Tuesday, May 5, 2020

(Tiếp theo Chương 5...) Những Ngày Cuối Của VNCH - Nguyên Tác: The Final Collapse Của Đại Tướng Cao Văn Viên. Dịch Giả: Nguyễn Kỳ Phong

Cộng sản Bắc Việt tạo ra nhiều cơ hội để chuẩn bị tấn công Pleiku: tụ quân đông hơn và tấn công bất ngờ. Địch giấu được kế hoạch chuyển quân về Ban Mê Thuột qua nhiều cách: sư đoàn 316 bị cấm liên lạc qua máy truyền tin trong suốt thời gian chuyển quân. Sư đoàn 320 đánh lừa đối phương bằng cách để ban truyền tin sư đoàn ở lại Đức Cơ, hy vọng máy bay thám thính của chúng ta ghi nhận sự hiện diện của sư đoàn ở đó. Tuy nhiên sự đánh lừa này vô ích: máy bay thám thính của VNCH không bao giờ đi sâu vào tận Đức Cơ để thám thính các mục tiêu. Sư đoàn F-10 tránh đụng độ với các toán thám sát để bảo toàn mục tiêu di chuyển. Xe tăng địch di chuyển trong rừng rậm, dọc theo các con suối để tránh bị phát hiện. Sau cùng, Nghĩa Quân và Địa Phương Quân của chúng ta ở các tiền đồn không báo cáo hoạt động hay có khả năng chận đánh khi phát hiện địch. Sai lầm này cho phép địch đem quân sâu vào địa phận phòng thủ mà quân chủ lực ta không phát hiện được.
Khi tấn công Ban Mê Thuột vào rạng sáng 10 tháng 3, địch dồn mọi nỗ lực đánh vào bộ chỉ huy tiểu khu, và bộ chỉ huy tiền phương sư đoàn 23 lúc đó là bộ chỉ huy đầu nảo của các lực lượng phòng thủ thành phố.
Bị tấn công mãnh liệt ngay từ phút đầu, bộ chỉ huy tiểu khu không còn kiểm soát và điều khiển được các lực lượng dưới quyền. Cảnh sát, Nghĩa Quân, Địa Phương Quân chiến đấu một cách rời rạc và hỗn loạn. Trong tình trạng chiến đấu như vậy, tiểu khu không thể báo cáo chính xác tình hình của mặt trận về bộ tư lệnh quân đoàn. Khi trung tâm hành quân tiểu khu bị phá hủy, chỉ huy trưởng tiểu khu cũng là tỉnh trưởng Ban Mê Thuột sát nhập bộ chỉ huy của ông vào bộ chỉ huy tiền phương sư đoàn 23. Từ đó các đơn vị dưới quyền chỉ huy tỉnh coi như tan rã vì không nhận được lệnh trực tiếp từ tiểu khu.
Tình trạng của bộ tư lệnh sư đoàn 23 cũng tương tự: bị áp lực mạnh và dồn dập từ phút đầu. Phòng tuyến tử thủ của bộ tư lệnh nằm trong tình trạng hiểm nghèo khi xe tăng địch bắn trực xạ từ ngoài vòng rào. Không quân chiến thuật ta bỏ bom yểm trợ hữu hiệu, sát vào phòng tuyến theo lời yêu cầu của thẩm quyền mặt trận. Nhưng một trái bom rớt vào phòng truyền tin, cắt đứt mọi liên lạc với mặt trận và quân khu.
Sự phản công và kế hoạch giải vây của quân ta đã không được thực hiện hữu hiệu ngay từ phút đầu. Hai trung đoàn 44 và 45/sư đoàn 23 bộ binh được thả xuống Phước An, dùng nơi đó làm bàn đạp tiến về Ban Mê Thuột. Nhưng Phước An vào thời điểm đó là một trung tâm tản cư, nơi tìm thân nhân của tất cả ai chạy thoát từ Ban Mê Thuột. Ở đây, nhiều binh sĩ gặp lại gia đình đã bỏ đơn vị và lẫn vào lớp thường dân; một số binh sĩ khác đã tự động rời hàng ngũ đi tìm thân nhân mất tích. Một đạo quân đi giải vây không thể hoạt động hữu hiệu trong tình trạng như vậy. Bốn ngày sau, sư đoàn F-10 chiếm được Phước An và hy vọng giải vây Ban Mê Thuột tan vỡ.

Quyết Định Định Mệnh của Tổng Thống Thiệu
Trong hai tháng đầu tiên năm 1975 một số dân biểu, nghị sĩ Hoa Kỳ đến Việt Nam quan sát tình hình. Đối diện với tình hình quân sự không được khả quan và trông chờ sự biểu quyết ngân quỹ phụ trội cho Việt Nam của quốc hội Hoa Kỳ trong vài tháng tới, chánh phủ VNCH tiếp đón những nhà lập pháp đồng minh rất ân cần và nhiệt tình. Các dân biểu, nghị sĩ được khuyến khích đi quan sát tình hình quân sự, kinh tế, chính trị, để họ thông qua cho VNCH ngân khoản đã yêu cầu. Chánh phủ VNCH chờ đón cuộc viếng thăm với nhiều hy vọng và lạc quan.
Thượng nghị sĩ Sam Nunn đến Việt Nam trước, theo sau là dân biểu Paul N. "Pete" McCloskey và nghị sĩ Dewey Barlett. Tiếp đến là một phái đoàn hỗn hợp lưỡng viện Quốc Hội Hoa Kỳ. Bộ Tổng Tham Mưu thuyết trình cho những quan khách đầu tiên về tình hình chung của miền Nam. Trọng tâm của những buổi thuyết trình là tình trạng kiệt quệ về quân cụ, vũ khí của quân lực VNCH. Các nhà lập pháp Mỹ được thông báo tình trạng nguy hiểm sẽ xảy ra nếu số ngân khoản phụ trội 300 triệu mỹ kim không được chấp thuận, và sự nguy hiểm đó xảy ra như các nhà lập pháp Hoa Kỳ đang chứng kiến. Một số dân biểu nghị sĩ đến Việt Nam lượt sau không được nghe thuyết trình, nhưng họ có đến BTTM quan sát số vũ khí tịch thu của CSBV đang được trưng bày ở đó.
Quá trình hoạt động và quan điểm chính trị của các nhà lập pháp Mỹ viếng thăm Việt Nam hoàn toàn khác nhau. Có người ủng hộ VNCH; có người chống đối. Có người đến với một tinh thần cởi mở; có người đến với đầu óc thiên vị, định kiến có sẵn. Người thì lịch sự, khiêm nhường; một số khác thiếu sự tế nhị và lễ độ. Phần còn lại thì đến với sự thờ ơ, vô tư về một cuộc chiến. Nhưng dù có thành kiến hay thái độ nào trong thời gian có mặt ở Việt Nam, họ được chánh phủ chào đón nhiệt tình. Mọi người được khuyến khích quan sát, cho phép thăm viếng mọi nơi, tiếp xúc với tất cả. Họ có quyền đối thoại với bất cứ người nào họ muốn từ một công chức cho đến những tổ chức, đảng phái đối lập với chính phủ.
Miền Nam, kể cả những người cộng sản, nghe ngóng và theo dõi cuộc viếng thăm của các nhà lập pháp Hoa Kỳ từng bước, từng biến chuyển. Nhiều lời đồn lan truyền từ chuyến viếng thăm đó; hy vọng và thất vọng lên xuống theo từng giai đoạn, từng thay đổi. Những thành phần chống chánh phủ và muốn thấy một chánh phủ liên hiệp với cộng sản, hy vọng Hoa Kỳ làm áp lực với VNCH để chánh phủ nhân nhượng theo ý muốn của họ. Phía ôn hòa thì hy vọng các nhà lập pháp Mỹ suy xét lại tình hình miền Nam, cung cấp vũ khí, quân viện, để dân miền Nam tự bảo vệ và chống lại cuộc xâm lăng lộ liễu của cộng sản miền Bắc. Về phía cộng sản, dĩ nhiên, họ muốn thấy các nhà lập pháp Mỹ cắt đứt viện trợ để làm tê liệt khả năng chiến đấu của quân đội VNCH.
Nhưng nói một cách tổng quát, phái đoàn quốc hội Hoa Kỳ để lại một không khí thất vọng sau khi rời Việt nam. Từ bầu không khí đó, nhiều lời đồn, tuyên truyền lan ra, làm hại cho tinh thần chiến đấu của quốc gia. Sau chuyến viếng thăm, giới lãnh đạo của chúng ta nghĩ dân Hoa Kỳ nhìn VNCH như một chính phủ tham nhũng, đàn áp và độc tài. Với những khủng hoảng về kinh tế và chính trị nội bộ đang xảy ra trong lãnh thổ họ, Hoa Kỳ không còn khả năng tiếp tục tham gia vào cuộc chiến.(6) Vấn đề viện trợ thêm cho Việt Nam không có nhiều hy vọng. Ngược lại, ngân sách viện trợ có thể bị cắt thêm vì Hoa Kỳ đang chuyển mục tiêu quân sự, chính trị của họ về các vấn đề ở Trung Đông.(7)
Không ai thấy rõ vấn đề hơn tổng thống Thiệu. Khi người khách cuối cùng của quốc hội Hoa Kỳ rời Việt Nam, tổng thống Thiệu biết ngay VNCH không còn hy vọng gì về khoản tiền 300 triệu quân viện phụ cấp. Tổng thống Thiệu cũng biết quân viện cho VNCH trong tương lai sẽ ít hơn chứ không thể nhiều hơn và tổng thống Thiệu dựa nhiều quyết định của ông vào những suy luận đó: những gì ông ta cương quyết từ chối hành động trong suốt hai năm qua, bây giờ ông phải làm. Tổng thống Thiệu quyết định tái phối trí quân đội dựa vào phần đất VNCH có thể bảo vệ được.
Cuộc tấn công của CSBV vào Ban Mê Thuột và những phản công vô hiệu của quân đoàn II có tác dụng vào tâm trí của tổng thống Thiệu người duy nhất có quyết định tối hậu về chiến lược, chiến thuật của cuộc chiến. Khi quân đội đồng minh rời Việt Nam, quân đội VNCH phải đương đầu với một đối phương đông quân hơn. Phải phân tán mỏng các lực lượng trừ bị cuối cùng để cố gắng bảo vệ lãnh thổ, quân đội chúng ta không bao giờ có được ưu điểm về quân số. Thêm vào đó, những cắt giảm quân viện đã làm suy yếu khả năng chiến đấu và tinh thần của quân đội ngoài mặt trận một sự kiện mà chúng ta từ chối chấp nhận. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, phải có sự thay đổi nếu chúng ta muốn VNCH tồn tại.
Trong vai trò cố vấn quân sự cho tổng thống, BTTM có lúc nghĩ quân dội VNCH có cơ may nếu lãnh thổ được phòng thủ tương xứng khả năng.(8) Nhìn từ quan điểm quân sự, lối suy luận của BTTM không phải hoàn toàn vô lý nhưng đi ngược lại chính sách "bảo vệ lãnh thổ bằng mọi giá" mà tổng thống Thiệu tuyên bố nhiều lần từ sau hiệp định Paris 1973. Với tình hình chiến sự nguy ngập chỉ trong vòng hai tháng, chúng ta mất Phước Long và Ban Mê Thuột và việc gì sẽ xảy ra nữa đây" Dư vị cay đắng của các nhà lập pháp Mỹ để lại sau chuyến viếng thăm vẫn còn. Có lẽ trong một phút riêng tư nào đó, tổng thống Thiệu bắt buộc phải suy nghĩ lại.
Với những quyết định có sẵn, ngày 11 tháng 3-1975 một ngày sau khi Ban Mê Thuột bị tấn công tổng thống Thiệu mời thủ tướng Trần Thiện Khiêm, cố vấn an ninh quốc gia, trung tướng Đặng Văn Quang và tác giả đến dinh tổng thống để ăn sáng và bàn luận. Sau khi bữa ăn được dọn ra và các người hầu rời bàn, tổng thống Thiệu lấy ra một bản đồ nhỏ và bắt đầu cuộc thảo luận với những tường trình về tình hình chiến sự mà ba người khách đã hoàn toàn tường tận. Nói xong về tình hình chiến sự, tổng thống Thiệu đi ngay vào vấn đề với quyết định: "Với khả năng và lực lượng chúng ta đang có, chắc chắn chúng ta không thể bảo vệ được tất cả lãnh thổ chúng ta muốn bảo vệ." Như vậy, chúng ta nên tái phối trí lực lượng và bảo vệ những vùng đông dân, trù phú, vì những vùng đất đó mới thật sự quan trọng.
Quyết định của tổng thống Thiệu cho chúng tôi thấy đây là một quyết định ông đã suy xét thận trọng. Hình như tổng thống Thiệu đã ngần ngại về quyết định đó, và bây giờ chỉ thổ lộ ra cho ba người chúng tôi trong bữa ăn sáng. Tổng thống Thiệu phát họa sơ những vùng ông nghĩ là quan trọng, gồm Vùng III và IV, miền duyên hải và thềm lục địa. Một vài phần đất quan trọng đang bị cộng sản chiếm, chúng ta sẽ cố gắng lấy lại bằng mọi giá. Những vùng đất cần chiếm lại là nơi đông dân, trù phú và có giá trị về lâm sản, nông sản và kỹ nghệ, nhất là miền duyên hải, nơi thềm lục địa vừa được khám phá ra dầu hỏa. Cuối cùng, vùng đất mà chúng ta không thể nào để mất là Saigon, các tỉnh lân cận, và đồng bằng sông Cửu Long.
Tổng thống Thiệu bình thản tiếp tục độc thoại về chính trị địa lý của Miền Nam, nhưng khi nói đến Vùng I và II, ông không tỏ vẻ lạc quan hay tự tin. Chỉ vào vùng cao nguyên trung phần, tổng thống Thiệu nói Ban Mê Thuột quan trọng hơn hai tỉnh Kontum và Pleiku nhập lại, vì tài nguyên và dân số của Ban Mê Thuột. Miền duyên hải của vùng II cũng quan trọng với tiềm năng dầu hỏa chứa đựng ở thềm lục địa. Về Vùng I, ý kiến của tổng thống Thiệu là "giữ được phần nào thì giữ." Ông phát họa kế hoạch phòng thủ ở Vùng I bằng những tuyến cắt ngang duyên hải từ bắc xuống nam. Nếu chúng ta có đủ lực lượng, tổng thống Thiệu nói, chúng ta sẽ giữ đến Huế hay Đà Nẵng. Nếu không được, chúng ta sẽ tái phối trí quân lại ở Chu Lai, hay thấp hơn là Tuy Hòa. Kế hoạch này, tổng thống Thiệu nói tiếp, cho chúng ta sắp đặt lại khả năng để có nhiều hy vọng giữ được những vùng đất quan trọng cho miền Nam trường tồn như một quốc gia vững mạnh.(9)
Như vậy, chỉ sau vài lời sơ thảo, tổng thống Thiệu đi đến một quyết định quan trọng. Hậu quả của quyết định đó như thế nào thì chưa biết được, nhưng nhìn từ quan điểm quân sự, quyết định của tổng thống Thiệu có nhiều vấn đề. Là cố vấn quân sự cho tổng thống, tác giả bắt buộc phải có ý kiến về quyết định của tổng thống Thiệu. Tác giả cho sự tái phối trí là cần thiết và có ý tưởng đó từ lâu. Nhưng tác giả không tiện nói ra vì hai lý do: một, đề nghị tái phối trí quân sự đi ngược lại chính sách quốc gia; hai, lời đề nghị đó có thể bị hiểu lầm là thái độ chủ bại. Tác giả tránh phát biểu thêm là sự tái phối trí có tầm vóc qui mô như vậy đã quá trễ. Ngoài ra, tác giả thấy tổng thống Thiệu đã quyết định, nên ông không muốn nghe thêm những ý kiến ngược lại. Đã là tổng thống, ông Thiệu có thẩm quyền và trách nhiệm chỉ đạo cuộc chiến: ông phải biết ông đang làm gì.
Dù quyết định trên là một sự thay đổi toàn diện từ chiến lược "bảo vệ lãnh thổ bằng mọi giá" đang áp dụng, sang "bảo vệ lãnh thổ theo khả năng", quyết định của tổng thống Thiệu rất hợp lý trong tình thế đang xảy ra. Nếu phải chỉ trích quyết định đó, chúng ta chỉ có thể hỏi là tại sao tổng thống Thiệu phải chờ lâu như vậy để áp dụng kế hoạch tái phối trí. Chỉ hai năm sau ngày ngưng bắn, tình trạng quân sự phía VNCH xuống dốc một cách thê thảm. Vào buổi sáng hôm đó, tổng thống Thiệu không giải thích hay đề cập đến lý do nào đưa ông đến những quyết định ông trình bày; quyết định của ông hình như phản ảnh những thực tế đang diễn ra. Từ trước, tổng thống Thiệu hy vọng chúng ta có khả năng bảo vệ những tiền đồn và địa giới thưa thớt. Và nếu cộng sản Bắc Việt vi phạm hiệp ước ngưng bắn, Ủy Ban Kiểm Soát Đình Chiến và thế giới chắc chắn biết ai là kẻ gây hấn. Nếu CSBV tiếp tục vi phạm một cách trắng trợn, tổng thống Thiệu hy vọng vào những hứa hẹn Hoa Kỳ sẽ có lý do trừng phạt Bắc Việt mạnh mẽ như tổng thống Nixon đã hứa với tổng thống Thiệu.
Trong hai năm, cộng sản gia tăng vi phạm và cường độ của những vụ vi phạm, để dò xét thái độ của Hoa Kỳ, coi họ có sẵn sàng trả đũa không. Lúc tổng thống Nixon chưa từ chức, thỉnh thoảng ông có cảnh giác CSBV về những vi phạm của họ. Nhưng sau khi tổng thống Nixon từ chức vào ngày 8 tháng 8-1974, những hứa hẹn "phản ứng mạnh mẽ" của Hoa Kỳ chỉ là những lời hứa suông. Ngay sau khi Phước Long bị tấn công, Hoa Kỳ không có một phản ứng nào. Kế tiếp là thái độ bất lợi của phái đoàn quốc hội Hoa Kỳ trong chuyến viếng thăm. Từ thái độ đó, VNCH không còn hy vọng nào. Một thực tế gần như hiển nhiên là Hoa Kỳ không muốn cuộc chiến tiếp tục, và biểu quyết viện trợ để VNCH tiếp tục đánh là chuyện sẽ không xảy ra. Đối với Hoa Kỳ, cuộc chiến Việt Nam đã kết thúc.
Tổng thống Thiệu không còn một chọn lựa nào để cứu vãn tình thế trừ quyết định tái phối trí quân đội như đã nói trên còn nước còn tát. Nhưng quyết định của ông quá trể. Kế hoạch tái phối trí lẽ ra phải được thực hiện từ giữa năm 1974. Hay ít nhất phải thực hiện ngay khi tổng thống Nixon từ chức. Là tác giả của kế hoạch Việt Nam Hóa và Hiệp Định Ba Lê, tổng thống Nixon là người Mỹ duy nhất có trách nhiệm tâm lý để bảo vệ văn kiện đình chiến. Nixon là người đáng tin cậy, có can đảm xử dụng những biện pháp mạnh khi cần thiết. Chậm nhất, kế hoạch tái phối trí quân sự theo khả năng của quân đội phải được thực hiện ngay lúc đó.
Dĩ nhiên cộng sản sẽ sẵn sàng tiến chiếm những vùng đất chúng ta không có khả năng bảo vệ. Hai bên sẽ thương lượng với nhau về một ranh giới mới. Nhưng chúng ta có được ưu thế trong chiến lược này: lãnh thổ được thu hẹp lại và nội tình an ninh hơn. Kế hoạch tái phối trí tương tự như một Hiệp Định Geneve 1954 thứ hai: một ranh tuyến mới, quân đội hai bên tập họp lại vùng riêng biệt của họ... hai lãnh thổ rõ ràng chứ không là nhiều vùng "da beo" lẫn lộn. Chiến lược này lý tưởng cho sự tồn tại của VNCH. Nhưng dù ta có theo chiến lược này, chưa chắc những người cộng sản chấp nhận. Nếu họ đã ký hiệp định Geneve 1954 rồi, và cho đó là một sự lầm lẫn, thì chắc gì họ chấp nhận giải pháp này lần nữa" Không thể nào họ hy sinh xương máu trong 20 năm mà không được gì.
Quyết định tái phối đã quá trể sau khi Ban Mê Thuột mất. Cộng sản thắng liền hai trận, và sau hai trận, với sự hao tổn của VNCH, họ có luôn thế thượng phong về quân số. Phía bên ta, đã trải quân ra quá mỏng, chúng ta không thể nào rút quân một nơi để lấp vào chỗ khác mà không bị tấn kích và đe dọa bởi số quân đông gấp hai của địch.
Một vấn nạn khác chúng ta đối diện là thường dân và thân nhân binh sĩ: di tản hay là không di tản những người này cũng là một yếu tố thành công hay thất bại trong cuộc chiến. Không nhà lãnh đạo nào với một lương tâm có thể bỏ dân mình vào tay địch. Trong trường hợp phải chọn lựa, người lãnh tụ phải hy sinh dân để giữ lấy quân. Nhưng kinh nghiệm cho thấy người dân miền Nam tránh xa vùng kiểm soát của cộng sản nếu họ có cơ hội và chọn lựa. Người dân trong nghĩa này cũng là thân nhân của binh sĩ những người họ chiến đấu để bảo vệ và những người nâng cao tinh thần họ. Chúng ta không thể tách rời binh sĩ và thân nhân ra. Tinh thần khắng khít trong truyền thống gia đình Việt Nam khó cho chúng ta tách họ ra dù trong một thời gian ngắn.
Nghĩ lại việc đã qua, câu hỏi là miền Nam có sống sót nếu chúng ta không áp dụng kế hoạch tái phối trí lực lượng quân sự hay không. Bây giờ nói thì sự đã rồi, nhưng tác giả tin miền Nam có nhiều cơ hội hơn nếu không thực hiện tái phối trí. Tinh thần chiến đấu của quân đội VNCH và nhân dân bị hủy diệt là kết quả trực tiếp của kế hoạch tái phối trí. Không có kế hoạch đó, có lẽ quân đội của chúng ta không tan rã nhanh như vậy. Chúng ta có thể mất đi một phần của sư đoàn 23BB, nhưng tất cả các đơn vị khác vẫn còn nguyên vẹn. Dù lấy được Ban Mê Thuột cộng quân vẫn phải ngừng lại, suy tính kỹ trước khi mở một mặt trận mới ở Vùng II. Vùng II vẫn còn sư đoàn 22BB, cộng thêm một lực lượng tương đương với 2 sư đoàn bộ binh, và hai sư đoàn không quân. Vùng II có đủ quân nhu và tiếp liệu để chiến đấu đến hết mùa khô. Không có kế hoạch tái phối trí, tác giả không nghĩ cộng sản có thể thành công, đánh nhanh và chiếm nhiều đất được như họ đã làm ở Vùng I. Tình hình quân sự nhân lực của VNCH vẫn gặp những khó khăn dai dẳng như trước khi có quyết định tái phối trí: thiếu thốn về quân viện; không còn nhân lực để lập thêm những đơn vị tổng trừ bị. Nhưng ít ra quân đội VNCH sẽ không tan rã nhanh chóng như khi quyết định tái phối trí được thực hiện.
Đó là cái nhìn về phương diện quân sự trong giai đoạn ngắn hạn. Sau Ban Mê Thuột tác giả nghĩ CSBV sẽ làm áp lực để có được một chánh phủ liên hiệp; và tổng thống Thiệu có thể chấp nhận. Nhưng dù chuyện đó có xảy ra, đó chỉ là một hoàn cảnh hòa hoãn tạm bợ nhất thời: cộng sản sẽ tiếp tục tìm cách lấy thêm đất qua chiến thắng quân sự để bắt VNCH nhượng bộ thêm về chính trị. Liệu VNCH có chịu nỗi những áp lực đó trong một thời gian dài hay không" Tác giả nghĩ câu trả lời sẽ tùy thuộc vào số quân viện của Hoa Kỳ cung cấp cho VNCH. Một sự thật không thể chối cãi là quân đội VNCH sẽ hết đạn và nhiên liệu vào tháng 6-1975 nếu không nhận được số quân viện phụ trội. Và một quân đội sẽ không thể nào chiến đấu nếu không có những trang bị cần thiết để chiến đấu.      (Còn tiếp...)
Chú thích:
6. Biến động chính trị quan trọng nhất của cuối năm 1974 đầu năm 1975 là sự từ chức của tổng thống Richard Nixon vào tháng 8-1974. Một năm trước đó, tháng 10-1973, phó tổng thống Spiro T. Agnew phải từ chức vì tội tham quyền, hối lộ. Nixon chọn Geral R. Ford, một dân biểu rất uy tín của đảng Cộng Hòa, lên làm phó tổng thống, và khi Nixon từ chức, Ford lên thay Nixon theo Hiến Pháp Hoa Kỳ. Năm 1973-1974 nền kinh tế Hoa Kỳ rơi vào tình trạng suy thoái với sự lạm phát, thất nghiệp gia tăng. Đảng Cộng Hòa và tất cả các chính khách liên hệ đến Nixon và nền hành chánh của ông đều bị nghi ngờ hay mất tín nhiệm (chú thích của dịch giả).
7. Như chúng ta đã thấy trong hai năm 1972-1973, Mỹ chuyển hướng ngoại giao với Trung Cộng (và phản bội Đài Loan), thương lượng về vũ khí nguyên tử (SALT, ICBM) với Nga, và vấn đề Trung Động qua cuộc chiến tranh Ả Rập-Do Thái vào tháng 9-1972. Với những biến chuyển đó, Việt Nam và Đông Nam Á không còn là một chú trọng của Hoa Kỳ (chú thích của dịch giả).
8. Xin đọc Phụ Chú A để hiểu về vai trò của Bộ Tổng Tham Mưu trong cuộc chiến Việt Nam (chú thích của tác giả).
9. Sau này tác giả mới biết, trước buổi họp ngày 11 tháng 3-1975 tại dinh Độc Lập, tổng thống Thiệu đã có trong tay 3 đề nghị về việc này: (1) vào năm 1974, tướng Đồng Văn Khuyên, tham mưu trưởng liên quân kiêm tổng cục trưởng tổng cục tiếp vận, đệ trình lên tổng thống ý niệm phải thu hẹp lãnh thổ VNCH thế nào tương xứng với sự cắt giảm viện trợ quân sự như chúng ta đã thấy. (2) thiếu tướng John Murray thuộc phòng tùy viên quốc phòng Hoa Kỳ (Defense Attache Office-Vietnam) có cung cấp cho tổng thống Thiệu qua Tòa Đại Sứ Mỹ một sơ đồ tương tự như Tổng Cục Tiếp Vận đề nghị. (3) Chuẩn tướng Úc Đại Lợi Ted Sarong cũng đề nghị qua một giới chức Phủ Tổng Thống một kế hoạch tương tự (chú thích của tác giả).

Nguyễn Kỳ Phong

No comments: