Monday, September 13, 2021

Chinh Chiến Điêu Linh - Kiều Mỹ Duyên

Chi khu Ba-Tơ cách Quảng Ngãi phía Bắc 51 km và cách Tam Quan phía Nam 77 km. Xuống nữa là Bồng Sơn,Tăng Bạt Hổ, đầm Trà Ổ và Phù Mỹ. Là trên quốc lộ 1 phía Đông. Hướng Tây, theo quốc lộ 24 lên Kontum rồi quẹo phải sang quốc lộ 14 sẽ đến Dakto. Toàn những địa danh của chiến trận.
Đầu Hè 72, Sư đoàn 711 với 3 Trung đoàn 9, 31, 38 của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam sau “thi công Quế Sơn” đánh thốc xuống Ba-Tơ. Chạm Sư đoàn 2 Bộ Binh VNCH và dội ngược. Quân Khu V “Nam-Ngãi-Bình-Phú” quyết định chi viện Sư đoàn 3 Sao Vàng thành lập từ 1965 với 3 trung đoàn: Đoàn 2 An Lão phiên hiệu Quyết Tâm, Đoàn 12 Tây Sơn phiên hiệu Quyết Chiến, Đoàn 21 Hoài Ân phiên hiệu Hà Bắc, tăng cường Đoàn 22 Quyết Thắng mà vì do thiệt hại sẽ thay thế bằng Trung đoàn 141 của Sư 312 là Đại đoàn cũ của Lê Trọng Tấn.
Chính trong những ngày này Kiều Mỹ Duyên đến chi khu Ba-Tơ và ghi lại hình ảnh vợ con lính, đâu lưng cùng chồng và cha trong nguy khốn, với hương khuynh diệp hăng hắc pha trộn mùi máu ươn từ tử thi nhờn nhợn. [Trần Vũ)
Rời phi trường Ðà Nẵng, tôi về nhà của Luật sư Ðào Ngọc Thụy, bạn học cũ ở Luật Khoa. Phu quân của Thụy cũng đang phục vụ tại Quân Ðoàn I. Sáng hôm sau, tôi vào Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn I thật sớm để chuẩn bị cho chuyến đi thăm những trận đánh đã và đang xảy ra ở Quảng Ngãi. Vài ngày trước khi quyết định ra miền Trung, những tin tức về tình hình chiến sự ở tòa soạn cho thấy những trận đánh chung quanh tỉnh Quảng Ngãi đang tới hồi khốc liệt. Vì vậy, Quảng Ngãi là nơi đầu tiên ở miền Trung mà tôi có mặt khi vừa đến. Và cũng mới đêm hôm qua, Chi Khu Ba Tơ đã trở thành một địa danh nổi tiếng, bởi một trận đánh anh dũng của những người chiến sĩ Ðịa Phương Quân tỉnh Quảng Ngãi.
Tôi ngồi yên lặng, vừa lắng nghe vừa ghi nhanh những điều mà Ðại Tá Ngô Văn Lợi, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Quảng Ngãi nói với tôi về sự tàn bạo của Việt Cộng đối với người dân vô tội. Trên bản đồ hành quân trải rộng, Ðại Tá Lợi chỉ cho tôi những làng mạc đã bị đốt phá:
– Ðây là Sơn Tịnh, Minh Lang, Ba Tơ… Những làng xóm này đã thành đống tro tàn, một số dân bị bắt đi, một số dân bị giết chết.
Chi Khu Ba Tơ nằm gần biên giới Lào, là một nút chặn, ngăn cản sự xâm nhập của Việt Cộng từ phía Lào qua Quảng Ngãi. Những ngày trước đó, Việt Cộng đã đưa Sư Ðoàn 711 tấn công và chiếm quận Quế Sơn. Quế Sơn mất, áp lực của Cộng quân ngày càng nặng nề chung quanh quận Ba Tơ và dọc theo Quốc Lộ 1 của vùng này.
Người ta lo ngại cho số phận của Quảng Ngãi. Chỉ trong vòng một tháng trời, hai ông quận trưởng của Mộ Ðức đã hy sinh. Những quận xa xôi ở miền rừng núi đã có dấu hiệu của sự đánh phá. Tuy nhiên, chưa có một làng, một quận nào của Quảng Ngãi phải di tản chiến thuật, kể cả Sa Huỳnh ở về phía Nam của thành phố Quảng Ngãi, giáp với phần đất của Bình Ðịnh vẫn còn giữ được yên. Trước Tết tôi đã ghé qua Quảng Ngãi, và khi đi đường bộ đến Sa Huỳnh, bắt đầu đoạn đường từ Ðức Phổ, tôi phải mặc áo giáp, đội nón sắt, vì sợ bắn sẻ. Ngồi trong thiết giáp, ló đầu qua pháo tháp để quan sát tình hình hai bên đường. Thế mà bây giờ cũng trên đoạn đường này, sự di chuyển bằng đường bộ tương đối an ninh. Ðó là một niềm hãnh diện của những đơn vị có trách nhiệm bảo vệ cho đồng bào ở Quảng Ngãi.
Trong sự yên tĩnh của hôm nay, hình như những người chiến sĩ đang chờ đợi một cái gì sẽ xảy ra cho tỉnh lỵ của mình. Chỉ có ngư ông mới nhìn thấy những luồng sóng ngầm dưới lòng biển cả. Chỉ có những người lính chiến đầy kinh nghiệm mới có cái trực giác bén nhạy trước những toan tính của địch. Và sự chờ đợi đã đến. Những chiến sĩ Ðịa Phương Quân của Chi Khu Ba Tơ với sự yểm trợ của Biệt Ðộng Quân Biên Phòng đã kiêu hùng chiến đấu với Trung Ðoàn 22 thuộc Sư Ðoàn 3 Sao Vàng của Cộng quân ròng rã suốt 4 ngày đêm liên tục mà không được tiếp tế, không tải thương được và cuối cùng đã đẩy lui địch quân, để cho tiền đồn nhỏ bé này vẫn ngạo nghễ trấn giữ giữa một vùng rừng núi.
Lát nữa đây tôi sẽ có mặt tại Ba Tơ. Trung Tướng Lâm Quang Thi, Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn I/Quân Khu I sắp đáp trực thăng xuống bãi đáp ở sau lưng Toà Án Quảng Ngãi, Ðại Tá Lợi đợi ở đây để cùng bay với Tướng Thi đến Chi Khu Ba Tơ gắn huy chương và thăng cấp tại mặt trận cho các chiến sĩ Ðịa Phương Quân và Biệt Ðộng Quân của Tiểu Ðoàn 69 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng đã có công trong trận chiến vừa qua.
Trung Tướng Lâm Quang Thi vừa rời chức vụ Chỉ Huy Trưởng trường Võ Bị Ðà Lạt về Quân Ðoàn I, đặc trách mặt trận 3 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Quảng Tín. Ðơn vị chủ lực của vùng này là Sư Ðoàn 2 và Sư Ðoàn 3 Bộ Binh. Sư Ðoàn 3 có nhiệm vụ bảo vệ Quảng Nam và Ðà Nẵng. Sư Ðoàn 2 bảo vệ Quảng Ngãi, nhưng có một trung đoàn bị rút đi tăng cường cho mặt trận phía Bắc Quảng Trị. Sau khi quận Quế Sơn lọt vào tay Việt Cộng, Chuẩn Tướng Phan Hòa Hiệp gọi cho Tướng Thi xin từ chức Tư Lệnh Sư Ðoàn 2 Bộ Binh. Tướng Thi gọi cho Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Ðoàn I/Quân Khu I đang có mặt tại Bộ Tư Lệnh Tiền Phương ở Huế. Ông nói:
– Tôi gọi cho Tướng Trưởng lúc 2 giờ sáng. Tình hình lúc đó quá căng, không ai ngủ được. Tướng Trưởng hỏi tôi muốn chọn ai thay thế cho Tướng Phan Hoà Hiệp. Tôi đề nghị Ðại Tá Trần Văn Nhựt. Tướng Trưởng hỏi tại sao chọn Ðại Tá Nhựt? Tôi chưa hề biết Ðại Tá Nhựt, nhưng mấy tháng trước nghe kể Ðại Tá Nhựt, lúc đó là Tỉnh Trưởng Bình Long, đang nghỉ phép ở Sài Gòn, được tin tỉnh của mình bị đánh, ông bỏ phép trở về ngay, và sau đó đã anh dũng tử thủ An Lộc. Như vậy đúng là một vị chỉ huy có tinh thần trách nhiệm.
Dáng người cao lớn, nét mặt trầm tĩnh, ông có dáng dấp của một viên võ tướng. Ông nói với tôi, ông yêu mến binh chủng Nhảy Dù và trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt, nơi mà ông hãnh diện vì đã đào tạo nên các khoá 22B, 23, 24 và 25, là những khoá xuất sắc với tiêu chuẩn cho một sinh viên sĩ quan tốt nghiệp là ngoài căn bản quân sự, phải có trình độ Cử Nhân Khoa Học, một bằng Dù và một đai đen Thái Cực Ðạo.
Ông nói tiếp về trận Quế Sơn:
– Sau khi Ðại Tá Nhựt ra chỉ huy Sư Ðoàn 2 Bộ Binh, tôi trình với Tướng Trưởng rút trung đoàn đang tăng phái ở Quảng Trị về, xin B52 và pháo binh yểm trợ, đã lấy lại quận Quế Sơn. Trong trận Quế Sơn, bên ta tổn thất khá nặng, hơn một trăm người tử trận.
Ðây là lần thứ hai tôi gặp Tướng Thi. Lần thứ nhất mới cách mấy tháng trước tại Canberra, thủ đô của Úc, lúc đó tôi đang du học tại đây. Tướng Thi cùng với Ðề Ðốc Chung Tấn Cang ở trong phái đoàn của Việt Nam Cộng Hoà đến dự hội nghị quốc tế về vấn đề bài trừ ma túy. Ngày cuối của hội nghị, Toà Ðại Sứ Việt Nam Cộng Hoà mở tiệc khoản đãi. Toà Ðại Sứ không có nữ nhân viên, nên nhờ các nữ sinh viên Việt Nam du học mặc áo dài tiếp tân giùm. Và hôm đó, Tướng Thi với tư cách đại diện phái đoàn, đứng bắt tay cả ngàn quan khách.
Chiếc trực thăng, ngoài phi công, chỉ có Tướng Thi, Ðại Tá Lợi, một xạ thủ và tôi. Mới buổi sáng mà trời đã nóng. Tôi mặc quân phục, nếu không có mái tóc dài, thì trông cũng giống một người lính chiến. Tôi từ Úc mới về nước chừng hơn một tháng. Sau một thời gian sống quen với cái lạnh dưới không độ Ở Úc, nên khí hậu của miền Trung trong mùa Hè, đối với tôi thật nóng như lửa.
Trực thăng bay với tốc độ nhanh. Có khi bay dọc theo Quốc Lộ 1 về hướng Nam. Nhìn những ruộng vườn xanh tươi, những hàng cau, hàng tre thấp thoáng, nếu không có tiếng súng và âm thanh xé gió của những chiếc phản lực cơ trên trời, thì nơi đây quả thật là một quê hương thanh bình. Ruộng vườn không bát ngát, trù phú như miền Nam, nhưng chính trong cuộc sống nghèo khó đó, có một cái gì gắn bó. Phải chăng là tình người, ngọt ngào như những thẻ đường phổi của Quảng Ngãi, như những lon mạch nha của phố nhỏ Tam Kỳ.
Chỉ trong một thoáng, những ruộng vườn mất hút đằng sau. Tôi nhìn xuống bên dưới, núi rừng trùng trùng, điệp điệp như một tấm thảm màu xanh. Cái nhìn sẽ thoải mái biết bao nhiêu trước cảnh đẹp thiên nhiên của quê hương, nhưng làm sao thoát cho khỏi được thực tế của chiến tranh, cái cảm giác của sự bất trắc: một loạt đạn phòng không, một trái hỏa tiễn SA7, từ dưới ‘tấm thảm xanh’ đó phóng lên…
Không biết có phải Tướng Thi đọc được những ý nghĩ của tôi chăng, bỗng nghe ông nói:
– Tại Quảng Ngãi có cụ Ðạt xem Tử Vi hay lắm. Tháng trước ông nói tôi coi chừng rớt máy bay, và tháng đó tôi rớt máy bay thật. Không phải vì bị bắn, mà vì lý do kỹ thuật.
Tôi nghĩ thầm, những người mà ngày ngày phải cận kề với sự hiểm nguy, nếu tin tưởng được vào số mệnh, chắc tâm hồn sẽ thanh thản hơn. Ðến gần Ba Tơ, máy bay bay sát ngọn cây để dễ quan sát. Ðại Tá Lợi nói với tôi:
– Cô nhìn xem bên dưới, Việt Cộng đốt rụi hết cả nhà cửa của dân trong trận đánh vừa rồi.
Tôi hỏi Ðại Tá Lợi:
– Tại sao Việt Cộng lại đốt nhà của dân?
– Mục đích là muốn người dân trở về sống trong vùng kiểm soát của chúng. Nhưng đồng bào bây giờ đã chán Việt Cộng lắm rồi, một số bỏ ra tỉnh sinh sống, một số gắng xây dựng lại.
Máy bay đáp xuống bãi cỏ trong hàng rào của Chi Khu Ba Tơ. Ðứng trên bãi đáp trực thăng nhìn ra bốn hướng, chỉ thấy toàn là đồi núi chập chùng. Giữa vùng đất trống, một khoảng rộng chưa bằng nửa cái sân banh, với những lều trại dã chiến, với những công sự phòng thủ, mà mới đêm qua, những người trấn đóng ở đây đã phải đem máu của mình để giữ vững mảnh đất nhỏ bé trên ngọn đồi này, dưới sự tấn công như vũ bão của quân thù.
Tướng Thi đến rất bất ngờ, nên không có một sĩ quan nào của chi khu chào đón ông. Cũng bất ngờ và đáng nói đến như lần ông bay thị sát mặt trận Thanh Quít ở Quảng Nam, lúc đó một đơn vị của Trung Ðoàn 56 thuộc Sư Ðoàn 3 Bộ Binh đang chạm địch. Có 4 thương binh đang cần máy bay để tải thương cấp cứu, Tướng Thi đã ra lệnh cho phi công đáp trực thăng của mình xuống giữa những lằn đạn bốc 4 thương binh đó về Tổng Y Viện Duy Tân. Chỉ một thái độ quan tâm như vậy của cấp chỉ huy, cũng khích lệ được tinh thần chiến đấu của binh sĩ biết bao nhiêu.
Tôi theo chân Tướng Thi đi một vòng quan sát chung quanh hàng rào phòng thủ của Chi Khu. Ngay trước mắt tôi, xác Cộng quân nằm la liệt, trên những mô đất, bên những gốc cây, hoặc còn vắt ngang trên hàng rào kẽm gai. Rất nhiều xác không còn nguyên vẹn, thịt xương rơi vãi khắp nơi. Máu đọng thành vũng. Dưới ánh mặt trời buổi sáng, màu máu vẫn còn đỏ thắm. Mùi máu tươi trộn lẫn với mùi thơm thoang thoảng của những hàng cây khuynh diệp mọc hoang dã trên đồi, gây cho tôi một cảm giác khó tả… Những hàng cây khuynh diệp, thân cây thẳng tắp, những cành lá đong đưa trong gió trông thật bình thản, nhưng đã là chứng nhân trong những giây phút hào hùng của những người đã chiến đấu tại đây đêm qua.
Dân số của quận Ba Tơ khoảng 16 ngàn người. Trấn giữ Chi Khu Ba Tơ là hai đại đội Ðịa Phương Quân, quân số mỗi đại đội khoảng 80 người. Tuy nhiên khi lâm trận, quân số ứng chiến sẽ nhiều hơn quân số thực sự. Quân số yểm trợ không có trong bảng cấp số chính là vợ con của một số quân nhân đang trú đóng ở đây.
Trong lúc Chi Khu Ba Tơ bị tấn công bốn mặt, thì đại đội hậu cứ của Tiểu Ðoàn 69 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng, là đơn vị đang yểm trợ cho chi khu này, cũng bị tấn công từ hướng Ðông Nam sang Tây Bắc bởi một đại đội đặc công của Việt Cộng tràn vào sau làn mưa pháo, vẫn theo chiến thuật cổ điển ‘tiền pháo hậu xung’.
Ðể nhổ đi cái chốt Ba Tơ, cắt đứt yết hầu của Quảng Ngãi, địch đã điều động một trung đoàn bộ binh, một đại đội đặc công và một đơn vị pháo nặng. Một lực lượng gấp mấy lần tấn công một chi khu nhỏ bé liên tục 4 ngày đêm. Những chiến sĩ Ðịa Phương Quân và Biệt Ðộng Quân Biên Phòng đã chiến đấu dũng mãnh để bảo vệ phòng tuyến. Suốt 4 ngày đêm trực thăng không tiếp tế được, không tải thương được. Những họng súng của địch đặt ngang lưng chừng núi, máy bay vừa đến là bị bắn rớt ngay. Những phi công liều lĩnh nhất cũng không thể nào đáp xuống.
Trận Ba Tơ được xem là chiến thắng lớn nhất của tỉnh Quảng Ngãi trong những ngày mặt trận Trị Thiên bùng nổ. Sau khi đi quan sát tình hình chung quanh chi khu, tôi trở vào trò chuyện với một số anh em Ðịa Phương Quân. Thiếu Úy Nguyễn Ðức Phú kể lại:
– Chúng tôi biết trước và đoán chừng khoảng trong vòng 5 hôm nữa là Việt Cộng sẽ đánh chi khu này. Nhưng đến đêm thứ hai, lúc 4 giờ 30 sáng, địch pháo như mưa vào chi khu. Pháo từng loạt, từng loạt, mỗi loạt chừng 30, 40 quả. Bên mình có hai cây 105 ly của anh em Biệt Ðộng Quân bắn trả đũa lại không ngừng để yểm trợ cho chúng tôi.
Nhìn những dãy nhà tranh của dân phía bên ngoài vòng rào kẽm gai, tôi hỏi:
– Việt Cộng pháo có trúng nhà dân nhiều không?
– Nhiều. Dân chết trong trận này cũng nhiều. Hầm trú ẩn của đồng bào rất chắc chắn, sâu dưới 2 mét. Nhưng khi Việt Cộng tràn vào, chúng đốt nhà, ngăn không cho dân chạy, đồng bào bị chết cháy dưới hầm. Sau khi giải toả được chi khu, chúng tôi tìm được nhiều xác đàn bà, trẻ con chết cháy trong hầm.
Việt Cộng đốt hơn 200 căn nhà của dân và bắt đi khoảng 120 người gồm đàn bà, trẻ con. Những người dân còn sống sót trốn thoát được kể cho chúng tôi nghe rằng, Việt Cộng bắt đồng bào làm bia đỡ đạn cho chúng. Bởi vậy trong trận này, dân chết và bị thương nhiều hơn lính.
Trung Tướng Thi và Ðại Tá Lợi gắn lon và huy chương cho một số chiến sĩ Ðịa Phương Quân và Biệt Ðộng Quân Biên Phòng có công trong nhiệm vụ đẩy lui địch một cách anh dũng. Thượng Sĩ Ðịnh, EO của Chi Khu Ba Tơ được thăng cấp tại mặt trận và được khen thưởng nhiệt liệt. Buổi lễ không kèn không trống, không có diễn văn dài dòng, nhưng vô cùng xúc động. Sự xúc động tự trong thâm tâm của những người đang đứng đây, giữa một bãi chiến trường còn nồng khói súng, xác địch còn ngổn ngang và mùi máu tươi vẫn còn trộn lẫn với hương thơm của những hàng cây khuynh diệp. Ðâu đây như phảng phất vong hồn của những người vừa hy sinh, trở về chứng kiến giây phút vinh quang của đồng đội, và của cả chính mình.
Tôi trở vào sau doanh trại trò chuyện với những người đàn bà và trẻ em đã cùng chồng, cùng cha mình chung lưng chiến đấu với quân thù trong những ngày qua. Khuôn mặt còn lấm lem những dấu đất cát và khói súng cùng sự mệt mỏi, nhưng đầy nét tự hào.
Tôi hỏi một chị đang có bầu:
– Mỗi khi địch tấn công đồn, chị làm gì?
Chị trả lời thản nhiên:
– Em đứng bên anh mà bắn theo sự chỉ huy của anh. Thường ngày anh dạy cho em bắn.
Tôi hỏi một em bé khoảng 8 tuổi:
– Ðêm qua khi cha và mẹ em đánh nhau với Việt Cộng, em làm gì? Có sợ không?
Em bé cười hồn nhiên:
– Sợ chứ cô. Ðạn pháo điếc cả tai, nhưng con vẫn mang đạn ra cho ba con.
– Em mang đạn ra bằng cách nào?
Em bé vừa kể vừa làm bộ để diễn tả lại:
– Con bò sát đất, dùng hai tay và đầu đẩy thùng đạn về phía trước. Ðẩy từ trong hầm ra tới giao thông hào.
Tôi nghĩ người chinh phụ ngày xưa là hình ảnh của một người đàn bà thụ động, chịu đựng và chấp nhận sự mất mát, xa cách. Người chinh phụ ngày xưa chỉ khép kín cuộc sống sau khung cửa để hướng về chồng mình đang chinh chiến nơi xa:
 
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi
Dạ chàng xa ngoài cõi thiên san
 
Còn người vợ lính ngày nay phải nói là:
Dù nơi quan ải, thiếp chàng có nhau.
Tôi nhìn những người đàn bà đang đứng trước mặt tôi. Họ bỏ lại sau lưng những tiện nghi, những vui thú của một cuộc sống thành thị, để đến một nơi giữa rừng núi heo hút như Chi Khu Ba Tơ này, là chỉ để chia sẻ với chồng mình đang từng phút, từng giây đối diện với quân thù.
Tôi nhìn những đứa bé gầy guộc bởi những bao gạo sấy qua ngày. Tôi nhìn những bàn tay nhỏ xíu đã tải những thùng đạn nặng trĩu đêm qua, những bàn tay thay vì chìa ra nhận bánh kẹo, đồ chơi một cách hồn nhiên vô tư, hoặc đang nắm chặt cán bút, cắm cúi với bài học trên ghế nhà trường như những đứa bé cùng tuổi khác trong giờ phút này, thì các em lại đang đứng đây, tại một nơi không phải dành cho tuổi thơ.

Monday, September 6, 2021

$200 NGÀN DOLLARS GIÚP THƯƠNG PHẾ BINH VNCH - Trần Văn Thành (Thương Phế Binh Ngày Nay)

 Tuần qua anh em TPB/VNCH ở quê nhà nhận được nhiều tin vui. Sau buổi Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh hàng năm diễn ra vào ngày Chủ Nhật, 29 tháng tám, 2021, với số thu sơ khởi là $206,116.50 dollars, thì vào ngày 1 tháng 9, 2021 , nhật báo Người Việt cho biết, trong chuyến đi Hoa Thịnh Đốn để vận động cho đồng bào tỵ nạn VN ở Thái Lan được Hoa Kỳ nhận định cư , nhạc sĩ Nam Lộc cũng đã thành công trong việc gây quỹ giúp TPB/VNCH đang sống vất vưởng ở quê nhà. NS Nam Lộc tâm sự: Trong mùa đại dịch này, hoàn cảnh đồng bào mình ở trong nước thật vô cùng khó khăn, nhất là các TPB/VNCH. Người lành lặn tay chân còn phải chịu đựng bao điều khổ cực huống chi là người tàn tật, què tay, cụt chân hay mù mắt. Đi bán vé số cũng không được, thậm chí đi ăn xin cũng chẳng ai cho.

Có lẽ cũng vì thế nên NS Nam Lộc đã thuyết phục và được sự đồng ý của một gia đình người bạn tự nguyện đóng góp $200 ngàn dollars để nhờ ông chuyển về giúp cho 2000 TPB, mỗi người $100 đồng. NS Nam Lộc cho biết, đây là một việc làm rất nhiêu khê và đòi hỏi nhiều thời gian và công sức. Tuy nhiên và rất may là trong suốt 3 năm qua, kể từ khi từ nhiệm vai trò Cố Vấn Tổng Quát của Hội HO Cứu Trợ TPB&QP VNCH cho đến nay, NS Nam Lộc vẫn âm thầm hoạt động và tiếp tay với các hội đoàn hoặc cá nhân, gây quỹ để gởi về quê nhà giúp TPB/VNCH, vì thế họ luôn có sẵn một danh sách khoảng 3000 TPB/VNCH.

Cũng theo NS Nam Lộc thì hiện nay, một số thiện nguyện viên ở quê nhà đang cập nhật danh sách đó, để xem ai còn, ai mất hoặc còn sống tại điạ chỉ cũ hay đã dọn đi nơi khác, hầu cho việc gởi tiền không bị thất lạc hoặc gián đoạn.   

Sau cùng NS Nam Lộc cũng đã nhờ chúng tôi nhắn tin đến quý vị ân nhân khác, nếu có nhã ý giúp TPB/VNCH thì xin liên lac trực tiếp với:

Hội HO Cứu Trợ Thương Phế Binh và Quả Phụ VNCH

P.O Box 25554, Santa Ana, CA 92799

Điện thoại: (714) 837-5998 & (888) 754-8899 Email: hhotpbqpvnch@gmail.com / Website: www.camonanh.org 

('Long and Kimmy Nguyen Family Foundation' tặng $200,000 cho thương phế binh VNCH) 

Tấm Thẻ Bài Rách Tên

Trên vòm trời lửa đạn . Lời Bạt và Giới thiệu sách của : Võ Ý đọc: TRÊN VÒM TRỜI LỬA ĐẠN của Vĩnh Hiếu

Đây là bài viết của cựu Trung Tá Võ Ý, một cây viết của Không Quân, nguyên Phi đoàn Trưởng Phi đoàn 118 Bắc Đẩu trú đóng tại Pleiku, Sư Đoàn 6 KQ
Trên Vòm Trời Lửa Đạn như thể một cuốn phim bi hùng hấp dẫn và lôi cuốn từ đầu đến cuối. Chuyện phim diễn lại những chiến trận khốc liệt tại Quân Khu II trong khoảng thời gian 1970-1975 mà tác giả Vĩnh Hiếu trực tiếp tham dự trong vai một phi công trực thăng võ trang thuộc Phi Đoàn 215 Thần Tượng, KĐ62 CT/SĐ2KQ Nha Trang. Phần kết của cuốn phim diễn lại một phần trong toàn cảnh những ngày tàn của cuộc chiến qua bài viết Phi Đoàn Thần Tượng Giờ Thứ 25 (1) khi Sàigon đang hấp hối và khi Thiếu tá Lương, một phi công của chiếc trực thăng cuối cùng đã quyết định ditching (2) như hai chiếc trước và được cứu thoát lên tàu dầu Anh quốc ngoài khơi Côn Đảo trong tiếng thở phào của trên 40 đồng đội và các thủy thủ trên tàu. Đèn rạp bật sáng, khán giả nặng nề bước ra khỏi rạp. Im lìm, lặng lẽ…Tôi cũng im lìm lặng lẽ như họ, vì tôi cùng chung với họ nỗi đau xé ruột và nỗi uất hận ngút ngàn vì miền Nam thân yêu của họ đã bị bức tử oan nghiệt dù họ đã tận lực hiến thân dưới cờ (3). Quay lại từ đầu, năm lên 6, Vĩnh Hiếu đã theo cha mẹ từ Huế vào Nha Trang sinh sống. Trong máu huyết của anh đã thẩm đượm sóng xanh vỗ về và nắng hồng ấp ủ nên tâm tình của Vĩnh Hiếu cũng nồng nàn như gió biển. Gặp lúc đất nước nhiễu nhương, Vĩnh Hiếu gia nhập không quân vào năm 1968. Tốt nghiệp khóa bay từ Mỹ quốc, anh trở về phục vụ trong phi đội trực tăng võ trang thuộc Phi Đoàn 215 Thần Tượng, tung hoành ngang dọc khắp chiến trường Quân Khu II từ năm 1970 cho đến ngày tàn cuộc chiến (1). “Trên Vòm Trời Lửa Đạn” (TVTLĐ) là bút ký chiến trường chào đời cuối đông 2011, do tác giả xuất bản. Sách dày 424 trang kể cả bìa, gồm 5 chương: 1- Những Phi Vụ Khó Quên – 2- Mặt Trận Bình Định – 3- Mùa Hè Đỏ Lửa – 4- Chuyện Bên Lề và 5- Ngày Tàn Cuộc Chiến. Ngoại trừ Chương 4- Chuyện Bên Lề, những chương còn lại được diễn tả một cách sống động những trận chiến tự vệ và phản công quyết liệt của QLVNCH với sự yểm trợ hỏa lực của trực thăng võ trang do Vĩnh Hiếu dẫn đầu trước sức tấn công thí chốt của cộng quân. Tôi cũng từng bay yểm trợ những trận đánh đẫm máu tại Thăng Bình, Khe Sanh, Bồng Sơn Tam Quan, Dakto Tân Cảnh, Kontum, An Khê…, trong vai trò một phi công quan sát, nhưng tôi thật sự sững sờ sau khi đọc xong bút ký chiến trường của Vĩnh Hiếu. Tôi sững sờ vì nhận thấy được rằng, chiến trận dưới mắt một phi công trực thăng võ trang tàn khốc hơn là điều mà tôi đã kinh qua. Trước những hiểm nguy rình rập của phòng không, của hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 hay của ground fires thì phi cơ trực thăng – đặc biệt trực thăng võ trang – gánh chịu nhiều hiểm nguy hơn bất cứ các loại phi cơ tham chiến nào khác. 8 Rõ ràng là chiếc U-H1 có dáng dấp cồng kềnh, tốc độ bình phi chừng 90 knots, khi chong chóng quay một vòng tròn khép kín thì giống như một tấm chắn bằng kim loại nhẹ có diện tích tròm trèm 168 m2 (4) cũng là một mục tiêu quá ngon lành cho phòng không của địch. Phương chi, nhiệm vụ của trực thăng lại sát cánh với bộ binh trong các cuộc đổ quân, tản thương hay tiếp tế thì chuyện thập tử nhất sinh trước hỏa lực phòng không của địch không còn là chuyện giởn cợt: “Tôi cảm thấy cuộc đời bay bổng của hoa tiêu trực thăng quá mong manh, mạng sống như chỉ mành treo chuông, (…) tương lai chỉ đếm từng ngày một.” (TVTLĐ, trang 165). “Có thể nói ngành trực thăng là một đơn vị tác chiến lưu động gần sát nhất với bộ binh hơn cả, có một cuộc sống phong trần gian khổ của một người lính đánh trận nhưng được hưởng tất cả ưu đãi tiện nghi của thành phố”. (TVTLĐ, trang 115). Có thể cảm nhận được mạng sống như chỉ mành treo chuông nên phi công Vĩnh Hiếu mới suy nghĩ đến vấn đề sinh tồn. Cổ nhân đã day: khôn cũng chết, dại cũng chết, chỉ có biết mới sống. Đem cái biết áp dụng vào binh thư là biết địch biết ta. Biết trực thăng của ta giới hạn về tốc độ và hỏa lực, biết mạng sống của cán binh cộng sản được cột chặt vào các khẩu cao xạ để làm con chốt thí, thì vấn đề bảo toàn mạng sống của ta là…biết vậy! Điều sững sờ khác mà tôi cảm nhận được sau khi gấp sách lại, đó là, qua kinh nghiệm và mưu trí, phi công Vĩnh Hiếu đã “động não” nghĩ cho ra những chiến thuật khả dĩ giúp “giảm thiểu nguy hiểm cho ta gây tổn hại tối đa cho địch”. Những tactic tự suy nghĩ và tự áp dụng một cách linh động, có cân nhắc kỹ lưỡng dù không thông qua một lệnh lạc nào, được kể ra như sau: 1- Đội Hình Bay: Trích: “Chúng tôi thường phải dùng những chiến thuật thích hợp với tình thế trên trân địa (…), ở những vùng núi rừng cao nguyên chúng tôi thường bay sát ngọn cây (…), địch không có thời gian nhắm bắn những chiếc tàu bay vút qua đầu (…). Những lúc bay ngang đường mòn HCM, tiếng động cơ ầm ỉ từ xa của chiếc trực thăng đã làm cho địch chuẩn bị. Khi chiếc số một bay qua, địch quân đủ thời giờ để gờm súng phục kích chiếc số hai. Để bảo vệ cho “wingman”, trong trường hợp nầy, tôi đổi chiến thuật và cho chiếc võ trang số hai bay song song ở khoảng cách khá xa, và cùng vượt qua đường một lần “(5). Phải chăng Vĩnh Hiếu đang áp dụng linh động binh thư của Tôn Tử vào đội hình bay của trực thăng võ trang? 2- Bịt Mắt Địch Trong trận chiến giải tỏa “Cao Điểm 601” thuộc cửa khẩu Đề Gi Bình Định khoảng tháng 01/1973 (sau khi ký Hiệp Định đình chiến Paris, theo tác giả) mà mục tiêu là ổ súng cao xạ do địch chốt trên cao điểm đã không làm Vĩnh Hiếu nao núng. Với quyết tâm và quyền biến, anh xoay sở đủ mọi cách để nhổ cho bằng được cái chốt hung hiểm kia. Lúc đầu, anh chọn mặt trời làm phương tiện ngụy trang, từ trên cao dánh xuống theo trục ánh sáng, địch sẽ bị chói lòa mắt khi nhìn lên để bắn trả. Cách nầy không thành công vì trục oanh kích gặp gió đuôi thổi từ biển vào làm lệch đạn đạo (5). Trong khi chờ đổ xăng và load thêm đạn dược, Vĩnh Hiếu nghĩ ra cách thứ hai là vừa che mắt địch vừa xịt rocket trên đầu địch, muốn đánh chính xác phải vô thật sát mục tiêu. Anh phân công chiếc Hồ 2 trang bị toàn rocket khói, đánh một lần vào mục tiêu, khói che lấp mù mịt, còn Hổ 1 do anh lead đã chờ sẵn trên trục tiến: “Không một chút chậm trể, tôi đẩy cần lái, chiếc trực thăng võ trang cắm đầu như một con 9 chim đại bàng lăng xả vào con mồi….mười bốn trái hỏa tiễn tranh nhau rời giàn phóng lao xuống mục tiêu (5). Quân bạn báo cáo dàn phòng thủ cũng như ổ cao xạ đã bị tiêu diệt qua đợt tấn công mưu trí nầy! (5). 3- Dương Đông Kích Tây Từ đường mòn HCM vùng Tam biên trở về hậu cứ, tác giả bất ngờ phát hiện khẩu phòng không của giặc. Thay vì bỏ qua để về nhà ngủ nghỉ yên thân, tác giả quyết ở lại để tìm cach tiêu diệt nó: “Nếu tôi cho wing-man của tôi bay vòng sát đầu ngọn cây phía Bắc của địch, tiếng động cơ ồn ào của cánh quạt sẽ gây chú ý của tên xạ thủ và chắc chắn nó sẽ quay mũi súng chờ đợi. Bay nhanh sát trên ngọn cây từ hướng Nam lên, tôi sẽ bất ngờ đột kích. Khẩu cao xạ nặng nề sẽ không quay họng súng kịp để tác xạ. Nếu suy luận của tôi đúng, tôi chỉ cần vài ba giây ngắn ngủi để hoàn tất sứ mạng (6).” Tác giả đã hoàn tất sứ mạng mission impossible ngoài phi lệnh một cách tuyệt vời với 14 trái rocket phóng xuống mục tiêu trước sự ngỡ ngàng của địch quân: “Trên đường trở về căn cứ, tôi hình dung một nụ cười mãn nguyện đang nở trên môi của Rinh nơi chín suối (6).” 4- Đầu Đạn Fletchette Trở về mặt trận Kontum, ngọn núi Chư Pao nằm bên quốc lộ 14 giữa Pleiku và Kontum đã bị địch đóng chốt. Khu trục đã oanh kích hàng ngàn tấn bom vào cao điểm nầy nhưng chưa nhổ được. Hai chiếc gunships nhận lệnh tiêu diệt chốt đóng trụ nầy. Sau vài vòng tác xạ, thấy không ăn thua gì vì công sự của địch đào sâu trong núi đá, hơn nữa, các mũi súng phòng không lại hăm le chực sẵn. Vĩnh Hiếu chọn trục tác xạ từ dưới lên để tránh các khẩu cao xạ đặt trên sườn núi không thể chỉa mũi súng xuống dưới được. Cách đánh nầy không thành, tàu trúng đạn ground fires, hợp đoàn đành bay về hậu cứ để refuel và reload. Lần nầy Vĩnh Hiếu quyết định trang bị “đầu nổ đinh” (fletchette warhead), đây là loại hỏa tiễn đáng sợ nhất đối với cộng quân, chuyên dùng để chống biển người (7). Trở lại Chu Pao, Vĩnh Hiếu báo cho Charlie (Command & Control ship) biết là, hai gunships lần nầy trang bị đầu đạn đinh. Thiếu tá Đặng Đình Vinh ngac nhiên, ông sợ như vậy sẽ sát hại cả quân bạn. Sau cùng, Thiếu tá Vinh đồng ý với yêu cầu của Vĩnh Hiếu là, quân bạn rút phòng tuyến xuống dưới chân núi chừng năm chục mét là được rồi (…): “Bảy mươi sáu trái rocket đinh của hai chiếc Mãnh Hổ nầy là nguồn hy vọng cuối cùng của chúng tôi (7).” Và niềm hy vọng cuối cùng của hai phi hành đoàn trực thăng võ trang gan dạ đã nhận một tín hiệu vinh quang: -“Hổ, đây Charlie”! -“Nghe 5.” -“Hổ khỏi lên vùng lại. Về biệt đội đáp, tắt máy nghỉ luôn, xong ngày hôm nay. Hổ, bộ binh đã nhổ được chốt của tụi nó rồi. Đếm gần 20 xác chết ghim đầy đinh sắt. Bộ Chỉ Huy có lời khen!” (7). “Trên Vòm Trời Lửa Đạn” đã được hai chiến sĩ Tự Do, Đặng Chí Bình và Phạm Tín An Ninh, cũng là hai nhà văn tên tuổi, viết lời giới thiệu tác phẩm một cách trang trọng nói lên giá trị chân thật, đau thương và khốc liệt về nội dung của quyển bút ký chiến trường nầy. Phảng phất đâu đó, hai vị cũng mô tả tính nhân bản của tác giả, một chiến sĩ của QLVNCH nói chung. Nhân đây, chúng tôi cũng xin góp một vài ghi nhận thô thiển về tác phẩm đầu tay của Vĩnh Hiếu. Là phi công ngành quan sát, chúng tôi không bao giờ dám nghĩ ra cách tiêu diệt ổ phòng không bằng hỏa lực của trực thăng võ trang. Tư lệnh diện địa 10 cũng sẽ thận trọng như vậy. Thông thường, chúng tôi xin khu trục hoặc pháo binh để làm việc nầy. Phải là một chiến sĩ chịu chơi, gan dạ, liều lĩnh và mưu trí như Vĩnh Hiếu, mới dám nghĩ ra những “tactic phi quy ước” để tiêu diệt ác tâm của cộng quân. Những tactic phi quy ước được hình thành là do kinh nghiệm, tinh thần trách nhiệm của một phi công, và trên hết là tình yêu mà Vĩnh Hiếu dành cho Tổ Quốc Việt Nam thiêng liêng trong đó có đồng bào đồng đội và non sông cẩm tú của anh. Cho đến nay, chưa có một tác giả Không Quân nào viết bút ký chiến trường nói lên chiến thuật tác chiến một cách bất ngờ, sáng tạo và liều lĩnh như phi công Vĩnh Hiếu. Ngay cả Trường Chỉ Huy Tham Mưu Trung Cấp Không Quân hình như cũng chưa hề nghĩ ra cách thu thập và tổng hợp các kinh nghiệm không yểm của tất cả các loại phi cơ để viết nên những chiến thuật căn bản hầu áp dụng linh động trên chiến trường Việt Nam. Vì thế mà tôi sững sờ đến sung sướng khi đọc Trên Vòm Trời Lửa Đạn. Tôi biết Vĩnh Hiếu từ thời ở Nha Trang và sau nầy tai Santa Ana. Tôi cũng lai rai đọc Vĩnh Hiếu đâu đó. Tôi quen biết Vĩnh Hiếu trong tình Quân chủng. Phải đợi đến khi đọc xong tác phẩm đầu tay của anh, tôi nhìn Vĩnh Hiếu uy nghi hơn, bề thế hơn và sâu sắc hơn bởi lòng quý trọng tâm huyết của anh đối với Tổ Quốc Danh Dự Trách Nhiệm. Hình như niềm hãnh diện của tôi về Quân chủng cũng được nhân lên, sâu đậm và rạng rỡ hơn sau khi đọc xong Trên Vòm Trời Lửa Đan. Cám ơn Vinh Hiếu, chân thành. Và tôi ước mong sẽ có một nhân sĩ có lòng, chuyển ngữ Trên Vòm Trờ Lửa Đạn ra Anh ngữ, khả dĩ để cho giới truyền thông và dư luận quần chúng Mỹ biết, đã có một thời Quân Lực VNCH chiến đấu can trường như vậy. Bắc Đẩu Võ Ý Tháng 4/2012
Chú thích: (1) TVTLĐ – Chương 4 – Ngày Tàn Cuộc Chiến – Phi Đoàn Thần Tượng: Giờ Thứ 25, trang 397. (2) Ditching: phi cơ hạ cánh khẩn cấp trên mặt biển. (3) Quốc ca VNCH (4) Theo tác giả, đường kính của cánh quạt trần của U-H1 là 48 feet, tương đương 14,63m. Diện tích vòng quay là (R bình phương x Pi) > (14,63/2)2×3,1416 # 168m2. (5) Chữ in nghiêng, trích trong TVTLĐ – Cao Điểm 601. (6) Chữ in nghiêng, trích trong TVTLĐ – Người Ở Lại Charlie. Rinh ở đây tức Phạm Thành Rinh, hoa tiêu trực thăng võ trang 215, bạn tác giả, bị bắn nổ tung trên bầu trời Võ Định, Tân Cảnh cùng với Thiếu úy Võ Diện- Người Ở Lại Charlie, trang 158. (7) Đầu đạn Flectchette. Mỗi đầu đạn có gần 3000 chiếc đinh thép, hình giống như những mũi phi tiêu nhỏ, dài cở 2 inches. Sau khi hỏa tiễn được phóng ra khỏi bó rocket với vận tốc gần như siêu thanh trong hai giây đầu tiên, đầu nổ thứ hai sẽ kích hỏa cách mặt đất chừng vài trăm bộ, phóng mấy ngàn cây đinh nhọn xuống đầu địch với tốc độ nhanh gấp đôi, đồng thời tỏa ra một cụm bụi đỏ đánh dấu vị trí khởi điểm của những mũi tên thép. In nghiêng là trích trong TVTLĐ- Mặt Trân Kontum – trang 187-189
 
o0o
 
Từ “Đời Phi Công” đến “Trên Vòm Trời Lửa Đạn” (Nguyễn Phụng)
Tác giả Nguyễn Phụng, xuất thân từ trường trung học Phan Châu Trinh Đà Nẵng, tốt nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Sài Gòn, Duke University North Carolina, nghỉ hưu sau ba mươi năm giảng dạy tại NC A&T State University.
Vĩnh Hiếu, tác giả bút ký chiến trường Trên Vòm Trời Lửa Đạn*, là người nhiều may mắn. Anh lớn lên với biển xanh, cát trắng và mái trường Võ Tánh Nha Trang; và khi làm phi công trực thăng thời chiến, anh lại được đồn trú tại Nha Trang. Trên Vòm Trời Lửa Đạn ghi lại sinh hoạt của phi đoàn trực thăng của anh — Phi Đoàn Thần Tượng 215 — trên chiến trường Vùng II Chiến Thuật, trong giai đoạn 1970 – 1975, giai đoạn anh dũng của năm 1972 mùa hè đỏ lửa và kết cuộc đau buồn của quân lực Việt Nam Cộng Hòa và Miền Nam trong năm 1975. Phi Đoàn Thần Tượng 215 là một phi đoàn trực thăng kỳ cựu, với nhiều chiến công đáng ghi trong quân sử Việt Nam Cộng Hòa; và phi công Vĩnh Hiếu, một biểu tượng của người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, thông minh, tự do trong suy tư, gan dạ, đầy tình người… Mấy trang dưới đây ghi lại vài cảm nghĩ của người viết về bút ký chiến trường đó. 1 Cùng với các ngành khác trong quân lực Miền Nam, Không Quân hình thành và phát triển nhanh trong những năm bình yên cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960. Phi công được nhóm người trẻ tuổi nhắc đến nhiều nhất trong thời khá thanh bình đó có lẽ là Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh, tác giả Đời Phi Công (1960). Trong Đời Phi Công, phi công Toàn Phong yêu đời lạc quan, nhìn chiếc máy bay “hiền lành đậu dưới nắng hè” và quả quyết rằng “dù gian-nan muôn trùng … cũng sẽ mỉm cười dấn bước…” khi viết thư cho Phượng, cô sinh viên y khoa Sài Gòn. Toàn Phong hy vọng và tin tưởng về một tương lai đất nước tươi sáng với nhiều xây dựng, phát triển khắp nơi. Toàn Phong cất cánh và bay trong bình an, “đời tươi quá, đẹp quá, cần lái nằm gọn trong tay, chiếc phi cơ ngoan ngoãn tuân theo nhịp thở của tay ga, của chân nhẹ trên bàn đạp”. Mấy năm bình yên ngắn ngủi đó lùi mau vào lịch sử. Từ 1970, phi công Vĩnh Hiếu phải bay trong lửa đạn mịt mù, tương lai anh đếm từng ngày một, mạng sống anh như cái chuông treo trên sợi chỉ mành. Chiếc máy bay trực thăng rất đắc dụng trong chiến trường du kích thời nào nay đã kém đi phần hữu hiệu. Cuộc tranh chấp giới hạn mở rộng nhanh chóng thành cuộc chiến quy ước; với vũ khí tối tân do toàn thể khối cộng sản cung cấp cho địch quân (như súng lớn đủ loại, đại bác phòng không 37, hỏa tiển tầm nhiệt SA-7…) chiếc máy bay trực thăng võ trang nặng nề chậm chạp trở thành mục tiêu rất dễ bị tiêu hủy. Đời Phi Công của Toàn Phong nay là Trên Vòm Trời Lửa Đạn của Vĩnh Hiếu. Tuy không lạc quan như Toàn Phong nhưng Vĩnh Hiếu chẳng hề bi quan và chiến đấu rất oai hùng. Toàn Phong kết thúc cuộc sống đi mây về gió với mấy giòng thư ngắn rất thơ — “gió ơi ngừng lại cánh chim bằng” — viết cho Phượng từ Quân Y Viện Nguyễn Huệ 12 sau lần bị thương nhẹ khi phi cơ hạ cánh xuống bãi biển và làm sập một căn nhà. Vĩnh Hiếu kết thúc đời phi công với nỗi đau chiến bại, sự tan rã của Phi Đoàn Thần Tượng, sụp đổ của Miền Nam thân yêu, và cuộc sống tha phương nơi xứ lạ quê người. Trên Vòm Trời Lửa Đạn nhắc người viết nghĩ đến Saint-Exupéry, tác giả Pilote de Guerre (Phi Công Thời Binh Lửa) và hoàn cảnh đặc biệt của Vĩnh Hiếu và người phi công Pháp này. Năm 1940 sau khi Đức chiếm Pháp, Saint-Exupéry được trưng dụng vào một phi đoàn thám thính gồm 23 phi công. Lực lượng phòng không của Đức quá mạnh, chỉ trong ba tuần hoạt động, 17 phi công của phi đoàn đã bị hy sinh. Saint-Exupéry chiến đấu với cái chết gần kề và ông tin rằng rồi ông sẽ bị bắn rơi như đồng đội; tuy vậy, ông không sợ hãi vì ông ta chiến đấu cho giá trị nhân bản, tự do, lý tưởng dân chủ cho Pháp và nhân loại… Cái chết của ông là một cái chết ý nghĩa. Cũng như Saint-Exupéry, Vĩnh Hiếu chiến đấu trong tình trạng cực kỳ nguy hiểm. Với đại bác đủ cỡ và hỏa tiển tối tân do các nước cộng sản Liên-sô, Tàu, Đông Đức, Tiệp Khắc… ồ ạt cung cấp, khả năng phòng không của Việt cộng trở nên hùng hậu. Mạng sống của Vĩnh Hiếu vì thế rất mong manh như ngọn đèn trước gió, nhưng anh không hề ngần ngại hay sợ hãi vì, cũng như Saint-Exupéry, anh ta đang chiến đấu cho tự do, cho giá trị nhân bản; anh chiến đấu để ngăn chận một chủ nghĩa không tưởng, đầy máu lửa. Hình ảnh địch quân thảm sát dân chúng chạy loạn tại đại lộ kinh hoàng Quảng Trị, chôn sống hàng ngàn dân vô tội cố đô Huế ám ảnh anh. Anh không ngại bị bắn rơi trên vòm trời đầy lửa đạn, vì cũng như SaintExupéry, cái chết của người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, đem lại ý nghĩa cho cuộc sống. Nước Pháp của Saint-Exupéry và những người Pháp ham chuộng tự do chiến đấu cho lý tưởng dân chủ, nhưng đó là một sự chiến đấu vô vọng vì Pháp đã thua cuộc — 39 triệu dân hoang mang bên này bờ sông Rhine không thể đương đầu nổi với hơn 70 triệu dân cuồng tín (vì một chủ nghĩa phi nhân bản, lùa hàng triệu người vào lò hơi độc) bên kia sông. Pháp không có khả năng để chiến đấu một mình, Pháp cần sự trợ giúp. Trên toàn cõi địa cầu này chỉ có một quốc gia hùng mạnh có khả năng trợ giúp Pháp bảo vệ lý tưởng dân chủ, nhưng chẳng may, quốc gia này cứ mãi chần chờ nên quân Đức mặc sức tung hoành trên đất Pháp và khắp nơi trên Âu châu. Quốc gia hùng mạnh đó là Mỹ và Saint-Exupéry nghĩ nhiều đến Mỹ. Cũng như Saint-Exupéry, cùng với người Việt hiếu hòa Miền Nam, Vĩnh Hiếu chiến đấu cho tự do; nhưng đó là cuộc chiến đấu vô vàn khó khăn, thất bại là một điều tất yếu, chỉ vì, và chỉ vì, thiếu súng đạn. Miền Nam (chưa đầy 20 triệu dân) một mình trơ trọi không thể chống chọi lại toàn thể khối cộng sản quốc tế (hơn 2 tỷ dân) với chủ trương chinh phục và nhuộm đỏ hoàn cầu. Miền Nam là tiền đồn để ngăn chận làn sóng đỏ, bảo vệ lý tưởng dân chủ, Mỹ từng tin như vậy và họ đã đến trợ giúp Miền Nam; nhưng rồi vì chút quyền lợi bán nước ngọt coca cola và bánh mì thịt burger cho Tàu cộng (với một tỷ rưỡi người tiêu thụ, thèm ăn khát uống) họ âm thầm đổi ý sau mấy chuyến ngoại giao trong đêm tối và rồi quay lưng lạnh lùng ra đi. Saint-Exupéry thán phục sức mạnh của quân đội Mỹ và, với tư cách một phi công, chắc đã nhiều lần nghe danh tiếng của Đệ Nhất Sư Đoàn Không Kỵ, the 1st Cavalry pision (Airmobile) thuộc quân lực này. Vì sự thán phục đó, ông qua Mỹ để nói chuyện với quần chúng Mỹ về giá trị tự do và nhân bản mà Pháp đang chiến đấu, với mục đích thuyết phục Mỹ trợ giúp Pháp. Saint-Exupéry ảnh hưởng một phần nào đó trong quyết định tham chiến của Mỹ… Khác với Saint-Exupéry, Vĩnh Hiếu không những nghe danh mà còn trực tiếp chứng kiến sức mạnh vũ bão của Sư Đoàn Không Kỵ này với hơn 500 phi cơ trực thăng, ba bộ chỉ huy lữ đoàn, có khả năng tác chiến biệt lập và đảm trách vùng trách nhiệm cấp sư đoàn. Nhưng quân đội 13 Mỹ và Đệ Nhất Sư Đoàn Không Kỵ bỗng dưng bỏ chiến trường Việt Nam, quay đầu ra đi; Vĩnh Hiếu và đồng đội chiến đấu một mình, thiếu đạn dược, và rồi chiến bại. Saint-Exupéry mất tích trong một chuyến bay trong năm 1944. Ông ta chết hơi sớm, không kịp thấy lý tưởng dân chủ trở về với Pháp và nhân loại khi quân đội Mỹ tiến vào thủ đô Paris. Vĩnh Hiếu vẫn còn sống nhăn để đau khổ, để thấy rằng lý tưởng tự do, dân chủ anh hằng ôm ấp đã tan tành, và trên quê hương Việt Nam khổ nạn, tự do và giá trị con người đã vĩnh viễn bị dày đạp. 2 Ký sự chiến trường là một nét đặc biệt của văn chương Miền Nam. Miền Nam tự do, ai muốn viết gì cứ viết (người viết không phải đi nhận đơn đặt hàng của lãnh tụ rồi mới gồng mình ra tìm chữ để moi móc, chửi bới, tâng bốc, ca tụng như ở Miền Bắc) và vì chiến sự lan tràn khắp nơi, phô bày nhiều hiện thực về thân phận con người và sự bi đát của cuộc chiến. Ngoài những ký giả chiến trường chuyên nghiệp như Nguyễn Tú, Nguyễn Đạt Thịnh, Phạm Huấn… nhiều tác giả ký sự là những chiến sĩ trực tiếp tham gia vào cuộc chiến như Phan Nhật Nam (Mùa Hè Đỏ Lửa), Nguyên Vũ (12 Năm Lính: Đời Pháo Thủ), Trang Châu (Y Sĩ Tiền Tuyến), Trương Duy Hy (Tử Thủ Căn Cứ Hỏa Lực 30 Hạ Lào)… Tại sao các chiến sĩ viết bút ký chiến trường? Câu hỏi có vẻ ngây ngô nhưng có lẽ cần thiết cho bài viết ngắn này. Ký giả chiến trường chuyên nghiệp Nguyễn Tú của nhật báoChính Luận Sài Gòn phải viết nhiều, viết mau, viết đủ các mặt trận vì độc giả, nhất là độc giả Sài Gòn, đang nóng lòng muốn đọc. Một số lớn trong số độc giả này cố quên đi cuộc chiến, tìm sự lẫn tránh qua các truyện kiếm hiệp hào hứng của Kim Dung hay truyện tình lâm ly của Quỳnh Giao, và chỉ còn biết đối diện với cảnh máu lửa đang lan tràn khắp nơi qua vài cột báo hàng ngày; mỗi cột báo là một địa danh, một phần đất nước xa xa hay gần kề, một tin vui chiến thắng, một bâng khuâng về một bước lùi, một tin buồn vì số tử vong… Khác với Nguyễn Tú, Phan Nhật Nam viết bút ký chiến sự cho chính mình, viết để vơi đi nỗi đau xót, bất bình. Trang bút ký của Phan Nhật Nam là tiếng kinh cầu trong niềm cô đơn tuyệt đối, là những giọt nước mắt tuôn trào sau bao nhiêu lần cố cầm nín, và là tiếng nức nở thoát ra từ hàm răng nghiến chặt… Phan Nhật Nam viết để vơi đi nỗi đau vì dân chúng lầm than hay đồng đội gục ngã và nỗi buồn nhược tiểu — thân phận hẩm hiu của Miền Nam và quân đội Việt Nam Cộng Hòa trước những mưu mô toan tính, đổi chác của các cường quốc vì quyền lợi riêng của họ. Nguyên Vũ, tuy cũng một tay cầm súng một tay cầm bút như Phan Nhật Nam, nhưng khác hẳn với Phan Nhật Nam: Nguyên Vũ viết để chơi. Đây không phải là một lời khinh bạc nếu hiểu rằng viết cũng như nhiều trò chơi quen thuộc khác (bia rượu, con bài đen đỏ, nhảy nhót, xóm bình khang…) giúp người lính tạm quên đi sự nhọc nhằn cùng cực, cảnh khói lửa và sự đe dọa của thần chết từng ngày. Hiểu như vậy, viết với Nguyên Vũ quả là một trò chơi, một trò chơi mà anh rất say mê — đi lính mà không có một thú đam mê thì chắc khó sống. Chắc vì thế, chỉ trong mười hai năm lính, anh cho ra đời hai mươi ký sự chiến trường. Sau này, sau ngày tàn cuộc chiến, khi anh vào thư khố quốc gia Pháp, Archives Nationales de France, tìm tài liệu để viết những nghiên cứu mới như The Other Side of the 1945 Vietnamese Revolution: The Empire of Vietnam (Phía Bên Kia Cuộc Cách Mạng 1945: Ðế Quốc Việt Nam) chắc viết bấy giờ không còn là một trò chơi nữa. Và đây là một một điểm lạ của bút ký chiến trường Miền Nam. Và Vĩnh Hiếu, bao nhiêu năm qua rồi từ ngày tàn cuộc chiến (vết mòn chiến xa chắc đã đầy cỏ dại, hố bom đạn đã thành ao hồ) tại sao bây giờ anh mới viết bút ký? Vĩnh Hiếu chẳng hề thố lộ tâm tình qua hơn 400 trang giấy chi chít đầy chữ nghĩa, nên mọi câu trả lời dài hay ngắn chỉ là sự dò la, phỏng đoán. Đây là một phỏng 14 đoán: Nếu đất nước Việt Nam độc lập, tự do và no ấm như kẻ chiến thắng thường rêu rao thì Trên Vòm Trời Lửa Đạn chắc không ra đời. Trên Vòm Trời Lửa Đạn đến tay người đọc hôm nay không phải vì nỗi đau chiến bại, hay mặc cảm thua trận của tác giả (giữ quê quê mất, giữ nhà nhà tannhư Hà Huyền Chi than thầm) mà là vì sự tức tưởi do đất nước quá lầm than. Trên Vòm Trời Lửa Đạn là một câu chuyện bi hùng tác giả kể với nụ cười nhiều lần méo mó vì ước mơ một đất nước Việt Nam tự do, dân chủ chẳng biết đến bao giờ mới là một sự thật. Và đây là một phỏng đoán khác. Ai đó, vì vô tình hay hữu ý, nói rằng bút ký của Vĩnh Hiếu tạo thêm đau thương, moi vào vết thương đã ngủ yên trong dĩ vãng, thì đây là câu trả lời của Vĩnh Hiếu: Viết vì còn bao nhiêu thiên kiến và ngộ nhận về sự chiến đấu anh dũng của người lính chiến Miền Nam; viết vì ý nghĩa của sự hy sinh đó cần được bày tỏ; viết để thắp nén hương lòng gởi đến các chiến hữu chốn nào đó, nơi Miền Tây Phương cực lạc hay Nước Chúa vĩnh hằng. Trên Vòm Trời Lửa Đạn chắc không phải là tác phẩm độc nhất — tác phẩm của một đời người — mà còn nối tiếp… 3 Trên Vùng Trời Lửa Đạn mở đầu bằng “Những Phi Vụ Khó Quên” với trận đánh ở cửa khẩu Bình Di, Bình Định và kết thúc với “Phi Đoàn Thần Tượng: Giờ Thứ 25” với sự sụp đổ của Miền Nam. Giữa hai thời điểm đó, Vĩnh Hiếu có mặt nhiều nơi từ đường mòn Hồ Chí Minh, Tân Cảnh, Dakto, Dak Pek, Polei Kleng, Charlie, Kontum, Pleime, Benhet, của Tây Nguyên; đến An Lão, Tam Quan, Hoài Ân, Hoài Nhơn, Bồng Sơn hay cái nôi của Liên Khu 5 cộng sản, Phù Cát, của tỉnh Bình Định; rồi Quảng Đức, Ban Mê Thuột, Khánh Dương; và cuối cùng là Tỉnh Lộ 7B, nối liền Pleiku – Phú Bổn – Phú Yên, với cuộc di tản hãi hùng của những ngày tàn cuộc Miền Nam. Vĩnh Hiếu đã đến nhiều nơi anh cần phải đến, đã thấy, đã nghe, và đã sống thực sự từng giây phút tại những nơi ấy. Chắc Vĩnh Hiếu chưa bao giờ lẩm nhẩm câu nói của vua Jules César, “tôi đã đến, tôi đã thấy và tôi đã chiến thắng” (Je suis venu, j’ai vu, j’ai vaincu) dù chiến thắng đây không nhất thiết phải là chiến thắng quân thù mà có thể hiểu là chiến thắng chướng ngại ngoại cảnh, như núi cao rừng sâu, và bất ổn nội tâm, như sợ hãi hay nhu nhược. Tuy vậy, anh có thể nói to rằng “tôi đã đến, tôi đã thấy và tôi đã sống” (Je suis venu, j’ai vu, j’ai vécu). Kinh nghiệm sống dồi dào với nhiều cảm giác mạnh đó giúp anh viết từ nhiều góc cạnh và rất phong phú, như cảnh bắn lầm quân bạn (trang 65-66), chở thường dân bị thương trên tàu bay riêng V.I.P. riêng của Đại tá Tiểu Khu Trưởng (tr. 92-94), không quân không bỏ anh em hay bạn bè (tr. 124-125), trực thăng bạn bị bắn nổ tung trên trời (tr. 165), Đồi Charlie và Trung Tá Nguyễn Đình Bảo (tr. 164-173), phi công bị phạt tù vì phạm kỷ luật nhưng không bị nhốt vì phải bay giết giặc (tr. 188-189), máy trực thăng bay bị mất cắp (tr. 230-31)… Độc giả am tường cuộc chiến Quốc Cộng 1945 – 1975 và từng tham khảo các sử gia đáng tin cậy phải nhận ngay ra rằng Vĩnh Hiếu viết rất trung thực. Sự thật của một biến cố xã hội nào đó được mô tả trong một cuốn tiểu thuyết hay ký sự có giá trị thường được coi như trung thực hơn là sự thật đó được trình bày bằng những tờ trình hành chánh hay các dãy số thống kê; (lẽ dĩ nhiên đây không phải là tờ trình hành chánh hay số thống kê của chính phủ Hà Nội, tờ trình và số thống kê của những người mang bệnh thành tích). Đây là một đóng góp của tiểu thuyết và ký sự về việc mô tả hiện thực xã hội một đóng góp tuy dễ cảm nhận nhưng đòi hỏi lời giải thích với đối chiếu dài giòng. Bằng một giọng thân mật, không quá phẩn uất hay quá bi thảm, Vĩnh Hiếu ghi lại những sự việc anh đã thấy, đã nghe, và đã làm. Giọng thân mật đó cùng với cách nói giản dị giúp người đọc bớt bị xáo trộn và dìu người đọc qua cảnh tan thương của “Ngày Chim Vỡ Tổ” và “Phi Đoàn Thần Tượng: Giờ 15 Thứ 25”. Sự thật Vĩnh Hiếu mô tả là những sự thật không hề được chuẩn bị để kể lại cho hậu thế, nhưng là những cái mốc hiếm quý để các sử gia với kỹ năng và lương thiện trí thức đối chiếu hay kiểm chứng các biến cố lịch sử quan trọng khác. Ngoài sự trung thực và phong phú, Vĩnh Hiếu viết rất sống động và hấp dẫn; mỗi trận đánh anh ghi lại là một cuốn phim gồm nhiều yếu tố tác động lẫn nhau với vài thay đổi bất ngờ đưa sự căng thẳng lên cao từng giây từng phút. Sự sống động và hấp dẫn đó một phần do bản chất sôi động của cuộc chiến và một phần do sự gan dạ, liều lĩnh và sự biến cải chiến thuật của anh và đồng đội. Không biết việc biến cải này là một lối áp dụng binh pháp cổ điển của Nhạc Phi, Tôn Tử, Ngô Vũ, Carl Clausewitz… vào chiến trận trực thăng hiện đại có ghi trong sách vở, hay chỉ là phản ứng tức thời của người lính Miền Nam, đa hiệu, tự do và biết suy luận (vì họ chẳng bao giờ bị xâm mình, đầu độc hay uống thuốc kích thích). Trận đánh tại đài kiểm báo hải quân, cửa khẩu Đề Gi, Bình Định dưới đây ghi lại tất cả nét đặc biệt đó: “Trên vùng hoạt động, hai chiếc võ trang luôn bay theo đội hình tác chiến, một chiếc dẫn đầu… chiếc thứ hai bay ở một khoảng cách khá xa đủ thời gian để … yểm trợ cho chiếc số một nếu bị bắn… Bay qua đường mòn HCM, tiếng động của chiếc trực thăng đầu làm cho địch chuẩn bị… Tôi đổi chiến thuật… hai chiếc bay song song và vượt qua cùng một lần… Ánh nắng gay gắt của mặt trời chênh chếch hướng đông… tôi lóe ra một ý định… tôi sẽ dùng mặt trời làm phương tiện ngụy trang. Tôi sẽ đánh từ trên cao xuống, địch sẽ bị chói mắt khi nhìn lên bắn trả… Oành! Oanh! Bụi đỏ tung mù mịt trên đỉnh núi… Chiếc tàu chở cấp chỉ huy bộ binh đang quan sát từ cao độ, la thất thanh trong tần số…ngưng bắn… ngưng bắn… bạn bắn gần quân bạn… …Gió từ hướng đông… Tôi nói Thành trang bị tất cả bằng hỏa tiễn khói… đánh một phát vào sườn núi…một màn khói che họng súng tụi nó… Từng cặp rocket tuôn ra… nổ tung… bung lên những cụm khói… tạo thành bức màn khói dày đặc che khuất gần hết căn cứ hỏa lực… Tôi đẩy cần lái, chiếc trực thăng như con đại bàng lăng xả vào con mồi….Oành!… Oành!…Oành!… Trên cao độ, chiếc Charlie đang bay vòng quan sát: ‘Đẹp lắm…ngay trên target… dàn phòng thủ cũng như ổ cao xạ bị tiêu diệt… Đẹp lắm… bộ chỉ huy quân bạn có lời khen…’” (trang 24-29). Khác với anh lính bộ binh với tầm nhìn giới hạn bởi cảnh vật chung quanh, Vĩnh Hiếu nhìn khu vực dưới vòm trời hoạt động của chiếc trực thăng võ trang qua một không gian rộng lớn, bao gồm dãy núi cao, khu rừng rậm hay quốc lộ uốn khúc… với nhiều biến chuyển tương ứng và đồng thời trong một khoảng thời gian ngắn. Với lối nhìn đó, sự việc anh kể tạo thành một bức tranh sống động trong trí người đọc, một màn ảnh đại vĩ tuyến với lửa bùng cháy ở một góc làng, khói bốc lên từ bến sông, đoàn trực thăng bay vòng vòng quanh đồi… Vì lý do đó, hầu hết các chuyện trong Trên Vòm Trời Lửa Đạn đều lôi cuốn người đọc từ đầu đến cuối, hấp dẫn, hồi hộp; người đọc vì thế hội nhập vào các biến chuyển của câu chuyện rất nhanh và sâu. “Mây Giăng Lối Về” đầu đề rất nên thơ (chắc tác giả nghĩ đến mây giăng khắp lối em về) của câu chuyện nghẹt thở khi phi đoàn bay về doanh trại trong chiều Cao Nguyên mây mù. Đây là mấy tình tiết chính của câu chuyện: Buổi chiều, phi đoàn Thần Tượng, gồm hai chiếc trực thăng võ trang và năm chiếc tải quân, chuẩn bị rời Gia Nghĩa bay theo Quốc Lộ 14 về Ban Mê Thuột; chuyến bay thường chỉ kéo dài chừng nửa giờ. Cao Nguyên mùa mưa, thời tiết biến chuyển bất ngờ. Mới sau mười lăm phút bay, trời bắt đầu sẩm tối, từng cột sương trắng từ tần mây xám xịt thòng xuống mặt rừng. Hợp đoàn lầm lũi nối đuôi nhau. 16 Trời càng tối, tần mây càng xuống thấp, đoàn tàu ẩn hiện trong mây. Đại úy Huỳnh trưởng toán nhắc nhở: “Hợp đoàn, bay theo khoảng cách an toàn. Trời mù quá, anh em cẩn thận”. Chẳng bao lâu, tiếng đại úy Huỳnh lại vang lên: “Hợp đoàn, tần mây xuống đọt cây rồi, chuẩn bị quẹo lui về Gia Nghĩa”. Con đường đất đỏ phía trước, con đường dốc cao dựng ngược, đột nhiên biến mất trong sương mù, cả hợp đoàn mạnh ai nấy quẹo trên mặt rừng âm u, rồi bay về phía phi trường Nhơn Cơ. Năm phút sau trời tối đen như mực, cả hợp đoàn hạ xuống đường… ngủ qua đêm. Người đọc hồi hộp và lo âu cho số phận của hợp đoàn và rồi thở phào nhẹ nhỏm khi hợp đoàn bay về Ban Mê Thuột an toàn trong nắng mai (trang 232-238). Phải thêm rằng Vĩnh Hiếu kể chuyện rất có duyên. Anh biết ghi nhận những điều cần ghi nhận, đó là những sự việc chuyển chở được nội dung câu chuyện và cảm nghĩ mà người kể chuyện muốn chia xẻ với người đọc. Nhiều câu chuyện trong Trên Vòm Trời Lửa Đạn là những tùy bút, đoản văn người đọc thích thú, đáng được đăng trên tạp chí văn nghệ. Và đây là câu chuyện bắn vịt trời và bắt cá lóc: Trên đường bay về Ban Mê Thuột, vì muốn điều chỉnh lại độ chính xác của máy bắn hỏa tiễn nên khi bay ngang qua mặt hồ, Vĩnh Hiếu chúi mũi tàu và bắn một quả rocket vào chính giữa hồ, hàng mấy chục con vịt trời vô tình bị giết chết oan, nổi lều bều trên mặt nước. Đồng đội của anh bay sát mặt hồ vớt vịt; vịt trời chết nên cá lóc cũng ngất ngư, họ vớt luôn cả cá bỏ vào thùng đạn. Vịt và cá lóc làm dơ tàu; tàu phải dừng lại một con suối nhỏ để rửa cho sạch trước khi về doanh trại. Tàu vừa hạ bên bờ suối, mấy cô gái Thượng bộ ngực trần căng phồng, đang đùa giỡn trong nước, hoảng sợ bỏ chạy… Đêm đó một bữa tiệc ngon lành với vịt luộc chấm nước mắm gừng và canh chua cá lóc. Tiệc vui làm mọi người ngủ ngon. Nửa đêm, có tiếng lộp cộp… lộp cộp…Vĩnh Hiếu vớ lấy cây súng P.38, bước về phía tiếng động: mấy chú cá lóc đang… vẫy vùng (trang 72-78). Nhìn từ một góc cạnh khác, chuyện bắn vịt trời, vớt cá lóc và vài chuyện tương tự khác là vài nét đơn sơ về một phần của cuộc sống rất thực của người phi công trực thăng trong thời binh lửa. Qua lối kể chuyện dí dỏm của tác giả, người đọc cảm nhận ngay rằng những chuyện “bên lề” đó là những phút giây người phi công sống thực, sống tức thời ít suy tính, sống cho hiện tại, sống để quên đi những giờ phút căng thẳng dưới súng phòng không của địch và sự nhọc nhằn của những chuyến bay tiếp viện khẩn cấp. Vài độc giả nghiêm khắc (và nhất là những độc giả với thiên kiến về người lính chiến Miền Nam) có thể lên án những hành động đó là vi phạm quân kỷ hay phí phạm đạn dược. Việc kết tội đó quả khó chống chế nhưng chỉ dựa vào luận lý mà không để ý đến thực tại, nghĩa là chỉnêu lên vấn đề thuần túy luật pháp (legality/légalité) của hành động bên lề mà bỏ qua khía cạnh thích hợp (suitability/convenabilité) của chúng. Giây phút người phi công hái mấy trái thanh long để giải khát (trang 214) hay bắn heo rừng bằng cây súng rouleaux với sáu viên đạn (trang 216 – 217) là nét chấm phá của một cuộc sống vào sinh ra tử, giúp người lính chiến tìm vài giây phút lãng quên hay lấy lại chút sức bình sinh để tiếp tục bay và đối diện nỗi chết không rời. Những giây phút đó là những trang điểm hay nốt hoa — ornamental note hay embellishment — trong một khúc nhạc; những trang điểm đó (miễn là không quá lạm dụng) làm tăng sự luyến láy, duyên dáng của dòng nhạc, không thể tách rời ra khỏi khúc nhạc. Sau cùng, trong bút ký chiến trường, dựng truyện ít khó khăn hơn thuật chuyện, vì óc sáng tạo — khả năng thiết yếu trong việc tạo dựng nhân vật, hoàn cảnh và diễn biến — đóng vai trò thứ yếu so với khả năng diễn tả thực tại. Tuy vậy, dựng truyện không phải chỉ là ghi chép chiến sử đơn thuần mà là sự chọn lựa và sắp xếp các trận đánh tiếp nối nhau để vẽ nên toàn cuộc chiến; trong đó, mỗi trận đánh là một mốc lịch sử và khi được nối kết với nhau sẽ tạo thành một chiều dài lịch sử. 17 Vĩnh Hiếu đã vẽ được chiều dài lịch sử đó, chiều dài lịch sử đau thương của dân tộc Việt Nam và Miền Nam. 4 Vĩnh Hiếu giàu tình cảm, dễ rung động trước ngoại cảnh và liên tưởng khá mạnh; ý tưởng vì thế chiếm một phần không nhỏ so với các sự việc thuật chuyện. Một điều đáng tiếc là những hình ảnh đậm nét của cuộc chiến — biểu tượng của chiến tranh– vắng bóng trong hầu hết các chuyện. Trong chuyện “Người Chết Dưới Chân Chúa” trong tập DấuBinh Lửa của Phan Nhật Nam, chiếc áo màu tím trên dây phơi áo quần tung bay trong gió và xác cô gái nằm trên sàn gạch xa xa là một biểu tượng về sự đau thương của cuộc chiến. Có thể vài giờ trước khi trút hơi thở cuối cùng vì mãnh đạn đại bác, người con gái đã đem chiếc áo màu tím nàng yêu thích ra phơi; và có thể vài ngày trước đó, người con gái đã mặc chiếc áo đó để vui chơi với bạn bè cùng lứa tuổi. Trong Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh (Tout est calme sur le front de l’Ouest) của Erich Maria Remarque, đôi giày trận là một biểu tượng rất chọn lọc. Kemmerich bị trọng thương và nằm bệnh viện, Muller đến thăm. Muller xin đôi giày Kemmerich đang mang trong khi tim Kemmerich vẫn còn đập. Kemmerich thừa hưởng đôi giày đó khi một anh lính không quân qua đời và nay Muller muốn thừa kế tiếp theo. Đôi giày là một dấu hiệu u ám của sự chết chóc; đôi giày chỉ hao mòn đôi chút khi đổi chủ, nhưng số mệnh người mang giày lại quá mong manh trong cuộc chiến ác liệt. Vĩnh Hiếu ghi lại khá nhiều hình ảnh chiến tranh, nhưng chỉ phác họa, không dừng lại thật lâu để vẽ cho thật đậm nét. Có được vài biểu tượng Trên Vòm Trời Lửa Đạn sẽ gây cảm giác mạnh và nhiều ấn tượng nơi độc giả; độc giả vì vậy sẽ ghi nhớ Vĩnh Hiếu sâu đậm hơn và lâu dài hơn. Một điểm khác, điểm này có thể bắt nguồn từ cá tính khiêm nhường của tác giả. Đọc câu chuyện đầu tiên, “Cao Điểm 601”, trong tập bút ký, người đọc rất ngỡ ngàng. Tác giả dùng ngôi thứ nhất “tôi” để thuật chuyện nhưng chẳng hề cho độc giả biết cái “tôi” này là ai, từ đâu đến, vào ngày tháng nào. Đọc “Dấu Binh Lửa” của Phan Nhật Nam, ngay từ mấy trang đầu độc giả đã nhận ngay ra rằng tác giả là một thiếu úy (“ông quan một”) Nhảy Dù, 21 tuổi, mới ra trường. Được một anh lính khen “Thiếu Úy trẻ quá”, tác giả nổi dóa và trả đủa ngay, “Trẻ quá không đi lính được à?” Đọc thêm vài chuyện nữa của Vĩnh Hiếu, độc giả càng thêm ngỡ ngàng vì không biết gì về phi đoàn trực thăng của tác giả, ngoài mấy mã số Charlie, Hồ 1, Hồ 2… Đọc Pilote de Guerre (Phi Công Thời Binh Lửa) của Saint-Exupéry, ngay trang thứ hai độc giả đã nhận ra rằng tác giả thuộc phi đoàn thám thính 2/33, chịu trách nhiệm toàn vùng Arras do Đức chiếm; đóng; toàn thể nước Pháp trong năm 1940 chỉ có 50 phi công trinh sát, 23 trong số 50 được thuộc phi đoàn 2/33; cơ hội sống sót của phi công rất nhỏ, 1 trên 5; chỉ trong ba tuần đầu, 17 phi công của phi đoàn đã bị bắn rơi… Đọc Trên Vòm Trời Lửa Đạnmãi đến trang 232, Chương 4, “Ngày Tàn Cuộc Chiến”, độc giả (bình thường ít hiểu biết về Không Quân) mới nhận diện được một phi đội (gồm 5 chiếc trực thăng đổ quân và 2 chiếc trực thăng võ trang) thuộc Phi Đoàn Thần Tượng 215, và tác giả là trưởng toán trực thăng võ trang, bay chiếc số 1, với mã số Hồ 1… Nếu nhận biết rõ vài sự kiện chính yếu của Phi Đoàn và các phi đội trong Phi Đoàn, dù được trình bày trơ trọi hay mang chút ít cái tôi ngay trong vài trang đầu, độc giả sẽ dễ theo dõi câu chuyện và đón nhận các cảm nghĩ khá sâu sắc của tác giả. Mấy nhận định trên tuy phải giải thích dài giòng với nhiều trích dẫn, nhưng không tai hại gì đến những trang chiến sử đáng nhớ với sự chiến đấu can trường trong hoàn cảnh nghiệt ngã của người lính chiến Miền Nam mà tác giả muốn gởi đến người đọc. Trên Vòm Trời Lửa Đạn dồi dào sự kiện lịch sử và cảm nhận, vài cắt xén 18 vài chỗ, vài hội nhập vài chi tiết, tô đậm nét vài bức tranh… đủ làm cho tập bút ký trong kỳ tái bản dễ đọc hơn, đậm đà hơn và màu sắc hơn.
o O o
Charlie, Kontum, Pleime, Đồng Xoài, Bình Giã… giờ cách xa hơn nửa vòng địa cầu và đã gần bốn mươi năm trôi qua, một thời gian khá dài để một người sinh ra và khôn lớn, nhưng tiếng bom đạn của những chiến trường máu lửa đó vẫn còn vang dội trong giấc ngủ và niềm uất hận vì thiếu súng đạn để chiến đấu vẫn còn cháy âm ỉ trong tâm tư người Việt sống ly hương. Cảm ơn Vĩnh Hiếu. Cảm ơn anh đã nói lên một cách trung thực và sống động sự chiến đấu can trường, tình người và lòng nhân hậu của người lính chiến Miền Nam, người lính bị bức tử, bị lãng quên và bị xét xử một cách không công bằng bởi những kẻ cận thị, kém suy xét, hay u mê về mưu đồ xâm chiếm Miền Nam và hoàn cầu của toàn khối cộng sản.
Nguyễn Phụng Raleigh, North Carolina tháng 5/2013

Thường Đức - Quảng Nam,

Những hình ảnh cho thấy những người dân quê nghèo đáng lẽ có cuộc sống bình dị nhưng sung túc vì họ có sông, có ruộng đồng để trồng lúa, nuôi trâu bò mập béo....
Nhưng không, CSBV đã phá vỡ sự bình yên ấy!
Chúng vi phạm Hiệp Định Geneve 1954, trắng trợn xâm phạm bờ cõi tự do của Miền Nam.
Các Chú và Anh, QLVNCH hẳn cũng đã tham gia trận đánh lớn gần 3 tháng trời để bảo vệ Thường Đức?
Nguồn hình: Douglas Pike, Joe Duffy via Flickr/Manhai


















 

 

Sunday, September 5, 2021

Trên vòm trời lửa đạn . Lời Bạt và Giới thiệu của Đặng Chí Bình và Phạm Tín An Ninh

Lời Bạt và Giới thiệu sách của: Đặng Chí Bình, tác giả cuốn Thiên hồi ký “Thép Đen”, là một điệp viên của VNCH, đã bị bắt vì xâm nhập tình báo miền Bắc năm 1963. Ông đã trãi qua gần 20 năm ngục tù tại Hỏa Lò, Hà Nội. Được thả về năm 1983 và nhiều năm sau đó ông đã đến được bến bờ tự do. Hiện ông đang định cư tại Hoa Kỳ.
***
Kính thưa những người đọc, Hầu hết chúng ta đọc mà đọc nhiều sách báo ngoại quốc, cũng như của đất nước Việt Nam chúng ta kính yêu. Có những tác phẩm lâu bền với thời gian, ngược lại có những tác phẩm sôi nổi lúc ban đầu,..rồi dần dần đi vào quên lãng theo năm tháng…Vì sao như thế? Hàng chục yếu tố phải đề cập, nhưng một yếu tố không thể thiếu, là lòng chân thành và tôn trọng sự thật của tác giả. Muốn viết sự thật, phải là người có bản lĩnh, gắn hữu cơ với lòng tự trọng và sự tôn trọng người khác. Ðừng bao giờ nghĩ: “Mình không viết sự thật mà người khác không thể biết”. Thưa qúy vị, dù là một điệp viên, tôi vẫn tuân theo lời giáo huấn của Tổ tiên, cha ông của dân tộc Việt: Thật thà là cha quỷ quái. Là một tình báo đi vào lòng địch, nhưng vì kém khả năng, nên đã rơi vào tay kẻ thù, phải vào nằm trong Hỏa Lò Hà Nội từ đầu 1962. Do những hoán đổi giữa diện và điểm có kỹ thuật và gặp thời… VC đã chiếm được địa điểm chiến lược khởi đầu, là Ban Mê Thuật ngày 13/ 3/ 1975. Lòng tôi vặn vò, quằn quại trong ngục tối Hỏa Lò, với bao nhiêu tin tức hỗn tạp xuyên tạc, bóp méo của đài, báo của CS,.. tôi không thể biết rõ nguyên nhân. Rồi mãi tới đầu 1984, tôi vượt biển đến Mỹ. Ngoài những thời gian mưu sinh bắt buộc, tôi xục xạo, tìm tòi qua những chứng liệu người và tài liệu, để cỡi ra những điều tôi ấm ức ở trong tù. Qua Google, tôi lang thang vào những web. blog. như Cánh Thép, Bảo Vệ Cờ Vàngv.v… Trong cái rừng, núi bao la tin tức của thế giới tự do… Trải qua kinh nghiệm của nghiệp vụ, tôi đã đánh hơi thấy một chàng phi công trẻ: Vincent Vĩnh Hiếu, cũng ngổ ngáo ngang ngược và đặc biệt có những yếu tố, tôi đã nêu trên. Tôi đã lao vào những bài viết, hồi ký ngắn dài của Vĩnh Hiếu, để thẩm định cả một bối cảnh vùng cao nguyên BMT, khởi đầu dẫn dắt đến ngày 30/4/1975 thương đau của dân tộc. Toàn bộ những bài vở của Vĩnh Hiếu, tuy còn một số thiếu sót, nhưng đã ôm chặt bầu nhiệt huyết của một chàng trai thương yêu của mẹ Việt Nam. Do thế, nếu ai còn trăn trở khắc khoải với dân tộc, quê hương, với ngày 30/4/1975 oan khiên, xin hãy tìm đọc cuốn bút ký chiến trường “TRÊN VÒM TRỜI LỬA ĐẠN” của Vĩnh Hiếu, phi công Phi Ðoàn 215 Thần Tượng. 
Xin chân thành cảm ơn qúy vị. 
Đặng Chí Bình
 
o0o
 
Phạm Tín An Ninh: Đọc “Trên Vòm Trời Lửa Đạn” của Vĩnh Hiếu
Cuộc chiến đã chấm dứt từ bao nhiêu năm qua. Thời gian đủ để chôn xóa tất cả mọi dấu tích bom đạn trên quê hương, nhưng vẫn chưa lành được vết thương trong lòng những người đã từng tham dự và chịu hệ lụy từ cuộc chiến ấy. Đặc biệt, người lính miền Nam, một thời chiến đấu dũng cảm trên các chiến trường để rồi phải đành bỏ cuộc nửa đường trong đớn đau tức tưởi. Những máu xương mà họ đã cống hiến cho đất nước và dân tộc, thời gian vẫn chưa đủ xa để có thể trôi vào quên lãng. Từ nỗi oan khiên đó, bao năm qua, đã có nhiều người lính trong mọi quân binh chủng viết về cuộc chiến, kể lại những năm tháng hào hùng với biết bao chiến công hiển hách, ngỡ như không thể nào có ngày phải bàng hoàng buông súng. Đa số trong họ không phải là nhà văn, hoặc muốn trở thành nhà văn. Họ cầm bút chỉ để viết ra, giải tỏa những điều ẩn ức theo tháng năm đè nặng trong lòng. Viết để chia sẻ với những đồng đội cũ hầu cùng nhau tìm lại những kỷ niệm kiêu hùng của một thời trai trẻ với hào khí ngút trời, sẵn sàng chết cho quê hương. Và viết để cho con cháu, các thế hệ sau này, hiểu được ít nhiều mục đích, tinh thần và khả năng chiến đấu của cha ông, trước các luận điệu đầu độc trên một số báo chí, phim ảnh của đám phản chiến hèn nhát cùng vài tay chính trị “phù thủy” Mỹ đốn mạt, cố tình trút hết tội lỗi trên đầu những người bạn đồng minh, trơ tráo bảo họ là “những người không muốn chiến đấu” nhằm chạy tội bội phản những gì mà chính phủ Mỹ đã từng long trọng cam kết. Trong số những người lính cầm bút bất đắc dĩ ấy, nổi lên một cây bút tài tình, mà những bài viết của anh đã hấp dẫn đông đảo độc giả, dù ngày xưa là dân hay lính, ngay cả những người đọc khó tính và không mấy thích chuyện chiến tranh – Đó là Cựu phi công Vĩnh Hiếu. Trong cuộc chiến Việt Nam, những chàng phi công nổi tiếng hào hoa ở thành phố, là thần tượng của các cô con gái đẹp. Nhưng dường như không mấy ai biết rằng, những chàng trai thích đi mây về gió ấy lại là những chiến sĩ rất gan dạ hào hùng trên khắp các chiến trường lửa đạn. Bao phen vào sinh ra tử, xem cái chết tựa lông hồng. Địch quân khiếp sợ. Không có chiến tích nào mà thiếu sự tham dự của các chàng trai hào hoa ấy. Với những người lính bộ chiến như chúng tôi, họ luôn là những cứu tinh, là niềm hy vọng khi đơn vị bị lâm nguy, hay gặp khó khăn trên đường tiến quân truy kích địch. Họ đã từng âm thầm đáp xuống ngay trong vùng đất địch để thả và bốc lên những toán Viễn Thám, Biệt Kích, Lôi Hổ. Họ cũng là những người nặng tình đồng đội, là ân nhân của những thương binh và gia đình tử sĩ. Không có sự can trường, sẵn sàng chấp nhận hiểm nguy của họ, đã có biết bao chiến binh phải vĩnh viễn nằm lại tại chiến trường, ở một vùng núi rừng lạnh lùng vô danh nào đó. Tôi đã từng theo dõi những phi vụ tản thương của Phi Đoàn 243 Mãnh Sư, từ căn cứ Phù Cát đã phải bay lên cao nguyên trong những đêm khuya gió mưa tầm tã, sương mù dày đặc. Có chiếc đâm vào vách núi nổ tung cùng với số thương binh của chính đơn vị tôi vừa mới được bốc lên. Tôi chỉ biết đứng nghiêm, ngậm ngùi đưa tay chào vĩnh biệt. Vĩnh Hiếu là một trong những người phi công ấy. Anh là trưởng toán trực thăng võ trang (lead gun) của Phi Đoàn Thần Tượng 215. Một phi đoàn trực thăng kỳ cựu. Căn cứ trú đóng tại thành phố biển Nha Trang an bình thơ mộng, nhưng như là 5 những cánh chim trời, họ có mặt mỗi ngày trên khắp các chiến trường Quân Khu 2 trong suốt thời kỳ chiến tranh ác liệt, cam go và bi tráng nhất. Lãnh nhận nhiệm vụ hiểm nguy bậc nhất của phi đoàn, mỗi lần cất cánh là mỗi lần Vĩnh Hiếu bay tiên phong vào vùng lửa đạn. Chuyện sống chết chỉ còn là số mệnh. Có thể nói anh là một trong những người lính tham dự nhiều mặt trận, nhiều cuộc hành quân và yểm trợ phối hợp với nhiều đơn vị nhất. Không có địa danh nổi tiếng nào trên lãnh thổ Quân Khu 2 mà Vĩnh Hiếu chưa từng có mặt: Từ đường mòn Hồ Chí Minh, Tân Cảnh, Dakto, Dak Pek, Polei Kleng, Charlie, Kontum, Pleime, Benhet, của Tây Nguyên, đến An Lão,Tam Quan, Hoài Ân, Hoài Nhơn, Bồng Sơn, Phù Cát, vùng đồng bằng bất an của tỉnh Bình Định, cái nôi của Liên Khu 5 VC, rồi Quảng Đức, Ban Mê Thuột, Khánh Dương,và cuối cùng là Tỉnh Lộ 7B, nối liền Pleiku – Phú Bổn – Phú Yên, với cuộc di tản kinh hoàng trong chiến sử. Không kể những lần phi đoàn tăng phái cho các cuộc hành quân ngoài lãnh thổ quân khu. Có lẽ những người tình của Vĩnh Hiếu không thể ngờ người phi công trai trẻ hào hoa vui tính ấy đã từng bao lần bật khóc. Không chỉ khóc vì niềm vui sướng bất ngờ khi dồn dập nhận tin chiến thắng từ các đơn vị bộ chiến do phi đoàn anh đổ quân, yểm trợ, mà còn khóc vì một vài căn cứ, vị trí của họ bị tràn ngập bởi biển người thí mạng của quân thù ngay dưới cánh quạt trực thăng của chính anh, khi anh vừa liều mình xuống thấp để phải đau thắt ruột gan trút những trái hỏa tiễn cuối cùng xuống trận địa, lúc khoảng cách giữa bạn – thù không còn lằn ranh nào phân biệt. Nỗi đau đớn tột cùng qua bao lần chứng kiến những người bạn cùng phi đoàn gãy cánh trên vòm trời lửa đạn. Như lần tiếp tế khẩn cấp cho TĐ.11 Nhảy Dù tại căn cứ Charlie, vào những giờ phút cuối cùng, trong vòng vây thắt chặt và đạn pháo dồn dập của quân thù, một phi cơ bạn bị phòng không địch bắn cháy ngùn ngụt giữa trời, Vĩnh Hiếu cố bay chiếc gunship đến thật gần con tàu bị nạn, hối hả gọi bạn đáp xuống dưới sự yểm trợ của mình, nhưng đã quá muộn. Con tàu đang bốc lửa mỗi lúc mỗi cao, khoang tàu mịt mù khói đen thấp thoáng hai anh mê vô xạ thủ chồm về phía “cockpit” để tránh sức nóng bốc lên từ ngọn lửa đang bao trùm buồng máy. Tất cả đều trở thành vô vọng! Vĩnh Hiếu kể tiếp: “…con tàu không còn liên lạc được với thế giới bên ngoài, nó đang trở thành một khối lửa cuồn cuộn rơi như hòn đá cuội, chạm triền núi vỡ bùng lên….Tất cả chỉ còn là một đống sắt cháy ngùn ngụt… Tôi cho con tàu lượn thấp xuống nhìn trong tuyệt vọng. Hai chiếc guns bay vòng tròn trên chiếc tàu bị nạn và sau đó được lệnh rời vùng, tôi ngoái đầu nhìn đám cháy vẫn mịt mù một lần cuối rồi chuyển hướng bay, nước mắt lưng tròng.”… Cùng lớn lên, cùng học chung dưới một mái trường trung học ở thành phố Nha Trang, và Phi Đoàn 215 yểm trợ, phối hợp hành quân với đơn vị tôi từ lúc phi đoàn mới thành lập cho đến ngày cuối cùng cuộc chiến, vậy mà tôi chưa hề gặp “người hùng” Vĩnh Hiếu, dù đã bao lần tôi từng thán phục tài bay bổng và lòng gan dạ của người lead gun Phi Đoàn Thần Tượng này. Tôi biết Vĩnh Hiếu khá muộn màng, lúc những cánh chim Thần Tượng đã mất từ khá lâu rồi bầu trời yêu dấu cũ. Ra hải ngoại, bất ngờ đọc được một vài bài viết của anh rải rác trên các báo chí, và trên Internet. Tôi say mê, thích thú để sau đó đã tìm đọc gần như tất cả những bài viết khác của anh. Từ cách hành văn mạch lạc, giọng văn lúc nghiêm trọng căng thẳng, lúc vui đùa dí dỏm, cấu trúc câu chuyện hấp dẫn bất ngờ, đến những tình tiết sống động, tạo cho người đọc cái cảm giác như đang cùng anh tham gia trận chiến, tai như còn đang nghe cả tiếng đạn bom lẫn trong âm thanh vần vũ của cánh quạt trực thăng. Điều thích thú là bên cạnh những khói lửa, 6 chết chóc, anh rất tài tình làm dịu lại trí não của người đọc, khi mở ra một vòm trời với bao hình ảnh thơ mộng, hùng vĩ đang trải dài ra phía dưới. Người đọc có cảm giác như đang xem những bức tranh tuyệt đẹp của rừng núi, bờ biển, sông hồ và làng mạc quê nhà, được vẽ bởi bàn tay của một họa sĩ tài danh. Có khi anh xen vào một vài tiếng chửi thề đúng lúc, đặc điểm, tính tình rất dễ thương của đồng đội hay bóng dáng của những người tình đẹp thấp thoáng ở một nơi nào đó. Rất đúng với phong cách lính, và nhất là “lính tàu bay”. Ngoài ra, người đọc còn thích thú về sự bén nhạy và tinh tế của tác giả khi anh phân tích, nhận định các tình huống chiến trường, cho dù bây giờ, tất cả đã trở thành quá khứ. Đọc Vĩnh Hiếu, người ta cũng nhận ra tính nhân bản của người lính miền Nam. Rải rác trong nhiều bài viết, anh kể lại tâm trạng lo âu, đắn đo đến độ căng thẳng thần kinh, khi quyết định tiêu diệt các mục tiêu mà địch giả dạng làm những thường dân, mặc dù đang ở ngay trong vùng địch. Anh chỉ nổ súng khi biết chắc họ không phải là thường dân, nhưng nhất định không để thoát một tên địch nào. Có lần bay cho một vị đại tá tỉnh trưởng. Trong khi chờ để đón ông tại một vùng quê, một phi công khác, người bạn cùng phi đoàn thường bay chung với anh, bất ngờ nhìn thấy một bà mẹ nghèo ôm đứa con trai bị thương trên cổ mà không có thuốc men băng bó, bèn bàn với anh xạ thủ giấu hai mẹ con phía sau, để đưa về một bệnh viện dưới tỉnh. Cảm động nhất, có lẽ là một trong những phi vụ cuối cùng. Khi Vĩnh Hiếu bỏ tiền túi và tiền của mẹ cho thêm, đi mua bánh mì, nhờ ông anh rể vốn là một giáo sư phụ lực, bay độc nhất một chiếc trực thăng võ trang ra vùng Tỉnh Lộ 7B trong lúc giao tranh, thả bánh mì tiếp tế cho dân chạy loạn, rồi đáp xuống bốc một nhóm người kiệt sức. Vậy mà vẫn còn quay lại trút hỏa tiễn xuống đầu địch quân để cứu nguy cho một toán Biệt Đông Quân bị vây trên một ngọn đồi. Đọc anh, cũng để thấy những người lính Không Quân thực hiện hết lòng câu nói (của một nhà văn Không Quân, từng phục vụ cùng Phi Đoàn 215), đã trở thành châm ngôn, truyền thống của quân chủng: “Không Bỏ Anh Em- Không Bỏ Bạn Bè”, khi Vĩnh Hiếu và nhiều phi công khác, bao lần bất chấp mọi hiểm nguy, đáp xuống trước nhiều họng súng đối phương để cứu nguy cho phi hành đoàn lâm nạn. Xin cám ơn các anh, cám ơn Vĩnh Hiếu. Những chiến sĩ từng sống chết với chúng tôi – những người lính bộ binh. Các anh là những cánh én đã từng mang lại bao mùa Xuân cho đồng đội, cho quê nhà. Những cánh én ấy, giờ đây, dù đã phải trải qua bao thăng trầm nghiệt ngã, dù tan tác chia lìa khắp muôn phương, nhưng vẫn luôn khát khao vẫy vùng trên bầu trời xưa cũ. Tiếc rằng, chúng ta đã phải trải qua một mùa Đông quá dài. Dài hơn cả đoạn đời đẹp đẽ nhất, khi các anh còn bay bổng trong bầu trời xanh, trong lửa đạn, mà vẫn vui đùa trước lằn ranh sống – chết nhiều khi còn mỏng hơn sợi tóc Hãy đọc Vĩnh Hiếu, trong cuốn bút ký chiến trường “Trên Vòm Trời Lửa Đạn”, để thấy lại trước mắt cả một bầu trời lửa đạn năm nào, khâm phục và tự hào những chiến sĩ anh hùng, những phi công tài ba, gan dạ nhưng cũng rất hào phóng, vị tha của QLVNCH, để hãnh diện là chúng ta đã từng có một thời như thế. 
Phạm Tín An Ninh