Trung Đoàn 45 của Sư Đoàn 23 Bộ binh VNCH đang trên đường cứu viện.
Nhiều kỳ – kỳ 10
Ðể đánh lừa địch, tôi cho đặt một quả mìn chống chiến xa dưới một cục
đá mỏng, trên cục đá là một lưỡi xẻng rỉ sét. Máy rà mìn sẽ reo lên khi
rà sát mặt đất có lưỡi xẻng và quả mìn. Ðịch thấy cái lưỡi xẻng nhưng
không ngờ dưới đó có một cục đá đè trên quả mìn! Chúng sẽ ơ hờ bỏ qua,
rồi tiếp tục đi tới, lại thấy một mảnh kim loại đè trên cục đá, chúng
không nghĩ dưới cục đá còn có quả mìn…Tôi leo lên chòi canh, mắt tôi nhìn không chớp: Một cột khói đen kịt cuồn cuộn dâng lên, cùng lúc những tiếng “Bùng! Bùng! Lách! Cách!…” do đạn cháy nổ trong chiếc xe tank mới cán mìn!
Tôi đứng lặng người lo lắng:
“Vậy là K16 Tank tham chiến! Chắc phen này mình tiêu tùng rồi!”
K16 Tank là tiểu đoàn xe tank T54 trực thuộc Trung Ðoàn E 40 Pháo của Mặt Trận B3.
Trung Ðoàn E 40 Pháo là đơn vị yểm trợ hỏa lực trực tiếp của địch trong các chiến dịch lớn trên toàn lãnh thổ Vùng 2. Thời gian này Trung Ðoàn E 40 Pháo đang trú quân trong thung lũng Ia Drang. Nếu Tiểu Ðoàn K16 Tank này nhập trận thì chúng tôi nguy to.
Tôi có hai Box 1×1 kilomet dự trù sẵn sàng cho pháo binh chiến lược 175 ly đánh bất cứ lúc nào. Hỏa tập thứ nhất nằm cách chân tiền đồn Bắc, hai cây số, phủ trùm cả cái cống mà chiếc tank địch bị vướng mìn hồi chiều. Hỏa tập thứ nhì nằm trên con đường xe be hướng Tây. Nay là lúc tôi dùng tới hai hỏa tập dự trù này.
Lần đầu được nghe đại bác 175 ly yểm trợ, tôi có cảm tưởng như thời kỳ tháng 8 năm 1972, đứng trong giao thông hào ở trại Ðức Cơ chứng kiến pháo đài bay B 52 của Mỹ đánh những Box 1×3 kilomet cách rào trại chỉ hơn ba cây số.
Hai bên cổng Bắc đã có mười mấy cây M72 hờm sẵn; nòng súng đã được kéo thành ống phóng, bấm nút là đạn bay đi.
Khẩu 105 ly cổng Bắc không dùng để bắn những mũi tên sắt nữa, mà thay vào là những viên đạn chống tank với đầu nổ sơn đen.
Tôi có một khẩu súng SKZ 57 ly chống chiến xa, nhưng từ ngày đầu chiến dịch, khẩu súng này đã gãy nòng vì bị pháo kích.
Khuya 29 tháng 8 tôi ra mật lệnh cho một toán viễn thám sẵn sàng ở cổng Nam Pleime. Nếu chiến xa Việt-Cộng đè sập hết hàng rào, vào càn quét trên căn cứ thì toán sẽ mở toang cổng sau, quân ta sẽ vừa đánh vừa lui ra hướng sân bay.
Riêng tôi, chú Minh và chú Phước sẽ cố thủ trong lô cốt chứa thương binh.
Minh và Phước đã hứa sẽ cùng tôi chết bên nhau trên đất Pleime, sẽ không chạy, sẽ không đầu hàng.
Tôi lo lắng từng giờ, chờ những chiếc tank T54 xuất hiện nơi cổng Bắc.
Ðịa thế của Trại Pleime đóng một vai trò rất quan trọng trong công việc phòng thủ.
Doanh trại của đơn vị trú phòng nằm gọn lỏn trong vị thế lõm của cái lòng chảo giữa ngọn đồi có cao độ 403 mét. Các pháo đài chỉ cao hơn mặt đất chừng hai gang tay, thấp hơn chiều cao của cỏ tranh, do đó Việt-Cộng không phân biệt được đâu là pháo đài, đâu là tường đất để dùng đại bác mà trực xạ.
Hai mặt Nam và Ðông của Trại Pleime chưa hứng chịu lần tấn công nào, có lẽ do địa thế không thuận lợi. Mặt Ðông thì đất dốc đứng, không thể xung phong nhanh được, còn mặt Nam lại quá trống trải, bộ binh và tank rất dễ bị bắn hạ trước khi áp sát hàng rào phòng thủ.
Nếu tank địch mà tiến vào từ hướng Nam thì họ sẽ chết chắc! Sân bay Pleime chứa hàng trăm quả mìn, bộ binh dò đường vừa ló dạng đã chết bởi đạn Beehive của Trung úy Như. Tôi còn cầu trời xui khiến cho chúng đưa tank vào hướng Nam để tôi tiễn đưa chúng về trình diện Diêm Vương.
Ðêm xuống, trong máy truyền tin của tôi có tiếng người Miền Bắc chỉ vỏn vẹn một câu chứa đầy sự đe dọa:
“Thằng cứng đầu! Tao sẽ san bằng cái đồn của mày!”
Tôi đã nhận ra giọng nói quen của người phía bên kia, nên từ tốn trả lời,
– Tôi nghĩ rằng, người cầm quân tất nhiên phải cân nhắc thiệt, hơn. Chắc anh đã biết, muốn giết bốn trăm người dưới quyền tôi thì ít ra anh cũng phải chết một hai nghìn người! Lùa hai nghìn người vào chỗ chết để đánh đổi một cái đồn bé tí teo có phải là hành động khôn ngoan không? Chúng ta có ân oán với nhau, nhưng không thể vì thế mà coi rẻ hàng nghìn sinh mạng của những người dưới quyền mình.
Chờ khoảng năm phút sau không thấy người kia nói gì thêm, tôi bèn cúp máy.
Bốn tháng trước tôi và người này đã chửi nhau một lần vào ngày 14 tháng Tư năm 1974. Ngày đó ở Căn cứ 711, Trung Ðoàn 64/320A của ông ta bị tôi đánh tan hoang, còn tôi cũng bị cháy 12 chiếc chiến xa. Tới tối thì ông ta vào máy kêu gọi tôi đầu hàng.
Tôi lớn tiếng réo tổ tiên, ông nội, bà ngoại ông ta ra mà chửi.
Rồi tôi thách thức ông ta có giỏi thì cứ xông lên, lên bao nhiêu người tôi sẽ giết chết bấy nhiêu!
Thế là ông ta dốc toàn lực thành phần còn lại của sư đoàn dưới tay ông để đánh tôi. Ðêm 14 rạng 15 tháng 4 ông ta nướng hết Tiểu Ðoàn D20 Trinh sát; sáng hôm sau ông ta điều động toàn bộ Trung Ðoàn 48/320A vào trận.
Tới khi Trung Ðoàn 48/320A dùng tới thủ pháo chứa hơi độc hóa học thì tôi bị thua. Căn cứ 711 bị tràn ngập.
Quân của ông ta đã ôm vật tôi xuống đất định bắt sống thì bị Thiếu úy Trần Văn Phước bắn loạn cào cào, mấy tên bu quanh tôi đều trúng đạn.
Sau đó Trung úy Nguyễn Công Minh kịp thời tiếp cứu, rồi ba thầy trò tôi chạy bán mạng, thoát chết.
Sau trận đó Ðại tá Tất khuyên tôi nếu phải đánh nhau với ông ta lần nữa thì chịu khó nói năng dịu dàng hơn, đừng chọc giận ông ta nữa, ông ta mạnh hơn mình nhiều, tránh voi chẳng xấu mặt nào!
Ông ta là Ðại tá Kim Tuấn, Tư Lệnh Sư Ðoàn 320A Cộng Sản.
Mấy năm sau, khi đang bị giam giữ trong trại tù cải tạo Nam-Hà A ở ngoài Bắc, tôi nghe tin Thiếu tướng Kim Tuấn Tư lệnh Quân Ðoàn 3 của Cộng-Sản đã tử trận trên chiến trường Campuchia.
Chạm trán lần này tôi đã có kinh nghiệm, nên theo cách Ðại tá Tất mách nước, tôi dùng giọng điệu ôn hòa để đáp lại lời hăm dọa của ông ta.
Không biết qua lần đối thoại vừa qua, thái độ của tôi có ảnh hưởng gì tới quyết định rút quân của Ðại tá Kim Tuấn hay không?
Cũng có thể vì quả mìn chống chiến xa của tôi đã làm sập cái cống bắc ngang con suối khiến cho chiếc T54 mở đường cắm đầu xuống nước, nên những chiếc tank khác không tiến được.
Mặt khác, không loại trừ lý do mà Ðại tá Kim Tuấn ngừng tiến công Pleime chỉ vì ông ta e sợ bị sập bẫy của Tướng Nguyễn Văn Toàn. Ông Toàn đang có trong tay một thiết đoàn kỵ binh và một trung đoàn bộ chiến chưa sứt mẻ, dư sức chặn đường lui, và tiêu diệt gọn cái Tiểu Ðoàn K16 Tank của Bắc quân nếu họ bị lún càng vào một trận đánh xáp lá cà với những người tử thủ Pleime.
Hai ngày kế tiếp chúng tôi không thấy pháo cối, và không còn đợt xung phong nào nữa.
Ðêm 31 tháng 8 tôi cho hai toán trinh sát đi vòng quanh rào trại do thám tình hình, một toán xuất phát từ cổng Nam kiểm soát hướng Tây rồi về cổng Bắc. Một toán đi từ cổng Bắc vòng về hướng Ðông rồi vào cổng Nam.
Hai toán thám thính vòng đai về báo cáo rằng địch đã rút đi rồi!
Toán trinh sát hướng Ðông báo cáo rằng nơi bờ đất dốc đứng cách hàng rào ngoài chừng hai trăm thước là hàng trăm hầm hàm ếch của địch. Có lẽ đây là nơi trú ẩn của Trung Ðoàn 48/320A?
Trong thời gian một tháng qua, tôi chỉ dùng pháo 106 ly và 81 ly đánh sát hàng rào hướng Tây, chưa từng có viên đạn cối hạng nặng nào rơi sát rào Ðông. Ðạn cối 60 ly của tôi không có đầu nổ xuyên phá (delay) nên những lần đánh cận phòng hướng Ðông của tôi chẳng khác gì bắn “gãi ngứa” cho địch quân trên mục tiêu này.
Tối 1 tháng 9 tôi ra lệnh cho Chuẩn úy Bảo và Thượng sĩ Sơn dẫn đầu một trung đội của Ðại đội 1/82 leo lên Chư Gô tái chiếm cao điểm 509. Trung đội này tới mục tiêu thì địch đã rút đi rồi.
Cùng giờ, một trung đội của Ðại Ðội 4/82 do Chuẩn úy Nguyễn Hữu Phước và Thượng sĩ Phong cũng lên đường nhắm hướng Chư Hô. Trên Chư Hô, đơn vị phòng không của địch đã di chuyển, còn lại cỡ một tiểu đội đoạn hậu.
Gần 10 giờ đêm trung đội của Chuẩn úy Phước chạm trán với tiểu đội Việt-Cộng này. Hai bên bắn nhau chừng mười phút thì địch bỏ chạy xuống núi. Lá quốc kỳ Việt-Nam Cộng-Hòa được kéo lên ngọn cột cao giữa đỉnh Chư Hô vào đúng KHÔNG (0) giờ ngày 2 tháng 9 năm 1974.
Từ đỉnh núi Chuẩn úy Nguyễn Hữu Phước gọi cho tôi rồi báo cáo,
– Trình Thái Sơn, vùng hướng Tây dưới chân núi Chư Hô, xe của địch đang chạy thành đoàn, đèn chiếu sáng choang.
Thì ra, cơ giới địch đang rút đi!
Mấy ngày sau tôi đem theo Ðại đội 4/82 và một toán cận vệ vào thám sát khu vực mà chú Phước nói có đèn xe của Việt-Cộng thì phát giác ra nơi ấy là một vị trí đóng quân của cơ giới địch. Tiếc rằng thời gian qua, quân ta quá chú ý tới mặt trận hướng Bắc nên không có cuộc không tập nào trên mục tiêu lộ thiên này.
Vùng này nằm cách Pleime gần 5 cây số về hướng Tây Nam. Chắc chắn trận địa này đã được thiết trí sau ngày tiền đồn Chư Hô của ta rút chạy.
Thoạt nhìn ta có cảm tưởng như đang đứng trước vị trí trú quân dã ngoại của một đơn vị của Hoa-Kỳ thời 1968-1970.
Trên diện tích cỡ một sân bóng tròn, xe ủi đất đã tạo thành những ụ đất dành cho loại súng có bánh xe, có lẽ là phòng không 37 ly hoặc 100 ly. Những chùm đạn 37 ly và 100 ly mà Việt-Cộng bắn lên trời để thị uy trong thời gian vừa qua có thể đã xuất phát từ đây.
Mặt đất in đầy vết xích dấu chữ “V” chứng tỏ rằng bãi đậu xe này đã là nơi tập trung của một đơn vị chiến xa Việt-Cộng.
Nhìn dấu tích địch còn để lại, tôi nghĩ người chỉ huy Bắc Quân đã lên phương án sử dụng Tiểu Ðoàn K16 Tank T54 vào một trận đánh một mất, một còn với chúng tôi.
Nhưng có lẽ họ đã ước tính được sự tổn hại to lớn nếu thi hành phương án này, nên đã rút lui.
Chắc chắn họ đã thấy, với một mặt trận có chiều ngang chưa đầy hai trăm mét, làm sao đủ rộng để cho một tiểu đoàn cơ giới T54 tận dụng hỏa lực, hàng ngang tiến lên?
Ðó là chưa kể đến những trái mìn chống chiến xa nằm lền khên trong rừng trên cái dốc cổng Bắc, và dày đặc trên sân bay cổng Nam.
Tôi đã chuẩn bị sẵn, mỗi người thủ một trái lựu đạn M26 là phương tiện cuối cùng để tự đưa mình sang thế giới bên kia.
Tôi tin chắc rằng nếu phải chết, anh lính mù trong bệnh xá cũng rủ được vài cán binh Bắc Việt chết theo chứ đừng nói chi tới những chiến binh còn lành lặn.
Chỉ vì, “Một thằng liều mạng bằng mười thằng sợ chết!” nếu phải đánh nhau trận cuối, chúng tôi bị bắt buộc trở thành “những thằng liều mạng” chúng tôi bị đưa vào thế cùng chết với quân thù, thì dù cho đánh nhau với hai chục chiếc T54 của Mặt trận B3 hay hai trăm chiếc T54 chúng tôi cũng coi như pha!
Người chỉ huy Bắc Quân đã không đánh trận cuối cùng thì coi như chiến dịch Pleime 1974 chấm dứt.
Trong chiến dịch này, ban tham mưu của Sư Ðoàn 320A Bắc-Việt đã đánh giá sai khả năng chiến đấu của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân. Chắc họ tưởng đánh Pleime cũng dễ như chiếm Lệ Minh, nên cứ tiền pháo hậu xung, rồi lừng lững vác cờ tiến vào đồn? Không ngờ họ đã đối diện một cổng đồn đóng kín và những hàng kẽm gai dày đặc, để rồi vừa hô được hai tiếng “Xung phong!” tiền quân của họ đã chết như rạ vì những quả đạn Beehive.
Ðánh nhau kỳ này các đơn vị tiến công của địch đã bị dụ vào một cái bẫy, họ cứ tưởng lầm Pleime chỉ có 6 lớp hàng rào, như trên cái sơ đồ phòng thủ mà họ tịch thu được 4 tháng về trước, cứ cho Bangalore đánh thủng kẽm gai mở đường rồi chạy ào lên là có thể chiếm lĩnh mục tiêu, nhưng thực tế Pleime đã có tới 12 lớp rào, giữa hai hệ thống hàng rào lại là một vạt đất rộng hai chục thước đầy mìn bẫy!
Trận Pleime năm 1974 là một cuộc đấu trí và đọ sức trường kỳ không cân sức.
Nhưng với tinh thần chiến đấu quyết tử vì dân, vì nước của toàn thể chiến sĩ trong đơn vị, Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân đã chiến thắng.
oOo
Đồng bào ơi! Chúng con về đây!Khoảng 9 giờ sáng ngày 2 tháng 9 có một ông tiểu đoàn trưởng của Trung Ðoàn 45 Bộ Binh vào tần số chúc mừng tôi đã bình yên. Tiểu đoàn của ông ta và một chi đoàn của Thiết Ðoàn 8 Kỵ Binh đã tiến tới cách Pleime một cây số nhưng không chạm địch.
Ông ta dẫn theo một tiểu đội theo Tỉnh lộ 6C đi bộ vào thăm tôi.
Sau khi cho tháo gỡ ngòi nổ những quả mìn trên đường, tôi ra cổng Bắc bắt tay cám ơn người bạn đã vào cứu mình.
Ông này là một Ðại úy người Bắc, vì thời gian qua lâu quá rồi, nên tôi chỉ nhớ mang máng tên ông ta là Hiền hay Hiển gì đó. Tôi không biết sau này qua bao biến cố, ông bạn ấy có còn sống hay không?
Trưa 2 tháng 9 năm 1974 chiếc trực thăng đầu tiên đáp xuống Pleime mang theo Trung tá Hoàng Kim Thanh Liên Ðoàn Phó Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân, anh Thanh không quên đem theo một két bia cổ cao và một cây nước đá để tưởng thưởng cho tôi.
Sau đó là một hợp đoàn của Phi Ðoàn 229 mang thực phẩm tiếp tế và vài chục tân binh bổ sung. Hợp đoàn trực thăng này cũng chuyển đi hết số thương binh còn tồn đọng.
Ngày 3 tháng 9 hai vị Ðại tá Biệt Ðộng Quân xuống thăm chúng tôi cùng một phái đoàn chuyên viên tiếp liệu tới kiểm tra thiệt hại vật chất của đơn vị tham chiến.
Tôi chưa cho gỡ những lớp rào dích dắc, nên đoàn người dài ngoằng phải nối đuôi rồng rắn theo nhau từ sân bay vào trại. Ðại tá Từ Vấn đi trước, Ðại tá Phạm Duy Tất đi kế, tôi là người thứ ba.
Không có phóng viên nhật báo nào được tháp tùng phái đoàn của Ðại tá Tất, nhưng có những bức ảnh ghi cảnh hoang tàn đổ nát của Pleime 1974 đã xuất hiện trên báo Sài-Gòn. Một nhân vật nào đó trong toán chuyên viên thanh tra tiếp liệu đã lén chụp và trao cho báo chí những bức hình này.
Ðứng bên khẩu súng đại bác đã xẹp bánh ở cổng Bắc, Ðại tá Vấn cho tôi hay ý định của ông,
– Kỳ này ưu tiên cho thằng Tám Mốt (Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân) đi hấp ở Dục Mỹ. Còn Tám Hai (Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân) có Thiếu tá Long là chuyên viên huấn luyện tại chỗ thì không cần phải gửi đi Dục Mỹ nữa!
Tôi không có ý kiến gì khi nghe ông liên đoàn trưởng quyết định đưa một đơn vị đánh nhau chưa đầy một ngày đi tái huấn luyện, thay vì cho đơn vị đánh nhau 33 đêm ngày đi Dục Mỹ bồi dưỡng ít lâu.
No comments:
Post a Comment