Tuesday, May 5, 2020

Chương 7: Vùng I Thất Thủ - Những Ngày Cuối Của VNCH - Nguyên Tác: The Final Collapse Của Đại Tướng Cao Văn Viên

Tình hình chiến sự ở Vùng I được yên lặng chút ít vào cuối năm 1974 khi Quân Đoàn I đẩy lui ý định xâm lấn của cộng sản vào vùng bình nguyên dọc theo duyên hải phía tây nam Đà Nẵng. Cuộc bình định của chúng ta rất khó khăn khi đối diện với ba sư đoàn cộng sản tìm cách gây áp lực vào trung tâm của Vùng I. Song song với áp lực này, CSBV lúc nào cũng có quân đe dọa ở hai cực nam và bắc của Vùng I. Quân đoàn I hy sinh rất nhiều trong sáu tháng cuối năm 1974. Các lực lượng cơ hữu của quân đoàn bị hao tổn, khả năng tác chiến thấp, quân số thiếu hụt vì không còn khả năng bổ sung.
Sư đoàn Nhảy Dù rút khỏi Vùng I vào giữa tháng 3-1975. Vùng trách nhiệm của sư đoàn Dù là bắc tỉnh Thừa Thiên đến sông Thạch Hãn ở hướng bắc của tỉnh Quảng Trị. Khi lính Dù rút đi, trách nhiệm được giao lại cho liên đoàn 15 BĐQ và sư đoàn 1 BB. Vùng còn lại từ bắc Thạch Hãn trở lên là phần trách nhiệm của lữ đoàn 369 TQLC. Hai lữ đoàn TQLC còn lại được đưa về phòng thủ Đà Nẵng và các nơi khác tùy theo tình hình đòi hỏi. Các nơi TQLC rút đi được giao lại cho liên đoàn 14 BĐQ và thiết đoàn 1 Kỵ Binh. Tất cả các lực lượng phòng thủ nói trên được tập trung dưới quyền chỉ huy của một bộ chỉ huy tiền phương đóng ở Huế. Các lực lượng còn lại nằm dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Quân Đoàn, gồm sư đoàn 3BB, phụ trách lãnh thổ tỉnh Quảng Nam; sư đoàn 2BB, có bộ chỉ huy ở Chu Lai, phụ trách tỉnh Quảng Ngãi và một phần tỉnh Quảng Tín. Với một vùng trách nhiệm khá lớn, sư đoàn 2BB được sự hỗ trợ của liên đoàn 11 và 12 BĐQ.
Như vậy, đối đầu với năm sư đoàn và nhiều trung đoàn độc lập của CSBV, Quân Đoàn I chỉ có ba sư đoàn bộ binh, sư đoàn TQLC, bốn liên đoàn BĐQ và một thiết đoàn kỵ binh.(1) Vì nằm sát ranh giới của địch, Vùng I có thể bị tấn công bất cứ lúc nào. CSBV còn vài sư đoàn tổng trừ bị vẫn còn nằm ở miền Bắc. Như vậy, CSBV vẫn có thế thượng phong về quân số và lối bố trí quân so với quân ta. Tình hình quân sự nhìn có vẻ yên tỉnh nhưng có thể thay đổi bất cứ lúc nào. Cộng sản tìm cách gây áp lực vào giữa Huế Đà Nẵng, và Chu Lai Đà Nẵng. Nhìn vào các hoạt động của địch, chúng ta có thể ước tính địch muốn cô lập quốc lộ 1, cái sương sống huyết mạch của Vùng I.

Kế Hoạch của Tướng Ngô Quang Trưởng
Lối bố trí quân và tình hình quân sự Vùng I được tướng Trưởng trình bày như trên vào buổi họp ngày 13 tháng 3-1975 tại dinh Đôc Lập. Như thường lệ, tổng thống Thiệu chủ tọa buổi họp dưới sự có mặt của thủ tướng Khiêm, tác giả (ĐT Cao Văn Viên), và trung tướng Đặng Văn Quang. Sau khi tướng Trưởng chấm dứt tường trình về tình hình Vùng I, trung tướng Nguyễn Văn Toàn, tư lệnh Vùng III, được mời vào báo cáo vùng trách nhiệm của ông. Theo tướng Toàn, tình hình Vùng III tương đối yên tỉnh, không có biến chuyển nào quan trọng xảy ra.
Sau tướng Trưởng và Toàn, đến lượt tổng thống Thiệu lên tiếng. Ông phân tích tình hình chung và những khó khăn VNCH đối đầu về vấn đề quân viện. Tổng thống Thiệu thú nhận ông không tin Hoa Kỳ sẽ can thiệp dù cho CSBV mở cuộc tổng tấn công vào miền Nam. Ông tỏ ý thông cảm về tình trạng thiếu thốn, khó khăn ở các quân đoàn. Ông cho biết trong thời gian gần đây ông ra nhiều quân lệnh nhưng ông biết các tư lệnh gặp nhiều khó khăn khi thi hành.
Trong hoàn cảnh như vậy, tổng thống Thiệu tuyên bố, quân đội không thể làm gì khác hơn là thay đổi chiến lược, tái phối trí lực lượng để giữ các vùng đất phì nhiêu, có tài nguyên. Nếu chúng ta phải bỏ một số rừng núi cho cộng sản để giữ lại lãnh địa mầu mỡ, nhiều khoáng sản gồm có thềm lục điạ, thì chúng ta cũng chấp nhận. Thà vậy hơn là đứng chung một chánh phủ liên hiệp với cộng sản. Vùng đất mà tổng thống Thiệu nói đến là Đà Nẵng. Về vấn đề tái phối trí quân tự tổng thống Thiệu nghĩ ra một mình, chưa hề tiết lộ trong một buổi họp nào. Theo TT, Sư đoàn Nhảy Dù sẽ rời Vùng I, theo sau là sư đoàn TQLC, nếu tình hình phòng thủ của vùng không bị ảnh hưởng khi hai đơn vị trên rút đi. Rút hai đơn vị trên khỏi Vùng I cho phép quân đội tái lập lại các lực lượng tổng trừ bị. Cùng với những cuộc rút quân khỏi Vùng I, tổng thống Thiệu cho phép tướng Toàn rút quân khỏi An Lộc, và xử dụng lực lượng đó vào những kế hoạch phòng thủ nơi nào cần nhất ở Vùng III.(2)
Sau khi tổng thống chấm dứt thì đến lượt tác giả. Với tư cách tổng tham mưu trưởng, tác giả nhắc các tư lệnh quân đoàn phải cẩn thận khi rút quân. Buổi họp ngày 13 tháng 3 chấm dứt sau ba tiếng rưỡi đồng hồ, mặc dù các tham dự viên đã không bàn cãi dài dòng.
Sáu ngày sau buổi họp đó, tình hình ở Vùng I càng ngày càng nguy hiểm. Dân chúng kéo nhau chạy về Đà Nẵng lánh nạn, trong khi chánh quyền không có biện pháp nào kiểm soát hay ngăn chận làn sóng tị nạn. Trên những đèo quan trọng trên quốc lộ 1, dân chúng, xe cộ di tản gây nhiều trở ngại cho sự di chuyển quân của hai sư đoàn Nhảy Dù và TQLC.
Ngày 19 tháng 3 dinh Độc Lập gọi tướng Trưởng về Saigon họp thêm lần nữa. Buổi họp bắt đầu lúc 11 giờ sáng, và lần này có thêm sự hiện diện của phó tổng thống Trần Văn Hương. Tướng Trưởng trình bày hai kế hoạch triệt thoái.
Kế hoạch Một: xử dụng quốc lộ 1 làm trục chánh và cùng lúc rút quân từ Huế về Đà Nẵng, và từ Chu Lai về Đà Nẵng. Kế Hoạch Hai: giả định cộng quân cắt đứt quốc lộ 1. Trong trường hợp đó, các lực lượng ta sẽ rút vào ba cứ điểm Chu Lai, Huế, và Đà Nẵng. Tuy nhiên Huế và Chu Lai chỉ là hai nơi tập trung quân, từ đó dùng phương tiện của hải quân về Đà Nẵng. Đà Nẵng sẽ là điểm phòng thủ chánh với sự bảo vệ của bốn sư đoàn bộ binh và bốn liên đoàn BĐQ.(3)
Hai buổi họp chỉ cách nhau sáu ngày nhưng buổi họp lần thứ nhì với tình thế đang xảy ra chúng ta bị bắt buột phải chọn Kế Hoạch Hai nếu muốn bảo toàn lực lượng: không thể rút quân theo Kế Hoạch Một được vì áp lực cộng sản quá mạnh trên đoạn đường Huế Đà Nẵng, Chu Lai Đà Nẵng. Hai liên đoàn BĐQ đơn vị trừ bị cuối cùng của Quân Đoàn cố gắng giải tỏa áp lực trên các đoạn đường nhưng vô hiệu; chúng ta đã mất thế mạnh về quân sự. Và nếu chúng ta có thể chuyển quân được trên quốc lộ 1, sự di chuyển cũng rất khó khăn vì làn sóng dân tị nạn đang từ mọi ngả dùng con lộ duy nhất đó để chạy về Đà Nẵng.
Để kết thúc tướng Trưởng cho tổng thống Thiệu biết, "chúng ta chỉ có một chọn lựa. Và chúng ta phải thi hành ngay trước khi quá trể." Chọn lựa của tướng Trưởng là rút quân về Huế, Đà Nẵng, Chu Lai và lợi dụng những công sự phòng thủ đã có trong thành phố, hay địa hình chung quanh, như những cao điểm của những ngọn đồi ngoại thành để chống cự. Sau đó tướng Trưởng cũng hỏi thẳng tổng thống Thiệu về tin đồn ông muốn đưa sư đoàn TQLC về Vùng III. Nếu đó là sự thật thì kế hoạch của tướng Trưởng bị ảnh hưởng, và ông muốn biết ý định của tổng thống Thiệu.
Tổng thống Thiệu nằm trong tình trạng khó xử. Chính ông là người nghĩ ra kế hoạch triệt thoái và ra lệnh tướng Phú thi hành kế hoạch. Cuộc triệt thoái khỏi cao nguyên không xảy ra như dự trù nếu không nói là thất bại. Sự thất bại đó gây nao núng tinh thần dân chúng và có thể ảnh hưởng đến tất cả những kế hoạch khác.
Căn cứ vào tất cả những biến chuyển đang xảy ra, chúng ta có thể hiểu được thái độ của tổng thống Thiệu khi phải trả lời trực tiếp cho tư lệnh chiến trường. Tổng thống Thiệu không nhắc gì đến chuyện di tản, ông chỉ ra lệnh cho tướng Trưởng giữ bất cứ phần đất nào ông có thể giữ được với số quân dưới tay ông kể luôn sư đoàn TQLC. Sau khi tránh trả lời thẳng câu hỏi của tướng Trưỏng, tổng thống Thiệu quay sang ra lệnh cho tướng Quang soạn cho ông một bài diễn văn để ông công bố trên đài phát thanh cho toàn dân biết ý định của ông. Ông muốn trấn an dân chúng, cho họ biết chính phủ VNCH sẽ bảo vệ Huế đến cùng. Tổng thống Thiệu không nhắc gì đến vấn đề dân tị nạn hay di tản: ông và thủ tướng Khiêm không đá động gì đến vấn nạn của tướng Trưởng. Trái với buổi họp lần trước, lần này buổi họp có chút không khí phấn khởi. Có lẽ nhờ vấn đề triệt thoái và tái bố trí quân đã không được đề cập đến.

Hai Phía Bắc và Nam của Vùng I
Sáu giờ chiều ngày 19 tháng 3 tướng Trưởng trở lại Đà Nẵng. Vừa đáp xuống phi trường ông nhận được báo cáo của tướng Lâm Quang Thi, tư lệnh phó quân đoàn. Tướng Thi báo cáo bộ tư lệnh tiền phương của ông tại Huế bắt đầu bị pháo 130 ly của cộng sản bắn vào. Quân Bộ binh có thiết giáp yểm trợ đã đánh vào tuyến đầu của vòng đai phòng thủ ở phía nam sông Thạch Hãn. Cuộc tổng tấn công của CSBV đã bắt đầu ở Vùng I chiến thuật. Gần hai năm từ ngày ngưng bắn, ranh giới ta và địch nằm song song nhau ở sông Thạch Hãn tương đối yên tỉnh. Tại đây có một bộ chỉ huy của Ủy Ban Kiểm Soát Đình Chiến và là nơi hai bên trao đổi tù binh nhiều lần sau ngày ngưng bắn. Tướng Trưởng lập tức gọi BTTM xin được phép xử dụng lữ đoàn Nhảy Dù ứng chiến trong tình trạng cần thiết. Lữ đoàn 1 trong lúc đó đang tập họp ở phi trường Đà Nẵng chuẩn bị lên đường về Saigon. Tổng thống Thiệu đồng ý cho cho tướng Trưởng giữ quân Dù ở Vùng I với một điều kiện: không được cho quân Dù lâm chiến dưới bất cứ trường hợp nào. Như vậy giữ quân Dù ở lại Vùng I như một yểm trợ tinh thần chứ không cho lâm trận. Khi ra lệnh như vậy tổng thống Thiệu hiểu được giá trị tâm lý của lính Dù, nhưng ông cũng biết xử dụng nguyên lữ đoàn Dù cũng không thay đổi được tình hình. Đến lúc đó tướng Trưởng rất hoang mang về tình hình quân sự ở tuyến đầu quân đoàn I.
Đêm 19 tháng 3 Quảng Trị mất vào tay địch. Các lực lượng của ta gồm các chi đoàn Thiết Kỵ, một liên đoàn BĐQ và ba liên đoàn Địa Phương Quân rút về bên này bờ sông Mỹ Chánh. Tại đây quân ta lập một phòng tuyến mới.
Sáng ngày 20, tướng Trưởng bay ra bộ chỉ huy tiền phương của sư đoàn TQLC đóng cách tuyến phòng thủ Mỹ Chánh khoảng bảy cây số. Tại đây ông họp tất cả các cấp chỉ huy để bàn kế hoạch phòng thủ Huế như tổng thống Thiệu đã ra lệnh phải giữ bằng mọi giá. Tình hình mặt trận mà các cấp chỉ huy và tướng Trưởng đang đối diện không đến nổi bi quan Kế Hoạch Dự Trù 1 của Tướng Trưởng: Kế hoạch 1 giả định quốc lộ 1 còn di chuyển đuợc. Lính từ hai cứ điểm Chu Lai và Huế sẽ theo quốc lộ 1 rút về Đà Nẵng. Tuyến phòng thủ Đà Nãng sẽ được ba sư đoàn bộ binh, sư đoàn TQLC, thiết đoàn thiết giáp, và bốn liên đoàn BĐQ bảo vệ. Kế Họach Dự Trù 2: Trong kế hoạnh này, giả định quốc lộ 1 không còn xử dụng được. Quân tái phối trí tụ về Chu Lai và Huế. Tàu Hải Quân sẽ di tản tất cả quân về Đà Nẵng từ hai điểm tập họp đó. Tuy nhiên kế hoạch tái phối trí của tướng Trưởng không thực hiện được vì tổng thống Thiệu không giữ lời hứa, cho sư đoàn TQLC ở lại Vùng I.
Quân chủ lực và các đơn vị Nghĩa Quân, Địa Phương Quân còn trong tình trạng hoàn hảo. Tinh thần cao và kỷ luật được duy trì. Mất Quảng Trị có thể làm binh sĩ xuống tinh thần nhưng tình thế chưa hoàn toàn tuyệt vọng. Dân chúng đã di tản nhiều và thẩm quyền quân sự đỡ lo lắng. Phần lớn sư đoàn TQLC đã triệt thoái về Đà Nẵng. Các đơn vị còn lại vẫn duy trì được quân phong quân kỷ. Tinh thần chiến đấu của các cấp chỉ huy trong buổi họp là đồng lòng tử thủ Huế cho đến cùng.
Trên đường trở về Đà Nẵng tướng Trưởng ghé Huế thăm thiếu tướng Hoàng Văn Lạc, tư lệnh phó quân đoàn về lãnh thổ. Sau khi viếng thăm các tuyến phòng thủ tướng Trưởng rất lạc quan về tình hình bố trí quân của các lực lượng ở Huế. Một giờ ba mươi cùng ngày, tổng thống Thiệu đọc hiệu triệu cho toàn dân trên làn sóng truyền thanh. Lời hiệu triệu nhấn mạnh đến Huế: Ông ra lệnh tử thủ Huế bằng mọi giá. Lời hiệu triệu của tổng thống Thiệu rất cần để nâng cao tinh thần quân dân cán chính dù hơi trễ trong lúc này. Tướng Trưởng rời Huế rất tự tin và cương quyết.
Buổi chiều, vừa trở về Đà Nẵng, tướng Trưởng nhận một quân lệnh mật của dinh Độc Lập gởi khẩn cấp qua BTTM. Trái ngược với những lời hứa của tổng thống Thiệu đọc trong lời hiệu triệu vào lúc trưa là giữ Huế cho đến cùng, ông ra lệnh tướng Trưởng, nếu tình hình bắt buộc, chỉ cần bảo vệ Đà Nẵng mà thôi. Lý luận của tổng thống Thiệu là quân đoàn I không đủ quân để bảo vệ một lúc ba cứ điểm Chu Lai, Huế và Đà Nẵng. Cũng trong quân lệnh tổng thống Thiệu ra lệnh sư đoàn Nhảy Dù phải về Saigon lập tức. Sư đoàn Nhảy Dù rời Đà Nẵng ngay đêm đó.
Tình hình Vùng I mỗi ngày trở nên nguy ngập. Hiệu triệu của tổng thống Thiệu được phát thanh lại vài ngày sau nhưng người dân đã hết tin tưởng. Đến lúc này mọi người tìm cách rời Huế, tìm đường về Đà Nẵng hay xa hơn. Ngày 21 tháng 3, được bổ sung thêm quân từ hậu tuyến, CSBV đánh mạnh vào Phú Lộc, gây áp lực mạnh ở vào quốc lộ 1, khoảng giữa Huế và Đà Nẵng đoạn đường đầy dân chúng tản cư. Sư đoàn 1BB dưới sự hổ trợ của pháo binhvà không quân đẩy lui được áp lực của địch. Nhưng cán cân quân sự đã thuộc về phía cộng sản. Sư đoàn 1BB cầm cự đến trưa ngày 22 thì thất thủ: trung đoàn 1BB và liên đoàn 15 BĐQ bị đẩy lui. Một khúc đường của quốc lộ 1 hoàn toàn bị cô lập, không còn cách nào giải tỏa được. Liên đoàn 15 BĐQ và trung đoàn 1/sư đoàn 1BB bị thiệt hại nặng trong cuộc giao tranh.
Đối diện với những thất bại, cộng thêm sự khó khăn di chuyển trên quốc lộ 1, tướng Trưởng ra lệnh các tuyến phòng thủ chung quanh Huế thu gọn lại vòng đai để sự kháng cự có hiệu quả hơn. Với phương tiện di chuyển bằng tàu hải quân đã có mặt tại quân khu, chánh quyền di tản dân và quân cụ ra khỏi Đà Nẵng. Sáng ngày 23, địch pháo kích vào Huế. Pháo bắn rời rạc, không gây thiệt hại gì, nhưng tạo nhiều hoang mang cho tinh thần dân còn lại thành phố náo động và có mòi hỗn loạn.
Ở phía nam của Vùng I, tình hình nguy ngập sau khi hai quận Hậu Đức và Tiên Phước của tỉnh Quảng Tín mất vào tay địch. Sư đoàn 2BB và liên đoàn 12 BĐQ chận được áp lực của cộng quân khi địch tiếp tục tấn công về hướng Tam Kỳ và các vùng ở miền duyên hải. Các tiền đồn xa hơn ở phía tây thì có thể bị tràn ngập bất cứ lúc nào. Trước áp lực dồn dập của địch, tướng Trưởng ra lệnh di tản hai quận Sơn Trà và Trà Bồng ở tỉnh Quảng Ngãi. Những tiền đồn xa đường tiếp tế, yểm trợ, cũng được lệnh di tản. Tướng Trưởng gom các lực lượng lại để có thể bảo vệ những điểm trọng yếu vào trận cuối. Sự chỉnh đốn và tái bố trí của tướng Trưởng đem lại một chút yên tỉnh ở chiến trường của hai tỉnh Quảng Tín và Quảng Trị trong vài ngày dù đó là một sự yên tỉnh rất gượng gạo.
Rạng sáng ngày 24 cộng quân tấn công mạnh ở Quảng Tín. Sư đoàn 711, trung đoàn 52 và các đơn vị xe tăng của cộng quân đánh vào Tam Kỳ. Đặc công địch đột nhập vào trại tù trong thành phố, thả tù nhân ra, tạo nhiều rối loạn an ninh. Đến trưa thì Tam Kỳ thất thủ. Trung đoàn 2/sư đoàn 3BB được lệnh tiến về Quảng Tín để giúp lực lượng địa phương chạy về từ Tam Kỳ. Tam Kỳ mất, hàng chục ngàn dân ùn ùn kếo về Đà Nẵng. Trong đám dân di tản, dĩ nhiên đặc công và tiền pháo viên của cộng sản trà trộn vào để chỉ điểm và làm nội tuyến về sau.
Ở Quảng Ngãi địch xua quân và tấn công gấp rút hơn. Các đơn vị đặc công và quân địa phương cộng sản lợi dụng tình thế hỗn loạn, tấn công phi trường, cơ sở hành chánh và quân sự trong tỉnh. Quốc lộ 1 bị cắt hoàn toàn ờ đoạn Quảng Ngãi Chu Lai; đường dẫn về miền duyên hải cũng bị cô lập. Chỉ trong một ngày, tình hình quân đoàn I rối loạn đến mức không còn kiểm soát được. Trung đoàn 2/sư đoàn 1BB, sau nhiều lần giao chiến, không còn khả năng tiếp ứng cho Quảng Ngãi. Được sự chấp thuận của quân đoàn I, các đơn vị tiểu khu Quảng Ngãi đánh mở đường máu về Chu Lai trong đêm đó. Vài đơn vị về được Chu Lai trước khi trời sáng.

Cuộc Di Tản Cuối Cùng của Quân Đoàn I
Đến ngày 25 tháng 3, tất cả các đơn vị của quân đoàn I tụ lại tại ba phòng tuyến chánh: nam Chu Lai, Đà Nẵng (kể luôn Hội An) và bắc TP Huế. các lực lượng của quân đoàn I bị thiệt hại nhiều khi di tản về ba phòng tuyến này. Tinh thần binh sĩ xuống thấp và chán nản. Từ lâu, chinh chiến hết trận này đến trận nọ, nhưng chưa bao giờ họ nằm trong tình cảnh tuyệt vọng như vầy. Họ không biết hy vọng vào ai có thể giúp họ đương đầu với địch như họ đã đương đầu nhiều lần trong quá khứ.
Trong tình thế thật thất vọng đó, quân đoàn I nhận thêm một quân lệnh từ dinh Độc Lập: tổng thống Thiệu ra lệnh tướng Trưởng dùng ba sư đoàn cơ hữu của quân đoàn để phòng thủ Đà Nẵng. Sư đoàn TQLC được đóng vai trừ bị. Đêm đó tướng Trưởng ra lệnh sư đoàn 1BB và các đơn vị chung quanh Huế rút về Đà Nẵng. Cùng lúc tướng Trưởng ra lệnh cho sư đoàn 2BB, chi khu Quảng Ngãi và thân nhân họ rút ra Cù Lao Ré, một đảo nằm ngoài khơi Chu Lai.
Kế hoạch di tản lực lượng khỏi Huế bắt đầu bằng cách cho sư đoàn 1BB và các đơn vị cơ hữu của sư đoàn rút ra Cửa Tư Hiền. Từ đó, hải quân và công binh sẽ bắt một đoạn cầu để quân di tản đi ngược vào đất liền, rồi dùng đường bộ về Đà Nẵng. Sư đoàn TQLC và các đơn vị trực thuộc (kể luôn thiết kỵ) sẽ triệt thoái bằng tàu hải quân. Bộ tư lệnh tiền phương quân đoàn sẽ trực tiếp chỉ huy cuộc triệt thoái.
Sáng ngày 26, biển có sóng to làm đình trệ cuộc vận chuyển; và cầu nối giữa Tư Hiền và đường bộ vẫn chưa hoàn tất. Đến trưa, thủy triều dâng lên quá cao để có thể vượt biển. Đến lúc đó cộng sản đã đoán được ý định triệt thoái của quân ta, và bắt đầu nã pháo vào Tư Hiền và các địa điểm tập trung quân để di tản. Hỗn loạn xảy ra; quân kỷ không còn kiềm giữ được. Cuộc triệt thoái chỉ đem về Đà Nẵng 1/3 tổng số quân. Nhưng 1/3 số quân này khi về đến phố thì cũng không còn hữu dụng: Vừa đến thành phố, nhiều binh sĩ tản hàng để đi tìm thân nhân của họ đang thất lạc. Trong các đơn vị di tản chỉ có sư đoàn TQLC còn giữ được vẹn toàn quân kỷ.                           

(Còn tiếp....)
Chú thích:1. Chín trung đoàn độc lập của CSBV là trung đoàn 4, 5, 6, 27, 31, 48, 51, 271, và 271. Ngoài ra CSBV còn có ba trung đoàn đặc công 5, 45, 126 (trung đoàn đặc công người nhái); ba trung đoàn thiết giáp 202, 203, 573; mười hai trung đoàn phòng không; và tám trung đoàn pháo binh (chú thích của dịch giả).
2. Buổi họp ở dinh Độc Lập vào ngày 13 tháng 3, 1975 đã được thuật lại rõ ràng ở trên. Trong dịp đó tổng thống Thiệu đã cho hai vị tư lệnh quân đoàn I và III (tướng Trưởng và tướng Toàn) biết ý định sắp xếp lại lãnh thổ VNCH sao cho phù hợp với sự cắt giảm viện trợ quân sự. Tuy nhiên tổng thống Thiệu chưa cho lệnh rút quân ở bất cứ nơi nào vào lúc đó, trừ việc bỏ An Lộc ở Vùng III. Buổi họp ở Cam Ranh ngày 14/3  xảy ra sau khi Ban Mê Thuột mất, và tại Cam Ranh TT Thiệu ra lệnh tái phối trí lực lượng của quân đoàn II để chiếm lại Ban Mê Thuột (chú thích của tác giả).
3. Kế hoạch lui quân do quân đoàn I soạn thảo rất hợp lý và đầy đủ, gồm kế hoạch dự phòng để đối phó với những bất ngờ do địch gây ra. Khi trận chiến khai diễn như Kế Hoạch Hai dự trù, và các đơn vị của quân đoàn I rút hết về Đà Nẵng, chúng ta chỉ còn hai hành động phải làm: Cố thủ tại chổ hoặc rút bằng đường biển nếu tình thế bắt buộc. Như vậy vào thời điểm trên, đâu còn cần đến kế hoạch dự phòng nào khác (chú thích của tác giả).

Nguyễn Kỳ Phong

No comments: