chấm chính xác 3 vị trí cối 82 ly và nơi phụt khói 75 ly của địch. Tôi cho trung đội Pháo Binh Biên-Phòng đang ở với tôi và Pháo Binh Diện Ðịa Nhơn- Cơ mười phút để lột vỏ 400 quả đạn và chuẩn bị yếu tố tác xạ trên bốn vị trí tôi đã chấm.

Ðại Ðội 2/82 được lệnh di chuyển tiến đánh hai khẩu cối 82 ly đặt gần, ngay sau lưng một ngọn đồi trọc hướng Tây.

Ðại Ðội 2/82 đang thiếu đại đội trưởng. Trước Tết Dương Lịch, Ðại đội trưởng Ðại Ðội 2/82 là Trung úy Võ Hữu Danh, khóa 25 Võ Bị, khai bệnh sốt rét, phải đi nằm nhà thương, nên Ðại Ðội 2/82 tạm thời do Chuẩn úy Gấm cầm đầu.

Trung úy Trần Văn Ðăng, Sĩ quan Tiếp liệu của tiểu đoàn xin tôi cho anh chỉ huy Ðại Ðội 2/82 trong lần ra quân này.

Tôi ái ngại,

– Chú nghĩ sao mà xin đi đánh cú này?

Ðăng nghẹn ngào,

– Vợ con em ở hậu cứ. Hậu cứ mất rồi. Em còn gì đâu? Thiếu tá cho em trở lại đại đội cho quên chuyện gia đình.

Tôi tần ngần,

– Ừ! Cậu đã muốn thế thì tôi cũng okay! Thôi đi đi!

Tôi đứng trên đồi nhìn theo bóng dáng cao gầy của Ðăng đang lẫn vào rặng cây xanh.

Hồi 1969-1970, khi tôi còn làm Ban 2 và Trinh Sát Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân thì Chuẩn úy Trần Văn Ðăng là Trung đội trưởng ở Tiểu Ðoàn 22 Biệt Ðộng Quân dưới quyền một anh bạn cùng khóa của tôi.

Khi tôi nhận chức Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân thì Ðăng đang là Trung úy Ðại đội trưởng của Tiểu Ðoàn 22 Biệt Ðộng Quân. Ngày đó anh có gặp và xin tôi nhận anh về làm việc với tôi, tôi từ chối vì đơn vị tôi đã đủ sĩ quan đại đội trưởng.

Sau đó Trung úy Ðăng bị thương, đứt một khúc ruột, chờ ra Hội đồng Y khoa để chuyển sang bộ binh, làm Thương Binh Loại 2 Yểm trợ.

Ðăng lại gặp tôi và tình nguyện làm sĩ quan tiếp liệu tiểu đoàn cho tôi để anh còn được tiếp tục ở lại phục vụ binh chủng Biệt Ðộng Quân. Lần này tôi chấp thuận.

Ðăng xin xuất viện về làm việc dưới quyền tôi đã được gần một năm.

Khi cánh quân của Ðại Ðội 2/82 báo cáo còn cách mục tiêu gần hai trăm mét thì tôi cho lệnh pháo binh khai hỏa. Ðạn đi! Mỗi mục tiêu một trăm quả hỗn tạp.

Và chỉ năm phút sau khi đạn rơi, tiếng M16 nổ rộ như pháo ran, chêm vào là những tiếng M 79. Khói súng và bụi che mờ một nửa ngọn đồi.

Thoáng chốc, hai khẩu cối 82 ly đã đổi chủ, từ Trung Ðoàn E271/ T10 của Quân Khu 6/ Cộng-Sản Bắc Việt sang Ðại Ðội 2/Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân/Quân Lực Việt-Nam Cộng-Hòa.

Tôi chợt nghe AK và đại liên nổ rền trong thung lũng.

Tôi hỏi Ðăng,

– Ê! Delta! ngoài tiếng AK còn tiếng đại liên. Ðại liên của cậu hay của địch vậy?

(Danh hiệu truyền tin của Trung úy Ðăng là Delta.)

– Của tụi nó đó Thái Sơn! Em đâu có đem theo M 60!

Tôi cho lệnh Ðại Ðội 2/82 rút lui,

–  Delta đây Thái Sơn! Cuốn gói! Ðừng về đường cũ! Hãy theo hướng ba ngàn hai trăm! Tôi với thằng An Bình đón cậu trên đường. Tôi lặp lại! Ba ngàn hai trăm! Nghe rõ chưa?

– Ba ngàn hai! Nhận 5!

Nếu trở về đường cũ thì Ðại Ðội 2/82 sẽ phải qua một cái thung lũng, và hai khẩu đại liên địch không để cho họ dễ dàng rút về an toàn trên đoạn đường gần 2 cây số rừng lau.

Ðại liên địch cứ nổ giòn, đạn lửa đan chéo nhau trong thung lũng. Tôi nghĩ địch bắn hoảng, bắn tiều, chứ chúng chẳng rõ Biệt Ðộng Quân đang ở chỗ nào!

Tôi chấm vị trí hai khẩu đại liên địch và giao cho Ðại úy Ngũ Văn Hoàn, Tiểu đoàn phó. Ông Hoàn và Thượng sĩ Năng, trưởng khẩu 81 ly sẽ rót cối vào đầu chúng!

Từ hướng Bắc, đạn đại bác 105 ly địch lại rơi tới tấp trên đồi chỉ huy của tiểu đoàn.

Với đại bác 105 ly thì vô phương! 105 ly của khối Cộng đã bắn dài hơn 105 ly của ta, mà súng của ta lại đặt sau hậu quân. Hai khẩu đại bác 155 ly của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh tăng cường cho tôi đã bị Tiểu Khu Quảng-Ðức đòi lại từ hai tuần lễ trước.

Hiện thời, không súng nào của tôi với tới được vị trí súng của chúng.

Thôi! Cứ để cho nó tác oai tác quái, chưa hề hấn gì!

Nửa giờ sau tôi và An Bình (An Bình là danh xưng của Trung úy Trần Văn Phước) cùng một trung đội thuộc Ðại Ðội 3/82 tiếp xúc được cánh quân đầu của Trung úy Ðăng. Ðại Ðội 2 đã hoàn tất nhiệm vụ mà không bị tổn thất nào. Thẩm quyền Delta là một trong những người đi đoạn hậu của Ðại Ðội 2/82.

Tôi thấy Trung úy Ðăng vừa thở, vừa cười hì hì khi leo lên mặt Quốc lộ 14.

Vừa gặp mặt tôi Ðăng đã oang oang,

– Có ngay hai khẩu 82 ly cho Thái Sơn đây!

Sau lưng Trung úy Ðăng là hai anh lính Thượng đang hì hục vác 2 cái nòng súng cối 82 ly. Hai ông lính Jarai hớn hở khoe,

– Cái ông Thiếu tá ơi! Tụi Việt-Cộng này đánh nhau dở lắm! Chưa chi đã bỏ súng mà chạy! Dở hơn mấy thằng đánh nhau với mình ở Trà-Ku nhiều!

Tôi cười,

– Mấy hôm nữa tụi mình lại về Trà-Ku. Mấy chú có nhớ Trà-Ku không?

(còn tiếp)