Trần Gia Phụng
Mùa hè đỏ lửa là tên một quyển bút ký
chiến tranh của nhà văn Phan Nhật Nam, ghi lại những
trận đánh khốc liệt vào mùa hè năm 1972. Hôm nay, bốn chục
năm sau, xin sơ lược trở lại những trận
đánh ghi dấu một thời oanh liệt của quân
đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).
1. NGUYÊN NHÂN
Tháng
5-1971, bộ Chính trị đảng LĐ Bắc Việt
Nam đưa ra “quyết định
thế tiến công chiến lược trên chiến trường
miền Nam, đánh bại chính sách Việt Nam hóa chiến
tranh của Mỹ, giành thắng lợi quyết định
trong năm 1972, buộc đế quốc Mỹ phải chấm
dứt chiến tranh bằng thương lượng trong
thế thua.” (Bộ Quốc Phòng CHXHCNVN, Lịch sử quân đội nhân
dân Việt Nam (1944-1975), Hà Nội: Nxb. Quân Đội Nhân
Dân, 2005, tr. 644.) Ngoài lý do
đã được tiết lộ trên đây, nguyên nhân việc
CSVN mở cuộc tấn công năm 1972 có thể phỏng
đoán là:
Thứ
nhất, sau cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân
thất bại, CSVN phải ra nghị quyết 9 cho quân
đội CS ở trong Nam nghỉ dưỡng và tránh đụng
độ với quân đội VNCH. (Nguyễn Kỳ Phong,
“Hành quân Lam Sơn 719: Nguồn gốc và khuyết điểm”,
điện báo Talawas ngày
12-6-2008.) Trong khi đó quân
đội VNCH mở những cuộc hành quân lớn
đánh qua Cao Miên (4-1970 đến 2-1971) và Hạ Lào (1971), nắm
thế chủ động trên chiến trường.
Sau
khi đưa thêm nhiều sư đoàn để bổ
sung lực lượng ở trong Nam, CSVN quyết định
tái phát động hành quân, nhằm giành lại thế chủ
động trên chiến trường. Tháng 12-1971, Nicolai Podgorny, chủ tịch
nhà nước Liên Xô, đến Hà Nội và hứa hẹn
gia tăng viện trợ không hoàn lại các loại võ khí hạng
nặng. Đầu năm
1972, Liên Xô gởi qua các chiến xa T-54, T-55, PT-76, đại
bác 130 ly, 150 ly, đại bác phòng không 57 ly, hỏa tiễn
chống chiến xa AT-3 Sagger, hỏa tiễn địa
không SA-7 Strela. (Nguyễn Đức
Phương, Chiến tranh Việt
Nam toàn tập, từ trận đầu (Ấp Bắc -
1963) đến trận cuối (Sài Gòn - 1975), Toronto: Nxb.
Làng Văn, 2001, tr. 550.)
Thứ
hai, về phương diện quân sự, CSVN thất bại
trong cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân, nhưng về phương diện chính
trị, CSVN đã gây chấn động lớn đến
dân chúng và chính trường Hoa Kỳ trong năm bầu cử
tổng thống 1968. Tổng thống Lyndon Johnson phải bỏ cuộc,
không ứng cử tổng thống lần thứ hai. Richad Nixon, ứng cử viên đảng
đối lập đánh bại ứng cử viên đảng
đương quyền, lên làm tổng thống. Ngày 24-6-1970, thượng viện
Mỹ bãi bỏ “Nghị quyết vịnh Bắc Việt”,
giới hạn quyền của tổng thống gởi
quân ra nước ngoài. (John S. Bowman, The Vietnam
War, Day by Day, New York: Mallard Press, 1989, tr.166.) Đây là thời cơ thuận tiện
để CS mở cuộc tấn công, nhất là sau cuộc
họp giữa Kissinger và Chu Ân Lai vào tháng 7-1971, CSVN
được biết thêm tin chắc chắn người
Mỹ sẽ rút quân, bỏ rơi VNCH.
Năm
1972 cũng là năm bầu cử tổng thống ở
Hoa Kỳ. Vấn đề Việt
Nam rất nhạy cảm với cử tri Mỹ. Có thể vì vậy, CSVN tung đại
quân tấn công VNCH nhằm tạo ra một chấn động
mới, thúc đẩy dân chúng Hoa Kỳ đòi hỏi chính
phủ Hoa Kỳ chẳng những nhanh chóng rút quân mà chấm
dứt hẳn sự can thiệp vào Việt Nam.
Thứ
ba, CSVN mở các chiến dịch 1972 nhằm tăng cường
uy thế của phía CSVN trong hòa hội đang tiếp diễn
tại Paris. Trong hòa hội Paris,
CS đòi giữ nguyên trạng sau khi ngưng bắn. Vì vậy, CS mở
cuộc tấn công nhằm lấn đất giành dân. Cũng trong dự thảo
hiệp định Paris, CSVN đòi hỏi quân đội
và võ khí nước ngoài không được nhập vào VNCH
sau khi hiệp định được ký kết. Vì vậy CSVN tìm cách hủy diệt
các đơn vị cũng như quân nhu quân dụng quân
đội VNCH, để VNCH yếu hẳn sau khi ngưng
bắn. Trái lại,
toàn khối CS bí mật tiếp tục viện trợ cho Bắc
Việt qua đường bộ ở biên giới giữa
Việt Nam với Trung Quốc, mà không ai có thể kiểm
soát được.
2.-
DIỄN TIẾN CHIẾN CUỘC
Theo
quyết định của bộ Chính trị đảng
LĐ, quân đội CSVN mở chiến dịch đại
quy mô, tấn công ở cả bốn quân khu VNCH: Quảng Trị và Thừa Thiên ở
Quân khu I (từ 30-3-1972); Kontum ở Quân khu II (từ 30-3-1972
); Bình Long ở Quân khu III (1-4-1972); Định Tường,
Kiến Tường ở Quân khu IV (10-6-1972). Cộng sản đặt tên cho
các cuộc hành quân trên đây lần lượt là: chiến
dịch Trị Thiên, chiến
dịch Bắc Tây nguyên, chiến dịch Nguyễn Huệ, và chiến dịch Đồng bằng sông Cửu
Long. Phía VNCH, gọi chung cuộc
chiến năm 1972 là “mùa hè đỏ lửa”, phát xuất
từ tên quyển ký sự chiến trường là Mùa hè đỏ lửa, của nhà văn Phan Nhật
Nam. Về phía Hoa
Kỳ, thì cuộc chiến năm 1972 được gọi
là Easter Offensive.
Mặt trận Quảng Trị
ở Quân khu I (từ
30-3-1972): CSVN gọi đây là
chiến dịch Trị Thiên. Lực lượng CS gồm ba sư
đoàn Bộ binh (304, 308, 324), hai trung đoàn độc lập
(27 và 48), bốn tiểu đoàn BB Quân khu Trị Thiên,
Đoàn đặc công 126 và 10 tiểu đoàn đặc
công, hai trung đoàn xe tăng (202, 203), bảy trung đoàn
pháo binh, ba sư đoàn pháo phòng không (365, 367 và 377), bốn
tiểu đoàn tên lửa, phòng không và lực lượng
võ trang địa phương. (Trung Tâm Tự Điển
Bách Khoa Quân Sự, Tự điển
bách khoa quân sự Việt Nam, Hà Nội: Nxb. Quân Đội
Nhân Dân, 2004, tr. 202.)
Đối
đầu với lực lượng hùng hậu nầy, về
phía VNCH có hai sư đoàn Bộ binh là Sư đoàn 1
đóng ở Huế và Sư đoàn 3 (thành lập tháng
10-1971) đóng ở Quảng Trị, hai lữ đoàn TQLC
(147, 258), ba thiết đoàn (20, 11, 17), một số tiểu
đoàn Địa phương quân, một số
đơn vị Pháo binh,và về sau
tăng cường thêm hai lữ đoàn Dù (1 và 2). Chiến cuộc tại vùng Quảng
Trị có thể chia thành ba giai đoạn:
Thứ
nhất: Mở đầu,
ngày 30-3-1972, CSVN xua quân vượt vĩ tuyến 17, xâm phạm
vùng phi quân sự, tấn công các căn cứ tiền đồn
dọc đường số 9, chiếm căn cứ
Carroll ngày 2-4-1972. Trung tá Phạm
Văn Đính, trung đoàn trưởng Trung đoàn 56 BB,
thuộc Sư đoàn 3 BB, đầu hàng địch tại
căn cứ nầy.
Cũng
ngày 2-4-1972, tổng thống Nixon ra lệnh cho Hạm đội
7 oanh kích những nơi quân đội Bắc Việt tập
trung tại vùng phi quân sự, vừa bằng phi cơ vừa
bằng chiến thuyền đậu dọc duyên hải Quảng
Trị. Ngày
6-4-1972, hai oanh tạc cơ Mỹ bị hòa tiễn SAM-2 bắn
rơi. SAM-2
là võ khí Liên Xô mới trang bị cho Bắc Việt. Khi đến
Đông Hà, CSVN bị chận đánh dữ dội. Trước tình hình
căng thẳng, bộ Tổng tham mưu VNCH tăng phái
thêm ba liên đoàn BĐQ 4, 5, 6 cho Quân đoàn I.
Thứ
hai: Ngày 26-4, CSVN tiếp tục
tấn công, chiếm Đông Hà ngày 28-4, áp lực nặng nề
Quảng Trị. Ngày 30-4, chuẩn
tướng Vũ Văn Giai, tư lệnh Sư đoàn 3
BB, họp cùng các sĩ quan chỉ huy, quyết định
chuyển quân khỏi Quảng Trị, nhưng trung tướng
Hoàng Xuân Lãm, tư lệnh Quân đoàn I ra lệnh tử thủ
Quảng Trị. Lệnh tử
thủ đến sau khi các đơn vị thuộc Sư
đoàn 3 đã chuyển quân.
Trong khi đó, CSVN đưa một cánh quân khác tiến
qua A-Shau (A Sao), bao vây các căn cứ Bastogne và Checkmate,
đe dọa Huế. Ngày 1-5-1972, CSVN chiếm thành phố Quảng Trị,
tiến quân tới bờ bắc sông Mỹ Chánh. Thành phố Huế
hoảng loạn. Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu liền cử trung tướng
Ngô Quang Trưởng, tư lệnh Quân đoàn IV, ra giữ
chức tư lệnh Quân đoàn I, thay trung tướng
Hoàng Xuân Lãm. Tướng
Trưởng tái lập an ninh thành phố
Huế, tái phối trí lực lượng phòng thủ.
Thứ
ba: Ngày 8-6-1972, các lữ
đoàn TQLC cùng các lữ đoàn Dù vượt sông Mỹ
Chánh, phản công ra hướng bắc, mở đầu
giai đoạn thứ ba của cuộc chiến Quảng
Trị. Từ
ngày 13-9, quân VNCH tái chiếm Quảng Trị, và treo cờ
lên cổ thành Quảng Trị ngày 16-9-1972. Quân đội VNCH tiếp
tục tảo thanh quân CS.
Tuy chống cự mãnh liệt, quân CS dần
dần rút lui, nhưng vẫn chiếm giữ vùng phía bắc
sông Thạch Hãn. Sau biến cố Quảng Trị, thiếu tướng
Nguyễn Duy Hinh được đề cử thay thế
chuẩn tướng Vũ Văn Giai, chỉ huy Sư
đoàn 3 BB-VNCH.
Mặt trận Kontum ở
Quân khu II (từ
30-3-1972 ):
CSVN gọi cuộc hành quân nầy là chiến dịch Bắc Tây nguyên. Lực lượng CS gồm hai sư đoàn Bộ binh (320 và
2), bốn trung đoàn BB (24, 28, 66, 95), hai trung đoàn pháo
binh, trung đoàn đặc công 400, sáu tiểu đoàn pháo
phòng không, một tiểu đoàn xe tăng, một đại
đội tên lửa, cùng lực lượng võ trang địa
phương. (Trung
Tâm Tự Điển Bách Khoa Quân Sự Hà Nội, sđd. tr. 157.) Phía VNCH, tại Quân khu II lúc đó,
có hai sư đoàn Bộ binh (22 và 23), hai lữ đoàn Dù,
11 tiểu đoàn BĐQ Biên phòng và Địa phương
quân.
Chiến
cuộc Kontum có thể chia thành hai giai đoạn.
1) Vào đầu tháng 4-72,
quân CS uy hiếp các căn cứ phía bắc Kontum. Ngày 11-4, quân CS tấn công căn cứ
Charlie. Trung tá Nguyễn Đình Bảo, tiểu
đoàn trưởng Tiểu đoàn 11 Dù tử trận. Ngày 21-4, CS tràn ngập căn cứ
Delta. Charlie và Delta là hai căn
cứ hỏa lực nằm về phía tây của căn cứ
Võ Định. Căn cứ Võ
Định cũng không giữ được. (Võ Định nằm
trên quốc lộ 14, phía bắc Kontum và phía nam Tân Cảnh.) Ngày 24-4, quân CS chiếm các căn cứ
Tân Cảnh và Daktô II ở phía bắc Võ Định. Quân CS tiếp tục tấn công
các căn cứ khác ở vùng nầy, nhưng không chiếm
được căn cứ Ben Het do các tiểu đoàn 72
và 95 BĐQ trấn giữ.
Ngày 10-5-1972, thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn,
phụ tá hành quân Quân đoàn I, được cử làm
tư lệnh Quân đoàn II, thay thế thiếu tướng
Ngô Dzu. 2) Từ 14-5-1972, quân CS tập trung tấn
công vào Kontum. Có khi quân CS chiếm
được trại Ngọc Hồi ở Kontum, hậu
cứ của Thiết giáp và căn cứ tiếp vận,
nhưng đã bị đẩy lui ngay. Sư đoàn 2 Sao
Vàng bị B52 gây thiệt hại nặng, sau đó phải
giải thể. Vào cuối tháng 5-1972, mặt trận Kontum yên tĩnh
trở lại. Quốc lộ 14 giữa Kontum và Pleiku được
khai thông.
Sau
Kontum, CSVN tấn công Bình Định cũng thuộc Quân khu
II vào đầu tháng 6-1972, chiếm các quận Tam Quan, Hoài
Nhơn và Hoài An, Tuy nhiên, vào cuối
tháng 7-1972, quân đội VNCH tái chiếm ba quận nầy.
Mặt trận An Lộc
(Bình Long) ở Quân khu III
(1-4-1972): CSVN gọi cuộc
hành quân nầy là chiến dịch Nguyễn Huệ. Lực
lượng CS gồm ba sư đoàn Bộ binh (5, 7, 9), ba
trung đoàn BB (24, 71, 205), trung đoàn đặc công 429 (7 tiểu
đoàn), 1 trung đoàn và 1 tiểu đoàn pháo binh, 2 tiểu
đoàn xe tăng thiết giáp, 4 tiểu đoàn pháo phòng
không, 20 tiểu đoàn và 63 đại đội bộ
đội địa phương. (Trung Tâm Tự
Điển Bách Khoa Quân Sự Hà Nội, sđd. tr. 186.)
Phía
VNCH, Quân khu III có ba sư đoàn Bộ binh 5, 18 và 25, một
lữ đoàn Dù, năm liên đoàn BĐQ, một lữ
đoàn Thiết kỵ, Liên đoàn 81 Biệt cách Dù, và các
đơn vị Địa phương quân. Phòng thủ chính bên trong An Lộc
là sư đoàn 5 BB do đại tá Lê Văn Hưng chỉ
huy. (Đại tá Hưng lên chuẩn tướng tại mặt
trận An Lộc. Ông đã cam
kết: “Khi nào tôi còn, An Lộc
còn.”)
An Lộc
là tỉnh lỵ tỉnh Bình Long, nằm trên quốc lộ
13, án ngữ giữa Sài Gòn và mật khu 708 của CSVN trên đất
Cao Miên. Cộng sản
dự tính đánh chiến An Lộc để làm lễ ra
mắt chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền
Nam Việt Nam vào ngày 20-4-1972.
(Nguyễn Đức Phương, sđd. tr. 569.) Nhằm tạo thế nghi binh, từ
1-4-1972 một số đơn vị CS tấn công các
căn cứ phía bắc Tây Ninh.
Ngày 4-4-1972, sư đoàn 5 CS tiến về Lộc Ninh
(tỉnh Bình Long), phía bắc An Lộc, và chiếm
được Lộc Ninh ngày 8-4-1972.
Sau
khi chiếm Lộc Ninh, quân CS tiến xuống phía nam,
đe dọa An Lộc. Cuộc chiến An Lộc kéo dài từ 8-4-1975
đến ngày 12-6-1972. Ngoài
sư đoàn 5 CS, một cánh quân khác của CS, sư
đoàn 7 CS xuất phát từ biên giới Cao Miên, đi vòng
qua An Lộc, phong tỏa quốc lộ 13 phía nam An Lộc. Trong khi đó, sư
đoàn 9 CS cũng từ biên giới Cao Miên, đánh thẳng
vào phía tây An Lộc. Như thế cả 3 sư đoàn CS đánh kẹp
An Lộc vào giữa. Quân
CS vừa pháo kích dữ dội, vừa sử dụng xe
tăng T-54 và BTR-60 dẫn đầu, tiến chiếm phía
bắc thành phố An Lộc, đồng thời chiếm
các căn cứ trên quốc lộ 13, phía nam An Lộc,
để chận đường tiếp tế của
quân đội VNCH.
Quân
đội VNCH dàn ra đối phó với hai trận tuyến
của CS. Một mặt quân
phòng thủ An Lộc chiến đấu anh dũng, chận
đứng và đẩy lui các cuộc xung phong của quân
CS ngay tại An Lộc. Một
mặt các đơn vị VNCH khác cương quyết giải
tỏa quốc lộ 13, nhằm tiếp ứng An Lộc. Ở cả hai mặt
trận, hai bên giằng co từng tấc đất, từng
ngôi nhà. Quân CS sử dụng
chiến thuật “tiền pháo hậu xung”, pháo kích dữ dội
trước khi xung phong. Quân
VNCH biết rõ cách đánh nầy, nên sau mỗi đợt
CS pháo kích, liền chuẩn bị sẵn sàng để
nghênh chiến.
Bên
cạnh đó, Không quân đã yểm trợ tích cực cho Bộ
binh VNCH chiến đấu. Ngoài việc oanh kích các nơi tình nghi quân CS trú
đóng, Không quân VNCH phụ trách chuyển vận quân đội,
thả tiếp liệu (lương thực, nước uống,
quân nhu, quân dụng), tải thương binh. Vừa vì thời tiết xấu,
vừa vì bị súng phòng không của CS bắn phá, việc
tiếp liệu có khi ít hiệu quả, một số kiện
hàng không đến tay quân đội VNCH
mà lọt vào tay quân CS. Hơn nữa, vì bị bắn phá dữ dội,
các trực thăng tải thương hoạt động
rất khó khăn, và nhiều trực thăng bị bắn
rơi. Trong khi đó, những
phi vụ B-52 Hoa Kỳ liên tiếp dội bom nặng nề
xuống chiến trường, giúp đánh tan các đơn
vị CS chung quanh An Lộc, phá vỡ các kho võ khí do CS mới
chuyển từ miền Bắc Việt Nam.
Riêng
tại thị trấn An Lộc, kể từ 8-4-1972, quân
CS tấn công tất cả 7 lần. 1) Trong lần đầu, ngày
13-4-1972, quân CS dùng chiến xa T-54 tiến vào An Lộc. Dù đã bắn cháy 7
chiếc, quân VNCH phải lui về phòng thủ phía nam thị
trấn. 2) Ngày 14-4, quân CS
xung phong lần thứ hai. Quân
VNCH ẩn nấp trong các cao ốc, hầm trú ẩn, sử
dụng súng M72, súng B40 và B41 (hai loại nầy tịch thu được của quân CS), chống trả
và gây hư hại nặng các loại xe tăng CS. Ngày 16-4, Liên đoàn 81 Biệt Cách
Dù được đưa đến An Lộc, tăng
cường lực lượng phòng thủ ở
đây. 3) Ngày 18-4, quân CS tấn công An Lộc
lần thứ ba. Nhờ sự yểm trợ của Không quân, nhất
là B-52, quân CS bị chận đứùng. 4) Sáng sớm 21-4-1972, CS pháo kích
2,000 trọng pháo đủ loại vào thị trấn và mở
4 mũi tấn công. Đêm 22 rạng
23-5, quân CS gia tăng tấn công, nhưng bị đẩy
lui khi các chiếc xe tăng của CS bị
bắn cháy. 5) Sáng 11-5-1972, quân CS tấn công An Lộc
lần thứ 5, với chiến xa T-54 dẫn đầu. Hai bên cận chiến. Suốt ngày 12-5, quân
đội VNCH đẩy lui lần nữa cuộc tấn
công của CS. 6) Chỉnh đốn lại đội
ngũ, ngày 14-5, CS tấn công tiếp ở
các mặt đông bắc, tây và nam.
Trong ba ngày giao chiến, số binh sĩ
cả hai bên tử trận lên đến 600 người. Các chiến sĩ Biệt cách Dù phải
lập một nghĩa địa bên cạnh chợ An Lộc
để an táng. (Sau khi An Lộc
được giải tỏa, trước nghĩa trang nầy
có hai câu đối: “An Lộc địa, sử ghi
chiến tích / Biệt cách Dù vị quốc vong thân.”) 7)
CSVN dự tính tấn công ngày 19-5 để kỷ niệm
sinh nhật Hồ Chí Minh, nhưng bị B-52 dội bom chận
đứng. Ngày
23-5, quân CS mở bốn đợt tấn công vào phòng tuyến
quân đội VNCH ở phía nam thị trấn An Lộc. Lần nầy, những
cuộc tấn công của CS yếu ớt nên đều bị
đẩy lui.
Từ
đây vòng đai bảo vệ An Lộc
mở rộng dần, trong khi quân đội VNCH ở ngoài
cũng dọn được đường vào An Lộc. Ngày 8-6-1972, quân bên trong và bên ngoài An
Lộc bắt tay được với
nhau. Ngày 12-6-1972, chuẩn
tướng Lê Văn Hưng tuyên bố trên đài phát thanh:
“An Lộc hoàn toàn giải tỏa.”
Mặt trận các tỉnh ở
Quân khu IV (10-6-1972): CSVN gọi cuộc hành quân nầy
là chiến dịch Đồng
Bằng Sông Cửu Long. Lực
lượng CS gồm 2 sư đoàn Bộ binh (5 và C30b), 3
trung đoàn Bộ binh chủ lực thuộc Quân khu 8 (1,
88, 320), 1 trung đoàn và 2 tiểu đoàn pháo binh, ba tiểu
đoàn đặc công, 7 tiểu đàn và 14 đại
đội địa phương.
(Trung Tâm Tự Điển Bách Khoa Quân Sự
Hà Nội, sđd. tr. 170.) Về phía VNCH, có hai sư đoàn
BB (7 và 9), một liên đoàn BĐQ, hai trung đoàn Thiết
giáp, một liên đoàn Đặc nhiệm Hải quân,
năm đại đội Tuần Giang và Địa
phương quân.
Cuộc
tấn công của CS tại đồng bằng sông Cửu
Long lần nầy diễn ra trong ba giai đoạn: 1) Quân
CS tấn công căn cứ Long Khốt (thuộc tỉnh
Long An) và thị xã Mộc Hóa (thuộc tỉnh
Kiến Tường). Tấn công nhiều lần nhưng thất bại,
quân CS phải rút lui ngày 14-6.
2) Trong tháng 7-1972, quân CS tấn công phía bắc và nam
đường số 4 thuộc hai tỉnh Kiến Tường
và Mỹ Tho. 3) Từ 6-8 đến
10-9, quân CS tấn công Bến Tre, Chợ Gạo, Gò Công,
nhưng đều bị đẩy lui.
KẾT
LUẬN
Tính
đến tháng 9-1972, thiệt hại về nhân mạng về
phía quân đội CSVN lên đến khoảng 100,000 quân; và
phía VNCH khoảng 50,000 quân. Một số thống
kê khác cho thấy CSVN thiệt hại 70,000 quân trong khi VNCH
30,000. (Nguyễn Đức Phương,
sđd. tr. 587.) Người ta ghi nhận
thêm sau khi CSVN thất bại trong các chiến dịch 1972, ở
Bắc Việt, đại tướng Võ Nguyên Giáp bị
người phụ tá là đại tướng Văn Tiến
Dũng thay thế, nắm thực quyền trong bộ Quốc
phòng Bắc Việt Nam.
Các
cuộc tấn công của CSVN vào năm 1972 nói chung không thành công, và bị quân đội VNCH
đẩy lui ở khắp bốn mặt trận. Những trận
đánh vào mùa hè đỏ lửa cho thấy khi còn
được trang bị đầy đủ, dầu số
quân ít hơn, quân đội VNCH cũng đủ sức
để đẩy lui những cuộc tấn công vũ
bảo của đối phương. Trong cuộc chiến
vào mùa hè nầy, cộng sản chỉ gây được
tiếng vang về chính trị trên thế giới để
đẩy mạnh cuộc vận động ngoại
giao.
TRẦN
GIA PHỤNG
(Toronto,
19-02-2012)
No comments:
Post a Comment