Friday, July 31, 2020

Chúc mừng tân Thiếu Tướng Thuỷ Quân Lục Chiến Gốc Việt William Seely.


Theo bản tin từ USMC lễ gắn lon của tân thiếu tướng William Seely diễn ra vào lúc 11 giờ sáng hôm nay ngày 31 tháng 7 năm 2020 tại MacDill Air Force Base Florida . Do hoàn cảnh đại dịch nên buổi lễ chỉ có gia đình và những tướng lĩnh cũng như quân nhân có trách nhiệm dưới sự chủ toạ của trung tướng Loretta Reynolds. Hai con của ông được hân hạnh gắn lon lên vai áo cha mình .
Thiếu tướng William Seely là con trai của một cựu quân nhân Hoa Kỳ từng tham chiến trên chiến trường Việt Nam và thân mẫu là người phụ nữ Việt Nam đã cùng chồng trở về Mỹ sau cuộc thảm sát mậu thân 1968 lúc đó ông vừa tròn một tuổi. 


Thiếu tướng William Seely đã có hơn 30 năm trong cuộc đời binh nghiệp . Ông tốt nghiệp trường Wooster School, một trung học tư thục ở Danbury, Connecticut, vào năm 1985, vào học đại học American University ở Washington, D.C., và tốt nghiệp cử nhân ngành quan hệ quốc tế.
Sau đó, ông gia nhập Thủy Quân Lục Chiến, được gởi đi học tại đại học George Washington University, Washington, D.C., qua chương trình sĩ quan hải quân trừ bị (NROTC) vào năm 1989.
Kế đến, ông được gởi đi học tại các đại học Oklahoma State University, National Intelligence University, và Naval War College, và đậu bằng cao học.
Trong thời gian học cử nhân và cao học, ông còn học các khóa huấn luyện về sống sót, nhảy dù, đổ bộ, do thám, lặn, vũ khí và chiến thuật, và tình báo tại các đại học về chỉ huy và chiến tranh.


Trong công tác chỉ huy, từ năm 1990 đến năm 1992, ông là trung đội trưởng trung đội truyền tin Đại Đội H&S, thuộc Tiểu Đoàn Do Thám 3.
Từ năm 2000 đến năm 2002, ông là đại đội trưởng Đại Đội India, thuộc Tiểu Đoàn Hỗ Trợ Truyền Tin ở Kunia, Hawaii.
Từ năm 2006 đến năm 2008, ông Seely là tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn Do Thám 3, thuộc Sư Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến.
Từ năm 2011 đến năm 2013, ông là chỉ huy trường huấn luyện tình báo và chỉ huy Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ.
Từ Tháng Sáu, 2016, đến Tháng Năm, 2017, ông Seely là giám đốc tình báo Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ.

 Tháng Bảy, 2019, ông được điều động làm chỉ huy Lực Lượng Đặc Biệt tại Iraq cho đến nay. Ông đã tham gia chiến trường Irag 6 lần . Nhiệm vụ cuối cùng của ông là Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Nhiệm tại Irag . Đây là một chiến trường nguy hiểm và tướng William Seely đã hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ tối quan trọng được giao phó và tiêu diệt được hầu hết các phiến quân khủng bố .
Có thể nói rằng Thủy Quân Lục Chiến là một binh chủng thiện chiến và việc thăng cấp lại càng khó khăn hơn . Tướng William Seely có tài thao lược và là cấp chỉ huy giỏi với tinh thần Tổ Quốc Danh Dự Trách Nhiệm . Nhiệm vụ mới của ông sẽ được bàn giao vào thứ hai ngày 3 tháng 8 và có thể xem trực tiếp tại đây: 
https://livestream.com/ndulivestream/cor080320
Nguồn: FB Destiny Nguyen
 

Wednesday, July 29, 2020

Ý NIỆM “CƯ AN TƯ NGUY” ĐỐI VỚI HIỆN TÌNH NƯỚC MỸ

Tiểu luận của Uyên Sơn Cựu SVSQ/K17 SQTBTĐ
Là một Sĩ Quan Trừ Bị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, có lẽ không ai trong chúng ta không nhớ đến một “ý niệm” được in trên phù hiệu của Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức: “CƯ AN TƯ NGUY”. Theo tài liệu của Wikipedia, khi Đại tá Lam Sơn Phan Đình Thứ được cử về làm Chỉ Huy Trưởng Trường SQTBTĐ vào năm 1962 để bắt đầu chương trình huấn luyện cho các thanh niên có bằng Tú Tài trở lên được gọi động viên để trở thành những Sĩ quan Trừ Bị của QLVNCH, mà khóa mở đầu là Khóa 12 SQTB, ông đã thêm vào bốn chữ “Cư An Tư Nguy” vào phù hiệu của quân trường Thủ Đức.
Trước khi bàn sâu vào “Cư An Tư Nguy”, chúng ta cũng nên nhìn lại cuộc đời của Đại tá Phan Đình Thứ, mà mãi sau này đến năm 1973, ông cũng chỉ mang đến cấp bậc Chuẩn Tướng trước khi giải ngũ, một cuộc đời của một Tướng lãnh QLVNCH được nhiều người đánh giá là ngoại hạng. Là một sĩ quan tình nguyện chuyên nghiệp, ông đã từng tham dự Đệ Nhị Thế Chiến vào năm 1943 tại chiến trường Bắc Phi với tư cách là một Sĩ quan Nhảy Dù của Quân Đội Viễn Chinh Pháp. Sau hơn 10 năm tham chiến ở nhiều quốc gia Á Châu, năm 1955 ông chuyển sang Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, tiền thân của QLVNCH, với cấp bậc trung tá, và từng giữ chức Tư Lệnh SĐ16 Khinh Chiến Việt Nam.
Năm 1958 với cấp bậc đại tá, ông theo học Khóa Tham Mưu Cao Cấp tại Fort Leavenworth, Tiểu bang Kansas, Hoa Kỳ. Tại đây, ông đã đấm vào mặt một huấn luyện viên Mỹ khi tên này trêu chọc vào bảng tên Lam Sơn của ông khi đọc nhầm là “Lawson”, kết quả là ông bị gởi trả về Việt Nam. Dù biết khí phách can trường của ông, nhưng Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng ngại ông “thân Pháp ghét Mỹ” nên không dám cất nhắc ông. Người ta cũng đồn đãi thời mới về làm Chỉ Huy Trưởng Trường SQTB Thủ Đức, Đại tá Lam Sơn cũng đã từng tát vào mặt một Cố vấn Mỹ khi viên sĩ quan này quẹt dầu chùi súng lên mặt một SVSQ khi thấy dầu còn dính trong khẩu Garant.
Là một Sĩ quan tác chiến từng lăn lộn trên nhiều chiến trường thế giới của thời Đệ Nhị Thế Chiến, có lẽ hơn ai hết, ông thấm thía cho hoàn cảnh những quốc gia chưa từng có những chuẩn bị sẵn sàng nhưng phải lăn xả vào cuộc chiến tranh, cộng với tư tưởng thâm thúy của một gia đình Nho giáo gốc quan lại của Triều đình Huế, ngay sau khi nhậm chức Chỉ Huy Trưởng Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, ông đã đặt bốn chữ “Cư An Tư Nguy” vào phù hiệu của Trường Thủ Đức như đã nói ở phần trên.
Nhiều người đã diễn dịch bốn chữ “CƯ AN TƯ NGUY” bằng một câu văn đầy chất “võ biền” là “Muốn sống trong hòa bình, phải nghĩ đến chiến tranh”, dựa vào câu nói của một vị tướng lãnh La Mã vào năm 43 trước Tây Lịch:
“SI VIS PACEM PARA BELLUM”
Diễn dịch như vậy, quả là không thấu hiểu được cái sâu sắc của người phương Đông nói chung, và cái thâm nho của Cố Chuẩn tướng Lam Sơn Phan Đình Thứ nói riêng. Đã vậy, sự diễn dịch nêu trên còn nói lên sự nông cạn, chưa thấu đạt hết được tấm lòng của một người muốn gởi gắm lại cho hậu thế những lời khuyến cáo của mình, không những xuyên qua kinh nghiệm về quân sự, mà còn đề cập đến thời cuộc của nhiều nơi trên thế giới.
Trong “Từ Điển Hán Nôm” ghi rằng: “Sách Tả Truyện của nước Trung Hoa thời Tương Công năm thứ mười một có viết:
–Cư An Tư Nguy (Đang sống yên lành phải nghĩ đến nguy cấp)
–Tư Tắc Hữu Bị (Có nghĩ đến thì phải thực hành việc phòng bị)
–Hữu Bị Vô Hoạn (Có phòng bị thì không còn lo ngại).”

Như vậy, cái vế “Cư An Tư Nguy” tự nó không đứng riêng lẻ một mình, mà phải đi kèm theo hai vế kế tiếp là “Tư Tắc Hữu Bị – Hữu Bị Vô Hoạn”. Đó mới chính là sự gởi gắm cho hậu thế những lời khuyên bảo vàng ngọc của Cố Chuẩn tướng Lam Sơn, xuyên qua Quân trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, cũng như đặt lên vai cái trách nhiệm nặng nề của người Sĩ Quan Trừ Bị QLVNCH.
Riêng chữ NGUY ở đây, không nên hiểu một cách đơn giản là chỉ có “Chiến Tranh” hay Quân sự, mà còn nhiều thứ Nguy khác cũng phải nghĩ đến để kịp phòng bị, như Kinh tế, Tài chánh, kể cả Giáo dục, Y tế, Nông nghiệp, v.v. Không chuẩn bị về mọi mặt, khi cơn nguy biến đổ ập tới chắc chắn quốc gia đó sẽ bị vô cùng thiệt hại, hoặc nặng nề hơn sẽ đưa đến sự diệt vong, mất nước.
Cũng cần thưa thêm, “Cư An Tư Nguy” không phải là một KHẨU HIỆU, như một số người lầm lẫn đã gọi như vậy. Khẩu hiệu chỉ là một lời nói để khích động hoặc cổ vũ cho một hành động nào đó có tính cách nhất thời, giai đoạn, cho một mục đích được thu hẹp một cách rõ rệt. Trong khi “Cư An Tư Nguy” được nêu ra như là một quan niệm có tính cách chiến lược của người lãnh đạo ở mọi cấp, mọi lãnh vực, mọi địa phương, mọi hoàn cảnh... mà chúng tôi mạn phép gọi đó là một Ý NIỆM.
Xin được tri ân và tưởng nhớ đến Cố Chuẩn tướng Lam Sơn Phan Đình Thứ, người đã khai sáng một ý niệm vô cùng chính xác trong nghệ thuật lãnh đạo, hay rõ hơn, trong việc giữ gìn quê hương xã tắc. Tiếc rằng quốc gia Việt Nam Cộng Hòa không còn, để những vị lãnh đạo có được cơ hội thực hành những di huấn của Cố Chuẩn tướng Lam Sơn, xuyên qua bốn chữ “CƯ AN TƯ NGUY” trên phù hiệu của những người Cựu Sinh Viên Sĩ Quan xuất thân từ Quân Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức.
Trở lại với tiêu đề “Cư An Tư Nguy với hiện tình nước Mỹ”, chúng ta phải công nhận rằng trong một thời gian dài qua nhiều đời tổng thống, nước Mỹ chưa có ứng dụng ý niệm “Cư An Tư Nguy” một cách đúng nghĩa, như tinh thần của Cố Chuẩn tướng Lam Sơn Phan Đình Thứ đã từng ước muốn... Một cách cụ thể, chúng ta hãy nhìn lại nước Mỹ trong 8 năm dưới thời TT Obama để thấy rõ nét hơn.
Về mặt “Quân Sự”, thay vì củng cố hoặc tăng cường những nỗ lực về Quốc Phòng để “Tư Nguy” về mặt Chiến Tranh, Quân sự, chính phủ Hoa Kỳ của Tổng thống Obama lại cắt giảm tối đa ngân sách dành cho Ngũ Giác Đài khiến Quân Lực Hoa Kỳ phải giảm quân số, đình chỉ việc sản xuất các phương tiện chiến tranh chiến lược như vũ khí, tàu chiến hoặc hàng không mẫu hạm. Nhân danh việc củng cố nền hòa bình thế giới (sau khi được trao giải Nobel về Hòa Bình), TT Obama đã ra lệnh thu hẹp hoặc hủy bỏ một số căn cứ Mỹ tại ngoại quốc, đưa đến việc quân đội Mỹ bị thiệt hại nhiều nơi trên thế giới, kể cả một Đại Sứ Quán Mỹ bị tấn công, vị Đại Sứ và bốn cận vệ bị giết chết.
Về kinh tế, Chính phủ Hoa Kỳ đã để cho những nhà máy sản xuất của Mỹ di chuyển ra nước ngoài, tạo ra một tình trạng thất nghiệp quá cao trong nội địa nước Mỹ, trong khi cán cân thương mại với quốc gia nguy hiểm nhất là Trung Cộng lại bị quá chênh lệnh, nhập cảng nhiều hơn xuất cảng. Hơn 80% hàng hóa từ thượng đẳng đến thông dụng đều nhập cảng từ Trung Cộng. Trong khi thị trường của quốc gia đông dân nhứt thế giới là Trung Cộng lại hạn chế nhập cảng hàng hóa của Hoa Kỳ.
Về Giáo Dục, Hoa Kỳ hoàn toàn không có ý niệm “Tư Nguy” về vấn đề này, rõ ràng nhất là hệ thống các trường Đại Học Hoa Kỳ đã bị Trung Cộng lũng đoạn qua hình thức yểm trợ tài chánh hoặc các công trình nghiên cứu chung, với hậu quả là những khám phá khoa học quý giá và bí mật đều bị lọt vào tay Trung Cộng... Một hình thức lũng đoạn khác là xuyên qua việc thiết lập các “Viện Khổng Tử” để giới thiệu và nghiên cứu về nền văn hóa Trung Hoa, nhưng thực chất là nơi tuyên truyền hợp pháp cho Chủ Nghĩa Cộng Sản, cũng là nơi chứa chấp những ổ gián điệp của Trung Cộng.
Về Y Tế, xuyên qua trận đại dịch Corona Vũ Hán đang diễn ra hiện nay, mới thấy cái “Tư Nguy” của Hoa Kỳ trong 8 năm dưới thời TT Obama là con số 0 to tướng. Kho dự trữ chiến lược về dụng cụ y tế chỉ còn khả dụng được 1/3, trong khi thuốc men trị liệu các loại bệnh thì 80% nhập cảng từ Trung Cộng, những nguyên liệu gốc cần có để bào chế thuốc tại Hoa Kỳ thì 90% phải nhập cảng từ nước ngoài, nhiều nhất là từ Trung Cộng và Ấn Độ. Chưa kể đến phẩm chất của loại thuốc trị liệu xuất phát từ Trung Cộng có đạt tiêu chuẩn an toàn không, hoặc nếu có một cuộc chiến tranh sinh học “Biological Warfare” diễn ra, liệu những loại thuốc men này có là vũ khí tiêu diệt Hoa Kỳ không?
Chỉ nhìn lướt qua các vấn đề nêu trên, chúng ta thấy rằng Hoa Kỳ trong một thời gian dài chưa có cái nhìn “Cư An Tư Nguy” một cách đúng đắn như Chuẩn tướng Lam Sơn đã từng khuyến cáo, cho đến khi... nhà Tỷ phú Donald Trump trở thành vị Tổng thống thứ 45 của Hoa Kỳ qua cuộc bầu cử vào năm 2016. Như là một cơ trời đưa đẩy, dù Donald Trump là người Mỹ, nhưng ông đã ứng dụng rập khuôn những ý niệm của “CƯ AN TƯ NGUY” của người phương Đông.
Trước hết TT Trump đã nhận chân ra kẻ thù nguy hiểm nhất không chỉ của riêng nước Mỹ, mà là của toàn nhân loại là Trung Cộng, một quốc gia đang có mưu đồ thống lĩnh toàn thế giới, từ đó cái “Tư Nguy” của ông đã hiện thực hóa bằng khẩu hiệu “MAKE AMERICA GREAT AGAIN”, mà mục tiêu trước tiên là ông nhắm vào Trung Cộng.
Về Quân sự, TT Trump đã “Tư Nguy” bằng cách gia tăng ngân sách quốc phòng, củng cố hải lực và không lực, tấn công phủ đầu quân khủng bố IS và các quốc gia chứa chấp chúng ở Trung Đông. Hình thành và củng cố một Liên minh quân sự giữa các quốc gia Hoa Kỳ, Ấn Độ, Nhựt Bổn, Đại Hàn và Úc Châu bao quanh Trung Cộng. Trong khi hòa hoãn với Nga, một quốc gia đang bị suy giảm tiềm lực, TT Trump đã áp lực các đồng minh Châu Âu tăng cường trách nhiệm. Tại Á Châu, TT Trump tiến hành việc ngăn chặn sự bành trướng của Trung Cộng, điều Hàng không mẫu hạm đến Biển Đông, gia tăng tuần tiễu hải trình huyết mạch, nơi Trung Cộng đã xây nhiều căn cứ quân sự trên các hòn đảo nhân tạo trong nhiều năm qua dưới thời TT Obama.
Về Kinh tế, cái “Tư Nguy” kế tiếp của TT Trump, ông đã mở ra một cuộc “thương chiến” với Trung Cộng, ngoài mặt là quân bình lại cán cân thương mại, nhưng thực chất là làm suy yếu nền kinh tế của quốc gia thù địch này. Kêu gọi các hãng xưởng Mỹ quay trở về Hoa Kỳ, áp lực các cơ sở sản xuất của các quốc gia đồng minh như Âu Châu, Úc Châu, Nhựt, Đại Hàn rời bỏ Trung Công. Bẻ gẫy mưu đồ bành trướng của Trung Cộng ra toàn thế giới qua kế hoạch “Nhất đới–Nhất lộ” (One Belt–One Road).
Về Giáo dục, khuyến cáo việc dẹp bỏ các Viện Khổng Tử tại các trường Đại Học, phá vỡ các ổ gián điệp Trung Cộng, bắt nhiều Giáo sư Đại Học gốc Trung Cộng từng ăn cắp những tài liệu khoa học và bí mật quân sự mang về lục địa, bắt một số Giáo sư Hoa Kỳ đã hợp tác trái phép với Trung Cộng và truy tố như một hành động phản quốc...
Tuy nhiên, những hành động có tính cách “CƯ AN TƯ NGUY” của Tổng thống Donald Trump kể từ ngày chấp chánh đến nay đã động chạm đến quyền lợi riêng tư của những chính trị gia chóp bu thuộc đảng Dân Chủ, của một số thành viên cao cấp tiếng tăm của đảng Cộng Hòa, kể cả quyền lợi của một số quốc gia từng được coi là Đồng minh của Hoa Kỳ. Trong khi Trung Cộng, đang bị chỉ đích danh là kẻ thù số một của Hoa Kỳ và thế giới, đã ra sức mua chuộc hệ thống truyền thông Mỹ để đánh phá TT Donald Trump.
Suốt trong hơn ba năm qua, ông đã bị liên tục tấn công bằng tất cả những đòn chính trị bẩn thỉu nhất. Từ những cáo giác thông đồng với Nga trong cuộc bầu cử năm 2016, một ủy ban điều tra “độc lập” do một Cựu Giám Đốc FBI thời TT Obama, Robert Mueller cầm đầu, đã bỏ ra gần hai năm trời với chi phí hơn 50 triệu đô–la để điều tra TT Trump và các phụ tá, kết quả cuối cùng không tìm ra được bất kỳ chứng cứ nào về việc Nga đã giúp TT Donald Trump thắng cử năm 2016.
Việc tìm mọi cách triệt hạ TT Trump chưa chấm dứt. Với những cáo buộc mơ hồ, Hạ viện Hoa Kỳ do đảng Dân Chủ kiểm soát đã chính thức mở ra cuộc “luận tội để truất phế” (Đàn hặc–Impeachement) với hai tội danh là “Lạm quyền” và “Cản trở Quốc Hội”. Dù dư biết rằng cuộc truất phế TT Trump sẽ gặp thất bại tại Thượng Viện, đảng Dân Chủ vẫn quyết tâm tiến hành để làm nhục và hạ uy tín TT Trump mong tạo ảnh hưởng trong cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ vào tháng 11 năm nay 2020.
Kính thưa quý Độc giả,
Vì “CƯ AN TƯ NGUY” cho Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, Tổng thống Donald Trump đã hy sinh những quyền lợi riêng tư của ông, của gia đình ông, của Tập đoàn Trump... để phục vụ cho nước Mỹ. Chỉ hơn ba năm làm Tổng thống không hưởng lương, đại Công ty Trump đã thiệt mất gần 4 tỷ đô–la vì những luật lệ giới hạn tránh sự lạm dụng quyền lực, nhưng ngược lại, quốc gia Hoa Kỳ đã nhận lại từ Trung Cộng hàng nhiều trăm tỷ đô–la trong các đòn thuế quan đối với quốc gia này.
Tỷ lệ thất nghiệp tại Hoa Kỳ giảm xuống chỉ còn 3.5% lần đầu tiên trong vòng 50 năm qua, tạo ra trên 7 triệu việc làm mới, nhiều đời Tổng thống trước đây chưa có ai làm được, trong khi thị trường chứng khoán liên tục gia tăng tới mức kỷ lục với chỉ số Nasdaq lần đầu tiên vượt qua mốc 9,000 điểm, một điều chưa từng có trong lịch sử thị trường chứng khoán Mỹ. Về quân sự, TT Trump đã củng cố Quân Lực Hoa Kỳ trở lại hùng mạnh và nặng tính “linh động”, việc điều động cùng một lúc 3 chiếc hàng không mẫu hạm hoạt động tại vùng Biển Đông đã chứng minh điều đó.
Nhưng “Tư Nguy” về quân sự của TT Trump không dừng lại ở đây. Ông đã nghĩ xa hơn về viễn ảnh một cuộc chiến tranh không gian trong tương lai, với việc thành lập “Bộ Tư Lệnh Không Gian Hoa Kỳ” (U.S. Space Command) vào cuối năm 2019 để điều hành một binh chủng mới nhất trong Quân Lực Mỹ là “Lực Lượng Không Gian Hoa Kỳ”, nơi mà TT Donald Trump mô tả “một lãnh địa chiến tranh mới nhất của thế giới”...
“CƯ AN TƯ NGUY”, một ý niệm về lãnh đạo của phương Đông được Cố Chuẩn tướng Lam Sơn Phan Đình Thứ khai sáng cho những Cựu SVSQ/TB Thủ Đức, đã được áp dụng triệt để tại đất nước Hoa Kỳ bởi TT Donald Trump. Hãy giúp ông hoàn thành ý niệm “Cư An Tư Nguy” cho quê hương thứ hai xinh đẹp này. Hãy giúp ông hoàn tất hoài bão “Make America Great Again” cho quốc gia thân yêu hùng cường số một thế giới. Mỗi lá phiếu của chúng ta bầu cho TT Donald Trump vào tháng 11 tới đây, sẽ là những viên gạch trong bức tường vĩ đại bảo vệ cho đất nước Hoa Kỳ, nơi mà con cháu chúng ta sẽ sống đời sống kiếp trong môi trường Tự Do – Dân Chủ, không bao giờ có cái gọi là “Chủ Nghĩa Xã Hội” xâm nhập vào quốc gia tươi đẹp và vĩ đại này.
UYÊN SƠN
07, 2020

Monday, July 20, 2020

20 tháng 7-1954: Ngày đất nước chia đôi.

Trả lời một câu hỏi?
Chiều thứ 5 vừa qua, các sinh viên trường De Anza theo học môn văn hóa Á Châu đã theo tiến sĩ Chang đến thăm Việt Museum. Trong số sinh viên có một cô gái Việt Nam 17 tuổi, gốc Rạch Giá hỏi rằng Người Việt nguồn gốc ở đâu. Để trả lời, giáo sư Sally Haden của IRCC đã đọc tài liệu vắn tắt bằng Anh ngữ của Bảo tàng để trả lời. Trong bài này, tôi xin ghi lại bản Việt văn đầy đủ hơn.. Gốc tích dân Việt có nhiều nhóm nên gọi là trăm họ Bách Việt. Trong đó có dân Lạc Việt là tiền nhân của người Việt ngày nay. Ngàn năm trước sinh sống ở phía Nam sông Dương Tử, miền Nam nước Trung Hoa hiện nay. Dã sử ghi lại từ năm 2900 trước Tây lịch là niên đại của Kinh Dương Vương thời Hồng Bàng với tên nước là Văn Lang và Âu Lạc.

Cuộc di dân thứ nhất: Từ Dương Tử xuống Hồng Hà. 
Đợt di dân đầu tiên dân Lạc Việt đi xuống miền Nam định cư tại đồng bằng sông Hồng Hà. Ngàn năm sau, trở thành người Việt ở phương Nam mở nước đến miền Trung. Việt tộc anh hùng suốt thời gian dài đã tồn tại dù trải qua 2 lần tổng cộng hơn một ngàn năm bị Trung Hoa đô hộ.

Cuộc di dân thứ hai: Từ Hồng Hà đến Cửu Long.
Sau khi chống Tàu dành được độc lập, cuộc chiến tranh Trịnh Nguyễn chia cắt 2 miền Nam Bắc bởi con sông Gianh kéo dài trăm năm. Nhưng đây là cơ hội Việt Nam mở đất phương Nam đến mũi Cà Mâu. Sau nhà Tây Sơn đến thời Gia Long Việt Nam thống nhất, Tiếp theo lại trải qua 100 bị Pháp cai trị. Sau đệ nhị thế chiến chấm dứt 1945, chiến tranh Đông Dương bắt đầu từ 1946 cho đến 1954, sau cùng Việt Nam Quốc Cộng chia đôi tại sông Bến Hải. 

Cuộc di cư vĩ đại thứ ba: Một triệu dân Bắc vào Nam.
Biến cố vô cùng quan trọng đã đưa một triệu người miến Bắc di cư vào Nam đề cùng sống với thế giới tự do, xây dựng 2 nền cộng hòa trong 21 năm. Nhưng từ 1962 cộng sản miến Bắc tấn công và chiến tranh Nam Bắc tiếp tục cho đến 1975. Tháng tư 1975 miên Nam thất thủ. 


Cuôc di dân tỵ nạn lần thứ tư:
Một lần nữa dân miền Nam bỏ nước lần lượt ra đi đến nay với 3 triệu người trên khắp thế giới. Gần 2 triệu người định cư tại Hoa Kỳ. Đó là câu trả lời cho cô gái miền Hậu Giang Việt Nam mới đoàn tụ gia đình tại Mỹ đuoc 4 năm.


Riêng chuyện tháng 7-1954.
Người Việt không còn nhiều di tích về chuyện di dân từ miền Nam sông Dương Tử qua đồng bằng sông Hồng. Cũng không có nhiều tài liệu về chiến tranh Trịnh Nguyễn và số người di dân từ Bắc vào Nam qua biên giới của con sông Gianh lịch sử. Nhưng chúng ta có khả nhiều tin tức hình ảnh cùng lý do một triệu người ra đi từ miền Bắc năm 1954. Đồng thời cũng có nhiều chứng tích ra đi tìm tự do từ 30 tháng tư 75 cho đến nay. Lý đó quan trọng nhất là tỵ nạn Cộng sản. Trở lại với thời kỳ tháng 7-1954 đã hơn 63 năm về trước, xin nhắc lại như sau. Ngay khi ổn định cuộc định cư tại miền Nam, Sài gòn hoàn tất bộ phim trắng đen với tựa đề “Chúng tôi muốn sống” để nói lên lý do của cuộc di cư. Chuyến di tản và tỵ nạn từ tháng tư 1975 người Việt hải ngoại ghi dấu hàng năm. Nhưng để tưởng niệm cuộc di cư hết sức vĩ đại tháng 7-1954 của một triệu người đi tìm tự do, những tin tức, tài liệu cần được sưu tầm, gìn giữ và phổ biến. Viet Museum, Dân Sinh Media do cơ quan di dân IRCC phối hợp sẽ tổ chức một ngày tưởng niệm cuộc di cư thàng 7 năm 1954. Chúng tôi đã dành hội trường quận hạt Santa Clara County vào lúc 9 giờ sáng thứ bảy 5 tháng 8-2017. Với chủ để Nam Bắc một nhà, chúng tôi xin mời toàn thể đồng hương đến tham dự. Chương trình gồm có tiếp tân buổi sáng, xem triển lãm về Hà Nội xưa, một vài bài ca gợi nhớ, nói chuyện về miền Bắc trước 1954 và đặc biệt sẽ chiếu cuốn phim xuất sắc và ý nghĩa nhất trên nửa thế kỷ vừa qua. Phim “Chúng tôi muốn sống”. Sẽ mời thân quyến các tài tử trong phim hiện diện. Một dịp cho ngàn người cùng viết lại lịch sử của dân tộc. Cuộc chiến đấu chống Pháp dành độc lập sau đệ nhị thế chiến là nỗ lực của toàn dân. Tuy nhiên cộng sản Việt Nam đã dành lấy độc quyền chiến thắng bằng sự hy sinh xương máu của toàn dân. Tất cả sự thật đã được phơi bày trong cuốn phim chống Cộng “Chúng tôi muốn sống”. Xin ghi nhận và cùng đến để Viết lại lịch sử.

Giao Chỉ , San Jose.

Saturday, July 18, 2020

PHAN NHẬT NAM - HÈ VẪN CÒN ĐỎ LỬA

Nếu buộc phải chọn hai gương mặt tiểu biểu nhất cho thơ văn chiến tranh của nền Văn học miền Nam, thì có lẽ, tôi nghĩ ngay đến nhà thơ Tô Thùy Yên và nhà văn Phan Nhật Nam. Tuy khác nhau về hoàn cảnh, xuất thân, song hai bác này có những nét khá tương đồng, kể từ khi mặc áo lính, cho đến những năm tháng tù đày (dài lê thê) sau chiến tranh. Nhìn lại văn học sử Việt Nam có ba người lính cầm bút tài năng: Cao Xuân Huy, Nguyễn Bắc Sơn, và Phan Nhật Nam đều có người cha ở bên kia của chiến tuyến. Tuy nhiên, cũng như Cao Xuân Huy, nhà văn Phan Nhật Nam đã phân định trách nhiệm rạch ròi của người lính, không hề có sự mâu thuẫn nội tâm, do dự trên đầu súng và cây viết như Nguyễn Bắc Sơn. Có thể nói, nếu không có cuộc chiến này, thì chưa chắc chúng ta đã có một Phan Nhật Nam nhà văn của ngày hôm nay. Thật vậy, chính chiến trường đạn bom, khói lửa, chết chóc và tù đày đã đưa ông đến với những trang văn. Và chỉ có đối diện với những trang giấy, Phan Nhật Nam mới giải tỏa được tâm lý cũng như cứu rỗi linh hồn người lính trận. Món nợ với đồng đội với đất nước, cùng cái trớ trêu của cuộc chiến này, ngay từ những ngày đầu cầm bút cho đến nay luôn ám ảnh và xuyên suốt sự nghiệp sáng tạo của Phan Nhật Nam. Do vậy, nếu đọc một cách có hệ thống, ta có thể nhận thấy những đặc điểm nổi bật trong văn thơ, cũng như con người Phan Nhật Nam: Chiến tranh đưa đến tan vỡ tâm hồn, và lẽ sống của người lính. Sự tàn khốc của cuộc chiến ấy dưới ngòi bút sắc sảo của Phan Nhật Nam hiện lên một cách trung thực, sinh động. Và không chỉ trên chiến trường, mà trong tăm tối ngục tù cũng vậy, ta luôn thấy sự giải thoát. Thật vậy, lời dự báo, hay sự phản kháng là con đường giải thoát của ông đôi khi có tính tiêu cực, nhưng nó bật lên cái chí khí, tính nhân đạo cao cả. Chính bởi những đặc điểm này, đã làm nên tên tuổi nhà văn thật vạm vỡ Phan Nhật Nam.
Phan Nhật Nam sinh năm 1943, tại Thừa Thiên – Huế. Sau khi đậu tú tài, ông vào lính và tốt nghiệp Trường võ bị Đà Lạt năm 1963. Với mười bốn năm khoác áo lính, và 14 năm tù cải tạo sau 1975. Hiện ông sống và viết văn tại Cali- Hoa kỳ.
Tuy gian nan với khói lửa binh đao như vậy, nhưng có thể nói, Phan Nhật Nam viết đều, và khỏe, tập truyện nào của ông cũng hừng hực mang không khí, hơi thở của thời cuộc. Dấu Binh Lửa, Dọc Đường Số 1, Ải Trần Gian, Dựa Lưng Nỗi Chết, Mùa Hè Đỏ Lửa, Tù Binh và Hoà Bình được viết trước 1975 là những tác phẩm toàn bích, được nhiều người đọc, và yêu mến nhất. Với tôi, ở thể ký sự chiến trường này, không chỉ ở thời điểm đó, mà cả đến ngày nay, có lẽ chưa có tác giả, tác phẩm nào (kể cả hai phía) vượt qua được Phan Nhật Nam. Sau 1975 dù trong hoàn cảnh tù đày, hay khi đã định cư ở nước ngoài, bút lực của ông còn dồi dào và mãnh liệt lắm. Vẫn dòng chảy của mạch bút ký hàng loạt các tác phẩm mới được ra đời có tính chiêm nghiệm sâu sắc: Chuyện Cần Được Kể Lại, Đường Trường Xa Xăm, Đêm Tận Thất Thanh, Những Cột Trụ Chống Giữ Quê Hương, Mùa Đông Giữ Lửa, Chuyện Dọc Đường, Phận Người Vận Nước…
Thế nhưng, có một điều làm cho người quan tâm, nghiên cứu đến văn học nước nhà luôn phải trăn trở. Bởi, thời gian này, những tác phẩm trước đây của Phan Nhật Nam đã bị khai tử, và những tác phẩm mới này của ông cũng bị cấm (tiệt) ở trong nước. Người đọc ở nước ngoài rất ít, dẫn đến nhiều hạn chế và thiệt thòi cho độc giả, cũng như cho nền Văn học Việt Nam. Tuy vậy, nếu phải đưa ra một tác phẩm tiêu biểu nhất của Phan Nhật Nam, thì với tôi chắc chắn là bút ký: Dấu binh lửa. Một tác phẩm đầu tay, được in ấn và phát hành năm 1969. Có thể nói, ngoài tính chân thực, giá trị nghệ thuật, và nhân đạo, Dấu binh lửa (còn) như một liều thuốc làm thức tỉnh người đọc đang gà gật trước cuộc chiến tang thương nhất của dân tộc.
Nói bút ký, hồi ký là thể loại văn học mang tính chân thực. Song nếu không có sự sáng tạo mang tính nghệ thuật cao, với sự quan sát tỉ mỉ, cùng tài năng miêu tả cảnh vật, tâm lý nhân vật, sự kiện được thông qua lăng kính, tư tưởng của tác giả, thì tác phẩm đó sẽ khô và rời như cơm nguội vậy. Điều này đã được minh chứng qua những tác phẩm tuyên truyền nhạt phèo: Bất Khuất về Nguyễn Đức Thuận của Trần Đĩnh trước đây, và Hồi ký của Võ Nguyên giáp do Hữu Mai chấp bút gần đây. Tuy nhiên, đọc tùy bút, hồi ký của Phan Nhật Nam, ta thấy khác hoàn toàn. Bởi, người đọc không chỉ thấy tài năng, sự sáng tạo, mà dường như thể loại văn học này đã được ông nâng lên một nấc cao mới về cả giá trị nội dung lẫn hình thức nghệ thuật.

*Chiến tranh-sự đổ vỡ tâm hồn, và lẽ sống.
Cùng lớn lên vào giai đoạn (đầu) khốc liệt của cuộc chiến, không như nhà văn Trần Hoài Thư cầm súng mặc áo lính là nghĩa vụ bắt buộc, với Phan Nhật Nam đó là sự tự nguyện, trách nhiệm của tuổi trẻ. Sự vô tư trong sáng đã mở cho người lính Phan Nhật Nam những ước mơ với chân lý, hiện thực. Tôi không dám nghĩ đây là lý tưởng, song chắc chắn đó là tâm lý chung, không chỉ riêng của Phan Nhật Nam ở cái buổi đầu đời ấy: “ Tôi đi lính năm mười tám tuổi ... tôi tự động hăng hái, hãnh diện để trở thành một sinh viên sĩ quan với ý nghĩ đã chọn đúng cho mình hướng đi, một chỗ đứng dưới ánh mặt trời. Tôi có những rung động thật thành thực khi đi trong rừng thông, hương nhựa thông toả đặc cả một vùng đồi, sung sướng vì thấy đã đưa tuổi trẻ vào trong một thế giới có đủ mơ mộng và cứng rắn, một thế giới pha trộn những ước mơ lãng mạn hào hùng“ (Dấu binh lửa). Tuy nhiên, những ước mơ lãng mạng và hào hùng ấy của người sĩ quan trẻ Phan Nhật Nam đã bị dập tắt ngay từ những trận chiến đầu. Chiến tranh không những giết chết thể xác, mà còn giết chết nhân phẩm, lòng tin của con người. Với thi pháp tự sự, nỗi thất vọng ấy đã được Phan Nhật Nam trải lên trang sách. Đọc lên ai cũng phải chạnh lòng, chua xót. Truyện Người chết dưới chân Chúa (Dấu binh lửa) có những đoạn văn miêu tả cảm động, diễn biến tâm lý sâu sắc, và thấm đẫm tình người như vậy của ông. Và cái tính chân thực, hồn nhiên của người lính, khi đọc Dấu binh lửa cứ làm cho tôi vẩn vơ suy nghĩ đến tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh và tác phẩm Vô đề của Dương Thu Hương. Có lẽ, khi viết những tác phẩm này, Bảo Ninh cũng như Dương Thu Hương chưa được đọc Dấu binh lửa. Nếu đã đọc, tôi nghĩ hành động của những người lính thám kích đối với các nữ bộ đội có lẽ, sẽ khác đi nhiều lắm trên những trang văn của họ. Dù là tiểu thuyết, một thể loại được phép hư cấu. Và đoạn trích dưới đây gợi lên nỗi buồn thất vọng (ban đầu) của nhà văn, nhưng phần nào nó cũng làm sáng tỏ thêm nhân cách, và sự cảm thông của người lính:
“... Chị không hiểu được lời nói của tôi, một người Việt Nam ở cùng trên một mảnh đất. Chị tưởng tôi thèm muốn thân xác và đòi hiếp dâm! Tội nghiệp cho tôi biết bao nhiêu, một tên sĩ quan hai mươi mốt tuổi làm sao có thể biết đời sống đầy máu lửa và đớn đau tủi hổ đến ngần này. Tôi đi lính chỉ với một ý nghĩ: Đi cho cùng quê hương và chấm dứt chiến tranh bằng cách góp mặt. Thê thảm biết bao nhiêu cho tôi với ngộ nhận tủi hổ này. Tôi muốn đưa tay lên gài những chiếc nút áo bật tung, muốn lau nước mắt trên mặt chị, nhưng chân tay cứng ngắc, hổ thẹn. Và chị nữa, người đàn bà quê thật tội nghiệp. Cảnh sống nào đã đưa chị vào cơn sợ hãi mê muội để dẫn dắt những ngón tay cởi tung hàng nút áo, sẵn sàng hiến thân cho một tên lính trẻ, tuổi chỉ bằng em út, trong khi nước mắt chan hòa trên khuôn mặt đôn hậu tràn kinh hãi.” (Dấu Binh Lửa)
Không chỉ giật mình, trước cái chết phơi thây giữa đồng của những du kích quân tuổi mới mười bốn, mười lăm, mà người lính trẻ Phan Nhật Nam còn đau xót, thẫn thờ và thất vọng trước cái chết quá bi thảm cô gái trẻ vô tội. Những cái chết này như ngọn roi quất vào hồn nhà văn, người lính vậy. Đi sâu vào đọc ta có thể thấy, Phan Nhật Nam là một trong những nhà văn có tài miêu tả, mượn cảnh vật thiên nhiên để bộc lộ tư tưởng, giãi bày cảm xúc của mình. Ta hãy đọc lại đoạn trích dưới đây để thấy rõ tâm trạng của nhà văn trước cái chết bi thảm của đồng loại, cũng như tài năng sử dụng hình ảnh so sánh ẩn dụ của Phan Nhật Nam:
“Khi tôi bước ra đàng sau nhà thờ, qua khu nhà ở của những người chết, một chiếc áo tím chắc hẳn của cô gái còn phơi phới bay trong gió... Nhìn ra xa, xác cô gái nằm thẳng trên sàn gạch, nắng thật sáng rọi lên rực rỡ. Người tôi ai cắm một lưỡi dao oan nghiệt vào tim, thật buồn. Tôi loay hoay đốt một điếu thuốc. Cái chết qủa bi thảm, nhưng hình ảnh của cô gái nằm chết khi chiếc áo còn bay trong gió vang vang nơi trí não tôi như một tiếng kêu thê thảm không dứt âm“ (Dấu binh lửa)
Bom đạn, khói lửa chiến trường chưa phải là điều đáng sợ, và nó không thể giết chết niềm tin, và lẽ sống của người lính trận. Nhưng chính cái khối ung nhọt ở nơi hậu phương kia mới giết chết linh hồn, và khát vọng của họ. Thật ra, vào thời điểm đó, không phải riêng Phan Nhật Nam đã nhận ra điều này, mà trên những trang văn của mình, Trần Hoài Thư cũng chọc thẳng vào cái khối ung nhọt này. Khi ông đã nhận ra, sự hy sinh cả một thế hệ để phục vụ cho những kẻ lãnh đạo không lương thiện, thiếu tài năng. Và hơn thế nữa, gần đây nhất bút ký Sau Cơn Binh Lửa của Trung tá, nhà văn Song Vũ cũng chỉ ra, những con sâu ở giới lãnh đạo thượng tầng, hay những ông vua tôn giáo này, góp phần không nhỏ dẫn đến sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Thật vậy, đây cũng là một trong những nguyên nhân chính làm sụp đổ tâm hồn, phá vỡ niềm tin dẫn đến sự chán chường cho người lính Phan Nhật Nam:
“Chúng tôi rời Sài Gòn trong thở dài nhẹ nhõm, một tháng ở Thủ Đô đủ để tạo thành sụp đổ tan hoang trong lòng, đủ thấy rõ sự phản bội của hậu phương, một hậu phương lừa đảo trên máu và nước mắt của người lính. Một tháng đủ để chúng tôi hiểu ti tiện hèn mọn của loại lãnh tụ ngã tắt, những anh hùng đường phố, những ông vua biểu tình theo ngẫu hứng, vua tôn giáo đầy thù hận và dục vọng... Một tháng "vỡ mặt" lính non cũng như lính già. Chúng tôi bây giờ biết rõ: Máu và đời sống của mình đã đổ ra cho một xã hội lừa lọc.“ (Dấu binh lửa)
Tôi không dám nói, sự đổ vỡ tâm hồn, lẽ sống của nhà văn Phan Nhật Nam là tâm trạng chung của những người lính trẻ lúc đó. Tuy nhiên, chiến tranh đã biến sự trong sáng, nhiệt huyết của một bộ phận giới trẻ trở nên hoài nghi và chán nản. Dù miền Nam khá cởi mở về suy nghĩ, và tư tưởng, nhưng trong lúc nước sôi lửa bỏng đó, viết thẳng tưng ra những điều này, quả thực phải nói đến dũng khí của nhà văn Phan Nhật Nam vậy.

*Sự tàn khốc của chiến tranh, với nỗi ám ảnh của con người.
Nếu ta đã đọc truyện ngắn, bút ký chiến trường của Trần Hoài Thư, hay Số Phận Con Người của nhà văn Nga Mikhail Sholokhov, thì có lẽ giảm đi được nỗi ám ảnh, khi đọc bút ký, văn xuôi của Phan Nhật Nam. Bởi, sự chết chóc về thể xác, và linh hồn ấy qua bút pháp hiện thực, với những hình ảnh so sánh sinh động, sắc như lưỡi dao cứa vào lòng người đọc vậy. Phải nói, Phan Nhật Nam có cái nhìn, quan sát rất sâu sắc và tỉ mỉ, khi miêu tả, hay trần thuật. Và Những Ngày Gãy Vụn là một trong những bút ký như vậy của ông. Đây là những trang văn rùng rợn nhất mà tôi đã được đọc. Đoạn trích dưới đây một lần nữa sẽ chứng minh nghệ thuật, tài năng lồng tâm trạng của mình vào cảnh vật, thiên nhiên của Phan Nhật Nam. Và thi pháp, thủ thuật này đã xuyên suốt sự nghiệp sáng tạo của ông:
“ Thoạt đầu còn e ngại nhưng đến xác thứ tư thứ năm lớp thịt nhũn của xác chết tiếp xúc với bàn tay hóa thành quen. Đi từ nơi để xác trở vào rừng, tôi không dám nhìn vào hai bàn tay của mình, thịt da người chết đã phết một lớp dầy trên
da tay. Hai giờ chiều, xác chết đã nhặt được hết, tôi chà tay xuống mặt đất như muốn bóc hẳn lớp da. Thèm điếu thuốc lá nhưng không dám đưa bàn tay lên môi …trời miền Nam bắt đầu vào mùa mưa, đất đỏ từ lối đi vào đến nơi chứa xác lầy lội tưởng như có pha máu người. Thân nhân người chết than khóc, lăn lộn trên lớp bùn non, áo sô trắng lấm đất đỏ như dấy máu. Hơi đất, hơi người sống, người chết, mùi hương đèn lẫn lộn ngây ngấy nồng nặc, choáng váng...“
Nếu ta thấy cái tĩnh khi đọc truyện ngắn, bút ký của Phạm Tín Anh Ninh, thì ta sẽ tìm được cái động trong bút ký của Phan Nhật Nam. Thật vậy, với lối hành văn phóng khoáng, dứt khoát nhưng truyền cảm, cùng khẩu ngữ trong sáng đơn giản, đọc lên tưởng chừng như có lửa vậy. Nó không chỉ sáng rực lên trên trang sách Phan Nhật Nam, mà còn cháy trong lòng người đọc. Cho nên, đã cầm sách của ông lên, thì thật khó mà bỏ xuống, khi chưa đọc đến trang cuối cùng. Và đến với Mùa hè đỏ lửa thì chiến tranh, nỗi đau, sự tàn nhẫn đã đến tận cùng, vượt qua sức tưởng tượng của con người. Vẫn với thủ pháp hình ảnh so sánh, Phan Nhật Nam cho ta thấy rõ, chiến trận với những cái chết, xác người ở Quảng trị dài dằng dặc, rùng rợn, tàn nhẫn gấp bội lần so với lò sát sinh, giết người tập thể của phát xít ở Auschwitz. Thật vậy, đọc mùa hè đỏ lửa, tôi không rõ đây là nỗi kinh hãi hay bản cáo trạng của Phan Nhật Nam:
“Làm được gì bây giờ? Bịt mũi, che mồm, nhưng tất cả vô ích, hơi chết đọng trên da, chui vào mũi, bám trên áo, hơi chết hít vào phổi trôi theo máu. Tôi đang đứng trong lòng của sự chết. Tránh làm sao được, ai có thể ra khỏi khối không khí của nơi sống? Những cảnh chết tập thể của người Do Thái ở các trại tập trung gây nên niềm bàng hoàng xúc động vì người chứng kiến thấy được “xác người,” xác chồng chồng lớp lớp có thứ tự, gọn ghẽ nguyên vẹn... 9 cây số đường chết của Quảng Trị không còn được quyền dùng danh từ “xác chết” nữa, vì đây chết tan nát, chết tung tóe, chết vỡ bùng...“(Mùa hè đỏ lửa)
Đọc Những Ngày Gãy Vụn được Phan Nhật Nam được viết sau thất bại đau đớn ở Đồng Xoài (1965), buộc tôi phải liên tưởng đến truyện ký Thế Hệ Chiến Tranh của Trần Hoài Thư. Ở cùng thời điểm, với hai mặt trận khác nhau, nhưng những người lính ấy có cùng chung một số phận. Bởi, họ phải thi hành mệnh lệnh của những người lãnh đạo quan liêu, và dốt nát. Cũng như Thế Hệ Chiến Tranh, đọc Những Ngày Gãy Vụn ngoài tính bi hài, ta còn thấy được tính cái tính quân kỷ của người lính giữa sự sống và cái chết, dù trong lòng tràn đầy mâu thuẫn, uất hận. Ta hãy đọc lại đoạn trích với ngôn ngữ, lời thoại mang đậm chất điện ảnh dưới đây để thấy rõ điều đó. Và đây cũng là một trong những đặc điểm tạo nên những câu văn sinh động trong văn xuôi Phan Nhật Nam:
“Riêng chúng tôi ở đầu hàng quân đều nhận thấy rõ rằng: Địch đang dụ chúng tôi vào bẫy. Nhưng nhà binh là tuân lệnh, nguyên lý cứng nhắc đó không đủ để dẹp hết e ngại.
- Báo cáo không thể tiến thêm được nữa, địch quá đông, xin pháo binh. Tôi gọi về đại đội nói như hét.
- Không bắn pháo binh được, khu đồn điền có dân và có nhà thờ.
- Dân con mẹ gì! Tôi la muốn vỡ phổi để phản đối: Không phải dân đâu, toàn là Việt cộng thôi...
- Bộ chỉ huy hành quân quyết định không cho bắn, anh về đó mà kiện... “
Và may mắn người lính ấy còn sống sót trở về, và nỗi ám ảnh, hoảng loạn chìm trong những cơn say. Và rượu là liều thuốc an thần tốt nhất cho người lính trận. Chập chờn ký ức hiện về, cùng những tình tiết hiện thực đan xen, buộc người lính Phan Nhật Nam phải độc thoại nội tâm, tự thú trên trang giấy trước mặt. Sự ám ảnh đó tạo nên những hình ảnh so sánh có tính kịch trường sân khấu, làm cho người đọc phải chờn chờn, rợn rợn.
Với nghệ thuật độc thoại nội tâm mang tính tự thú này, đã được Bảo Ninh làm xương sống dựng nên tiểu thuyết Nỗi Buồn Chiến Tranh của mình. Thật vậy, sự ám ảnh, la hét đập phá của người lính Phan Nhật Nam trong Dấu binh lửa, mấy chục năm sau ta bắt gặp lại hình ảnh đó từ Kiên (Bảo Ninh) trong Nỗi Buồn Chiến Tranh. Có lẽ, cũng như khoa học tự nhiên, bằng cách này hay cách khác có sự kế thừa của văn học ở đây chăng (?):
“Đưa quan tài của Dũng lên máy bay, chào trước mộ của Kỳ và Đỗ lần cuối, sau một tuần lăn lộn với người chết, người tôi tan đi trong một cơn mê nồng nặc đầy hơi chết và lòng tràn giông bão. Những xác chết ám ảnh tôi đến kỳ quái, ngay trong giấc ngủ, sự yên lành cũng không có, tôi la hét, khóc lóc đập phá trong cơn mê. Và nỗi tỉnh thì không còn nữa, rượu uống vào hoài hoài, chưa bao giờ thấy rượu ngon và cần thiết đến thế — Một khỏang đời đã đổi tôi thành kẻ lạ rồi... Một tên hung bạo, trí não căm hờn và thù hận. Tôi chết một phần người trong tôi.“ (Dấu binh lửa)
Có thể nói, cuộc chiến tàn khốc vừa qua sản sinh ra nhiều nhà văn tài năng, ở cả hai phía. Số phận, cây viết của họ gắn liền với những tang thương, và vận mệnh của đất nước. Bỏ qua định kiến tư tưởng, chính trị, ta có thể thấy những người lính phía Bắc viết ký sự chiến trường tài năng như: Chu Cẩm Phong, hay Dương Thị Xuân Qúy…, nhưng rất tiếc, họ đã tử trận khi còn quá trẻ. Những người lính phương Nam: Phan Nhật Nam, Trần Hoài Thư… may mắn còn sống sót. Tù đày và nỗi ám ảnh sẽ đi đến hết cuộc đời họ. Tuy nhiên, các tác phẩm xương máu của họ vẫn còn đó trong lòng người. Âu cũng còn một chút may mắn cho nền Văn học Việt vậy.

*Ngục tù- sự phản kháng, hay giải thoát bế tắc.
Cũng như những người lính, nhà văn khác, sau 1975 Phan Nhật Nam buộc phải vào tù cải tạo. Tôi có tìm đọc được một số truyện ngắn của ông về thời gian này. Vẫn bút pháp hiện thực, với khẩu ngữ dân dã góc cạnh, do vậy những trang viết của ông được mọi tầng lớp đón nhận, và đi sâu vào lòng người đọc. Do hoàn cảnh tù đày, với độ lùi của thời gian, Phan Nhật Nam đi sâu vào thi ca có tính chiêm nghiệm: “Bóng tối cóc ngồi gục./ Ừ thì Tâm có Phật!/ Sao trong ta cuồng lưu,/ Chẳng lẽ trời sinh người,/ Ðể chịu đời khốn khổ?/ Không thể dựng Ngôi Lời,/ Trần thế ngập gian dối./ Tôi đây ! Chúa trông đây!/ Tận đáy sâu khổ nhục/ Trần trụi ngỡ ma trơi/ Hỡi nào ra nhân dạng?!“(Vào một buổi nào đó). Hay những câu thơ giãi bày tâm trạng u uất của kẻ trên đường bị đi lưu đày: “Chen chúc lũ tù ngồi lăn lóc… /Ðầu gối đầu/ Xe lắc từng cơn/ Nhướng cao mắt, mở trợn trừng,/ Chung quanh núi đá, mịt mù đồng hoang./ Ðây là đâu? Mênh mang đất dữ,/ Trên quê hương chịu chữ đi đầy…“ (Nhập Lam Sơn). Tuy nhiên, với tôi Chuyện Công Cắn là truyện ngắn hay, và đặc trưng nhất của Phan Nhật Nam viết về những năm tháng tù tội, lưu đày. Đọc nó, ta thấy được tận cùng của sự khốn nạn. Nhân phẩm con người không bằng loài súc vật. Những hình ảnh dưới đây, cho ta thấy thân phận tủi nhục của người tù trốn trại, bị bắt nhốt vào cùm biệt giam sáu tháng:
“Sáu tháng sau, Công được tháo cùm cho về buồng. Nó bò với hai tay, hai gối, nhích tới từng khoảng ngắn, xong nằm bẹp lên đất.. Quản giáo Chuyên đi theo, dùng chân đè lên lưng, đầu, đá vào hai chân lê lết, cong queo của nó nói lời khinh bỉ.. Mầy có thành con dòi cũng không trốn khỏi đây được. Tao có thể bắn chết mầy ngay bây giờ nhưng cho mầy sống để ăn cứt! Thằng Công lết chậm im lặng, mắt ráo hoảnh, không cảm giác, tròng đen khô như hòn than.“
14 năm tù đày, cùm biệt giam trên đất Bắc chưa hẳn bởi can tội mặc áo lính, viết văn, hay Phan Nhật Nam từng là sĩ quan ở Ban liên hợp quân sự bốn bên, và đã ra nghị đàm ở Hà Nội, mà có lẽ còn do cái tính khí khái, thẳng tưng của ông. Có lẽ, ông đã đưa những đặc điểm, tính khí này vào những trang viết của mình. Do vậy, ta có thể thấy tính phản kháng luôn đậm nét trong truyện ngắn, văn xuôi của Phan Nhật Nam. Có thể nói, tôi đã đọc khá nhiều trang sách viết về cải tạo tù đày, nhưng ít thấy có sự phản kháng trực diện như Chuyện Công Cắn của Phan Nhật Nam. Có thể nói, ông luôn mở ra một lối thoát, và giải quyết bế tắc dù có mang tính tiêu cực. Đoạn trích rùng rợn, xã hội, con người chỉ còn lại thú tính dưới đây, vẫn trong truyện ngắn: Chuyện Công Cắn, sẽ chứng minh cho chúng ta thấy rõ điều đó:
“Gã tù lê ống tre bươm trên sân cỏ, lúc lắc thân người rề rà hướng về phía hầm chứa phân khu kỹ luật.. Đổ vào đây.. Địt mẹ đổ vào đây!! Nhiền hét lớn chỉ vào hố chứa.. Mầy làm rơi vải tao bắt mầy phải ăn cho hết! Địt mẹ.. đồ ăn cứt!! Gã tù đã đến bên hố chứa phân, gã lóng cóng với ống bươm.. Phân, nước giải rơi vải tung toé.. Đổ xuống hố.. Địt mẹ thằng chó.. Nhiền xoay xoay chùm chìa khoá buồng giam tiến gần chực đánh.. Gã tù với một phản ứng nhanh nhẹn bất ngờ tạt ống bươm vào mặt Nhiền.. Tên nầy hét lớn hốt hoảng đưa tay vuốt những mảng phân thối, dòng nước dơ. Gã tù nhảy thoắt đến viên đá chận nắp hố phân. Nó nâng lên.. Đập mạnh xuống khuôn mặt lầy nhầy chất bẩn. Nhiền ngã quay quắt trên đất.

Thằng Công nhảy lên ngồi trên ngực Nhiền, thọc tay vào ổ mắt.. Móc ra!! Nó nuốt khối nhầy ươn ướt máu và cứt. Súng trên chòi canh nổ sắc, gọn, chính xác từng phát một. Lưng thằng Công ưỡn lên, nẫy nẫy...“
Nếu nói giá trị cơ bản của văn học bao gồm giá trị hiện thực, và giá trị nhân đạo, thì tôi cho rằng, những tác phẩm của Phan Nhật Nam không những hội đủ những đặc tính này, mà còn hơn thế nữa. Ngoài giá trị về văn học, những tác phẩm của ông còn ghi lại dấu ấn lịch sử thật rõ ràng. Cả cuộc đời Phan Nhật Nam lặn ngụp trong chiến tranh, kể cả thể xác lẫn tâm hồn. Có thể nói, chưa khi nào ông bước được ra khỏi cuộc chiến này. Thân phận, và linh hồn ông dường như cũng uống trọn nỗi khổ đau, oan trái của dân tộc vậy. Do đó, dù sức cùng lực kiệt Phan Nhật Nam vẫn cần mẫn đi tìm một lời giải, một lối thoát cho cuộc chiến, và con người…
Vâng! Và 45 năm hậu chiến, hè vẫn còn đỏ lửa trong ông là như vậy.
Leipzig ngày 15-7-2020
Đỗ Trường

Sunday, July 12, 2020

PHNOM PENH, NGÀY ẤY CÒN ĐÂU? - Kim Thanh

KIM THANH
LTS: Kính anh Kim Thanh, tôi nhận được bài này của anh từ một độc giả xa lạ gởi đến, bài viết thật hay và thật xúc động khiến tôi không thể không đăng được. Tuy nhiên, để bảo vệ trang Blog mong manh này, xin anh cho phép tôi được lược bớt vài câu mà người ta hay gọi là “nhạy cảm”. Rất mong anh không phiền trách. Cám ơn anh rất nhiều. Blog Lề Trái

Giữa tháng 7 năm 1971, tôi đang dẫn một trung đội tăng phái hành quân theo chiến dịch Phượng Hoàng tại một quận lỵ thuộc Tiểu khu Khánh Hòa thì nhận được lệnh của Bộ Tổng Tham Mưu về Sài Gòn trình diện.. Đối với một sĩ quan cấp nhỏ, trung úy như tôi, đó là một tin vui lớn. Không cần biết về làm gì. Ít nhất được xa chiến trường một thời gian.

Về Sài Gòn, tôi được Bộ Tổng Tham Mưu cho biết phải đi Phnom Penh làm thông dịch viên Pháp ngữ cho Phái Đoàn Liên Lạc Quân Sự. Từ ngày VNCH đưa quân sang xứ Chùa Tháp, nhiệm vụ của Phái Đoàn, như tên gọi, rất cần thiết trong việc liên lạc giữa hai quân đội bạn. Nhận sự vụ lệnh, tôi nghĩ đến nỗi thất vọng của ba mẹ tôi luôn mong ước tôi được làm việc tại Bộ Tổng Tham Mưu, nhàn hơn, thọ hơn chăng. Cam Bốt, lúc ấy, cũng đang tơi bời khói lửa.

I. Phái Đoàn Liên Lạc Quân Sự:
Ở chơi Sài Gòn ba ngày, tôi đi Phnom Penh bằng C47, chuyến bay đặc biệt chở đồ tiếp tế cho Phái Đoàn. Hơn một giờ sau, đến phi trường Pochengton. Trời nóng không thua gì Sài Gòn. Một thiếu úy còn trẻ, kém tôi độ vài tuổi, mặt mày trắng trẻo, mang súng ru-lô xệ ngang hông như cao-bồi Texas thứ… giả, trên mép gắn hờ điếu thuốc chưa đốt kiểu James Dean, một chân gác, nhịp nhịp, trên cây cản phía đầu xe jeep trắng, mang bảng số ẩn tế. Một tốp quân nhân, trong số có một thượng sĩ già, bước xuống máy bay, lên xe. Thấy tôi còn đứng lóng ngóng, anh thiếu úy không chào, chỉ hất hàm hỏi, “ông về Phái Đoàn hả, lên luôn, mắc cỡ gì nữa”. Dĩ nhiên, tôi thấy khó chịu, nhưng tự nhủ, đừng nóng, sẽ tính sau. Một chiếc xe dân sự khác chở đầy vật dụng đem xuống từ máy bay.

Xe chạy bon bon trên những đường phố vắng, và đặc biệt rất sạch, có những hàng cây thẳng tắp hai bên đường cành lá sum suê, và những vườn hoa rực rỡ sắc màu. Vừa lái, anh thiếu úy tự giới thiệu, Nguyễn An Hòa, và sau này, tôi biết thêm anh là con của Trung tướng Nguyễn Văn Mạnh, Tham mưu trưởng Liên quân, ở trong Phái Đoàn, giữ một chức mà chính anh gọi đùa là “trưởng ban cà nhỏng”, muốn làm gì thì làm.

Sau hơn nửa giờ, đến trụ sở Phái Đoàn Liên Lạc Quân Sự, một building đồ sộ trên đường Norodom. Tôi được đưa thẳng lên lầu hai trình diện Trưởng phái đoàn, Đại tá Tô Văn Kiểm. Ông dáng gầy, tầm thước, rất ít nói, nét mặt khắc khổ, nhưng hiền lành, đôi mắt biểu lộ một tấm lòng nhân hậu. Lần đầu gặp ông, tôi thấy có cảm tình ngay và an tâm. Rồi ông dẫn tôi đến một phòng lớn, toàn là sĩ quan cấp tá đang ngồi làm việc, và giới thiệu:

-Trung úy Nguyễn Kim Quý, thông dịch viên mới của Phái Đoàn. 
Có đủ các Phòng Ban, các ngành Hải, Lục, Không quân. Tôi còn nhớ bên Hải quân có Thiếu tá trẻ tên Khôi (quên họ), Không quân có Trung tá phi công già Trịnh Hảo (Văn?) Tâm. Có Trung tá Nguyễn Kiên Hùng, TQLC, người hùng trong vụ đảo chánh cụ Diệm năm 1960, ở phòng 2 hay 4. Đặc biệt có Trung tá Nguyễn Văn Nam, trưởng phòng 5, chồng của nghệ sĩ Mộng Tuyền, dáng dấp hào hoa phong nhã. Trung  tá Nam bước đến vỗ vai tôi, bắt tay, thân mật, nói liền một câu tiếng Pháp, giọng khàn khàn:

– Bienvenu, mon frère!
Dân CTCT có khác, tôi khen thầm. Đại tá trưởng Phái Đoàn cho tôi nghỉ ba hôm, để quen nước quen cái. Ngủ trong dãy phòng sĩ quan cấp úy, gồm các phi công, sĩ quan hải quân, và bộ binh biệt phái công tác ngắn hạn, nghĩa là mới thấy đã biến đâu mất. Ăn tại “phạn xá”, dành cho sĩ quan cơ hữu, nghĩa là làm việc thường trực tại Phái Đoàn. Mỗi người góp tiền hàng tháng cho hai binh sĩ “hỏa đầu quân” đi chợ và nấu ăn chung.

Nguyễn An Hòa đưa tôi đi thăm một vòng building: phòng truyền tin, tiếp liệu, nhà bếp, nhà tắm, phòng ngủ của các hạ sĩ quan, binh sĩ. Tất cả đều chào đón tôi vui vẻ, niềm nở. Phòng Y tế có một bác sĩ và một y tá. Y sĩ trưởng là Thiếu tá Trương Kim Thành rất cởi mở, dễ mến. Sau này, khi rảnh việc, tôi hay mò đến phòng Y tế không phải để xin thuốc, vì lúc ấy còn trẻ đâu cần, nhưng để tán gẫu với anh về đủ chuyện, kể cả văn chương, nghề của tôi, và chữa bệnh hoa liễu, nghề của… chàng. 

Tôi được chia văn phòng với Thiếu tá Son Sanjivith, sĩ quan liên lạc của quân đội Cam Bốt tại Phái Đoàn VNCH, sáng đến chiều đi, luôn mặc quân phục kaki vàng ủi thẳng nếp, mang cấp bậc trên cầu vai như lon Pháp, đeo kính trắng, dáng dấp quan văn hơn quan võ. Son Sanjivith nói anh là con của cựu Thủ tướng Cam Bốt Sơn Ngọc Thành –thủ tướng năm 1945 và 1972, bị ám sát hụt, đày về Việt Nam, rồi sau 1975 bị Việt Cộng bắt và chết trong khám Chí Hòa năm 1977– và cháu của chính trị gia Sơn Ngọc Minh. Tôi cũng không hỏi thêm. Anh không nói được tiếng Việt. Buổi sáng đầu tiên tôi vào nhận việc, anh pha cà-phê mời tôi uống, nói chuyện bù khú với nhau gần một giờ xài nhiều tiếng lóng Pháp, cười thích thú, bên khung cửa sổ, nhìn xuống con đường phía sau, song song với đại lộ Norodom. Rồi ai về bàn nấy. Anh ngồi cuối phòng, còn tôi gần cửa ra vào.

Phái Đoàn Liên Lạc Quân Sự không có thông dịch viên khá lâu, vì người tiền nhiệm của tôi, mãn hạn ba tháng, chưa có ai thay, nên giấy tờ ứ đọng. Giấy tờ không có gì “mật”, cũng thường thôi, của quân đội –đôi khi của chính phủ– Cam Bốt, viết bằng tiếng Pháp, gửi Phái Đoàn, nhờ chuyển cho Bộ Tổng Tham Mưu Sài Gòn. Trước khi đến bàn thông dịch viên, văn thư đã được đọc bởi Đại tá Kiểm. Thư nào cần dịch ra tiếng Việt, và ngược lại, ông ghi “à traduire”. Thư trả lời, ông viết bằng tiếng Việt, mặc dù rất giỏi Pháp ngữ, cũng như các trưởng phòng, nhưng ông muốn có một bản dịch do một “chuyên viên” chính thức chịu trách nhiệm. Đôi khi ông gợi ý cho tôi trả lời thẳng bằng tiếng Pháp những bức thư không quan trọng. Ông rất hài lòng về những bản dịch của tôi, khen tôi trước các sĩ quan khác, và để tưởng thưởng, ông cho phép tôi, sau khi nộp bản dịch trong ngày, được đi chơi tùy thích, không phải ngồi “làm cảnh” ở văn phòng. Tôi thầm cám ơn Thượng Đế cho tôi thêm một vị chỉ huy quá tốt, giữa những vị chỉ huy quá tốt khác trong suốt đời lính.

Được phép, nhưng tôi lại không ra ngoài, thích ở văn phòng đọc sách, trừ khi Hòa đến rủ. Mà Hòa thì khoái đi lắm. Đúng hơn, khoái đi với tôi, có lẽ vì đồng trang lứa, đồng cấp úy, có lẽ vì tôi dễ tính, lôi đi đâu cũng được. Quen nhau, tôi thấy Hòa là một người bạn tốt, thẳng thắn, dễ thương, không bao giờ nói hoặc chơi xấu ai, dù bề ngoài có vẻ ngang tàng, bất cần của một công tử Con Ông Cháu Cha. Bên ly rượu, giữa hai làn khói thuốc, Hòa thường tâm sự về cuộc đời, ái tình, sự nghiệp của mình, và tôi được biết anh rất đắt đào, trong số có một ca sĩ cải lương trẻ đang lên mà anh xem như bồ ruột –đôi lúc dự tính “rước em dzìa dzinh luôn”, anh vui miệng kể.

Ra phố, Hòa và tôi diện áo quần dân sự, nhưng không quên lận lưng cây súng, juste dans le cas où… Hòa thường khoe cây mini-Colt dẹp, đẹp, nhỏ xíu, như cái hộp quẹt ga, tôi không chắc bắn có chết ai không. Ngoài những chiều Chúa Nhật dự thánh lễ tại nhà thờ Chánh tòa, nơi gặp gỡ của thành phần thượng lưu Cam Bốt cũng như ngoại quốc, nhất là Pháp, tôi xuống phố, một mình hay với Hòa, cũng chỉ để vào những tiệm ăn Tây, gần trụ sở Phái Đoàn gọi món poulet à la marengo hay civet au lapin, nhấm nháp vài ly rượu vang Bordeaux chánh hiệu. Hoặc lòng vòng quanh Chợ Trung ương (Marché Central) gần đại lộ Monivong và de Gaulle, ăn hủ tiếu Nam Vang –gọi là chính gốc Nam Vang, mà dở tệ hơn mì gói trụng nước sôi. Hoặc lượn trước cửa Lycée Preah Norodom, ngắm các tiểu thư mặc đồng phục váy màu xanh đậm, mặt hoa da phấn, ríu rít tan trường, mà lòng bồi hồi tưởng nhớ những bóng hình xưa cũ. Đôi khi Thiếu tá Son Sanjivith mời về nhà dùng cơm. Vợ anh là người Cam Bốt, xinh đẹp, quý phái, lịch sự. Đáp lễ, thỉnh thoảng tôi mời hai vợ chồng đi ăn những tiệm họ chọn. Theo lời khuyên của anh, tôi tránh vào những bars rượu, có bia ôm dĩ nhiên, vì người Miên, nhất là lính Miên hành quân trở về, súng ống đầy mình, không ưa Việt Nam... Một lần, lỡ bước vô, Hòa và tôi bị họ nhìn với cặp mắt cú vọ, khiêu khích, như chúng tôi đã nhìn lính Mỹ trong các quán bars ở Sài Gòn. Ngồi uống bia kiểu đó mất hứng và mất sướng. Ôm em trong tay mà hồi hộp không biết ăn đạn lúc nào.

Thỉnh thoảng, Trung tá Nguyễn Văn Nam cũng rủ tôi đi chơi riêng với ông. Khi thì ông gặp một người Miên lai môi giới hỏi mua chiếc xe Mustang rẻ, đem về Việt Nam miễn thuế, bắt tôi ngồi bên để ông lái thử xem máy chạy có tốt không. Khi thì đến ăn tối tại nhà một chị Việt Kiều quen ông. Khi thì đi thăm Chùa Prasat Prak, còn gọi là Chùa Bạc Chùa Vàng (sàn lót bằng hàng ngàn mảnh bạc và có một tượng Phật khổng lồ đúc vàng), hay vào hoàng cung lộng lẫy son vàng, mái lầu cong vút, bất ngờ nhìn thấy công chúa Bopha Devi, con vua Sihanouk, nguyên trưởng đoàn múa ballet hoàng gia, năm ấy 28 tuổi, ba đời chồng, đẹp mê hồn, bị giam lỏng cùng với gia đình và nhiều mỹ nữ.

Ngoài lương căn bản trong quân đội, do đơn vị gốc giữ hộ, các sĩ quan Phái Đoàn được lãnh thêm tiền phụ cấp công tác hàng tháng bằng đô la xanh. Tôi cấp nhỏ, độc thân, lãnh khoảng $180, đổi ra tiền riel, vật giá lại rẻ, cũng đủ xài hết tháng, một cách đế vương, có khi còn dư chút đỉnh. 

Ban đêm, Phái Đoàn tự lo an ninh. Tất cả sĩ quan luân phiên trực trại, tuần tra bên trong tường building cùng với hai binh sĩ trang bị M16 và lựu đạn. Buổi sáng, nếu không có chuyện gì, ghi vào sổ “rien à signaler”, vô sự. Một vài đêm cuối tuần, không biết làm gì để giết thời gian, các sĩ quan, chờ cho Đại tá Kiểm đi ngủ, gầy sòng phé đánh giải trí. Tôi và Hòa được rủ tham gia. Ai không chơi, ngồi ngoài chầu rìa, tình nguyện đóng vai “thầy bàn”. Tôi mang danh “thầy cúng”, vì thua triền miên. Trung tá Nam đánh rất bạo, mới nước thứ hai đã tố xả láng, tapis (Mỹ gọi là “all in”) liền, thua hết tiền, đứng dậy, tỉnh queo, nhưng thường thường ông thắng, vì đa số nhát, không dám bắt dù đoán ông tháu cáy. Một đêm, đang sát phạt, Đại tá Kiểm bất thần xuất hiện. Ông ghét cay ghét đắng cờ bạc, nên la mắng tận tình, từ cấp trung tá trở xuống, ai nấy ngồi yên, chịu trận. Nhưng qua hôm sau, ông vui vẻ trở lại, coi như không có chuyện gì xảy ra. Những trận phé chui, vì thế, vẫn tiếp diễn trong hồi hộp.

Nói lại công việc dịch. Thực ra, lúc đầu, tôi cũng vất vả với những danh từ quân sự và khuôn mẫu xã giao, cả Việt lẫn Pháp, mặc dù nội dung không có gì khó khăn, gây cấn. Vài lá thư thường xuyên than phiền về việc làm của một, hai đơn vị QLVNCH trong làng xã gần biên giới. Vài thư chia sẻ tin tức quân sự, báo cáo, tổng kết công tác phối hợp. Một số ít thư qua lại mang tính cách ngoại giao như mừng Ngày Quân Lực VNCH, chia buồn vụ Tướng Đỗ Cao Trí tử nạn, hoặc, ngược lại, những lễ lớn của quân đội Cam Bốt. Son Sanjivith cho tôi một quyển cẩm nang về cách viết công văn bằng tiếng Pháp với những câu xã giao có sẵn. Cứ thế mà ráp vào. Sau hai tuần, tôi quen, và bất kỳ văn thư dài ngắn, tôi chỉ đăm chiêu suy nghĩ một hồi, gõ máy chữ (lúc ấy chưa có computer) hai mươi phút là xong. Rồi thay đồ dân sự. Tự do như gió.

Đôi khi tôi đến sân tennis, gần phi trường Pochengton, múa vài đường banh cho giãn gân cốt, kiểu trưởng giả học làm sang, chứ không mong ăn cái giải gì. Nhờ vậy, một ngày đẹp trời, nhân đi xem một trận đấu quốc tế tôi được gặp tại đó một bạn JECU (Thanh Sinh Công Đại Học) cũ, xinh đẹp, vô cùng dễ thương, Yvette Trương Tấn Trung, cựu sinh viên Dược Sài Gòn. Tha hương ngộ cố tri là một trong tứ… vui. Cả hai hết sức ngạc nhiên, ôm chào nhau mà miệng cùng lúc hỏi nhau một câu giống y chang: “Mais qu’est-ce que tu fais ici?” (Nhưng mà toa làm gì ở đây?)... Yvette lấy chồng người Cam Bốt, bạn học trường Dược ở Paris, về Phnom Penh mở một tiệm thuốc Tây, cũng gần đó. Hỏi thăm nhau nhiều chuyện mới, ôn lại nhiều kỷ niệm cũ. Yvette ghi địa chỉ và số điện thoại mời “toa hôm nào đến nhà tụi này chơi.” Tôi hứa, rồi lại quên, cho đến ngày trở về Việt Nam, lên phi trường Pochengton, mới sực nhớ, nhưng trễ quá, không làm được gì nữa. Sau 1975, thỉnh thoảng tôi tự hỏi không biết Yvette và chồng con có thoát được nạn Khmer Đỏ. Năm 1988, tôi ở Paris, tìm trong niên giám điện thoại tên Yvette Trương. May quá, gọi được. Tôi nói, xin lỗi đã không đến thăm ở Phnom Penh và mừng vì Yvette và gia đình trở lại Pháp trước 1975. Lúc ấy, tại Paris, Yvette làm trong một hãng bào chế thuốc.

Một hôm, bà Mộng Tuyền qua Phnom Penh thăm chồng. Thực sự, tôi chỉ nghe tên bà, chứ chưa hề diện kiến dung nhan và cũng chẳng biết bà hát tân nhạc hay cổ nhạc nữa. Quả thật, danh bất hư truyền. Bà rất đẹp, nước da trắng như trứng gà bóc, lại lịch thiệp, gọi tôi bằng “chú” (em). Nhân dịp, Trung tá Nguyễn Văn Nam rủ tôi cùng đi với ông bà, và vài sĩ quan khác, thăm trại Việt Kiều Phnom Penh, gần bến tàu, dưới quyền kiểm soát của chính phủ Miên. Năm 1970, sau khi Lon Nol, với sự trợ giúp của hoàng tử Sirik Matak lật đổ vua Sihanouk (Sirik Matak thuộc dòng chính, đáng lẽ lên ngôi vua, nhưng Pháp chọn Sihanouk, nên rất hận ông này), những người Việt Nam, dù sinh trưởng tại Cam Bốt đã lâu đời, đều bị bắt giết dã man trong thảm nạn “cáp duồng”. VNCH phản ứng chậm, và hàng ngàn người đã chết, như báo chí Việt Nam thời ấy tường thuật. Một số được hồi hương. Một số đang chờ tàu hải quân chở về Việt Nam, như trại tập trung Việt Kiều mà chúng tôi đến thăm. Xem như đi công tác CTCT và sợ bị “cáp duồng” bất tử, chúng tôi được lệnh mặc quân phục và mang theo hai cây M16.

Trại nằm trong khuôn viên một ngôi chùa lớn, trên một sân rộng, có hàng dây kẽm gai vây quanh và rải rác cả trăm lều vải. Hầu hết là những gia đình, đầy trẻ em nheo nhóc, làm ruộng hoặc đánh cá, không nói hoặc nói ít tiếng Việt. Da ngăm đen, trông không khác người Miên, tay chân khẳng khiu vì thiếu dinh dưỡng. Cảnh sống quá thảm thương. Tôi bước theo ông bà Trung tá Nam và Thiếu tá Khôi Hải quân, thăm hỏi một số đồng bào. Một cô trẻ đẹp, khoảng mười tám, da trắng, môi thắm tự nhiên, ngồi một mình buồn bã ở một góc lều. Chúng tôi dừng lại. Thấy tôi, cô nghẹn ngào khóc:

– Anh cứu em với.
– ?
– Cả gia đình em ở Kompong Thom bị giết chết hết. Em chạy trốn được xuống đây. Em chưa có chồng, anh lấy em đi, em mới thoát được chỗ này.
Tôi biết cô nói thật, và có thể với nhiều người khác, vì quá tuyệt vọng. Trung tá Nam nhìn tôi, rồi nhìn cô, an ủi:
– Tàu Hải quân sắp lên đón đồng bào về Việt Nam. Cô đừng lo.
Còn tôi móc bóp, tặng cô một trăm riel, tương đương năm đô. Cô lắc đầu, không lấy, khóc nức nở thành tiếng. Tôi đặt số tiền dưới chân cô, chào và đi thẳng. Viết đến đây, tôi thầm hỏi, cô giờ này ở đâu, còn sống hay đã chết, hỡi cô gái tỵ nạn không biết tên, nạn nhân của chiến tranh ngu ngốc và độc ác của loài người –một Barbara trong thơ của Prévert? 

II. Soriya :
“Sweet Helen, make me immortal with a kiss”
(Christopher Marlowe, XVIth c., Faust) 
“You gods […] ought to be ashamed of yourselves! You are always jealous…”
(lời Calypso nói với thần Hermès, trong The Odyssey của Homère, quyển V)

Tòa đại sứ VNCH gần Phái Đoàn Liên Lạc Quân Sự, trên đường Norodom, nếu tôi nhớ không lầm. Tôi chỉ đến hai lần. Lần đầu vào đầu tháng tám, 1971, khi ông Đại sứ Trần Văn Phước mở một tối tiếp tân, tôi không nhớ nhân dịp lễ nào. Cả Phái Đoàn được mời tham dự. Đèn hoa treo rực rỡ, sáng trưng. Có một số đại diện đồng minh, như Mỹ, hay Lào, Nhật, Thái Lan, Miến Điện… Ăn theo kiểu self-service, rượu vang và champagne uống thả giàn. Một cô Cam Bốt, tay cầm ly rượu, tay cầm đĩa thức ăn, đến bàn tôi, xin ngồi cùng. Và tự giới thiệu, Soriya, thư ký đả tự của Tòa đại sứ Việt Nam. Cô nói tiếng Pháp lưu loát, giọng trong vắt. Trong câu chuyện, cô hỏi tôi có phải là Trung úy thông dịch viên, nghe danh Trung úy lâu rồi, hôm nay mới được làm quen, v.v… Cô dáng cao gầy, nước da bánh mật, có chiếc răng khểnh xinh xinh, nhưng lúc ấy rượu vào, lại được ngồi cạnh người đẹp, tôi thấy cô quyến rũ khác thường, còn hơn cả tiên nữ giáng trần. Lòng lâng lâng yêu đời, tôi bắt đầu trổ tài tán dóc, nghĩa là nói nhiều, nói dai, nói giễu hơn thường lệ. Cô kể, em quê ở Battambang, học tới Bac II, rồi đi làm, hôm nào mời anh đi về quê em chơi… C’est promis? –C’est promis. Tôi hứa đại.

Lần thứ hai tôi đến Tòa đại sứ, mười ngày sau. Tìm gặp Soriya, một buổi trưa, không hẹn trước. Cô đang đánh máy, thấy tôi, vội vàng chạy ra cửa, ôm hôn theo kiểu Đầm, mỗi má hai chiếc. Tôi mời cô tối ra phố ăn cơm. Trong tiệm, một lúc nào đó, tôi nói:

– Tên em đẹp quá. Soriya có nghĩa gì vậy?
– Mặt trời. Mặt trời sưởi ấm những trái tim lẻ loi. Anh có tin là em cô đơn?
Tôi siết nhẹ tay cô:
– Có. Bien sûr. Người ta không nói dối khi nói mình cô đơn. On ne ment pas quand on dit qu’on est seul. Hình như câu đó của James Jones trong Tant qu’il y aura des hommes.
Rồi bỗng cô ngập ngừng, hỏi:
– Sao anh lại chọn nghề này, em muốn nói, nghề lính, bắn giết nhau, hay ho gì?
Tôi nhìn sâu vào mắt cô, để tìm xem có ẩn ý nào không, rồi chậm rãi trả lời:
– Trong lúc đất nước chiến tranh, tôi không có sự chọn lựa. Đi lính càng không phải là một chọn lựa. Có lẽ tại số. Trước khi biệt phái sang đây, tôi là lính chiến, đã bắn và bị bắn trả. Huề. Có một điều bí mật tôi muốn chia sẻ với em mà em chưa được học từ bài học philo hay littérature nào... Đó là loài người chúng ta thường bị ganh tị bởi những vị thần linh bất tử…
Cô im lặng, chưa hiểu. Sau một hớp rượu, tôi tiếp:
– Tôi đọc ở đâu đó, trong L’Iliade hay L’Odyssée của Homère, tôi không nhớ chắc, rằng các vị thần linh trong thần thoại vì là bất tử nên thường hay ganh tị với loài người, ils nous envient, tu sais, bởi chúng ta ai cũng phải chết một ngày, sớm hay chậm hơn, mười năm, ba mươi năm, bốn mươi năm. Cho nên, mỗi một ngày trần thế của chúng ta, của em, của tôi trở thành đẹp vô ngần, quý giá hơn cả ngọc ngà, châu báu. Cũng trong L’Iliade, có đoạn viết rằng các vị thần đứng đầu là Zeus, tức Jupiter, chia làm hai phe trong cuộc chiến giữa thành Troie và Hy Lạp. Họ thèm được đánh nhau như loài ngưòi. Tôi suy diễn, thèm được chết như loài người. Vois-tu, Soriya, les dieux qui sont immortels et ceux qui se croient immortels n’ont pas le lugubre plaisir, ou plutôt l’agréable malheur, d’être condamnés à mourir, à attendre la mort à chaque instant… comme nous tous, comme moi, comme toi, d’ailleurs. Thần linh bất tử không có cái diễm phúc bi thảm, nỗi đau thương dịu dàng được chết, được chờ đợi cái chết đến, từng phút, từng giây, không có thảm kịch bị án phải chết bất cứ lúc nào, như kiếp người mong manh. Như những người lính xông pha ngoài chiến địa… Không bao giờ tôi thấy đời đẹp, và em đẹp hơn là lúc này, khi biết đâu ngày mai ta không còn thấy nhau nữa. Em hiểu tôi chứ?
Soriya suy nghĩ, trầm ngâm, hồi lâu, rồi nói:
– Em hiểu và biết thêm nhiều điều lạ... Merci, mon cher ami.
Trước khi chia tay, cô lại nhắc chuyện đi thăm Battambang. Promis? –Promis. Tôi lại hứa. 

Mãn hạn ba tháng, tôi xin Đại tá Tô Văn Kiểm cho về Việt Nam, mặc dù ông –và cả Nguyễn An Hòa và Trung tá Nguyễn Văn Nam– cố thuyết phục tôi tiếp tục làm việc tại Phái Đoàn, thậm chí đề nghị cho nghỉ phép một tháng với gia đình, rồi trở lại cũng được. Mặc dù rất nhiều người thích qua Phnom Penh, thay chỗ của tôi. Tôi cũng không hiểu tại sao muốn về Việt Nam, trong khi không có vợ con, người yêu để mà vướng bận. Có lẽ vì chán khung cảnh thành phố hàng ngày đơn điệu, trống rỗng, và thấy nhớ núi rừng và mùi hương cau, hương bưởi của những ngày hành quân qua các thôn nghèo và cánh đồng cằn cỗi, những trẻ em và phụ nữ bị thương vì mìn Việt Cộng. Không còn ước mơ được làm việc tại Bộ Tổng Tham Mưu Sài Gòn nữa.

Tôi không từ giã Soriya. Lời hứa đi thăm quê nàng bay theo mây khói. Mười ba năm sau, 1984, tại trại tỵ nạn Bataan, Philippines, chợt nhớ Soriya quay quắt, và ân hận vô vàn, tôi đến khu người Cam Bốt, tìm nàng và hỏi thăm tin tức. Soriya. Không ai biết. Không chừng, năm 1975, Soriya đã bị giết bởi bọn Khmer Đỏ, một người bảo tôi, vì là nhân viên của Tòa đại sứ VNCH. Battambang “quê em” mỗi ngày một xa lắc lơ, biết bao giờ đến được? Tôi bỗng nhớ lời tôi đã nói với nàng trong tiệm ăn năm xưa: “Những vị thần bất tử thường hay ganh tị chúng ta…”

Soriya có lẽ đã bị giết như hai triệu người Cam Bốt đồng hương. Như, có lẽ, Thiếu tá Son Sanjivith. Như, chắc chắn, Sirik Matak, cựu thủ tướng của họ.

III. Sirik Matak: 
“My soul, do not seek immortal life, but exhaust the realm of the possible”
(Pindar, 518-438BC, Pythian Odes, III, 109) 

Một hôm, Đại tá Kiểm bảo tôi ăn mặc chỉnh tề, lên chiếc xe Limousine hay Mercedes, tôi không nhớ, của Phái Đoàn, đi với ông đến dinh Hoàng thân Sirik Matak, quyền Thủ tướng trong thời gian Lon Nol chữa bệnh ở Hawaii. Để họp, ông giải thích, cùng với những nhân vật quan trọng khác. Tôi biết Đại tá Kiểm không cần sự thông dịch của tôi, mà không hiểu sao vẫn dẫn tôi theo, có lẽ vì lòng thương mến dành cho tôi, tôi chủ quan nghĩ như vậy. Trong khi các vị họp hành, bàn luận, tôi tìm chỗ ngồi phía dưới cùng, lắng nghe, quan sát.

Sirik Matak có nét mặt xương xương, người gầy, dong dỏng, vẻ thông minh, nhã nhặn, nói tiếng Pháp sành sỏi. Qua bài diễn văn ngắn của ông (tôi không nhớ chính xác câu nào, mà chỉ những allusions, liên tưởng xa xôi, bóng gió bằng ngôn ngữ ngoại giao, với những động từ chia ở mode conditionnel hay subjonctif, như nous ne croirions pas que…, tout nous aurait indiqué que…, quoi qu’on puisse en dire, nous aurions de bonnes raisons pour…) tôi đánh hơi cảm nhận nơi ông một sự hoài nghi về những lời cam kết và lòng trung thành của người Mỹ đối với Cam Bốt và sự dị ứng cá nhân đối với người Việt Nam, dù Quốc gia hay Cộng sản. Nhưng ông nói rõ, ông cần sự hỗ trợ của Mỹ và Nam Việt Nam trong cuộc chiến đấu chống Bắc Việt, đang được đỡ đầu bởi Trung Cộng (lúc ấy có tòa đại sứ, hay lãnh sự, tại Phnom Penh). Đó là lần duy nhất tôi thấy ông. Từ đó, tôi không bao giờ nhớ đến Sirik Matak nữa.

Cho đến những năm gần đây, tên ông bỗng trở về trong ký ức. Quả vậy, cứ mỗi dịp tưởng niệm ngày 30/4, đồng hương lại đem đăng tải và dịch trên báo lá thư từ chối đi Mỹ của ông gửi đại sứ John Gunther Dean. Để tôn vinh ông như một anh hùng. Trong bức thư quá nổi tiếng ấy –mà nhà báo và bình luận gia chính trị Gabriel Schoenfeld xem như một trong những tài liệu quan trọng nhất của cả thời kỳ chiến tranh Việt Nam– có một cụm chữ mà không ai dịch đúng, từ dịch giả Phạm Kim Vinh (trong Tháng 4 đen, Vietnam xuất bản, 1988) đến những bản dịch trên mạng, trong câu: “But mark it well that, if I shall die here on the spot and in my country that I love, it is too bad [tôi nhấn mạnh] because we are all born and must die one day”. Tiếng Pháp: “Mais, notez-le bien, si je meurs ici, dans mon pays que j’aime, tant pis, car nous sommes tous nés et nous devons mourir un jour” (Olivier Todd, Cruel Avril, nxb Robert Laffont, 1987, tr. 274)...

Phạm Kim Vinh dịch cụm từ too bad và tant pis thành: “cũng chẳng sao” (sđd, tr. 225). Chết cho quê hương mình yêu dấu đâu phải là chuyện nhỏ, mà “cũng chẳng sao” ư? Còn trên mạng thì được dịch: “đó là điều tệ hại”, hoặc tương tự. Chết cho đất nước như thế, tại sao lại là “điều tệ hại”? Chứng tỏ người ta không hiểu rõ tâm tư của tác giả, Sirik Matak, và lý do khiến ông, mặc dù nói cứng như vậy, vào phút chót đã chạy vào lãnh sự quán Pháp để rồi bị đẩy ra nộp giao cho bọn Khmer Đỏ và sau đó bị giết.

Quả vậy, too bad và tant pis, theo nghĩa thông thường và cảnh huống (contexte) của bức thư phải được dịch là “mặc kệ tôi”: “… Nếu tôi phải chết ngay tại đây, trên đất nước của tôi mà tôi yêu mến, thì cũng mặc kệ tôi, bởi vì tất cả chúng ta được sinh ra và phải chết một ngày…” “Mặc kệ tôi” hàm chứa một sự bất cần, và nhất là, ở đây, một sự uẩn ức, đối với đối tượng của bức thư, tức là chính phủ Mỹ –đã quyết định bỏ rơi Cam Bốt. Nghĩa là, tôi có chết thì cũng mặc kệ tôi, các người đừng thương tiếc làm gì, đừng nhỏ giọt nước mắt cá sấu, v.v… Điều này rất “người” (humain), nghĩa là hợp với tâm trạng chán chường, bất lực và ngôn từ bực bội của một nhà lãnh đạo một nước yếu đang thấy mình bị phản bội bởi một đồng minh mạnh hơn. Giận người đã đành, mà còn giận chính mình đã cả tin vào người Mỹ: “I have only committed the mistake of believing in you, the Americans”. Câu đó làm tôi nhớ bài diễn văn năm xưa của ông đã được nghe trong buổi họp. Ông đã đúng khi nghi ngờ người Mỹ. Người Mỹ đã phản bội ông, quốc gia của ông thật sự. Rõ ràng, trắng trợn. Cũng như đã phản bội kháng chiến quân Cuba năm 1961 trong vụ Bay of Pigs, Tổng thống Ngô Đình Diệm năm 1963, Việt Nam Cộng Hòa năm 1975, quốc vương Shah của Iran năm 1979, và Tổng thống Ai Cập Hosni Mubarak, đồng minh lâu đời, tháng 2/2011… Ví dụ còn nhiều. Cũng vì vậy mà Sirik Matak mới từ chối đề nghị giúp đỡ ra đi bởi chính phủ Mỹ trong một lá thư riêng gửi cho nhân dân Mỹ qua ông đại sứ Mỹ. Vấn đề chỉ là cá nhân giữa ông và Mỹ. Như thế, không có nghĩa, và không có đoạn nào ám chỉ, ông sẽ từ chối mọi sự giúp đỡ, nếu có, nếu cần, của những tòa đại sứ khác, chẳng hạn. Thế thôi. Có như vậy người ta mới hiểu tại sao ông đã xin tỵ nạn trong lãnh sự quán Pháp.

Phải công nhận bức thư của Sirik Matak, dù được viết trong bối cảnh nào, quả là tuyệt vời. Bức thư với giọng nhẹ nhàng, lịch sự mà vô cùng cay đắng, kiêu hãnh của một nhà lãnh đạo anh hùng, có khí phách, có trách nhiệm, không đào ngũ trước khi tai họa giáng xuống. Một bản cáo trạng hùng hồn về sự phản bội, qua những câu bình dị, nhưng làm nhức nhối tâm can.

Bức thư tuyệt vời, so với bài diễn văn của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu. Chúng ta, những người lớn tuổi, còn nhớ buổi tối 21/4/1975, trong giờ tổ quốc lâm nguy, ông đã lên tivi, lúc thì đanh thép lúc thì nghẹn ngào, để tố cáo Mỹ như thế nào về việc cúp viện trợ cho Việt Nam, nghĩa là bỏ rơi Miền Nam, nào là “Hoa kỳ nuốt lời hứa. Bây giờ còn ai tin lời của người Mỹ?”, nào là “chúng ta không thương lượng với Mỹ để có vài triệu đô la giống như chúng ta đi trả giá ngoài chợ cá”, v.v… (xem các báo cũ Việt Nam và Mỹ như The New York Times, Los Angeles Times, v.v…). Đặc biệt, câu cuối cùng: “Tôi từ chức, nhưng tôi không đào ngũ. Tôi sẽ trở về với quân đội, chiến đấu sát cánh với các chiến hữu.” Năm ngày sau, ông rời khỏi Sài Gòn trong một chiếc Mercedes bịt kín, do một đoàn xe CIA hộ tống dưới quyền chỉ huy của Frank Snepp (cf George J. Church, “Saigon: The final 10 days”, Time Magazine, 4/24/1995), ra phi trường, có đại sứ Martin đứng chờ, để đi Taiwan trên chiếc máy bay C-130 sơn đen, với 15 tấn hành lý, và nếu ta tin lời Gabriel Kolko (The Guardian, Oct 2, 2001) “có hai va-li lớn đầy vàng”, hoặc David Lamb của tờ Los Angeles Times, “với số vàng trị giá 15 triệu dollars” (and USD 15 million in gold)...???????????

Một số phận, hai nhân vật. Bức thư của Thủ tướng Sirik Matak tuyệt vời, trên cả tuyệt vời. Cho nên đã được Henry Kissinger đọc cho Quốc Hội Mỹ, để họ nghe thấm thía thêm nỗi nhục nhã và hối hận, biết đâu! Cho nên được lưu trữ tại Thư Viện Quốc Hội Mỹ như một tài liệu quan trọng, trong khi ở đó không có bức ảnh nào của ngũ tướng tuẫn tiết VNCH (tại sao, mặc dù vì niềm tự hào truyền thống không ai trong chúng ta đòi hỏi phải có?). Cho nên đã được người Việt tỵ nạn hàng năm đem ra đăng lại để tô rạng ngời thêm tấm gương dũng liệt của một lãnh tụ ngoại quốc, một đồng nạn nhân của sự tráo trở, phản trắc.

Nhưng, tiếp theo bức thư tuyệt mệnh ấy, vào ngày 17/4/1975, ông hoàng, cựu Thủ tướng Sirik Matak đã chạy vào lãnh sự quán Pháp, cùng với hai cận vệ –điều mà ít ai biết, chú ý hay còn nhớ– và những viên chức cao cấp của chế độ: Ung Boun Hor, chủ tịch Quốc Hội Cam Bốt, Long Boret, thủ tướng đương nhiệm, công chúa Mam Manivane, gốc Lào, vợ thứ sáu của Sihanouk, con gái, con rể, và hai cháu ngoại của bà, và nhiều người khác, không dưới 100. Dù không được mời. Dù bị xua đuổi thẳng thừng, thô bạo, và giao nộp cho Khmer Đỏ ba hôm sau, để tất cả bị giết sạch, kể cả đàn bà con nít, bởi loài thú hung hãn mang hình người.

Tấn thảm kịch này được kể lại, kèm theo hình ảnh, bởi nhiều nhân chứng, tác giả Pháp, Mỹ, Miên, từ Olivier Todd, François Bizet (Le Portail, La Table Ronde, 2000), đến Henry Kamm (Cambodia: Report from a Strickenland, Arcade Publishing, 1998), v.v…, và những ký giả quốc tế. Kể lại bởi những phiên tòa quốc tế xét xử bọn Khmer Đỏ. Và nhất là bởi vụ kiện được thụ lý từ tháng 4/2008 tại tòa án Créteil, Paris, do bà góa phụ Billon Ung Boun Hor, tác giả quyển Rouge barbare (Ed. Respublica, 2009), khởi tố chính phủ Pháp đã ra lệnh nộp chồng bà cho Khmer Đỏ –vụ án mà tất cả báo chí Pháp tường thuật, đang làm thức tỉnh và hổ thẹn lương tâm người Pháp, cũng như bức thư của Sirik Matak, từ 36 năm trước, đã làm thức tỉnh và hổ thẹn lương tâm người Mỹ. 

Hoàng thân Ung Boun Hor, Chủ tịch Quốc Hội Cam Bốt, bị nhân viên Sứ quán Pháp đẩy ra cửa giao nộp cho Khmer Đỏ, ngày 20/4/1975. Hình trong báo Newsweek, số ngày 19/5/1975, được luật sư của bà Billon Ung Boun Hor trưng ra trước tòa, để phản bác lập luận của chính phủ Pháp cho rằng những chính khách Cam Bốt tự nguyện rời khỏi Lãnh sự quán. Trích lại từ báo Thế Giới Ngày Nay (Kansas, chủ nhiệm Lê Hồng Long) số 207, tháng 7&8, 2010, trang 36.

Chính phủ Pháp không xấu, nhưng trong vấn đề chính trị, thường phá bĩnh, chọc gậy bánh xe, ganh đua với người Mỹ, vì mặc cảm hay hội chứng de Gaulle –chịu ơn Mỹ, nhưng vẫn ghét Mỹ. Tại Việt Nam, người ta chưa quên hành động lăng xăng của ông Jean-Marie Mérillon và Tòa đại sứ Pháp ở Sài Gòn giữa Dương Văn Minh và MT Giải phóng Miền Nam và Bắc Việt trong những ngày cận kề 30/4, tự nguyện làm trung gian cho một chính phủ trung lập, để rồi bị Bắc Việt sau khi chiến thắng đuổi chạy có cờ. Thật ngây thơ, như muôn đời họ vẫn. Và riêng ở Phnom Penh, tháng 4, 1975, con cháu của những anh hùng Charlemagne, Jeanne d’Arc, và Napoléon đã quá hèn nhát, một cách độc ác, tồi tệ.
Nhưng thôi, có ai học được chữ ngờ? Tôi xin ngưng ở đây. Việc này hãy để công lý, lịch sử và thời gian xét xử, và không là chủ đích bài viết của tôi.

Điều tôi muốn bàn tiếp là tôi lấy làm tiếc, rất tiếc cho Sirik Matak –một người tôi đã thấy, đã nghe, đã đọc. Giá ông vẫn ngồi đó, tại bàn làm việc, và nhận phát đạn của Khmer Đỏ hay của chính mình! Bề nào thì cũng chết cho quê hương mà ông yêu dấu, như ông đã viết trong thư. Giá ông đừng chạy vào lãnh sự quán của Jean Dyrac! Để làm gì, nếu không mong bảo toàn sinh mạng và được cấp một trong 300 tờ hộ chiếu mà luật sư Patrick Baudoin của bà Billon Ung Boun Hor nói Jean Dyrac đã mang về Pháp còn trắng trơn? Như vậy, xin nhắc lại, việc Sirik Matak từ chối lời mời của John Dean chỉ là vấn đề cá nhân giữa ông và nước Mỹ. Từ chối lời mời của một đồng minh đầy quyền lực nhưng hai mặt, và gõ cửa một người bạn mình tưởng tử tế, nhưng quá hèn mạt, xua đuổi mình trong lúc hoạn nạn, hành động nào đúng hơn? Và trước khi bị giết, ông cựu thủ tướng có nghĩ rằng ông đã phạm một lỗi lầm nữa, đó là tin vào người Pháp, cũng như trước kia ông đã tin vào người Mỹ (chỉ cần đổi chữ the Americans thành les Français trong câu: “je n’ai commis qu’une erreur, ce fut de vous croire et de croire les Français”)?

Tôi không có ý phê phán Sirik Matak, vì tôi không là cái gì cả để dám xét đoán một vĩ nhân. Một lần nữa, tôi chỉ tiếc cho ông. Bức thư tuyệt diệu kia đã đưa ông lên ngôi vị anh hùng, héros, trong lòng tôi và dưới mắt hàng triệu người. Việc ông chạy lánh nạn tại lãnh sự quán Pháp đã đem ông xuống hàng mà tôi tạm gọi là “bán anh hùng”, demi-héros. “Bán anh hùng”, tức một nửa anh hùng, nhưng vẫn hơn người phàm tục, như tôi, như biết bao kẻ khác, gấp bội. Vẫn hơn những “đồng nghiệp” của ông bên kia dòng sông Mê Kông như Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu và một số lỉnh (dấu hỏi) tướng Việt Nam… Vẫn hơn “đồng hương” Lon Nol lúc ấy còn tắm nắng trên bãi biển Hawaii, và Sihanouk đang mở yến tiệc linh đình tại Bắc Kinh.

Tuy nhiên, cựu thủ tướng Sirik Matak có lẽ chưa biết gương tuẫn tiết của những anh hùng trong lịch sử Việt Nam cận đại: Võ Tánh, Ngô Tòng Châu, Phan Thanh Giản, Hoàng Diệu, đã không tìm đường thoát thân dù bị vây khốn, và quyết chết theo thành. Của Tổng thống Ngô Đình Diệm và bào đệ cố vấn Ngô Đình Nhu, dù nếu có phạm khuyết điểm gì đi nữa, đã tỏ ra là một nhà lãnh đạo cao cả, can trường, bằng cách khước từ lời Cabot Lodge mời đến một nơi an toàn (cf Thomas Boettcher, Vietnam, The Valor and the Sorrow, sđd) và cũng không chạy vào bất cứ tòa đại sứ nào, trên bước đường cùng, để rồi bị sát hại dã man mặc dầu đã đầu hàng (hai ông bị trói và xác bị đâm nát) bởi bọn phản tướng. Của năm vị tướng Tư lệnh của Quân Lực VNCH, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Phạm Văn Phú, đã tử tiết trong khi có đủ phương tiện ra đi. Của nhiều vị sĩ quan và quân dân cán chính vô danh khác đã âm thầm tự kết liễu đời mình. Hay, ít ra, của cựu Tổng thống Trần Văn Hương, qua bài viết mới đây bởi sử gia Trần Gia Phụng (cf “Lịch sử phán xét”, Toronto, 29/1/2011, trên website):
“Trước khi Sài Gòn sụp đổ, ngày 28-4-1975, đại sứ Pháp cho người mời tổng thống Hương di tản. Tổng thống Hương trả lời: ‘Nếu trời hại, nước tôi mất, tôi xin thề là sẽ ở lại đây và mất theo nước mình.’

Sau đó, ngày 29-4-1975, đích thân đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin, cùng một viên tham vụ sứ quán nói tiếng Pháp, đến gặp và mời Trần Văn Hương ra đi. Hai bên nói chuyện bằng tiếng Pháp. Ông Hương trả lời: ‘Thưa Ngài Đại sứ, tôi biết tình trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Đã đến đỗi như vậy, Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó. Nay ông Đại sứ đến mời tôi ly hương, tôi rất cảm ơn ông Đại sứ. Nhưng tôi đã suy nghĩ kỹ và dứt khoát ở lại với nước tôi. (…..)

Tôi là người lãnh đạo hàng đầu của họ, tôi tình nguyện ở lại để chia sẻ với họ một phần nào niềm đau khổ tủi nhục, nỗi thống khổ của người dân mất nước. Cảm ơn ông Đại sứ đã đến viếng tôi.’ Sau khi nghe Trần Văn Hương trả lời, trong đó có câu ‘Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó’ (Les États Unis ont aussi leur part de responsabilité…), đại sứ Martin nhìn trân trân vào ông Hương, rồi ra đi mà chẳng bắt tay nhau.” (Trần Đông Phong, Việt Nam Cộng Hòa 10 ngày cuối cùng, California: Nxb. Nam Việt, 2006, tt. 352-355). 

Những câu trên đầy khí tiết, quả cảm, kiêu hãnh, mặc dù chỉ qua lời người thứ ba kể lại, của cựu Tổng thống Trần Văn Hương cũng tuyệt vời, đâu thua gì bức thư của Hoàng tử Sirik Matak, cựu thủ tướng Cam Bốt? 

Bởi vì, nếu biết, có thể Sirik Matak đã phải suy nghĩ rất nhiều trước khi chạy vào lãnh sự quán Pháp. Hoặc có thể ông không chạy đi đâu cả. Để qua đó, mãi mãi, hàng năm, cứ mỗi 30/4, khi đọc lại bức thư khẳng khái của ông, tôi và đồng hương và những thế hệ con cháu được hãnh diện trọn vẹn về ông.
Để qua đó, chúng tôi hy vọng thấy ông trong những miếu thờ tại một nơi nào trên đất Cam Bốt, cũng như các bậc đại anh hùng của tổ quốc chúng tôi trong những miếu thờ ở Việt Nam. 

Các bậc đại anh hùng mang hình hài của nhân thế, khác với những vị thần linh Hy Lạp cổ xưa, dù đã trở thành bất tử sẽ không bao giờ ganh tị chúng ta, vì đã đạt đến diễm phúc bi thảm đợi chờ cái chết đến mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút –đặc ân mà chỉ loài người khả tử chúng ta mới được nhận lãnh.
Điều đó, tôi cũng sẽ nói thêm cho Soriya nghe, tiếp nối câu chuyện về thần linh năm nào dở dang, nếu một mai được gặp lại nàng ở kiếp này. Hay kiếp khác.

Portland, cho Tháng Tư Đen
KIM THANH