Friday, November 29, 2024

dòng sông cũ SƯ ĐOÀN 22 BỘ BINH – TRUNG ĐOÀN 42 – VNCH.

Sư Đoàn 22 Bộ Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
ARVN 22nd Division Insignia.svg
Phù hiệu
Hoạt động 1955-1975
Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa
Phục vụ Quân Lực VNCH
Quân chủng Lục quân Phân loại Bộ binh
Bộ phận Quân Đoàn II và Quân Khu II – VNCH .
ARVN Joint General Staff Insignia – Bộ tổng Tham mưu
Khẩu hiệu
Tam sơn -Nhị hà
Tham chiến
-Mặt trận Cao nguyên và Bắc Bình Định 1972
-Mặt trận Cao nguyên 1975
Các tư lệnh Chỉ huy
-Hồ Văn Tố
-Linh Quang Viên
-Nguyễn Văn Hiếu
-Lê Ngọc Triển
-Lê Đức Đạt
-Phan Đình Niệm
Sư đoàn 22 Bộ binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa là một đơn vị cấp sư đoàn của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, là một trong 2 đơn vị chủ lực thuộc Quân đoàn II và Quân khu II. Phù hiệu của Sư đoàn có hình biểu tượng “3 ngọn núi và 2 dòng sông” nên còn được gọi một cách hoa mỹ là “Hắc tam sơn,bạch nhị hà”.
Năm 1972 tại chiến trường Kontum “Mùa hè đỏ lửa”, Sư đoàn phải đối mặt với một lực lượng có quân số gấp 3 và hoả lực yểm trợ vượt trội của đối phương, dẫn đến tổn thất nặng nề cho đơn vị và sự hy sinh của vị Tư lệnh Sư đoàn mới chỉ cầm quân chưa đầy một tháng.
Lịch sử hình thành​
Sư đoàn 22 Bộ binh được thành lập vào ngày 1 tháng 8 năm 1955 tại Ban Mê Thuột với danh xưng ban đầu là Sư đoàn Khinh chiến số 4 của Quân đội Quốc gia Việt Nam do Trung tá Nguyễn Văn Chuân làm Tư lệnh đầu tiên. Sau một thời gian ngắn, Sư đoàn di chuyển xuống Quy Nhơn và đặt Bộ Tư lệnh cố định ở đây.
Về sau, vì địa bàn hoạt động và tác chiến của Sư đoàn quá rộng nên lập thêm một căn cứ nữa ở Kontum và đặt ở đây thêm Bộ tư lệnh Tiền phương gọi là Tiền cứ của Sư đoàn, còn nơi đặt Bộ tư lệnh ở Quy Nhơn gọi là Hậu cứ.
Sau khi phế truất Quốc trưởng Bảo Đại và tuyên bố thành lập Việt Nam Cộng Hòa, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã cho tổ chức lại Quân đội Quốc Gia Việt Nam và chính thức cải danh lại là Quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Khối Bộ binh được tổ chức lại thành 4 Sư đoàn Dã chiến và 6 Sư đoàn Khinh chiến. Sư đoàn Dã chiến gồm các Sư đoàn: 1, 2, 3, 4, với quân số hơn 8.500 người mỗi Sư đoàn, là những Sư đoàn có biên chế, trang bị mạnh, được huấn luyện tác chiến chính quy để đảm đương nhiệm vụ chủ yếu là ngăn chặn quân chủ lực của Cộng sản xâm nhập . Sư đoàn Khinh chiến gồm các sư đoàn: 11, 12, 13, 14, 15, 16, với quân số hơn 5.000 người mỗi Sư đoàn, là Sư đoàn được tổ chức biên chế, trang bị gọn nhẹ hơn, đảm nhận nhiệm vụ chủ yếu là bảo đảm an ninh nội địa, kết hợp tiếp sức chi viện cho các Sư đoàn Dã chiến khi cần. Ngày 1 tháng 10 năm 1958 Sư đoàn 4 Khinh chiến được tổ chức lại và đổi phiên hiệu thành Sư đoàn 14 khinh chiến.
Cuối năm 1958, Bộ Tổng tham mưu Quân đội Việt Nam Cộng hòa một lần nữa tổ chức lại các đơn vị. Khi đó, 3 Sư đoàn khinh chiến 12, 13, và 16 được giải thể và bổ sung về các Sư đoàn còn lại để thành lập 7 Sư đoàn Bộ binh 1, 2, 5, 7, 21, 22, 23, với quân số hơn 10.500 người mỗi Sư đoàn.
Ngày 31 tháng 3 năm 1959 Sư đoàn 14 Khinh chiến được tổ chức lại, thâu nhận thêm quân số của Sư đoàn 12 Khinh chiến (được giải tán), đồng thời kết hợp với Khu chiến thuật 22 để cải danh lần cuối và hình thành Sư đoàn 22 Bộ binh, với 3 Trung đoàn 40, 41, 42 (sau tăng cường thêm Trung đoàn 47 ).
Địa bàn của Sư đoàn phụ trách 3 tỉnh bắc cao nguyên Trung phần và 2 tỉnh bắc duyên hải Trung phần gồm Kontum, Pleiku, Phú Bổn, Bình Định và Phú Yên. Khi đổi thành Sư đoàn 22 Bộ binh, Tư lệnh đương nhiệm của Sư đoàn là Trung tá Trần Thanh Chiêu. Sư đoàn nêu cao với phương châm: Trấn Sơn-Bình Hải để làm tôn chỉ .
” ANH HÙNG TỬ . KHÍ HÙNG BẤT TỬ ” Đại Tá Nguyễn-Hữu-Thông – QLVNCH . (1937 – 1975)
Đại Tá Nguyễn Hữu Thông K16 VBQG, Trung Đoàn trưởng Trung đoàn 42, Sư Đoàn 22 Bộ Binh, QLVNCH.
Ngày 30 tháng 3.1975
“Trước mối hiểm nguy sẽ bị Cộng quân tràn ngập, Quân Khu II đã bắt buộc phải ra lệnh cho Sư đoàn 22 Bộ binh, đơn vị duy nhất vẫn còn giữ được khả năng chiến đấu, phải tránh đối đầu địch hầu rút về Qui Nhơn. Trung đoàn 41 và 42 chiếu theo lệnh, rút bỏ Bình Khê.
Vị chỉ huy của Trung đoàn 42 là Đại tá Nguyễn Hữu Thông, đã quá ư là phẫn uất; ông đã năn nỉ vị sư đoàn trưởng đừng rút . . . Nhưng lúc đó thì cũng đã quá trể rồi.

Khi hai trung đoàn về tới Qui Nhơn vào lúc đêm đã xuống thì tức khắc đã bị các lực lượng CS đã chuẩn bị kiên cố xong ngay trong thành phố, chận đánh. Lúc đó thì đa số dân cư cùng lực lượng phòng thủ thì cũng đã bỏ trốn chạy đi mất rồi. Bến tàu thì cũng đã bị CS chiếm đóng; cũng như là đa số các tòa cao ốc.
Qui Nhơn đang thật sự nằm dưới quyền kiểm soát của Sư đoàn 3 CS .
Sau hai ngày chiến đấu thì hai Trung đoàn 41 và 42, với hải pháo hổ trợ, đã giải tỏa được một bãi để di tản ở hướng Nam của thành phố và cùng nhau tụ tập lại tại một bãi biển cách hải cảng bốn dặm Anh.
Lúc 2 giờ khuya ngày 1 tháng 4 thì ba tàu hải quân đã đón được lên tàu các quân nhân còn lại của Sư đoàn 22.
Vị Chỉ huy của Trung đoàn 42 đã khước từ di tản và quyết định tử thủ ”.
Theo lời thuật lại của một Đại đội trưởng trinh sát; những ngày cuối tháng 3 năm 1975, SĐ 22 BB rút về Qui nhơn. Trên đường lui binh Trung đoàn 42 vừa lui, vừa đánh giạt, hay tiêu diệt gọn nhiều đơn vị quân CS suốt dọc đường QL19 khi ra khỏi Pleiku di chuyển về đồng bằng, qua khỏi sông Côn thuộc Quận Bình Khê, tỉnh Bình định.
Sáng ngày 2 tháng 4 năm 1975, Trung đoàn 42 về gần đến Qui Nhơn phân làm hai ngả để tiến vào thành phố.
Một ngả là cải lộ tuyến (gọi là xa lộ Quang Trung) cũng từ trục QL19 tách theo hướng tây nam giữa 2 triền núi, đi vào phía nghĩa trang khu 6 rồi chạy về trung tâm thành phố hay ra biển Qui nhơn.
Một ngả vào là trục lộ 19 có Cầu đôi đi vào thành phố theo hướng đông bắc. Ngay gần Cầu đôi, có một tháp Chàm quen gọi là Tháp đôi nhìn ra đầm Thị Nại, biển Qui nhơn, Cộng quân đã xâm nhập từ ven biển thuộc lãnh thổ quận Tuy phước và đã chiếm giữ điểm cao này nhằm khống chế Thành phố Qui nhơn, nhưng lập tức đám giặc Cộng này bị một đơn vị Trung đoàn 42 tiêu diệt.
Trung đoàn 42 đi vào Qui nhơn và ra biển để chờ lên tàu Hải Quân VNCH đang neo tại đây để di chuyển vào Nam. Trong khi hầu hết ba Tiểu đoàn đã lên tàu thì còn một tiểu đoàn khác đang giao tranh , phá chốt chặn của Cộng quân ở khu vực nghiã trang hướng tây nam của Thành phố chạy dài xuống hướng trường Sư Phạm và trường Kỹ Thuật nằm trên đường Nguyễn Huệ, sát biển.
Tuy đã lên tàu HQ, Đại tá Thông vẫn cố gắng liên lạc những Tiểu đoàn thuộc quyền.
Một Tiểu đoàn bị mất liên lạc!
Trong khi đại liên vẫn nổ giòn giã cùng những tiếng M79 nghe rất gần, đã khiến ĐT Thông không thể nào yên tâm đứng trên tàu mà bỏ đi, trong khi chiến hữu của ông còn đang anh dũng chiến đấu với giặc Cộng.
Vì quá nóng lòng, ông đã nhảy xuống tàu và bơi trở lại bờ cát, biển Qui Nhơn. Trên khoảng cách từ tàu Hải quân đến bãi biển cũng hơi xa, một phần vì mất ngủ thiếu sức, vì nhiều ngày đêm rút quân từ Tây nguyên về Qui nhơn vừa đánh vừa rút; nên bơi không được nhanh. Khi Đại tá Thông bơi đến gần đến bãi cát thì ông bị pháo giặc bắn trúng .
Một số chiến hữu của ông còn trú ẩn trên bờ biển gần đó nhào ra cứu ông nhưng ông cũng đã tắt thở trong cảnh xô bồ của dân chúng đang hỗn loạn.
Những binh sĩ dưới quyền của Đại tá Thông khóc ông như khóc người anh ruột của mình!
Sinh thời còn là Trung Đoàn trưởng Trung Đoàn 42, Đại tá Thông luôn luôn sống gần gũi, sát với chiến hữu thuộc cấp. Đại tá Thông lo chu đáo cho đời sống của từng người lính và gia đình. Ông đi sát từng tiểu đội để lo về sức khoẻ cho họ. Hỏi về các tiêu chuẩn quân trang, quân dụng như giày trận, poncho. Ai đã lãnh ai, chưa đuợc lãnh? Ai đã đi phép, ai chưa có phép? Lương hướng của từng chiến binh lãnh ra chi tiêu bao nhiêu, còn gởi về cho vợ con được bao nhiêu? Ông buộc lính phải tiêu hạn chế, và gởi lương về cho vợ con từng tháng trông chờ.
Có lẽ đây là một cách an dân của cấp chỉ huy để người lính thuộc quyền yên tâm mà đánh giặc. Có lẽ vì cách sống có nghĩa có tình với thuộc cấp của ông đã khiến những người lính suốt đời thương mến ông.
” ANH HÙNG TỬ . KHÍ HÙNG BẤT TỬ “
TRUNG ĐOÀN 47/SƯ ĐOÀN 22 BỘ BINH DO ĐẠI TÁ VÕ ÂN CHỈ HUY HÀNH QUÂN TRÊN ĐẤT MIỀN TÂY-VÙNG 4 .
Vào đầu tháng 4/75, QĐ II & QK2 lần lượt lọt vào tay giặc, sau những cuộc triệt thoái tồi tệ và bi thảm nhất trong lịch sử chiến tranh. Hầu hết quân nhân các cấp thuộc các Sư Đoàn và Tiểu Khu thống thuộc còn sống sót đã tiếp tục di tản vào Bình Tuy, Vũng Tàu, Sài gòn. Được lệnh của Bộ TTM truyền đi trên các đài phát thanh, truyền hình, kêu gọi “đến trình diện tại Trại Chí Linh, Trung Tâm Huấn Luyện XDNT Vũng Tàu” để sau đó được bổ sung tái lập một sư đoàn duy nhất: Sư Đoàn 22BB với Thiếu Tướng Phan Đình Niệm tiếp tục làm tư lệnh, đặt dưới quyền xử dụng của Quân Đoàn III.
Không ngờ số lượng đến trình diện thật đông đảo. Đa số là sĩ quan, chỉ có khoảng một phần ba là hạ sĩ quan và binh sĩ. Khi lang thang đi tìm mấy thằng bạn cùng đơn vị cũ, xem ai còn ai mất sau trận chiến Khánh Dương và một số phải di tản theo Tỉnh Lộ 7B oan nghiệt, bỗng tôi nghe trên loa có một giọng Huế quen thuộc gọi tên mình, và yêu cầu đến dãy nhà số 4 gặp Đại Tá Võ Ân. Tiếng gọi quen thuộc ấy cũng chính là tiếng nói của anh.
Tôi tìm đến dãy nhà số 4, nơi đặt BCH Trung Đoàn 47 (tái lập). Vội vàng tìm gặp anh, để xem người hùng của trận chiến Ban Mê Thuột bây giờ ra sao. Anh ngồi trên dãy bàn dài với một vài sĩ quan cấp trung tá, có nhiều vị tôi quen biết. Tôi đưa tay chào, chưa kịp trình diện lời nào, thì anh đã phất tay bảo tôi ngồi:
-Tau được chỉ định tái lập gấp Trung Đoàn 47 này. Mi về đây với tau cho vui. Anh em 23 nhiều lắm. Tụi mình “đánh đấm” tiếp.
Thoáng một chút xúc động. Nghĩ mình là một sĩ quan đàn em cấp thấp, cũng chẳng tài cán gì, chỉ gặp gỡ một vài lần và được anh quí mến. Vậy mà hôm nay, trong cái cảnh chợ chiều, hổn tạp rối ren này, anh vẫn còn nghĩ đến mình.
Ba ngày sau, Trung Đoàn 47 BB được tạm tái lập với một quân số mà quan nhiều hơn lính. Một tiểu đoàn có đến 2 trung tá. Cấp đại đội có 1-2 thiếu tá, có vị đã từng làm tiểu đoàn trưởng hay chi khu phó. Có nhiều trung đội được chỉ huy bởi một đại úy với quân số không quá 25 người, mà 50% là sĩ quan. Chắc chắn trên thế giới không có một đội quân nào với bản cấp số kỳ quặc và “ghê gớm” như thế.
Trong hầu hết những bài viết về các trận chiến cuối cùng của QLVNCH, dường như chưa có ai nói đến sự kiện này. Tại sao những sĩ quan cấp tá, cấp úy lại sẵn sàng nhận lãnh những chức vụ quá nhỏ nhoi như thế, trong lúc tình hình nguy ngập, chiến trường đang từng giờ thu hẹp lại, mà mọi bất lợi, hiểm nguy đang chờ họ đối mặt? Hơn nữa hầu hết đều bỏ lại gia đình ở miền Trung mà bây giờ đã thuộc vùng địch chiếm. Bao nỗi ưu tư canh cánh bên lòng. Nếu không phải là “Tổ Quốc, Danh Dự. Trách Nhiệm”, sứ mạng cao cả mà họ đã tuyên thệ nhận lãnh khi quì xuống vũ đình trường trong ngày mãn khóa?
Ngay tại BCH Trung Đoàn, ngoài Đại tá Võ Ân Trung đoàn trưởng, còn có đến 4, 5 trung tá. Trung tá Nguyễn Thắng Phùng, Chỉ Huy Trưởng TTHL/SĐ 23BB nhận lãnh chức vụ Trưởng Ban 3. Vai trò này anh đã từng làm cách đây trên 10 năm, khi còn mang cấp bậc thiếu úy. Tôi vẫn còn nhớ, khi mới ra trường vài tháng, dắt trung đội biệt phái đến trình diện BCH Trung Đoàn 45BB của Trung tá Võ Văn Cảnh, đóng trại giữa rừng để chỉ huy trận đánh Quảng Nhiêu đang hồi khốc liệt nhất, tôi được gặp Thiếu Úy Nguyễn Thắng Phùng, đang là Trưởng Ban 3 Trung Đoàn. Anh rất vui vẻ, niềm nở hướng dẫn trung đội tôi ra nằm giữ an ninh cho một Pháo Đội Pháo Binh 155 ly, đóng bên cạnh BCH Trung Đoàn. Anh dặn dò chỉ vẽ những điều cần thiết. Chỉ với câp bậc thiêu úy, nhưng tôi nghĩ anh là một Trưởng Ban 3 nhiều kinh nghiệm, khả năng. Tôi có cảm tình với anh kể từ ngày ấy. Anh đã đảm trách chức vụ này từ khi còn thiếu úy, bây giờ mang đến cấp bậc trung tá, anh lại trở về với cái chức vụ hơn 10 năm trước. Vậy mà anh rất vui vẻ, bình dị, thường thân tình đùa cợt với anh em và chu toàn trách nhiệm của mình. Anh bảo:
– Được làm việc với Đại Tá Ân là vui rồi!
Tôi rất nể phục thái độ và tư cách của anh.
Trong BCH Trung Đoàn có một vài vị nguyên là tiểu khu phó, tham mưu trưởng của các tiểu khu. Tôi cũng gặp một anh thiếu tá, nguyên là tiểu đoàn trưởng xuất sắc của một tiểu đoàn ĐPQ tại TK Bình Định. Năm 1971 có một thời tăng phái hành quân cho Trung Đoàn 44 của chúng tôi tại An Khê, còn bây giờ thì anh đang vui vẻ làm đại đội trưởng với quân số chưa tới 80 người.
Tôi được anh Ân thương mến, giao cho một chức vụ cũng không có trong bản cấp số: Sĩ Quan Hành Quân & Tiếp Vận. Thực chất, đó chỉ là một loại “thượng sĩ thường vụ” của Trung Đoàn, chạy ngược chạy xuôi lo đủ thứ việc.
Ngày 17/4/1975, chưa kịp trang bị xong, một số quân nhân chưa có cả súng đạn, Trung Đoàn được lệnh di chuyển xuống Long An, đảm trách hành quân an ninh trong vùng Bến Lức. Ban đêm, từng đoàn xe từ Tổng Kho Long Bình chở vũ khí, quân trang quân dụng xuống để đơn vị vừa hành quân vừa trang bị tiếp. Đạn thì thiếu nhưng súng lại thừa. Một người có thể được trang bị một khầu M16 và thêm một súng Colt 12, nếu muốn.
Ngày 22/4/75 có khoảng 10 tân sĩ quan hai khóa 29 và 30 của Trường VBQGVN vừa tốt nghiệp “non” tại Trường Bộ Binh Long Thành, đến trình diện. Các anh vẫn giữ đúng nề nếp, cử một đại diện chỉ huy trình diện đơn vị trưởng theo đúng lễ nghi quân cách. Nhìn họ mà tất cả chúng tôi ai nấy cũng đều cảm kích, chạnh lòng. Những sinh viên này đã từ bỏ học đường chọn binh nghiệp bảo vệ giang sơn tổ quốc. Bây giờ giang sơn đang như sợi chỉ mành trước gió, tổ quốc lâm nguy, vậy mà họ vẫn đến đây, để chấp nhận một cuộc chiến ở giờ thứ 25, trong một hoàn cảnh hoàn toàn bất lợi, khi chưa hề có được một ngày kinh nghiệm chiến trường. Trong những đôi mắt nhuốm chút ít ưu tư ấy vẫn tỏa ra đầy khí phách, sẵn sàng nhập cuộc.
Đại Tá Võ Ân đến bắt tay từng người một. Im lặng một lúc, anh lấy giọng:
– Thay mặt đơn vị, anh cám ơn và hoan nghênh các em đã đến trình diện. Các em đã cho chúng tôi một nguồn sinh lực mới, sau thời gian trải qua những mất mát, giao động. Điều đó cũng đã là một góp phần xứng đáng rồi. Anh biết các em chưa nghỉ phép sau khi làm lễ ra trường. Còn đơn vị lại đang trong thời kỳ tái tổ chức. Bây giờ theo thông lệ, anh cấp cho các em giấy nghỉ phép mười ngày, để các em về thăm gia đình. Mong là các em hiểu sự quyết định này của anh.
Hầu hết các tân sĩ quan nhất quyết xin ở lại để chiến đấu cùng đơn vị. Có anh bảo là gia đình ở ngoài Trung, không có ai ở đây. Nhưng tất cả sĩ quan chúng tôi có mặt lúc ấy đều thấy quyết định của ĐạiTá Ân là có cân nhắc và có tình có lý, nên khuyên các anh nên chấp nhận quyết định của Đại tá, nếu anh nào gia đình ở miền Trung có thể về Sai gon tạm nghỉ ngơi chờ lệnh, sau khi hết phép trở lại đơn vị cũng chưa muộn (?)
Ngay chiều hôm ấy, có lệnh bàn giao vị trí cho một đơn vị khác của Quân Đoàn III, chúng tôi khẩn cấp di chuyển đêm xuống giải tỏa áp lực địch tại Quận Cần Giuộc. Theo tin tức, đã có hơn một trung đoàn địch đang trên đường tiến đến uy hiếp khu vực này.
Tất cả chúng tôi đều đến từ Vùng 2, nên không ai biết rành địa thế và tình hình trong khu vực lạ lẫm này. Để tránh chậm trể và nguy hiểm, Trung Đoàn được biệt phái một toán Cảnh Sát do một Thiếu Tá chỉ huy, dẫn đường. Khởi hành từ 10 giờ tối, cho mãi 5 giờ sáng đơn vị mới tới địa điểm. Toán Cảnh sát “hướng lộ” đã dẫn chúng tôi đi sai lộ trình. Rất may là tất cả an toàn, không đụng độ với bất cứ lực lượng nào của địch.
BCH Trung Đoàn đóng tại Trường Trung Học Cần Giuộc. Phía trước là đồng ruộng, sau mùa gặt nên đất đã khô và trơ những gốc rạ. Tổng Kho Long Bình có lệnh phân tán quân trang quân dụng, nên đã đưa xuống đây cả mấy chục chiếc xe GMCvà xe jeep các loại, kèm theo một lệnh miệng: “ Mỗi xe chỉ có đầy bình xăng, xử dụng chiếc nào đến hết xăng là bỏ luôn.” Vừa xe, vừa gạo, và quân trang chất thành những đống cao giữa trời, trên những đám ruộng khô.
Trung Đoàn có ba tiểu đoàn, không có đại đội trinh sát và đại đội chỉ huy công vụ. Một tiểu đoàn đóng chung với BCH Trung Đoàn, làm lực lượng trừ bị, hai tiểu đoàn bung ra xa. Trong đó có một tiểu đoàn hành quân tái chiếm xã Mỹ Lộc, một khu trù phú của quận Cần Giuộc, bị một tiểu đoàn địa phương của địch xâm nhập, truy giết các nhân viên xã ấp và các trung đội nghĩa quân.
Giữa một cuộc chiến không nhìn thấy tương lai, và phải chỉ huy một đơn vị như chiếc áo cũ mục nát, được vá víu bằng những tấm vải đủ màu, nhưng Đại tá Võ Ân cùng tất cả chúng tôi đã sống với nhau thật vui vẻ, chí tình. Với tôi, đó lại là thời gian đáng ghi nhớ nhất trong cả mười một năm binh nghiệp. Cái ranh giới chỉ huy gần như nhỏ lại, để nhường cho cái tình huynh đệ. Điều này có được phần lớn là nhờ vào anh – Đại tá Võ Ân.
Ngày xưa, khi còn chỉ huy các tiểu đoàn, trung đoàn hùng mạnh, tham dự nhiều trận chiến cam go ở Bình Định, Pleiku, Kontum, Quảng Đức, anh vẫn vui vẻ thân tình như hôm nay. Với bạn bè hay đàn em, thuộc cấp lúc nào anh cũng dùng hai chữ “mi, tau”. Sĩ quan trong đơn vị thực sự xem anh như một người anh, hay một ông thầy của thời trung học.
Tháng 11 năm 1973, Phóng viên chiến trường Dương Phục, trong một lần đặc biệt đi theo đơn vị của anh, khi ấy là Trung Đoàn 53 thuộc Sư Đoàn 23BB, đang quần thảo với địch trong một trận chiến vô cùng khốc liệt tại Quảng Đức, đã viết:
“Tôi vác ba lô ra xe và hai tiếng đồng hồ sau có mặt bên cạnh đơn vị có nhiệm vụ tái chiếm hai tiền đồn Bu Prang và Bu Bong đã lọt vào tay địch quân trong cuộc tấn công ngày 4.11 vừa qua.
Trung Tá Võ Ân, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 53 Bộ Binh, trông giống một giáo sư hơn là một đơn vị trưởng tác chiến. Cả bộ chiến phục bụi bậm, bẩn thỉu, và khẩu súng lục Colt 12 đeo lủng lẳng bên hông cũng không giúp anh có vẻ ngoài oai hùng của người lính chiến. Nhưng tất cả những thứ đó chỉ là bề ngoài. Sức chịu đựng bền bĩ và ý chí sắt thép của anh Ân được truyền tụng theo chiều hướng huyền thoại hóa trong trung đoàn.
Ân tiếp tôi ngay tại vị trí chiến đấu của Tiểu Đoàn 2/53. Khuôn mặt trẻ trung, nhưng dầy dạn vẻ phong trần, nụ cười chân tình như chỉ những người lính chiến mới biết cười như vậy. Ân bảo tôi:
– Anh đến chậm mất hai ngày.
– Hai ngày sớm hơn đã xảy ra chuyện gì?
– Pháo. Địch pháo như mưa, pháo dội vào các đơn vị chúng tôi. Sau pháo, chúng xung phong.”
Sáng ngày 27 tháng 4 /1975, khoảng 10 giờ sáng. Khi chúng tôi đang ngồi uống cà phê trong một phòng học được dùng làm Trung Tâm Hành Quân, nghe tiếng trực thăng đang đảo thấp một vòng đáp xuống đám ruộng khô phía trước, cách chúng tôi chừng hơn100 mét. Nghĩ là trực thăng CNC đến làm việc cho Trung Đoàn, Đại Tá Ân bảo tôi lấy một chiếc xe jeep mới toanh, không mui, chạy ra đón phi hành đoàn. Vì trời nóng, nên đa số chúng tôi đều mặc áo thun. Tôi không kịp mặc áo lính, lái xe chạy băng qua mấy đám ruộng khô và dừng lại trước chiếc trực thăng vừa đáp xuống. Bỗng bất ngờ, ngạc nhiên khi thấy một người vừa bước xuống, tay cặp chiếc mũ sắt ngụy trang có gắn 3 ngôi sao. Theo sau là một vị trung tá trên tay cầm khẩu M-18. Tôi giật mình, nhận ra đó là Trung Tướng Ngô Quang Trưởng. Vội vàng bước xuống xe, tôi đứng nghiêm đưa tay chào. Ông bước tới gần tôi. Trong tiếng cánh quạt trực thăng chưa dừng hẵn, tôi nghe ông hỏi lớn:
– Có Đại Tá Ân trong đó không?
– Trình Trung Tướng, có.
Tôi trả lời và mời ông lên xe, nhưng ông từ chối, bảo là ông muốn đi bộ. Có thể là ông có ý cho tôi chạy vào trước để báo cho đại tá Ân, tôi đoán thế.
Tôi vội vã lái xe chạy vào BCH la lớn cho Đại Tá Ân và mọi người biết: Trung Tướng Ngô Quang Trưởng tới thăm chứ không phải phi hành đoàn.
Tất cả vội vã mặc áo và sửa soạn lại tấm bản đồ lớn được treo trên bảng đen (của lớp học). Tôi xếp mấy chiếc ghế lại cho ngay ngắn. Khi Đại Tá Ân chưa kịp bỏ áo vào trong quần thi Tướng Trưởng đã bước vào phòng. Anh chỉ còn kịp đứng nghiêm hô to: “vào hàng, phắc” rồi đưa tay lên chào.
Tướng Trưởng trông khá mệt mỏi, ánh mắt hình như bị mất ngủ. Ông hỏi với một giọng buồn bã:
– Tình hình thế nào em?
Đại Tá Ân đưa cây que chỉ bảng lên tấm bản đồ, định trình bày tình hình, thì Tướng Trưởng đưa tay ngăn lại. Ông chỉ nói một câu ngắn ngủi:
– Phải cẩn thận. Đừng để hao tốn sinh mạng của anh em một cách vô ích.
Sau khi đưa tay bắt từng người có mặt trong TTHQ, Tướng Trưởng cho biết ông không có nhiều thì giờ vì chỉ mượn được trực thăng trong một thời gian ngắn, và bảo Đại Tá Ân lái xe chở ông sang thăm ông Quận trưởng Cần Giuộc. Tôi gọi toán cận vệ lên một xe jeep khác chạy theo, nhưng Tướng Trưởng khoát tay, bảo không cần. Sau này Đại tá Ân cho biết, anh Trung tá Quận Trưởng này cũng là một thuộc cấp được Tướng Trưởng tin cậy và quí mến, thời Ông còn làm Tư Lệnh QĐIV.
Cả Đại Tá Ân và chúng tôi không biết lúc ấy Tướng Trưởng giữ chức vụ gì. Chỉ biết là ông đến thăm anh Ân và dặn dò đôi điều. Anh Ân cũng cho biết là chưa từng làm việc dưới quyền Tướng Trưởng, có lẽ ông chỉ nghe nói đến anh Ân “người hùng trong trận chiên Ban Mê Thuột”, nên đến thăm và khen ngợi anh như từng khen ngợi những sĩ quan, những đàn em xuất sắc của ông ở Quân Đoàn I, nơi có nhiều cấp chỉ huy lỗi lạc với cái tên chỉ có hai chữ như anh (Võ Ân): Lê Huấn, Võ Toàn, Vĩnh Dác, Hoàng Mão, Nguyễn Hóa, Võ Vàng…
Tôi gặp và biết anh Ân lần đầu tiên vào khoảng cuối năm 1972, khi anh mang cấp bậc trung tá, dắt một tiểu đoàn thuộc Sư Đoàn 22BB, từ Bình Định lên tăng cường cho Trung Đoàn 44BB chúng tôi, để giải tỏa Trung Nghĩa, một ngôi làng Công giáo, dưới sự chỉ huy của một vị linh mục, quyết tử chiến với Cộng quân, nhưng vì không đủ hỏa lực nên bị một lực lượng địch cấp tiểu đoàn chiếm hơn nửa làng. Một trận chiến phức tạp, khốc liệt, và cuối cùng anh đã chiến thắng ngoạn mục. Bằng một lối đánh giặc rất đặc biệt, xử dụng toàn súng cối 60 ly thay cho Pháo Binh và phi yểm.
Sau nhiều lần tấn công bất thành, do lực lượng địch trú ẩn bám trụ trong các giao thông hào kiên cố và chống trả mãnh liệt. Lệnh của Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn, tránh tối đa việc xử dụng phi pháo có thể gây thiệt hại cho khu nhà thờ và nhà cửa của dân chúng. Hơn nữa, Pháo Binh khó cận yểm vì khoảng cách giữa địch và dân quá gần, tiền sát viên của ta khó tiếp cận để điều chỉnh cho thật chính xác.
Anh lệnh cho các đại đội tạm rút ra, lựa chọn các binh sĩ trẻ và có năng lực tác chiến, chỉ trang bị súng nhẹ, không mang theo ba lô, chia thành nhiều toán nhỏ, làm lực lượng xâm nhập, tấn công. Các binh sĩ lớn tuổi hay yếu kém theo sau, làm lực lượng tải đạn, tản thương và án ngữ. Anh tâp trung cơ hữu và xin chúng tôi tăng cường thêm cho anh nhiều súng cối 60 ly (ít được các đơn vị xử dụng) với đầy đủ đạn dược, cùng một số xạ thủ có kinh nghiệm về loại vũ khí này. Tôi được Đại Tá Phùng Văn Quang, Trung Đoàn Trưởng 44, chỉ định đảm trách công việc này. Anh và tôi cùng hướng dẫn cấp tốc các tiểu đội trưởng cũng như xạ thủ, điều chỉnh súng cối từng mét một. Khi các tiểu đội bò vào tiếp cận các hầm hố của địch, đích thân anh điều động trên 20 khẩu súng cối 60 ly tác xạ theo sự điều chỉnh của các tiểu đội trưởng. Kết quả thật không ngờ. Địch quân bị tiêu diệt bởi các khẩu súng cối 60 ly này, số còn lại bị thương và bị bắt sống, bên ta không có binh sĩ nào tử thương.
Sau trận chiến, trước khi trở về đơn vị gốc, anh gọi tôi ra ăn bữa cơm chia tay, cùng với vài sĩ quan của anh ngoài tiệm Thiên Nam Phúc. Và có lẽ do chiến công này, chỉ một thời gian ngắn sau đó anh được thuyên chuyển về Sư Đoàn 23 BB để giữ chức vụ Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 53 thay Đại Tá Trần Văn Chà. Sau này, tôi cũng được nghe kể lại, anh Ân là người chưa từng giữ cấp “phó” bao giờ.
Anh tốt nghiệp Khóa 12 Thủ Đức, là người thăng cấp trung tá sớm nhất và cũng là người duy nhất của khóa mang cấp bậc đại tá. Hầu hết những sĩ quan giữ chức vụ tiểu đoàn trưởng dưới quyền, đều là khóa đàn anh, có người xuất thân trường Võ Bị đồng thời với anh. Nhưng tất cả đều nể phục và kính mến anh.
TRUNG ĐOÀN 47 – SƯ ĐOÀN 22 BỘ BINH : NHIỆM VỤ CUỐI CÙNG TRÊN ĐẤT MIỀN TÂY-VÙNG 4 .

No comments: